Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

những nhân tố bảo đảm sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng trong đảng bộ khối cơ quan dân chính đảng ở quảng bình hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (389.02 KB, 86 trang )

Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân,
đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam;
đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và
của dân tộc. Mục đích của Đảng là xây dựng nớc Việt Nam hoà bình, độc lập,
dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, nhân dân ta đợc ấm no hạnh
phúc và có những đóng góp vào công cuộc đấu tranh chung của nhân loại vì
những mục tiêu tiến bộ.
Với tinh thần đó, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã vận
dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, t tởng Hồ Chí Minh vào thực
tiễn cách mạng nớc ta. 77 năm qua Đảng Cộng sản Việt Nam luôn giữ vững
vai trò hạt nhân lãnh đạo chính trị, tiến hành Cách mạng Tháng 8 thành công
lập nên nớc Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (nay là nớc Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam), đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lợc, xoá bỏ chế độ
thực dân phong kiến, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất
nớc, tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững
chắc nền độc lập của Tổ quốc. Đảng ta đã trở thành một Đảng cầm quyền,
Đảng lãnh đạo Nhà nớc và toàn xã hội trong phạm vi cả nớc, năng lực và ph-
ơng thức lãnh đạo của Đảng đã có những chuyển biến tích cực, từng bớc đáp
ứng yêu cầu sự nghiệp đổi mới.
Trong quá trình lãnh đạo, Đảng ta luôn chăm lo xây dựng và phát huy
vai trò của hệ thống tổ chức cơ sở đảng, coi đó là cầu nối giữa dân với Đảng,
là nơi đề xuất cũng là nơi trực tiếp triển khai thực hiện các chủ trơng, đờng lối
của Đảng, pháp luật của Nhà nớc, tổ chức cơ sở đảng đã có những đóng góp
quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị, củng cố quốc
phòng - an ninh, từng bớc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân. Nhiều nhân tố mới tích cực đã xuất hiện, nhất là ở cơ sở, tác động tích
cực đến sự lãnh đạo của Đảng và tổ chức cơ sở đảng.
Tuy nhiên, do tính chất đa dạng của các loại hình tổ chức cơ sở đảng,
vai trò chức năng nhiệm vụ của nó cũng khác nhau, nhng thực tế nhận thức


cha có sự phân biệt, nên có nơi Đảng bao biện làm thay, có nơi Đảng và chính
quyền chồng chéo, có nơi Đảng bị chính quyền lấn át, dẫn đến vai trò hạt
nhân lãnh đạo chính trị của một Đảng cầm quyền, đặc biệt là tổ chức cơ sở
đảng vẫn còn nhiều yếu kém, bất cập. Nhiều nhân tố tiêu cực đã và đang từng
1
ngày, từng giờ tác động đến tổ chức Đảng nói chung và tổ chức cơ sở đảng nói
riêng làm cho một số cơ sở đảng trở nên yếu kém, đánh mất vai trò hạt nhân
lãnh đạo, buông lỏng quản lý, cha tạo sự chuyển biến cơ bản để ngăn chặn và
đẩy lùi tệ nạn quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Tình trạng suy thoái về t tởng
chính trị, đạo đức lối sống, cục bộ, bản vị vẫn còn diễn ra nghiêm trọng trong
một bộ phận cán bộ, đảng viên. Nhiều tổ chức cơ sở đảng và đảng viên sinh
hoạt còn lỏng lẽo, ý thức tự phê bình và phê bình cha cao v.v., tạo nên sự bất
bình trong quần chúng nhân dân, làm giảm sút uy tín của Đảng và hạn chế sự
phát triển của đất nớc. Trong khi đó tình hình thế giới và trong nớc lại có
những diễn biến phức tạp và khó lờng, các thế lực thù địch tăng cờng ráo riết
thực hiện chiến lợc âm mu diễn biến hoà bình nhằm xoá bỏ vai trò lãnh đạo
của Đảng và sự nghiệp đổi mới ở nớc ta hiện nay.
Trớc tình hình đó, để tiếp tục thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp
hoá - hiện đại hoá đất nớc, củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam thì vấn đề quan trọng đối với cách mạng Việt Nam là phải tiếp tục phát
huy những nhân tố nhằm phát huy vai trò lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng.
Đây chính là nền tảng, là hạt nhân chính trị cơ sở, là tiếng nói trực tiếp gắn với
việc phát huy sức mạnh toàn dân tộc.
Đảng bộ Khối cơ quan Dân Chính Đảng Quảng Bình, đơn vị cấu thành,
của hệ thống 4 cấp của tổ chức Đảng, là cấp uỷ cấp trên của tổ chức cơ sở
đảng, trực thuộc và đặt dới sự lãnh đạo trực tiếp của Tỉnh uỷ Quảng Bình.
Điểm khác với cấp ủy Đảng cùng cấp nh các huyện, thị, thành phố là không
có chính quyền cùng cấp, các ban tham mu chuyên trách giúp việc gọn nhẹ,
gồm có văn phòng, ban tổ chức, ban tuyên giáo và ủy ban kiểm tra, không có
ban dân vận. Mỗi ban chỉ có một đến ba cán bộ và đợc sử dụng một số cán bộ

kiêm nhiệm. Trong thời gian qua Đảng bộ Khối cơ quan Dân Chính Đảng Quảng
Bình đã lãnh đạo 71 tổ chức cơ sở đảng trong Đảng bộ Khối thực hiện nhiệm vụ
chính trị, chăm lo công tác xây dựng Đảng gắn với xây dựng cơ quan và các
đoàn thể trong sạch vững mạnh, góp phần quan trọng trong việc đa tỉnh Quảng
Bình phát triển toàn diện trên tất cả các lĩnh vực. Song nhìn lại và đánh giá thực
chất phong trào, thì tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ Khối cơ quan Dân Chính
Đảng Quảng Bình, không tránh khỏi những hạn chế; chất lợng còn cha đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ mới. Nhận thức đợc những hạn chế và tầm quan trọng của vấn
đề này, tôi chọn đề tài "Những nhân tố bảo đảm sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở
2
đảng trong Đảng bộ Khối cơ quan Dân Chính Đảng ở Quảng Bình hiện nay"
làm Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Trong các khoa học chính trị ở nớc ta cho đến nay có một số đề tài,
công trình, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ và nhiều bài viết về đổi mới, nâng
cao chất lợng lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng.
1) Một số đề tài khoa học:
"Phơng thức Đảng lãnh đạo Nhà nớc , đề tài cấp bộ, cơ quan chủ trì, Học
viện Hành chính Quốc gia, Hà Nội 2001, Chủ nhiệm PGS. Trần Đình Huỳnh.
"Đảng cầm quyền trong thời đại ngày nay và những vấn đề rút ra cho
công cuộc đổi mới và chỉnh đốn Đảng ta", đề tài cấp bộ, Hà Nội 1993 do GS.
Đậu Thế Biểu làm chủ nhiệm và PGS. Mai Trung Hậu làm th ký khoa học, cơ
quan chủ trì Viện nghiên cứu khoa học - Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh.
Bảy m ơi năm Đảng Cộng sản Việt Nam , Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia, Hà Nội 2000.
"Đổi mới tổ chức và phơng thức lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng trong
Doanh nghiệp Nhà nớc". Đề tài cấp bộ, cơ quan chủ trì Phân viện Báo chí và
Tuyên truyền (nay là Học viện Báo chí và Truyên truyền), năm 2002, chủ
nhiệm đề tài là PGS.TS. Dơng Xuân Ngọc.

2) Một số luận án, luận văn:
Có nhiều luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ đề cập đến việc đổi mới phơng
thức lãnh đạo của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở đảng trong các lĩnh vực ở nông thôn, doanh nghiệp, trong các lực l-
ợng vũ trang, quân đội nh:
"Nâng cao chất lợng tổ chức cơ sở đảng nông thôn (cấp xã) vùng Đồng
bằng Sông Hồng" Luận án Tiến sĩ của Đỗ Minh Ngọc, Học viện CTQG Hồ
Chí Minh.
Nâng cao năng lực cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã vùng Đồng bằng
Bắc bộ nớc ta hiện nay , luận văn thạc sĩ của Mai Đức Ngọc, chuyên ngành
chính trị học, mã số 05. 01. 10, năm 2002, Học viện CTQG Hồ Chí Minh.
Vị trí vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong hệ thống
chính trị Việt Nam , luận văn thạc sĩ của Nguyễn Văn Giang, chuyên ngành
chính trị học, mã số 05. 05. 01, 2000, tại Học viện CTQG Hồ Chí Minh.
3
3) một số sách, bài viết của các nhà nghiên cứu, các cán bộ lãnh đạo
quản lý:
Mấy vấn đề về xây dựng Đảng vững mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
mới , Vũ Oanh, Nxb CTQG, Hà Nội 1999.
"Đổi mới về phơng thức lãnh đạo của Đảng", Lê Đức Bình, Tạp chí
Xây dựng Đảng, số 9/ 2000.
Nâng cao sức chiến đấu và vai trò lãnh đạo của Đảng, tăng cờng mối
quan hệ máu thịt với nhân dân, Đảng - dân một ý chí , Lê Khả Phiêu, Tạp chí
Cộng sản, 4/ 2000.
Sự gắn bó máu thịt giữa Đảng và nhân dân, nguồn sức mạnh vô tận
của Đảng , TS. Đào Duy Quát, Báo nhân dân, 02/ 02/ 2000.
Tiêu chuẩn Đảng viên và những vấn đề bức thiết trong công tác Đảng viên
hiện nay , PGS. TS. Tô Huy Rứa, Hội thảo đề tài KX- 05, ngày 11/01/1999.
Tiếp tục thực hiện nhiệm vụ then chốt, tạo bớc chuyển biến cơ bản trong
công tác xây dựng Đảng , Nguyễn Đức Hạt, Tạp chí Xây dựng Đảng, 5/2006.

Vận dụng t tởng của Lênin về Đảng cầm quyền vào công cuộc xây
dựng, chỉnh đốn Đảng ta trong thời kỳ đổi mới , GS. TS. Dơng Xuân Ngọc,
Tạp chí Lý luận chính trị, 6/2006.
Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức
mạnh toàn dân tộc đẩy mạnh công cuộc đổi mới, sớm đa nớc ta ra khỏi tình
trạng kém phát triển , Nông Đức Mạnh, Tạp chí Xây dựng Đảng, 5/2006.
Để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong thời
kỳ mới , Trơng Thị Mỹ Trang, Tạp chí Xây dựng Đảng, 2+3/ 2007.
Biện pháp xây dựng chi bộ trong sạch vững mạnh Vũ Cao Hội, Tạp
chí Kiểm tra, 2/2007.
Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới
đất nớc, PGS. TS. Nguyễn Trọng Phúc, Nxb, CTQG, Hà Nội 1999.
Phần lớn các công trình nghiên cứu và các bài viết này đề cập đến vấn
đề Đảng, là cơ sở lý thuyết và cách tiếp cận về xây dựng Đảng. Cho đến nay
vẫn còn rất ít công trình đề cập vấn đề Đảng trên cơ sở lý thuyết của chính trị
học. Nghiên cứu các nhân tố bảo đảm thực thi quyền lực - quyền lực chính trị,
phát huy vai trò hạt nhân lãnh đạo chính trị của một Đảng cầm quyền ở cơ sở,
cũng nh những nhân tố bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng nói chung, chắc chắn là
thuộc về đối tợng nghiên cứu của chính trị học.
3. Mục đích và nhiệm vu nghiên cứu
4
3.1. Mục đích của luận văn
Xác định và phân tích một số nhân tố bảo đảm hiệu lực, hiệu quả sự
lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng trong Đảng bộ Khối cơ quan Dân Chính Đảng
ở tỉnh Quảng Bình hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Phân tích rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của tổ chức cơ sở đảng và
những nhân tố bảo đảm sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng hiện nay.
- Phân tích rõ thực trạng, những nhân tố tích cực và tiêu cực ảnh hởng
đến sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng trong Đảng bộ Khối cơ quan Dân

Chính Đảng ở Quảng Bình hiện nay.
- Xác định những nhân tố chủ yếu (thể hiện ở một số giải pháp và kiến
nghị) nhằm bảo đảm sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng trong Đảng bộ Khối
cơ quan Dân Chính Đảng ở Quảng Bình hiện nay.
4. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tợng nghiên cứu là những nhân tố bảo đảm sự lãnh đạo của tổ
chức cơ sở đảng trong Đảng bộ Khối cơ quan Dân Chính Đảng ở Quảng Bình
hiện nay.
- Khách thể nghiên cứu là những tổ chức cơ sở đảng trong các cơ quan,
đơn vị hành chính, sự nghiệp thuộc Đảng bộ Khối cơ quan Dân Chính Đảng
Quảng Bình (có thể có những liên hệ, chứng minh, so sánh cần thiết với các cơ
sở khác, địa phơng khác, nớc khác).
- Phạm vi nghiên cứu là các tổ chức cơ sở đảng trong Đảng bộ Khối cơ
quan Dân Chính Đảng ở tỉnh Quảng Bình trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận là chủ nghĩa Mác - Lênin, t tởng Hồ Chí Minh và quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về tổ chức và hoạt động của tổ chức cơ sở
đảng.
- Sử dụng các phơng pháp cchuyên nghành, liên ngành khác nhau nh
các phơng pháp điều tra, khảo sát, phân tích, tổng hợp, lôgíc, lịch sử v.v
- Cơ sở thực tiễn là tổ chứ và hoạt động của các tổ chức cơ sở đảng ở
Quảng Bình và trong Đảng bộ Khối cơ quan Dân Chính Đảng ở Quảng Bình
hiện nay.
6. Đóng góp mới của luận văn
5
Một là, xác định và phân tích các nhân tố bảo đảm sự lãnh đạo của
Đảng, của các tổ chức cơ sở đảng bằng lý thuyết của chính trị học về tổ chức
và thực thi quyền lực (quyền lực chính trị của Đảng cầm quyền).
Hai là, xác định những nhân tố tác động đến sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở
đảng trong Đảng bộ Khối cơ quan Dân Chính Đảng ở Quảng Bình hiện nay.

Ba là, xác định một số nhân tố chủ yếu và có tính đột phá nhằm bảo
đảm sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng trong Đảng bộ Khối cơ quan Dân
Chính Đảng ở Quảng Bình thời gian tới.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Phân tích một số vấn đề có tính lý luận về tổ chức Đảng trong đó có tổ
chức cơ sở đảng hiện nay từ góc độ chính trị học.
- Phân tích một số vấn đề cần thiết do thực tế đặt ra trong việc phát huy
vai trò hạt nhân lãnh đạo chính trị, tăng cờng sức chiến đấu của tổ chức cơ sở
đảng ở Quảng Bình hiện nay.
- Do vậy kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham
khảo trong trong việc nghiên cứu về các Đảng chính trị, trong các bộ môn chính trị
học và xây dựng Đảng, trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở nớc ta hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn
- Ngoài mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung kết
cấu gồm có 3 chơng, 6 tiết.
Chơng 1. Tổ chức cơ sở đảng và những nhân tố ảnh hởng đến sự lãnh
đạo tổ chức cơ sở đảng ở nớc ta hiện nay.
Chơng 2. Tổ chức cơ sở đảng và những nhân tố ảnh hởng tới sự lãnh
đạo của tổ chức cơ sở đảng trong Đảng bộ Khối cơ quan Dân Chính Đảng ở
Quảng Bình hiện nay.
Chơng 3. Một số giải pháp và kiến nghị nhằm phát huy những nhân tố
bảo đảm sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng trong Đảng bộ Khối cơ quan
Dân Chính Đảng ở Quảng Bình.
Chơng 1
Tổ chức cơ sở đảng và những nhân tố ảnh hởng
đến sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng
ở nớc ta hiện nay
1.1. Tổ chức cơ sở đảng và sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở
đảng hiện nay
1.1.1. Khái niệm về tổ chức cơ sở đảng nói chung

6
Khái niệm Tổ chức cơ sở đảng lần đầu tiên đợc ra đời tại Đại hội III Đảng
Công nhân Dân chủ - Xã hội Nga (25/4/1905). Đại hội xác định"Mỗi tổ chức
Đảng cho tới chi bộ công nhân cơ sở của Đảng phải đợc xác định thành phần và
nhất định phải ổn định những mối liên hệ đều đặn với Trung ơng". Sau đó trong
bài "Tiến tới thống nhất", Lênin chỉ rõ "Những điều kiện khách quan đòi hỏi rằng
những chi bộ công nhân phải làm cơ sở của Đảng" [44, tr.251 - 259].
Hồ Chí Minh, ngời sáng lập và rèn luyện Đảng ta, trong quá trình lãnh
đạo cách mạng đã nhấn mạnh: Đảng ta có một tổ chức chặt chẽ, thống nhất từ
Trung ơng đến cơ sở, có mối liên hệ mật thiết với quần chúng, vì vậy phải đợc
thành lập, đợc tổ chức tại các đơn vị cơ sở. Ngời nói: "ở mỗi xởng máy, hầm
mỏ, xí nghiệp, cơ quan, trờng học, đờng phố, nông thôn, đại đội - có 3 đảng
viên trở lên thì lập một chi bộ" [49, tr.242].
Với tinh thần đó, khái niệm tổ chức cơ sở đảng đợc ghi rõ trong Điều lệ
Đảng Cộng sản Việt Nam và qua các kỳ đại hội có sự điều chỉnh và từng bớc
hoàn chỉnh về nội dung và ý nghĩa của nó. Tại Điều 21 Điều lệ Đảng Cộng sản
Việt Nam đợc thông qua Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X ghi rõ:
1. Tổ chức cơ sở đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng
của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở.
2. ở xã, phờng, thị trấn, cơ quan, hợp tác xã, doanh nghiệp, đơn
vị sự nghiệp, đơn vị cơ sở trong quân đội, công an và các đơn vị cơ
sở khác có từ ba đảng viên chính thức trở lên, lập tổ chức cơ sở
đảng; nếu cha đủ ba đảng viên chính thức thì cấp uỷ cấp trên trực
tiếp giới thiệu đảng viên sinh hoạt ở tổ chức cơ sở đảng thích hợp.
3. Tổ chức cơ sở đảng dới ba mơi đảng viên, lập chi bộ cơ sở,
có các tổ chức đảng trực thuộc.
4. Tổ chức cơ sở đảng có từ ba mơi đảng viên trở lên, lập đảng
bộ cơ sở, có các chi bộ trực thuộc đảng uỷ.
5. Những trờng hợp sau đây, cấp uỷ cấp dới phải báo cáo và đợc
cấp uỷ cấp trên trực tiếp đồng ý mới đợc thực hiện:

- Lập đảng bộ cơ sở trong đơn vị cơ sở cha đủ ba mơi đảng viên.
- Lập chi bộ trực thuộc đảng uỷ cơ sở có hơn ba mơi đảng viên.
- Lập đảng bộ bộ phận trực thuộc đảng uỷ cơ sở [31, tr.34,35]
7
Nh vậy, tổ chức cơ sở đảng gồm chi bộ cơ sở hoặc đảng bộ cơ sở, việc lựa
chọn mô hình tổ chức nào (chi bộ cơ sở hoặc đảng bộ cơ sở) phụ thuộc vào số l-
ợng đảng viên chính thức và phải đợc cấp uỷ cấp trên trực tiếp quyết định.
Trong quá trình thực hiện đờng lối đổi mới, do yêu cầu của việc phát
triển nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa và chính sách đối ngoại
mở rộng của Đảng, nên ngoài các loại hình tổ chức cơ sở đảng đợc tổ chức,
các đơn vị cơ sở hành chính (xã, phờng, thị trấn), các đơn vị sự nghiệp, cơ
quan, doanh nghiệp nhà nớc, đơn vị cơ sở trong công an, quân đội v.v. còn
xuất hiện loại hình tổ chức cơ sở đảng ở các đơn vị doanh nghiệp t nhân, các
doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài.
1.1.2. Vị trí, vai trò, chức năng và nhiệm vụ của tổ chức cơ sơ đảng
nói chung hiện nay
1.1.2.1. Vị trí, vai trò lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng
Trong quá trình thực thi quyền lãnh đạo, tổ chức cơ sở đảng có một vị
trí, vai trò hết sức quan trọng, tác động đến quá trình phát triển một cách toàn
diện trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội và t tởng, C.Mác và Ph.ăng
ghen là những ngời đầu tiên chỉ ra vị trí, vai trò quan trọng của tổ chức cơ sở
đảng, hai ông cho rằng nếu các chi bộ buông lỏng về mặt tổ chức, sẽ làm cho
Đảng "mất chỗ dựa vững chắc và duy nhất v.v " [47, tr.167]. C.Mác và
Ph.ăngghen luôn luôn coi trọng việc củng cố các chi bộ, làm cho chi bộ thành
trung tâm và hạt nhân của các hiệp hội công nhân. Phát triển t tởng đó, Lênin
trong quá trình xây dựng và lãnh đạo Đảng Bônsêvích Nga - Đảng kiểu mới
của giai cấp công nhân, đã xây dựng và kiện toàn tổ chức cơ sở đảng, làm nơi
rèn luyện, phân công công tác, quản lý, sàng lọc đảng viên, biến mỗi chi bộ
thành trung tâm hạt nhân của các hiệp hội công nhân, là điểm tựa để tiến hành
công tác tuyên truyền, cổ động và tổ chức thực hiện mọi chủ trơng đờng lối

lãnh đạo của Đảng trong quần chúng.
Trên tinh thần đó, Hồ Chí Minh trong quá trình lãnh đạo cách mạng
Việt Nam đã đặc biệt quan tâm chăm lo đến việc xây dựng tổ chức cơ sở đảng
theo quan điểm mỗi chi bộ của Đảng là một hạt nhân lãnh đạo quần chúng ở cơ
sở, đoàn kết chặt chẽ, liên hệ mật thiết với quần chúng, phát huy đợc trí tuệ và lực
lợng vĩ đại của quần chúng. Hồ Chí Minh chỉ rõ "Chi bộ là gốc rễ của Đảng" và
"Chi bộ là đồn lũy của Đảng chiến đấu ở trong quần chúng" [49, tr.242] giống
nh một cây không thể thiếu gốc rễ, một ngôi nhà không thể thiếu nền tảng,
8
điều đó đủ nói lên vị trí, vai trò cực kỳ quan trọng của mỗi chi bộ với t cách là
tổ chức cơ sở đảng. "Đảng mạnh là do các chi bộ mạnh "[50, tr.270] và "các
chi bộ mạnh tức là Đảng mạnh" [49, tr.243].
Trong hoạt động lãnh đạo của Đảng đối với mọi mặt của đời sống xã
hội, các tổ chức cơ sở của Đảng là những hạt nhân chính trị, là nền tảng của
Đảng ở cơ sở, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Mỗi chi bộ ta phải là một hạt nhân
vững chắc, lãnh đạo đồng bào thi đua yêu nớc, cần kiệm xây dựng nớc nhà"
[50, tr.205] và Tác dụng của chi bộ là cực kỳ quan trọng, vì nó là sợi dây
chuyền để liên hệ Đảng với quần chúng" [49, tr.243].
Kế thừa, phát triển và vận dụng sáng tạo các quan điểm lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, t tởng Hồ Chí Minh, trong quá trình lãnh đạo cách .
mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đã luôn luôn chăm lo xây dựng tổ
chức cơ sở đảng. Hệ thống tổ chức của Đảng đợc kết cấu song trùng với hệ
thống hành chính nhà nớc theo bốn cấp: Trung ơng; tỉnh (thành phố); huyện
(quận); xã (phờng, thị trấn).
Tổ chức cơ sở đảng là cấp cuối cùng trong hệ thống tổ chức bốn cấp của
Đảng, là nền tảng và hạt nhân chính trị ở cơ sở. Xét trong hệ thống tổ chức
của Đảng thì tổ chức cơ sở đảng là "nền tảng", là "gốc rễ" của Đảng
Tổ chức cơ sở đảng vừa là nơi trực tiếp thực hiện đờng lối, chủ trơng,
chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nớc; đồng thời cũng là nơi góp
phần phát triển và hoàn thiện đờng lối chính sách của Đảng và Nhà nớc. Là

một thành viên trong hệ thống chính trị ở cơ sở, tổ chức cơ sở đảng có vị trí,
vai trò đoàn kết, lãnh đạo các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở.
Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó, liên hệ mật thiết với nhân dân.
Trong mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân, vai trò của tổ chức cơ sở đảng là
những "sợi dây chuyền" nối liền Đảng với dân.
1.1.2.2. Chức năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng
Tổ chức cơ sở đảng nói chung có hai chức năng quan trọng:
Một là, lãnh đạo thực hiện đờng lối, chủ trơng, chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nớc ở cơ sở.
Hai là, lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị, phát triển sản
xuất, kinh doanh, nâng cao hiệu quả công tác của cơ sở; chăm lo cải thiện đời
sống vật chất, tinh thần của nhân dân; động viên quần chúng hoàn thành đầy
đủ nghĩa vụ của cơ sở, đơn vị đối với Nhà nớc.
9
Từ chức năng nói trên, Điều 23, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, đợc
thông qua Đại hội lần thứ X của Đảng năm 2006, quy định năm nhiệm vụ của
tổ chức cơ sở đảng nh sau:
1. Chấp hành đờng lối, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nớc; đề ra chủ trơng, nhiệm vụ chính trị của đảng bộ, chi bộ và
lãnh đạo thực hiện có hiệu quả.
2. Xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch vững mạnh về chính
trị, t tởng và tổ chức; thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ;
nâng cao chất lợng sinh hoạt đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình,
giữ gìn kỷ luật và tăng cờng đoàn kết thống nhất trong Đảng; thờng
xuyên giáo dục, rèn luyện và quản lý cán bộ, đảng viên, nâng cao
phẩm chất đạo đức cách mạng, tính chiến đấu, trình độ kiến thức,
năng lực công tác; làm tốt công tác phát triển đảng viên.
3. Lãnh đạo xây dựng chính quyền, các tổ chức kinh tế, hành
chính, sự nghiệp, quốc phòng, an ninh và các đoàn thể chính trị - xã
hội trong sạch, vững mạnh; chấp hành đúng pháp luật và phát huy

quyền làm chủ của nhân dân.
4. Liên hệ mật thiết với nhân dân, chăm lo đời sống vật chất,
tinh thần và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân; lãnh đạo nhân
dân tham gia xây dựng và thực hiện đờng lối, chính sách của Đảng
và pháp luật Nhà nớc.
5. Kiểm tra việc thực hiện, bảo đảm các nghị quyết, chỉ thị của
Đảng và pháp luật của Nhà nớc đợc chấp hành nghiêm chỉnh; kiểm
tra tổ chức đảng và đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng.
Đảng uỷ cơ sở nếu đợc cấp uỷ cấp trên trực tiếp uỷ quyền thì
đợc quyết định kết nạp và khai trừ đảng viên [31, tr.37-39].
Với chức năng nhiệm vụ đợc qui định trong Điều lệ Đảng, thời gian qua
tổ chức cơ sở đảng đã cơ bản phát huy vai trò là hạt nhân lãnh đạo chính trị,
làm tốt công tác giáo dục chính trị t tởng, công tác tổ chức cán bộ, xây dựng
tổ chức cơ sở đảng gắn với xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở, phát triển
Đảng và tăng cờng công tác kiểm tra. Đa số cán bộ đảng viên phát huy vai trò
tiên phong, gơng mẫu, năng động, sáng tạo, giữ gìn phẩm chất đạo đức, góp
phần quan trọng vào thắng lợi sự nghiệp đổi mới, tạo ra những chuyển biến
mạnh mẽ trong quá trình phát triển đất nớc.
10
1.2. những nhân tố ảnh hởng đến sự lãnh đạo của tổ chức
cơ sở Đảng hiện nay
1.2.1. Khái niệm về nhân tố và phân loại các nhân tố
1) Khái niệm nhân tố: Nhân tố hay yếu tố là những điều kiện, những cơ
sở, những tiền đề cần thiết gây ra, tạo ra cái gì đó. Đồng thời trong kết cấu
(cấu trúc) của một sự vật hay hiện tợng nhất định, bao gồm nhiều nhân tố hay
yếu tố cấu thành. Trong quá trình vận động và phát triển của sự vật, hiện tợng
cũng nh hoạt động của con ngời v.v., hiện diện một loạt các nhân tố hay yếu tố
nối tiếp nhau. Các nhân tố, yếu tố là hết sức phong phú, để nhận biết các nhân
tố, yếu tố cần có một hệ thống các tiêu chí để phân biệt. Nói cách khác để có
nhận biết các nhân tố, yếu tố thì cần các phơng pháp tiếp cận khác nhau. Giữa

các nhân tố hay yếu tố cũng có sự chuyển hoá lẫn nhau, sự phân biệt các nhân
tố, yếu tố chỉ có ý nghĩa tơng đối. Các nhân tố, các yếu tố không chỉ khác
nhau về tính chất do cách tiếp cận khác nhau mà còn khác nhau về cấp độ,
trình độ. Nghiên cứu nhân tố có thể đợc xem là một hớng hay, một phơng
pháp nghiên cứu của nhiều nghành khoa học, trong đó có chính trị học.
2) Các lọai nhân tố: Dới góc độ triết học - góc độ nhận thức luận, ngời
ta có thể nhận thấy những loại nhân tố chủ yếu sau đây.
- Nhân tố khách quan là những điều kiện không phụ thuộc vào con ngời
và quyết định phơng hớng, qui mô hoạt động của họ. Có thể nhận thấy một số
nhân tố khách quan tiêu biểu nh: những biểu hiện của tự nhiên, những trình độ
phát triển của sản xuất, của xã hội, những nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội
v.v Nhân tố chủ quan là hoạt động của quần chúng, của các giai cấp, các đảng
phái, nhà nớc hay những con ngời cá biệt với ý thức, ý chí và khả năng hoạt động
của họ v.v Có thể thấy một số nhân tố chủ quan tiêu biểu, biểu hiện nh hoạt
động của quần chúng, của các giai cấp, đảng phái, nhà nớc, những con ngời cá
biệt với ý thức, ý chí, khả năng của họ v.v
Trong đời sống xã hội những nhân tố khách quan bao giờ cũng là những
nhân tố quyết định, nhng tác động của chúng chỉ thể hiện thông qua sự tác
động của các nhân tố chủ quan của con ngời. Những nhân tố chủ quan chỉ có
thể đóng vai trò quyết định chỉ khi nào những điều kiện khách quan đã đợc
chuẩn bị cho chúng. Sự tác động của các nhân tố chủ quan đến sự phát triển
của xã hội tăng lên cùng với sự quá độ từ một hình thái kinh tế - xã hội này
sang một hình thái kinh tế - xã hội khác, tiến bộ hơn. Vai trò của những nhân
11
tố chủ quan tăng lên đặc biệt mạnh mẽ trong xã hội xã hội chủ nghĩa, khi lần
đầu tiên trong lịch sử loài ngời có khả năng phát triển sáng tạo và hài hoà tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, khi đông đảo quần chúng nhân dân đợc
thu hút tham gia một cách tự giác vào công cuộc xây dựng xã hội mới.
- Nhân tố bên ngoài, là sự phản ánh phía mặt ngoài của sự vật hiện tợng,
mà cảm giác của con ngời thu nhận đợc hoặc phản ánh hiện thực tồn tại bên

ngoài sự vật, hiện tợng.
- Nhân tố bên trong, là phạm trù chỉ cái bên trong, phản ánh mặt thực
chất của sự vật hiện tợng. Cái bên trong không đợc tiếp thu một cách trực tiếp,
mà nhận thức thông qua cái bên ngoài, thông qua những biểu hiện của sự vật,
hiện tợng. Những mặt bên ngoài của sự vật, hiện tợng đợc qui định bởi cái bên
trong, bởi qui luật, bởi bản chất và thông qua những cái đó mà ngời ta phát hiện,
nhận thức đợc chúng. Việc xem xét bản chất bên trong của sự vật đa đến những
hiểu biết về những mâu thuẫn bên trong của sự vật, về nguồn gốc phát triển và
những qui luật vận động, phát triển của sự vật, hiện tợng.
Ngoài ra, ở gốc độ nhận thức luận, ngời ta còn phân biệt nhiều loại
nhân tố, yếu tố khác nhau nữa. Các nhân tố này thờng biểu hiện ra nh là
những mặt đối lập nhng lại thống nhất trong một sự vật hiện tợng nh: nhân tố
vật chất, nhân tố tinh thần, nhân tố cơ bản và nhân tố không cơ bản, nhân tố
chủ yếu và nhân tố thứ yếu, nhân tố chi phối quyết định và nhân tố tác động -
ảnh hởng. Nhân tố ở góc độ của xã hội học hay là tiếp nhận các nhân tố, các
yếu tố từ đời sống xã hội, từ góc độ của một hình thái kinh tế - xã hội, ngời ta
lại thấy các nhân tố, yếu tố kinh tế, chinh trị, văn hoá - xã hội.
ở góc độ chính trị học, tiếp cận của đề tài, nhân tố, yếu tố của đời sống
chính trị, nhà nớc v.v., ngời ta lại thấy có các nhân tố về t tởng, về thể chế, về ph-
ơng thức hoạt động, về con ngời chính trị, trong đó có cán bộ chín trị.
Nghiên cứu các nhân tố, yếu tố về tổ chức chính trị trong đó có hoạt
động lãnh đạo của Đảng chính trị là nghiên cứu về những bộ phận cấu thành,
những tiền đề cần thiết lãnh đạo của Đảng đối với xã hội. Việc làm sáng tỏ
các nhân tố là rất có ý nghĩa quá trình nghiên cứu của các khoa học trong đó
có chính trị hoc.
1.2.2. Những nhân tố ảnh hởng đến sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở
đảng hiện nay
Một là, nhân tố về lịch sử - xã hội.
12
Trong lịch sử phát triển của mình, mỗi quốc gia, dân tộc, mỗi giai cấp,

tầng lớp xã hội đều chịu sự ảnh hởng chi phối của các nhân tố tự nhiên, kinh
tế - xã hội và lịch sử. Các nhân tố lịch sử - xã hội này ảnh hởng ở những mức
độ khác nhau đến hoạt động chính trị, một lĩnh vực hoạt động chính trị quan
trọng của con ngời trong xã hội có giai cấp, có chính trị và nhà nớc.
Dân tộc Việt Nam từ Văn Lang, Âu Lạc cho đến Đại Việt rồi Việt Nam,
đã trải qua mấy ngàn năm lịch sử lâu dài có thể sánh vai cùng các quốc gia,
dân tộc hình thành sớm nhất trên thế giới. Trong lịch sử ấy, dẫu thuở một
nghìn năm Bắc thuộc đất nớc vẫn chói sáng với những cuộc khởi nghĩa vũ
trang, những anh hùng dân tộc, những tinh thần quật cờng và quật khởi, ý chí
độc lập dân tộc. Lịch sử dân tộc lại càng rạng danh hơn từ khi có Đảng ra đời,
tên tuổi Việt Nam không chỉ đợc khôi phục mà ngày càng thêm rạng rỡ trớc
toàn thế giới. Dân tộc Việt Nam ngẩng cao đầu đi lên.
Có đợc trang sử vẻ vang mấy ngàn năm lịch sử đó chính là nhờ Dân tộc
Việt Nam có truyền thống yêu nớc nồng nàn, tinh thần đoàn kết dân tộc vững
chắc và truyền thống đánh giặc giữ nớc anh hùng bất khuất. Những nhân tố
quan trọng này đợc thấm nhuần, ngấm sâu đối với mỗi con ngời Việt Nam
trong suốt cả chiều dài lịch sử. Nhìn lại lịch sử đấu tranh dựng nớc và giữ nớc
của dân tộc Việt Nam; đánh giá vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam,
chúng ta càng khẳng định vai trò to lớn của giá trị truyền thống lịch sử - xã
hội, cũng nh vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trớc yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế, Việt Nam vẫn là một quốc gia có lợi thế về địa kinh tế, địa chính trị và địa
văn hoá, trong bối cảnh có nhiều thuận lợi và khó khăn thách thức lớn đan xen
nhau, thì việc phát huy và nhân lên sức mạnh lịch sử - xã hội, kế thừa có chọn
lọc và phát huy vai trò lãnh đạo của của tổ chức cơ sở đảng trong sự nghiệp
đổi mới là vấn đề cần kíp, đợc quan tâm lãnh đạo của Đảng ta, bởi lẽ đây là
những nhân tố đợc vun đắp và xây dựng nên của bao thế hệ cha ông chính vì
thế mà họ nâng nu, quí trọng. Các giá trị truyền thống trong Đảng càng có ảnh
hởng trực tiếp đến mỗi cán bộ, đảng viên và tăng thêm vai trò lãnh đạo của
Đảng ở cơ sở. Tuy nhiên cũng phải chú trọng khắc phục những mặt trái của

nhân tố lịch sử - xã hội nh tính chất họ hàng, dòng tộc, cục bộ địa phơng, gia
trởng độc đoán, thói quen tập quán cũ đã ăn sâu bén rễ trong mỗi cán bộ, đảng
13
viên, đây chính là những nhân tố gây cản trở sự phát triển của lịch sử và làm
giảm uy tín của Đảng đối với nhân dân.
Hai là, nhân tố về tổ chức, cán bộ và hoạt động của tổ chức cơ sở đảng.
Công tác tổ chức, cán bộ là một trong những nhân tố quan trọng, bảo
đảm sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng.
Thuật ngữ "tổ chức" (organization) bắt nguồn từ chữ Hy Lạp (organon),
có nghĩa là công cụ, dụng cụ, khái niệm công cụ ở đây chỉ chức năng chung
của các loại hình tổ chức; tổ chức chính trị, tổ chức xã hội, tổ chức đoàn
thểv.v Trên thực tế cho đến nay, tuỳ góc độ nhìn nhận khác nhau mà ngời ta
đa ra những định nghĩa khác nhau. ở phơng diện chung nhất có thể nhận thấy
rằng tổ chức luôn phản ánh hình ảnh của xã hội, là sợi dây liên kết, gắn bó con
ngời, các thành viên lại với nhau, thành các nhóm, các bộ phận xã hội tồn tại
và hoạt động trên cơ sở mục tiêu chung, có sự quy định của pháp luật. Vì thế,
khái niệm tổ chức đợc hiểu nh sau: Tổ chức là một nhóm xã hội (một tập thể)
bao gồm những cá nhân đợc tập hợp theo sự phân công lao động thống nhất về
mục đích và hành động chặt chẽ, trên cơ sở pháp quy quy định.
Cán bộ là một danh xng, xuất hiện trong đời sống xã hội nớc ta mấy
chục năm gần đây, để chỉ một lớp ngời là những chiến sĩ cách mạng, lớp ngời
mới, sẵn sàng chịu đựng gian khổ, hy sinh, gắn bó với nhân dân, phục vụ cho
sự nghiệp cao cả, giành độc lập, tự do cho dân.Trong Từ điển tiếng Việt, cán
bộ đợc định nghĩa là: Ngời làm công tác nghiệp vụ chuyên môn trong cơ
quan nhà nớc, đảng, đoàn thể, ngời làm công tác có chức vụ trong một cơ
quan, một tổ chức, phân biệt với ngời không có chức vụ [73, tr.105].
Công tác tổ chức, cán bộ là công tác đối với con ngời, đối với các nhân
cách khác nhau. Đây là nhân tố tác động, rất quan trọng, bảo đảm cho vai trò
lãnh đạo của Đảng nói chung cũng nh tổ chức cơ sở đảng nói riêng. Tuy
nhiên, đây cũng là một công việc rất khó khăn, đòi hỏi phải có tính khoa học

và nghệ thuật cao.
Xét quan điểm tích cực về Thủ lĩnh chính trị trong lịch sử phơng Tây
nh: Xê-nô-phôn, Pla-ton, ôgruxtanh, Mongtétxkiơ v.v. thì thủ lĩnh chính trị
phải là ngời thông thái, ngời biết chỉ huy, là ngời giỏi thuyết phục, biết vì lợi
ích chung, biết tập hợp mà nhân lên sức mạnh của mọi ngời, biết đa ra những
quyết định đúng ở những thời điểm bớc ngoặt, phải đặt uy quyền vào việc
phục vụ nhân dân, lấy công bằng làm gốc, từ thiện làm ngọn, cầm quyền là
14
gánh nặng, địa vị cao nhất, cũng là nguy hiểm và nặng nề nhất. Họ phải biết
chỉ huy mình trớc khi chỉ huy ngời khác, phải biết phân biệt lợi ích của quốc
gia với những đòi hỏi sai lạc của nhân dân, có đủ năng lực, có tài, có đức tham
gia vào bộ máy quyền lực nhà nớc.
Xét những quan điểm tích cực về Thủ lĩnh chính trị trong lịch sử t tởng
Chính trị phơng Đông, chúng ta thấy điểm chung là đi tìm mẫu hình lý tởng.
Khổng Tử cho rằng Ngời cai trị dân phải có đức độ, công bằng, độ lợng, vì
nhân hậu nên đợc lòng dân, thành thực nên trăm họ tín nhiệm, cần mẫn nên
thành công, công bằng nên mọi ngời vui vẻ. Thủ lĩnh phải tu dỡng, phấn đấu
không ngừng để trở thành ngời có đủ: Trí, Nhân, Trung, Nghĩa, Tín để hoàn
toàn xứng đáng là ngời cai trị dân, có trách nhiệm làm gơng cho dân, chăm lo
cho dân, bảo vệ dân và phải giáo hóa dân, tạo niềm tin cho dân; Mạnh Tử cũng
cho rằng kẻ cai trị phải có đức, có tài; Hàn Phi Tử lại đề ra tiêu chuẩn thủ lĩnh
chính trị là phải biết đề cao pháp luật. Hiểu đạo và cai trị theo đạo; Mặc Tử cũng
cho rằng thủ lĩnh phải là Ngời: Vui với lợi ích của thiên hạ, trừ họa cho thiên hạ,
phép tắc kỷ cơng, đối xử tốt đẹp với mọi ngời xung quanh.
Nh vậy xét về mặt lịch sử, từ phơng Tây đến phơng Đông, tiêu chí bao
quát nhất đối với thủ lĩnh chính trị là đạo đức, trí tuệ và sức khỏe, biết thu
phục nhân tâm, biết tổ chức và phát huy sức mạnh cộng đồng, nếu loại trừ
những hạn chế, thì những t tởng đó đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Lênin ngay từ ngày đầu thành lập Nhà nớc Xô viết, đã rất coi trọng
công tác tổ chức, theo ông lĩnh vực trọng yếu nhất của cuộc cách mạng xã hội

chủ nghĩa, tức là nhiệm vụ tổ chức và khi đờng lối, chính sách đã đợc xác
định, phơng hớng đã đợc thông qua thì nhiệm vụ tổ chức thực hiện phải đặt
lên hàng đầu, và điều chủ yếu là chuyển trọng tâm từ việc soạn thảo các sắc
lệnh và mệnh lệnh (đấy là chúng ta u mê đến ngu xuẩn) sang việc lựa chọn
ngời và kiểm tra sự thực hiện. Đó là vấn đề then chốt" [45, tr.450].
Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam trong quá trình
lãnh đạo cách mạng đã xác định vị trí, vai trò của công tác tổ chức và cán bộ,
Ngời khẳng định "cán bộ là cái gốc của mọi công việc" [48, tr.269], "Muôn
việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém" [48, tr.240].
Phát triển t tởng đó, Đảng ta luôn coi trọng công tác tổ chức cán bộ, và
xem đây là vấn đề có ý nghĩa chiến lợc đối với sự nghiệp cách mạng nớc ta,
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI Đảng ta nhấn mạnh: Đổi mới
cán bộ lãnh đạo các cấp, là mắt xích quan trọng nhất mà Đảng ta phải nắm
15
chắc để thúc đẩy các cuộc cải cách có ý nghĩa cách mạng. Tại Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ X, Đảng ta tiếp tục xác định "Đổi mới tổ chức, bộ máy và
công tác cán bộ" [22, tr.135] và "Xây dựng đội ngũ cán bộ đồng bộ, có cơ cấu
hợp lý, chất lợng tốt, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo kế tiếp vững vàng.
Chú ý đào tạo cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số, cán bộ xuất thân từ công
nhân, chuyên gia trên các lĩnh vực [22, tr.136]. Có cơ chế, chính sách phát
hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dỡng, trọng dụng và đãi ngộ xứng đáng ngời có
đức, có tài; thay thế kịp thời những ngời kém năng lực và kém phẩm chất, có
khuyết điểm nghiêm trọng" [22, tr.137].
Tổ chức và cán bộ có sự khác nhau về chức năng nhiệm vụ, nhng lại có
mối quan hệ chặt chẽ và sự tác động qua lại lẫn nhau, bổ sung cho nhau trong
quá trình tồn tại và phát triển. Đối với tổ chức cơ sở đảng, công tác tổ chức và
cán bộ là nhân tố quan trọng nhằm phát huy vai trò lãnh đạo của tổ chức cơ sở
đảng, nếu tổ chức tốt và có đội ngũ cán bộ tốt thì tổ chức đảng mạnh, nếu một
trong hai yếu tố đó yếu hoặc cả hai đều yếu thì sẽ gây ảnh hởng đến vai trò
lãnh đạo của tổ chức đảng, làm cho tổ chức cơ sở đảng đó suy yếu dần, đồng

thời có nguy cơ đánh mất vai trò hạt nhân lãnh đạo chính trị. Chính vì thế mà
trong công tác lãnh đạo của Đảng có một nội dung rất quan trọng đó là: Đảng
lãnh đạo toàn diện công tác tổ chức, cán bộ và lãnh đạo toàn thể hệ thống
chính trị thông qua công tác tổ chức và cán bộ.
Ba là, nhân tố nhận thức về Đảng và xây dựng tổ chức cơ sở đảng
Nhận thức mới về Đảng và đổi mới nhận thức trong xây dựng chỉnh đốn
Đảng là nhân tố trọng tâm nhằm bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng. Nhận
thức là điểm khởi đầu quan trọng, nhận thức đúng mới đổi mới đúng, nhận
thức mới về Đảng là căn cứ đổi mới, chỉnh đốn Đảng, vấn đề trung tâm của sự
nghiệp đổi mới của nớc ta. Từ bài học thành công và thất bại của các Đảng
Cộng sản trên thế giới, trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, t tởng Hồ
Chí Minh, Đảng ta đã có quan điểm, nhận thức đúng về Đảng, về vai trò lãnh
đạo của Đảng và đa ra một hệ thống quan điểm ngày càng hoàn chỉnh về
Đảng và công tác xây dựng Đảng.
Khẳng định vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách
mạng của dân tộc. Để đảm đơng đợc vai trò lãnh đạo trong thời kỳ mới, Đảng
phải thờng xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, đổi mới và chỉnh đốn là yêu cầu
khách quan, gắn chặt với nhau, không thể chỉnh đốn nếu không đổi mới,
không thể đổi mới mà không chỉnh đốn. Đổi mới không phải làm cho Đảng
16
biến màu, biến chất mà làm cho Đảng càng giữ vững bản chất, tăng cờng sức
chiến đấu của Đảng, đủ sức đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới.
Nhận thức mới của Đảng ta còn thể hiện ở sự khẳng định lấy chủ nghĩa
Mác - Lênin, t tởng Hồ Chí Minh làm nền tảng t tởng, kim chỉ nam cho hành
động của cách mạng Việt Nam. Đảng ta kiên trì và làm phong phú thêm chủ
nghĩa Mác - Lênin qua thực tiễn cách mạng Việt Nam, biểu hiện rõ trong đ-
ờng lối đổi mới, không khô cứng, giáo điều mà là một hệ thống t tởng sống
động, có khả năng kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp
thu tinh hoa văn hoá nhân loại, bổ sung giữa lý luận và thực tiễn. Không từ bỏ
chủ nghĩa Mác - Lênin, từ bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ, Đảng ta nhận thức

đầy đủ hơn, phát triển nhân tố ảnh hởng tích cực thực hiện nền dân chủ hoá
một cách rộng rãi; xây dựng một nhà nớc pháp quyền của dân, do dân và vì
dân. Đảng có quyền lực chính trị, nhng không để trở thành quan quyền, đây là
nhận thức mới nhất, sâu sắc nhất của Đảng ta v.v
Điều nổi bật trong nhận thức mới của Đảng ta là nhận thức hoàn thiện
về mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, coi đây là nhân tố quan trọng nhằm
phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng. Ngay từ đầu mới thành lập đã đợc nhân
dân ủng hộ, yêu thơng, đùm bọc. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, dựa vào
dân để xây dựng Đảng. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng, đã biết
dựa vào sức mạnh của nhân dân, phát huy tính tích cực của quần chúng nhân
dân, giữ mối quan hệ chặt chẽ với dân nh cá với nớc. Trong lúc khó khăn nhất,
Đảng ta lại nhờ nhân dân mà tồn tại và phát triển. Đảng ta luôn coi dân là
nhân tố quyết định tạo nên thắng lợi của cách mạng.
"Dễ trăm lần không dân cũng chịu
Khó vạn lần dân liệu cũng xong"
Đảng ra đời từ dân, trở lại phục vụ nhân dân, đảng viên là những phần
tử u tú trong nhân dân, trởng thành từ phong trào của dân, gắn bó và phát huy
sức mạnh toàn dân tộc đó là bài học cách mạng quan trọng cũng là nhân tố
bảo đảm cho sự lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Kinh nghiệm lịch sử cho
thấy rằng một khi Đảng xa dân, không đợc dân ủng hộ giúp đỡ thì sự nghiệp
cách mạng sẽ gặp khó khăn, vai trò lãnh đạo của Đảng sẽ mất hiệu lực, thậm
chí Đảng phải chịu nhiều tổn thất, sai lầm nghiêm trọng. Để phát huy vai trò
lãnh đạo của Đảng, Đảng phải đổi mới phơng thức lãnh đạo thông qua cơng
lĩnh, chiến lợc, các định hớng chính sách và chủ trơng công tác; bằng công tác
17
tuyên truyền thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra và bằng hành động gơng
mẫu của đảng viên. Đảng phải giới thiệu những đảng viên u tú, có đủ năng lực
và phẩm chất vào hoạt động trong cơ quan lãnh đạo chính quyền, đoàn thể.
Đảng không làm thay công việc của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.
Nhờ những nhân tố mới trong nhận thức và đổi mới xây dựng chỉnh đốn

Đảng, thời gian qua vai trò lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng đợc củng cố, giữ
vững và phát huy, các tổ chức cơ sở đảng đã cơ bản xứng đáng là vai trò hạt
nhân lãnh đạo chính trị. Cụ thể hoá đợc đờng lối đổi mới toàn diện của Đảng
và chỉ đạo thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị, quốc phòng, an ninh, tập trung
xây dựng Đảng cả về chính trị, t tởng, tổ chức, tôn trọng quy luật khách quan,
khắc phục bệnh chủ quan, duy ý chí. Năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở
đảng có mặt đợc nâng cao, nhất là lãnh đạo kinh tế, lãnh đạo nhà nớc trong
giai đoạn chuyển đổi; đội ngũ đảng viên phát triển cả về số lợng và chất lợng,
thu hút đợc lực lợng trẻ u tú phấn đấu vào Đảng để cống hiến và trởng thành.
Bốn là, nhân tố về đờng lối và phơng thức lãnh đạo Đảng
Điểm quan trọng nhất trong nhân tố phơng thức lãnh đạo của Đảng đó là
Đảng phải có đờng lối chính trị đúng đắn. Cách mạng Tháng tám 1945 thành
công và lập nên nớc Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, mà nay là nớc Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là do Cơng lĩnh đầu tiên của Đảng năm 1930 đã
khẳng định đợc con đờng cứu nớc chân chính, gắn liền giải phóng dân tộc với
giải phóng giai cấp và xã hội, gắn liền mục tiêu Độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội. Từ chiến lợc đó Đảng ta đã chú trọng xác định đờng lối cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân, đờng lối kháng chiến, đờng lối chủ nghĩa xã hội, đờng
lối đổi mới với thành tựu 20 năm đã tạo nên sự chuyển biến vợt bậc toàn diện
trên cả lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại
của Đảng ta. Đờng lối cách mạng dân tộc dân chủ, nhân dân cũng nh đờng lối
kháng chiến, Đảng đã xác định rõ kẻ thù, mục tiêu của cách mạng, sắp xếp và
tập hợp đông đảo lực lợng cách mạng, sử dụng đúng đắn và phát triển sáng tạo
phơng pháp cách mạng để tạo nên sức mạnh tổng hợp, giành thắng lợi từng b-
ớc tiến tới thắng lợi hoàn toàn của quá trình đấu tranh cách mạng. Đờng lối
cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã xác
định rõ mục tiêu, biện pháp thực hiện, những hình thức và bớc đi thích hợp. Đ-
ờng lối của Đảng đã khẳng định những vấn đề có tính nguyên tắc về con đờng
và mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội, những vấn đề cần đổi mới trong nhận
thức và hành động. Đổi mới chủ yếu là trong giải pháp, hình thức và bớc đi

18
thích hợp để thực hiện mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội đạt hiệu quả cao,
chính vì vậy đờng lối chính trị đúng đắn là nhân tố đầu tiên bảo đảm cho sự
lãnh đạo của Đảng, sai lầm về đờng lối có thể dẫn tới sự tổn thất, làm chệch h-
ớng hoặc làm chậm lại sự phát triển của đất nớc, dẫn đến nguy cơ đánh mất
vai trò lãnh đạo của Đảng. Thực tiễn cách mạng nhiều nớc đã minh chứng
điều đó.
Phơng thức lãnh đạo của Đảng đợc xác định khi Đảng và nhà nớc Xô
viết chuyển trọng tâm vào lãnh đạo xây dựng kinh tế, Lênin nói: "Khi tình
hình thay đổi và chúng ta phải giải quyết nhng nhiệm vụ thuộc loại khác thì
không nên nhìn đằng sau và sử dụng những phơng pháp của ngày hôm qua"
[26, tr.248].
Hồ Chí Minh cũng đa ra thuật ngữ "phơng thức" trong cuốn "Đờng cách
mệnh" và đợc nhắc lại trong cuốn "Sửa đổi lề lối làm việc". Ngời đề nghị phải
xây dựng, cải tiến "cách lãnh đạo" của Đảng. Ngời chỉ rõ:
1. Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng.
2. Phải tổ chức sự thi hành cho đúng.
3. Phải tổ chức sự kiểm soát, mà muốn kiểm soát đúng thì cũng
phải có quần chúng giúp mới đợc [48, tr.285].
Theo Hồ Chi Minh thì: chẳng những phải lãnh đạo quần chúng, mà lại
phải học hỏi quần chúng v.v., đa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm
cách giải quyết. Phải đa chính trị vào giữa dân gian. Trớc kia, việc gì cũng từ
trên dội xuống. Từ nay việc gì cũng phải từ dới nhoi lên" [48, tr.298].
Tiếp cận t tởng đó, thuật ngữ phơng thức đợc Đảng ta sử dụng trong
Nghị quyết Hội nghị cán bộ miền Bắc Đông Dơng, ngày 25/5/1948. Từ Hội
nghị Trung ơng sáu, khoá VI tháng 3 năm 1989, và cho đến nay khái niệm ph-
ơng thức đợc hiểu một cách đầy đủ là: "phơng thức là biện pháp và hình thức
tiến hành" [73, tr.766]. Phơng thức lãnh đạo là hệ thống các hình thức, biện
pháp, cách thức mà chủ thể lãnh đạo vận dụng để tác động vào đối tợng lãnh
đạo nhằm đạt đợc mục tiêu, yêu cầu lãnh đạo trong từng giai đoạn cách mạng.

Phơng thức lãnh đạo của Đảng là hệ thống các phơng pháp, cách thức
Đảng vận dụng để tác động vào hệ thống chính trị - xã hội nhằm đạt đợc mục
tiêu, nội dung lãnh đạo của Đảng; là công nghệ lãnh đạo của Đảng trong việc
thực hiện thắng lợi những nội dung lãnh đạo. Phơng thức lãnh đạo phụ thuộc
là bị chi phối bởi nội dung lãnh đạo của Đảng vì do sự tác động của điều kiện,
hoàn cảnh, hệ thống tổ chức, cơ chế vận hành và năng lực phẩm chất, thực tiễn
19
của đội ngũ đảng viên cán bộ. Phơng thức lãnh đạo có vai trò quan trọng quyết
định sự thành bại của cách mạng. Kinh nghiệm cho thấy, phong trào cách
mạng có dẫm chân tại chỗ, thậm chí thất bại nữa, không phải vì thiếu phơng h-
ớng và mục tiêu rõ ràng, mà chủ yếu là thiếu phơng pháp cách mạng thích
hợp" [16, tr.32].
Nhân tố về phơng thức lãnh đạo của Đảng có ảnh hởng lớn đến quá
trình lãnh đạo của Đảng, chính vì thế đổi mới phơng thức lãnh đạo của Đảng
là nội dung mà trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng luôn đợc nhấn mạnh
và tập trung chỉ đạo thực hiện. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X
Đảng ta khẳng định: "Việc đổi mới phơng thức lãnh đạo của Đảng phải đồng
bộ với đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị, đổi mới kinh tế;
thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức, sinh hoạt và hoạt
động của Đảng. Tập trung đổi mới phơng thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nớc" [22, tr.137].
Hạn chế lớn nhất hiện nay trong phơng thức lãnh đạo của tổ chức cơ sở
đảng là cha phát huy đợc vai trò lãnh đạo của mình, chậm cụ thể hoá việc xây
dựng các quy định, quy chế lãnh đạo, chậm đổi mới điều hành, lẫn lộn giữa
công tác chuyên môn với công tác lãnh đạo của Đảng. Tác hại lớn nhất của
vấn đề này là đờng lối, chủ trơng, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nớc
không đi vào cuộc sống, vai trò lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng có nơi bị
chính quyền lấn át, có nơi tổ chức Đảng lại lấn sân chính quyền, xẩy ra bao
biện làm thay, dẫn đến cải cách hành chính hiệu quả thấp, hiệu quả lãnh đạo
quản lý của đảng trên một số lĩnh vực kết quả hạn chế. Chất lợng tổ chức cơ

sở đảng, chất lợng đảng viên đánh giá cha đúng với thực chất, thẩm chí cá biệt
có tổ chức cơ sở đảng tồn tại hình thức, đánh mất vai trò lãnh đạo.
Năm là, nhân tố về bản lĩnh chính trị
Lịch sử cách mạng Việt Nam là lịch sử của một quá trình đấu tranh gay
go, quyết liệt và có những thời điểm phải đứng trớc những thử thách, nhng nhờ
có bản lĩnh chính trị nên con thuyền cách mạng Việt Nam luôn đợc cập bến
vinh quang. Bản lĩnh chính trị thể hiện trớc hết là là sự kiên định con đờng
cách mạng, kiên trì thực hiện mục tiêu Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
không bi quan giao động trớc những khó khăn, thử thách, giữ vững niềm tin,
lý tởng cách mạng và con đờng xã hội chủ nghĩa dới sự lãnh đạo của Đảng.
Bản lĩnh chính trị vững vàng còn thể hiện ở sự thẳng thắn thừa nhận những sai
lầm, khuyết điểm và quyết tâm sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm đó. Bản
20
lĩnh chính trị còn thể hiện ở tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình, đấu
tranh để bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, t tởng Hồ Chí Minh, phê phán và bác
bỏ những quan điểm sai trái, thù địch. Nh vậy, bản lĩnh chính trị là nhân tố góp
phần bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng nói chung và của tổ chức cơ sở đảng nói
riêng, vì vậy mà nâng cao bản lĩnh chính trị là một nội dung đợc Đảng ta quan
tâm chú trọng, việc đó đợc cụ thể hoá trong đờng lối nghị quyết của các kỳ đại
hội cũng nh nhiều văn bản chỉ thị, hớng dẫn của Đảng. Văn kiện đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ X Đảng ta nhấn mạnh:
Nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ trí tuệ của Đảng. Kiên
định chủ nghĩa Mác- Lênin, t tởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin, t tởng Hồ Chí Minh trong hoạt động của Đảng.
Thờng xuyên tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển lý luận, giải
quyết đúng đắn những vấn đề do cuộc sống đặt ra [22, tr.131].
Nhận thức đợc vai trò quan trọng của nhân tố bản lĩnh chính trị của
Đảng, vì thế thời gian qua các tổ chức cơ sở đảng đã phát huy đợc trí tuệ của
đội ngũ đảng viên trong tham gia xây dựng các đờng lối, chủ trơng của Đảng,

chính sách pháp luật của Nhà nớc, đặc biệt là tham gia xây dựng chơng trình
hành động thực hiện Nghị quyết, kết luận của Ban Chấp hành Trung ơng khoá
IX. Đổi mới việc nghiên cứu, học tập các nghị quyết của Đảng, việc tuyên
truyền giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, t tởng Hồ Chí Minh, làm cho
chủ trơng của Tỉnh, của Trung ơng đợc cụ thể hoá, có sức sống gắn với thực
tiễn, các tổ chức cơ sở đảng đã tổng kết Nghị quyết Trung ơng năm (khoá
VIII) về "giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc"; sơ kết 3 năm thực hiện
Nghị quyết Trung ơng năm (khoá IX) về công tác t tởng lý luận.
Để phát huy vai trò của nhân tố bản lĩnh chính trị trong cán bộ, đảng
viên, các tổ chức cơ sở đảng đã triển khai thực hiện tốt Quy định số 54 -
QĐ/TW của Bộ Chính trị; Hớng dẫn số 09 - HD/ TTVH ngày 17 tháng 3 năm
2004 của Ban t tởng Văn hoá, Quy định số 05 của Thờng vụ Tỉnh uỷ về "chế
độ học tập lý luận trong Đảng và chơng trình thực hiện Nghị quyết Trung ơng
năm (khoá IX) về công tác t tởng lý luận trong tình hình mới. Triển khai học
tập về t tởng Hồ Chí Minh theo tinh thần Chỉ thị số 23 - CT/TW ngày 27 tháng
3 năm 2003 của Ban Bí th Trung ơng.
21
Nhợc điểm lớn nhất hiện nay trong phát huy nhân tố xây dựng bản lĩnh
chính trị của Đảng đó là việc triển khai học tập các nghị quyết của Đảng cha
nghiêm và còn thiếu giải pháp cụ thể, cá biệt còn cơ sở rút ngắn thời gian,
triển khai chiếu lệ, thiếu chơng trình hành động. Một số cơ sở giảng viên hạn
chế về năng lực truyền đạt làm giảm hiệu quả tiếp thu. Việc giáo dục chính trị,
t tởng còn thiếu giải pháp sắc bén dẫn đến một bộ phận cán bộ, đảng viên bị
tác động của mặt trái kinh tế thị trờng nên mơ hồ trớc những âm mu thủ đoạn
của các thế lực thù địch, thiếu lòng tin vào Đảng, vào đờng lối của sự nghiệp
đổi mới, quay đầu kích động, tham gia, tiếp tay cho các thế lực thù địch chống
phá sự nghiệp cách mạng của Đảng. Nếu không kiềm chế đợc những nhân tố
gây tác động xấu đến bản lĩnh chính trị thì trong mỗi tổ chức cơ sở đảng, trong
mỗi cán bộ, đảng viên, đều luôn luôn tiềm ẩn những yếu tố khó lờng, làm ảnh
hởng đến vai trò lãnh đạo của đảng.

Bảo đảm nhân tố bản lĩnh chính trị sẽ làm cho tổ chức cơ sở đảng phát
huy tốt vai trò lãnh đạo của mình, mọi cá nhân đảng viên có nhận thức đúng
và có lập trờng t tởng vững vàng, tin tởng tuyệt đối vào đờng lối chủ trơng
chính sách của Đảng, không lay động, không hoang mang, do đó họ vui vẻ
chựu đựng mọi gian khổ, bền bỉ làm mọi công tác nặng nề, hết lòng, hết sức
phục vụ nhân dân, anh dũng huy sinh cho Tổ quốc, hết lòng phục vụ sự nghiệp
đổi mới đất nớc. Chăm lo xây dựng tổ chức cơ sở đảng và rèn luyện t cách
đảng viên.
Sáu là, nhân tố về phát huy vai trò hệ thống chính trị và điều kiện cần
thiết bảo đảm vai trò lãnh đạo của của tổ chức cơ sở đảng.
Hệ thống chính trị bao gồm Đảng, Chính quyền, Mặt trận tổ quốc Việt
Nam và các đoàn thể chính trị xã hội. Vai trò lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng
trong Đảng bộ Khối cơ quan Dân Chính Đảng Quảng Bình đối với hệ thống
chính trị cơ sở chỉ trong phạm vi Chính quyền, Công đoàn, Đoàn Thanh niên
và Hội Cựu chiến binh. Điểm khác với tổ chức cơ sở đảng cấp xã là không có
tổ chức Dân vận, Mặt trận, Hội nông dân. Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo của
mình thông qua đờng lối, chính sách, thông qua công tác tổ chức cán bộ,
thông qua công tác kiểm tra và tính tiên phong, gơng mẫu của Đảng viên. Mối
quan hệ và điều kiện cần thiết là nhân tố góp phần bảo đảm vai trò lãnh đạo
của tổ chức cơ sở đảng. Đảng muốn phát huy vai trò là hạt nhân lãnh đạo
chính trị thì trớc hết phải tạo đợc mối quan hệ cần thiết và điều kiện cần thiết
22
làm chổ dựa vững chắc và tạo nên sức mạnh tổng hợp để phát huy vai trò lãnh
đạo của chính tổ chức mình. Trong lãnh đạo điều hành tổ chức cơ sở đảng sẽ
không phát huy vai trò lãnh đạo của mình nếu thiếu đi sự phối hợp và điều
kiện cần thiết cho hoạt động của tổ chức đảng.
Vấn đề đặt ra hiện nay của tổ chức cơ sở đảng trong việc lãnh đạo các
đoàn thể chính trị xã hội là, cơ chế phối hợp còn nhiều chồng chéo, trùng lắp,
chức năng, nhiệm vụ của các thành viên trong hệ thống chính trị có lúc thiếu
rõ ràng, còn hiện tợng nhận thức thì tốt nhng thực tế làm còn mang tính thời

vụ, có những hoạt động còn mang tính hình thức.
Khó khăn trong điều kiện hoạt động hiện nay là kinh phí của tổ chức
đảng cơ sở quá hạn hẹp, không đủ để chi phí. Các khoản chi phí phần lớn xin
chuyên môn, phụ thuộc vào chuyên môn, mà trực tiếp là giám đốc hay thủ tr-
ởng cơ quan. Trong lúc đó các chức danh đều là kiêm nhiệm, không có phụ
cấp, điều kiện thời gian lại bị động, cơ sở đảng phải phụ thuộc vào sự sắp xếp
của chuyên môn nên lãnh đạo, điều hành và thực thi quyền lực lãnh đạo của
mình bị động. Đây là điểm yếu nhất hiện nay cần khắc phục trong việc lãnh
đạo của tổ chức cơ sở đảng đối với hệ thống chính trị cơ sở.
23
Chơng 2
Tổ chức cơ sở đảng và những nhân tố ảnh hởng
đến sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng trong Đảng
bộ khối cơ quan dân Chính Đảng ở Quảng Bình hiện nay
2.1. Tổ chức cơ sở đảng trong đảng bộ khối cơ quan dân
chính đảng quảng bình hiện nay
2.1.1. Khái quát về quảng bình và đảng bộ tỉnh quảng bình hiện nay
2.1.1.1. Khái quát về Quảng Bình
Quảng Bình là một tỉnh thuộc miền Trung, có vị trí quan trọng về địa
chính trị, địa kinh tế, địa quân sự và địa văn hoá. Toàn tỉnh có 07 huyện, thành
phố, 159 xã, phờng, thị trấn; Dân số 845.433 ngời; tổng diện tích 8.037,6 km
2
,
phía Bắc giáp Hà Tĩnh, phía Nam giáp Quảng Trị, phía Tây giáp nớc Cộng hoà
Dân chủ nhân dân Lào, phía Đông giáp Biển Đông.
Về kinh tế, Quảng Bình là một tỉnh kinh tế thuần nông với 90% dân số
nông nghiệp, điều kiện sản xuất gặp nhiều khó khăn. Trong sự nghiệp đổi mới,
nhờ sự năng động, sáng tạo, phát huy đợc nội lực, tranh thủ đợc nguồn lực từ
bên ngoài, tận dụng đợc tài nguyên đất đai, sức lao động, chuyển dịch đợc cơ
cấu sản xuất, kinh doanh, xoá đói, giảm nghèo v.v., làm cho nền kinh tế hàng

năm tăng trởng khá, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hớng, chất lợng, hiệu
quả từng bớc đợc nâng lên. Tốc độ tăng trởng GDP năm sau cao hơn năm trớc,
bình quân hàng năm tăng 8,8% [66, tr15-16]. Hoạt động tài chính - tín dụng có
bớc tiến bộ; đầu t phát triển có nhiều cố gắng; cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội đợc
cải thiện đáng kể; kinh tế nhiều thành phần đang từng bớc phát triển; công tác
quản lý tài nguyên, môi trờng đợc tăng cờng.
Quốc phòng - an ninh ngày càng đợc cũng cố vững chắc, góp phần đắc
lực phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội; công tác đối ngoại từng bớc
đợc tăng cờng.
Về văn hoá -xã hộ, Quảng Bình từng bớc có sự chuyển biến tiến bộ. giáo
dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, y tế, thể dục - thể thao có sự chuyển biến
tích cực; đời sống văn hoá tinh thần đợc nâng lên; xoá đói, giảm nghèo, giải
quyết việc làm và thực hiện các chính sách xã hội đạt kết quả khá [66, tr.21-23].
Vai trò lãnh đạo của Đảng đợc nâng cao, củng cố và phát huy đợc sức
mạnh toàn dân tộc, không khí dân chủ và sự đồng thuận xã hội ngày càng cao,
phong trào thi đua, yêu nớc đã mang lại hiệu quả to lớn trong việc thực hiện
24
quyết tâm đa tỉnh thoát nghèo theo tinh thần nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh
lần thứ XIV đề ra [66. tr.27- 30].
Trong quá trình phát triển lịch sử văn hoá dân tộc, Quảng Bình còn đợc coi
là vùng đất "địa linh nhân kiệt". Trớc hết là sự sinh động của môi trờng địa lý,
nhân văn, vẻ đẹp của hình sông, thế núi, cảnh vật và thiên nhiên đã tạo hoá cho
mảnh đất này. Quảng Bình có nhiều cảnh quan đặc biệt: Động Phong Nha, Đèo
Ngang, Sông Loan, Núi Phợng, Cửa biển Nhật Lệ, Núi Thần Đinh v.v
Quảng Bình ở vào vị thế bản lề của đất nớc, là nơi hội tụ, giao thoa của
các nền văn hoá lớn, tạo nên sự đa dạng độc đáo. Vùng đất này cũng có bề
dày văn hiến, trải qua hàng nghìn năm lịch sử, các thế hệ con ngời ở đây đã
tạo nên truyền thống văn hoá lâu đời, thông minh, hiếu học, là nơi xuất hiện
nhiều tuấn kiệt, danh nhân nh: Dơng Văn An, Nguyễn Hữu Cảnh, Nguyễn
Hàm Ninh, Phạm Tuân, Lê Trực, Võ Nguyên Giáp.v.v

Tuy vậy, Quảng Bình vẫn là một tỉnh nghèo. Tốc độ tăng trởng kinh tế
cha tơng xứng với tiềm năng thế mạnh, chất lợng phát triển còn thấp, năng
suất, chất lợng, hiệu quả và sức cạnh tranh yếu; cơ cấu kinh tế chuyển dịch
chậm. Đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, các nhu cầu về xoá đói,
giảm nghèo, giải quyết việc làm, hạ thấp tỷ lệ trẻ em suy dinh dỡng đang là
những thách thức rất gay gắt; trình độ khoa học - công nghệ, chất lợng giáo
dục - đào tạo, điều kiện y tế, đời sống văn hoá của nhân dân còn nhiều hạn
chế, kỷ cơng, kỷ luật cha nghiêm, tệ nạn xã hội, tai nạn giao thông và tệ quan
liêu tham nhũng, tiêu cực lãng phí cha đợc ngăn chặn có hiệu quả.
2.1.1.2. Khái quát về Đảng bộ Quảng Bình
Năm 1930, chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên đợc ra đời và sau đó một loạt
tổ chức cơ sở đảng ở Quảng Bình cũng đợc thành lập và từ đó cho đến nay tổ
chức Đảng các cấp tiếp tục đợc cũng cố và từng bớc nâng cao chất lợng hoạt
động. Bộ máy cấp ủy đợc từng bớc sắp xếp, kiện toàn chất lợng ngày càng cao
thông qua các nhiệm kỳ đại hội. Đảng bộ đã chú trong công tác xây dựng
đảng bộ, chi bộ, gắn với xây dựng hệ thống chính trị cơ sở, tạo chuyển biến
tích cực, phát huy tốt vai trò lãnh đạo của Đảng. Toàn tỉnh hiện có 559 tổ chức
cơ sở đảng; có 13 đảng bộ huyện, thành phố và đảng bộ trực thuộc Tỉnh ủy.
Đội ngũ đảng viên phát triển nhanh về số lợng, chất lợng ngày càng cao; công
tác bảo vệ chính trị nội bộ, quản lý đảng viên đợc tăng cờng. Tổng số đảng
viên trong toàn Đảng bộ hiện có 50.331 đồng chí, chỉ tính trong năm năm
(2000- 2005) đã kết nạp đợc 10.658 đảng viên, tỉ lệ tăng bình quân mỗi năm là
25

×