Tội chống người thi hành công vụ trong Luật hình sự Việt Nam
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay tội phạm chống người thi hành công vụ gia tăng với nhiều tính
chất, mức độ, nhiều loại công cụ phương tiện khác nhau. Đe dọa đến tính mạng,
sức khỏe của người thi hành công vụ. Bộ luật Hình sự (BLHS) Việt Nam hiện hành
đã thể hiện thái độ thông qua việc quy định hành vi chống người thi hành công vụ
là tội phạm, tuy nhiên tùy vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi, phụ
thuộc vào các khách thể bị xâm hại cũng như động cơ, mục đích của người phạm
tội, nhà làm luật đã xây dựng các điều luật, các khoản khác nhau đối với những
hành vi có dấu hiệu "chống người thi hành công vụ". Pháp luật hình sự hiện hành
quy định về xử lý đối với tội phạm này đã khá chặt chẽ, tuy nhiên vẫn còn tồn tại
một số bất cập, hạn chế như hình phạt còn nhẹ chưa đủ sức răn đe, quy định xử lý
còn bỏ lọt tội phạm, văn bản hướng dẫn không còn phù hợp… Vì vậy, nghiên cứu
những vấn đề lý luận và thực tiễn về hành vi chống người thi hành công vụ trong
Luật hình sự Việt Nam là thật sự cần thiết. Thông qua việc nghiên cứu này có thể
tìm ra hướng hoàn thiện những quy định của pháp luật hình sự trong việc góp phần
nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm chống người thi hành
công vụ và tiến tới hạn chế, đẩy lùi loại tội phạm này có hiệu quả. Do đó người viết
đã chọn đề tài “Tội chống người thi hành công vụ trong luật hình sự Việt Nam ”
làm đề tài nghiên cứu của mình .
2.Phạm vi, mục tiêu nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu tập trung làm rõ cơ sở lý luận của tội chống người thi
hành công vụ, tìm hiểu tình hình tội phạm hiện nay, làm rõ nguyên nhân của tội
phạm và từ đó đề xuất một số giải pháp đấu tranh, phòng chống với tội phạm này
1
Tội chống người thi hành công vụ trong Luật hình sự Việt Nam
Như đã trình bày ở trên, tội phạm chống người thi hành công vụ ngày
càng tăng với tính chất, mức độ ngày càng nghiêm trọng. Vì vậy, người viết
nghiên cứu về tội phạm này nhằm tìm ra những nguyên nhân dẫn đến tội phạm. Từ
đó đề xuất một số giải pháp góp phần cho công tác đấu tranh, ngăn ngừa với loại
tội phạm này có hiệu quả
3.Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu người viết nhận thấy rằng có không ít tác
giả đã nghiên cứu, bình luận về tội phạm chống người thi hành công vụ như:
Đinh Văn Quế, Phạm Văn Beo, … Tham khảo những ý kiến phân tích, bình
luận của các công trình nghiên cứu này, các sách, báo, tạp chí chuyên ngành
và các tài liệu có liên quan cùng với sự hiểu biết của bản thân để đi sâu phân
tích, tìm hiểu tội phạm này.
Kết hợp phương pháp phân tích luật viết, dựa vào khả năng tư duy của
bản thân và dựa trên những quy định của pháp luật nhằm phân tích, làm rõ bản
chất của tội phạm.
Phân tích, so sánh quan điểm của một số nhà nghiên cứu để tìm ra quan
điểm mà người viết đồng tình nhất và nêu lên một số quan điểm của bản thân
nhận xét, đánh giá về tội phạm này.
Nghiên cứu tình hình thực tế của tội phạm để tìm ra nguyên nhân, từ đó
đề xuất một số giải pháp trong đấu tranh, phòng chống góp phần ngăn chặn và
đẩy lùi tội phạm này.
4. Kết cấu đề tài
Nội dung hai chương của đề tài bao gồm:
Chương 1: Lý luận chung và cơ sở pháp lý của tội chống người thi hành công
vụ Chương 2: Tình hình, nguyên nhân và một số giải pháp đấu tranh, phòng
chống tội phạm chống người thi hành công vụ
Vì thời gian nghiên cứu có hạn, việc tìm kiếm tài liệu còn hạn chế, đây
cũng là lần đầu tiên người viết nghiên cứu một đề tài mang tính khoa học. Do
đó, cũng không tránh khỏi những thiếu sót khi phân tích, tổng hợp, đánh giá các
2
Tội chống người thi hành công vụ trong Luật hình sự Việt Nam
vấn đề như các quy định của luật hay tình hình, nguyên nhân của tội phạm
chống người thi hành công vụ. Người viết mong nhận được ý kiến đánh giá,
nhận xét từ phía quý Thầy, Cô để bài viết được hoàn thiện hơn, có khả năng áp
dụng vào thực tế, góp phần hạn chế cũng như đấu tranh, phòng chống tội phạm
nói chung và tội phạm chống người thi hành công vụ nói riêng một cách có hiệu
quả.
3
Tội chống người thi hành công vụ trong Luật hình sự Việt Nam
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT
NAM CỦA TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ
1.1 Lý luận chung tội về chống người thi hành công vụ
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của tội chống người thi hành hành công vụ
Trong Bộ luật Hình sự đầu tiên của nước ta BLHS 1985, tội chống người
thi hành công vụ được quy định tại Chương VIII: Các tội xâm phạm an toàn, trật
tự công cộng và trật tự quản lý hành chính, mục C, Điều 205 như sau: “Người
nào dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực chống người thi hành công vụ cũng
như dùng mọi thủ đoạn cưỡng ép họ thực hiện những hành vi trái pháp luật, nếu
không thuộc trường hợp quy định ở Điều 101 và Điều 109…”
Trên cơ sở kế thừa tư tưởng của BLHS 1985, BLHS 1999 đã quy định tội
chống người thi hành công vụ tại Điều 257, Chương XX: Các tội xâm phạm trật
tự quản lý hành chính. BLHS 1999 quy định nhóm các tội xâm phạm trật tự quản
lý hành chính thành một chương riêng là sửa đổi mang tính tích cực so với BLHS
1985. Việc quy định như vậy đã cụ thể hơn, rõ ràng hơn, thể hiện đầy đủ tính
chất nguy hiểm của các loại tội phạm này, từ đó đề ra đường lối xử lý phù hợp
hơn, tương ứng với tính chất của từng loại tội phạm cụ thể.
Khoản 1 Điều 257 BLHS 1999 quy định: “Người nào dùng vũ lực, đe dọa
dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở người thi hành công vụ thực hiện
công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật, thì bị phạt cải
tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”.Qua đó,
có thể hiểu tội chống người thi hành công vụ là hành vi dùng vũ lực,đe dọa dùng
vũ lực hoặc dùng các thủ đoạn khác nhằm cản trở người thi hành công vụ
thực hiện công vụ của họ cũng như ép buộc họ phải thực hiện hành vi trái pháp
luật, gây trở ngại đến hoạt động quản lý hành chính của các cơ quan nhà nước.
GVHD Nguyễn Văn Tròn
Page 4
SVTH Phan Thiết Kế
Tội chống người thi hành công vụ trong Luật hình sự Việt Nam
Người thi hành công vụ là người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan nhà
nước hoặc tổ chức xã hội thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình và cũng có
thể là những công dân được huy động làm nhiệm vụ (như: tuần tra, canh gác...)
theo kế hoạch của cơ quan có thẩm quyền, phục vụ lợi ích chung của nhà nước,
của xã hội. Và theo Luật Trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2009 thì:
“Người thi hành công vụ là người được bầu cử, phê chuẩn, tuyển dụng hoặc bổ
nhiệm vào một vị trí trong cơ quan nhà nước để thực hiện nhiệm vụ quản lý hành
chính, tố tụng, thi hành án hoặc người khác được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền giao thực hiện nhiệm vụ có liên quan đến hoạt động quản lý hành chính,
tố tụng, thi hành án”.Như vậy, để xác định là người thi hành công vụ cần thỏa
mãn hai yếu tố:
- Một là, về chủ thể, người thi hành công vụ phải là cán bộ, công chức,
viên chức của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ
chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội hoặc cũng có thể là một
công dân bất kỳ được cơ quan nhà nước có thẩm quyền huy động, yêu cầu thực
hiện nhiệm vụ.
- Hai là, về phạm vi nhiệm vụ thực hiện, chỉ có thể được coi là thi hành
công vụ khi công việc mà họ làm phải là thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của
các cơ quan nhà nước, các tổ chức nhằm phục vụ lợi ích chung của nhà nước, của
xã hội. Như vậy, thi hành công vụ tức là làm nhiệm vụ công, nghĩa là vì lợi ích
chung của nhà nước, của xã hội. Ví dụ như Cảnh sát giao thông đang làm nhiệm
vụ điều tiết giao thông, kiểm lâm đang tuần tra bảo vệ rừng
Tóm lại, chống người thi hành công vụ là hành vi dùng vũ lực, đe dọa
dùng vũ lực hoặc các thủ đoạn khác nhằm cản trở người thi hành công vụ thực
hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật.1Khi xã
1
Nguyễn Ngọc Hòa, Lê Thị Sơn “ Từ điển pháp lý hình sự NXB Tư pháp năm 2003
GVHD Nguyễn Văn Tròn
Page 5
SVTH Phan Thiết Kế
Tội chống người thi hành công vụ trong Luật hình sự Việt Nam
hội phát triển đến một mức độ nào đó, các quan hệ xã hội ngày một phức tạp, thì
tất yếu sẽ có những hành vi chống người thi hành công vụ của những người
muốn lựa chọn cách thức thỏa mãn nhu cầu trái với lợi ích của toàn xã hội. Qua
nghiên cứu, hành vi chống người thi hành công vụ tuy đa dạng nhưng đều có
những đặc điểm như sau:
Thứ nhất, đó là hành vi nguy hiểm cho xã hội, hành vi lệch chuẩn vì chủ thể
của hành vi đã thực hiện điều nhà nước, pháp luật ngăn cấm.
Thứ hai, hành vi chống người thi hành công vụ xâm hại tới nhiều quan hệ xã
hội được nhà nước, pháp luật bảo vệ.
Thứ ba, hành vi chống người thi hành công vụ được thực hiện với lỗi cố ý và
với những động cơ, mục đích khác nhau.
Thứ tư, các hình thức của hành vi chống người thi hành công vụ rất đa dạng,
tất cả những động cơ, mục đích trên đều được thể hiện thông qua những hành vi
sau: Chống đối; cản trở; uy hiếp và đe dọa.
Thứ năm, chủ thể của hành vi chống người thi hành công vụ là bất kì ai mà
quyền lợi của họ bị hạn chế bởi người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ,
hoặc họ là người đang bảo vệ một lợi ích bất hợp pháp tránh khỏi sự can thiệp
của những người thực thi công vụ.
1.1.2 Nguyên nhân và điều kiện phạm tội chống người thi hành công vụ
Đối tượng chống người thi hành công vụ rất đa dạng, từ số đối tượng phạm
tội nguy hiểm, có tiền án, tiền sự, côn đồ, càn quấy đến đối tượng phạm tội lần
đầu, thanh thiếu niên mới lớn. Các vụ chống đối người thi hành công vụ không
chỉ xảy ra ở các thành phố lớn mà còn diễn biến phức tạp ở nhiều địa phương
khác trên toàn quốc, trong đó có cả vùng thôn quê, vùng sâu, vùng xa, nhức nhối
nhất là tại các địa phương đang đô thị hóa, xảy ra tranh chấp đất đai hoặc giải
phóng mặt bằng phục vụ triển khai các dự án lớn.
GVHD Nguyễn Văn Tròn
Page 6
SVTH Phan Thiết Kế
Tội chống người thi hành công vụ trong Luật hình sự Việt Nam
Những tội phạm chống người thi hành công vụ có xu hướng gia tăng mạnh,
xâm hại đến nhiều khách thể khác nhau, nhưng nhìn chung đều ảnh hướng trực
tiếp đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của bản thân người thi hành
công vụ, có những tội phạm còn gây hại đối với người thân của người thi hành
công vụ để gây sức ép, hoặc để trả thù người thi hành công vụ. Những hành vi
như vậy được thực hiện do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, chủ yếu
bởi những nguyên nhân sau
Do đặc thù của hoạt động thi hành pháp luật, những người thi hành công vụ
thường xuyên phải đối mặt với các loại tội phạm, các vấn đề bức xúc của xã hội có
liên quan đến quyền và lợi ích của các tầng lớp, các bộ phận dân cư
Các chế tài quy định trong Bộ luật Hình sự nằm trong các điều luật có dấu
hiệu chống người thi hành công vụ còn chưa thực sự nghiêm khắc, nhiều quy định
liên quan đến hoạt động của lực lượng thi hành công vụ còn chưa kịp thời được bổ
sung, sửa đổi phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ.
Nguyên nhân cuối cùng là về phía bản thân người thi hành công vụ, đôi khi
lực lượng thi hành công vụ khi thực thi nhiệm vụ có thái độ ứng xử chưa đúng
mực, khả năng thuyết phục quần chúng và các đối tượng khác không cao hoặc có
biểu hiện cửa quyền, hách dịch, gây ức chế cho người dân, dẫn đến một số vụ
chống người thi hành công vụ
1.1.3 Lịch sử hình thành và phát triển tội chống người thì hành công vụ
trong luật hình sự Việt Nam
Trong bất cứ thời kỳ nào, hành vi chống người thi hành công vụ cũng diễn
ra, bởi sẽ có những người vì bảo vệ lợi ích riêng của mình mà đi ngược lại với
lợi ích của toàn xã hội. Trong giai đoạn này, không có một văn bản nào quy
định về một tội phạm riêng, cụ thể cho hành vi chống người thi hành công vụ,
mà đều nằm rải rác trong các văn bản quy định về một nhóm tội nào đó. Hành
GVHD Nguyễn Văn Tròn
Page 7
SVTH Phan Thiết Kế
Tội chống người thi hành công vụ trong Luật hình sự Việt Nam
vi chống người thi hành công vụ được thể hiện trong các quy định của các văn
bản như Sắc lệnh số 26-SL ngày 25/2/1946 trừng trị tội phá hoại công sản;
Sắc lệnh số 27-SL ngày 28/02/1946 trừng trị các tội bắt cóc, tống tiền và ám
sát; Sắc lệnh số 133-SL ngày 20/01/1953 trừng trị những tội xâm phạm an
ninh đối nội và an toàn đối ngoại của nhà nước; Sắc lệnh số 151-SL ngày
12/4/1953 trừng trị địa chủ chống pháp luật; Thông tư số 442-TTg ngày
19/01/1955 về tổng kết án lệ một số tội phạm thông thường…
Trong giai đoạn Bộ luật hình sự năm 1985, các điều luật trong phần các tội
phạm của BLHS 1985, đồng thời được cụ thể hóa trong Nghị quyết số 04/HĐTP
ngày 29/11/1986 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp
dụng một số quy định trong phần các tội phạm của Bộ luật Hình sự 1985. Điều
này đã chứng tỏ hơn nữa mức độ nguy hiểm của hành vi chống người thi hành
công vụ, sự nhức nhối về mặt xã hội của một bộ phận người dân coi thường kỷ
cương phép nước và thái độ của nhà làm luật thể hiện ở việc quy định những
hành vi này là Tội phạm, có những mức chế tài tương thích đối với từng loại tội
cụ thể.
Trong phần các tội phạm của BLHS 1985, dấu hiệu chống người thi hành
công vụ được quy định ở chương: Các tội xâm phạm an ninh quốc gia (mục A:
Các tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia); Các tội xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người; Các tội xâm phạm an toàn,
trật tự công cộng và trật tự quản lý hành chính (mục B: Các tội xâm phạm trật tự
công cộng; mục C: các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính). Tuy nhiên BLHS
1985 là lần pháp điển hóa đầu tiên các quy định của pháp luật hình sự, nên mức
độ mở rộng phạm vi điều chỉnh cụ thể của hành vi chống người thi hành công vụ
vẫn còn hạn chế
Sau nhiều năm xây dựng và phát triển, nước ta đã có những bước tiến
GVHD Nguyễn Văn Tròn
Page 8
SVTH Phan Thiết Kế
Tội chống người thi hành công vụ trong Luật hình sự Việt Nam
quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Do đó, để đáp ứng kịp thời với
tình hình thực tế của đất nước ngày 21/11/1999 Quốc hội nước ta đã thông qua
Bộ luật Hình sự mới thay thế cho BLHS 1985, Bộ luật Hình sự này gồm 24
chương với 344 điều. Trong đó, tội chống người thi hành công vụ được quy tại
Điều 257, Chương XX: Các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính với nội
dung như sau:
“1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác
cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực
hiện hành vi trái pháp luật, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc
phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
Xuất phát từ thực tiễn xét xử cho thấy, nhiều trường hợp người phạm tội
không dùng vũ lực, cũng không đe dọa dùng vũ lực đối với người thi hành công
vụ nhưng vẫn cản trở được việc thi hành công vụ của họ mà không bị xử lý vì
không được quy định trong Điều 205 BLHS 1985 nên khi ban hành Bộ luật Hình
sự năm 1999 các nhà làm luật đã quy định thêm hành vi “dùng thủ đoạn khác” ở
Điều 257 để xử lý các hành vi này. Đây là một quy định tiến bộ của Bộ luật Hình
sự năm 1999 so với BLHS 1985.
Như vậy so với Bộ luật hình sự năm 1985, BLHS hiện hành đã mở rộng
hơn phạm vi tác động và điều chỉnh đến những hành vi phạm tội đối với người
thi hành công vụ, đồng thời áp dụng những chế tài nghiêm khắc hơn, triệt để hơn
đã đánh dấu sự hoàn thiện của pháp luật trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người thi hành công vụ, trừng trị và răn đe, giáo dục kịp thời đến những
hành vi phạm tội. Đây cũng là những cơ sở pháp lý quan trọng và cần thiết phù
hợp với tình hình xã hội để cơ quan chức năng thực hiện nhiệm vụ của mình
trong thực tiễn xét xử khi những hành vi chống người thi hành công vụ đang xảy
ra ngày càng nhiều, các hành vi có sự đa dạng, phức tạp, nhiều thủ đoạn tinh vi
GVHD Nguyễn Văn Tròn
Page 9
SVTH Phan Thiết Kế
Tội chống người thi hành công vụ trong Luật hình sự Việt Nam
và các đối tượng thực hiện tội phạm ngày một trẻ hóa về độ tuổi
Năm 2009 Bộ luật hình sự 1999 đã được sửa đổi bổ sung, quy định nhiều
điểm mới . Tuy nhiên lại không có sửa đổi bổ sung điều luật tội chống người thi
hành người công vụ. Đến 2015 Bộ luật hình sự lại được sửa đổi bổ sung , đến lần
này, thì Quốc hội đã sửa đổi Điều 257 BLHS 1999 thành Điều 330 Tội chống
người thi hành công vụ theo luật hình sự 2015
1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở
người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành
vi trái pháp luật, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06
tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến
07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
c) Xúi giục, lôi kéo, kích động người khác phạm tội;
d) Gây thiệt hại về tài sản 50.000.000 đồng trở lên;
đ) Tái phạm nguy hiểm.
1.2 Quy định pháp luật về tội chống người thi hành công vụ trong luật
hình sự Việt Nam
1.2.1 Dấu hiệu pháp lý của tội chống người thi hành công vụ
Các tội phạm có dấu hiệu chống người thi hành công vụ tuy được quy định ở
những chương, những điều khác nhau, với những hành vi khách quan khác nhau
nhưng xét về mặt lý luận cấu thành tội phạm, các mặt khách quan, mặt chủ quan,
khách thể và chủ thể có những điểm chung nhất định.Việc đi vào cụ thể từng yếu tố
cấu thành tội phạm, qua đó làm sáng tỏ các dấu hiệu pháp lý hình sự và trách
nhiệm hình sự đối với từng tội phạm cụ thể để dễ dàng phân biệt tội phạm này đối
GVHD Nguyễn Văn Tròn
Page 10
SVTH Phan Thiết Kế
Tội chống người thi hành công vụ trong Luật hình sự Việt Nam
với tội phạm khác cũng như các trường hợp không phải là tội phạm là một việc hết
sức cần thiết. Các tội phạm có dấu hiệu "chống người thi hành công vụ" sẽ được
phân tích đánh giá qua bốn yếu tố: khách thể của tội phạm, mặt khách quan của tội
phạm, chủ thể của tội phạm và mặt chủ quan của tội phạm. Trong đó Tội chống
người thi hành công vụ (Điều 257 BLHS) là tội phạm điển hình và mang tính bản
chất nhất của hành vi chống người thi hành công vụ, được pháp luật Hình sự quy
định thành một tội phạm riêng, mang đặc điểm dấu hiệu cấu thành tội phạm cụ thể
1.2.1.1Khách thể của tội chống người thi hành công vụ
Khách thể của tội phạm này là xâm phạm đến các hoạt động của Nhà nước về
quản lý hành chính trong lĩnh vực thi hành nhiệm vụ mà trực tiếp đó là nhiệm vụ
của những người đang thi hành công vụ. Đối tượng cụ thể ở đây là người thi hành
công vụ, là người đã, đang bắt đầu thực hiện nhiệm vụ và nhiệm vụ chưa kết thúc.
Trường hợp người thi hành công vụ chưa bắt đầu thực hiện hoặc đã kết thúc
nhiệm vụ của mình mà bị xâm hại, sẽ không thuộc trường hợp được quy định
trong điều luật này mà sẽ bị xử lý theo các tội tương ứng. Người thi hành công vụ
đang thi hành nhiệm vụ của mình một cách hợp pháp, mọi cách thức, thủ tục thực
thi phải tuân thủ các bước đã được pháp luật quy định. Vì vậy, nếu người có hành
vi xâm phạm đến các đối tượng mà việc thực hiện công vụ của họ trái với quy
định hiện hành đó, cũng sẽ không thuộc trường hợp quy định của điều luật này.
Do vậy, nhóm các quan hệ xã hội bị hành vi chống người thi hành công vụ
xâm hại là các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực quản lý hành chính. Đó có thể là
các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình các cơ quan hành chính nhà nước
thực hiện hoạt động chấp hành, điều hành trên các lĩnh vực khác nhau của đời
sống xã hội như người tham gia giao thông với cảnh sát giao thông đang làm
nhiệm vụ, các hộ buôn bán với cán bộ quản lý thị trường đang làm công tác kiểm
tra hàng hóa theo quy định của pháp luật... hay các quan hệ phát sinh trong quá
GVHD Nguyễn Văn Tròn
Page 11
SVTH Phan Thiết Kế
Tội chống người thi hành công vụ trong Luật hình sự Việt Nam
trình các cá nhân và tổ chức được nhà nước trao quyền thực hiện hoạt động quản
lý hành chính nhà nước trong những trường hợp cụ thể do pháp luật quy định,
như quan hệ phát sinh trong lĩnh vực giữ gìn trật tự đường phố trên địa bàn các
xã, phường, thị trấn mà Nhà nước trao cho các đội quản lý trật tự, tổ dân phòng
quản lý.
Đối tượng tác động của tội phạm là người thi hành công vụ và thông qua đó
là tác động gián tiếp đến công vụ mà người thi hành công vụ đó phải thực hiện.
Trong thực tiễn, đối tượng tác động của tội phạm này thường là cán bộ thuế, cảnh
sát giao thông, đội viên dân phòng, cán bộ công an, kiểm sát, toà án, thi hành án và
các cán bộ chính quyền địa phương... đang thực hiện nhiệm vụ công.
1.2.1.2Chủ thể của tội chống người thi hành công vụ
Chủ thể của tội phạm này là chủ thể thường không phải là chủ thể đặc biệt,
chỉ cần hội đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật là có thể trở thành chủ
thể của tội phạm này. Các điều kiện đó là tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy
định tại Điều 12 BLHS và điều kiện về không thuộc trường hợp không có năng
lực chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 13 BLHS.
Tội chống người thi hành công vụ quy định tại Điều 257 BLHS có hai
khung hình phạt. Khung hình phạt thứ nhất cao nhất là ba năm tù (tội phạm ít
nghiêm trọng), khung hình phạt thứ hai cao nhất là bảy năm tù (tội phạm nghiêm
trọng). Như vậy, chủ thể của tội chống người thi hành công vụ là người từ đủ 16
tuổi trở lên có khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi và đã thực hiện
hành vi chống người thi hành công vụ quy định tại Điều 257 BLHS. Người dưới
16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này
Theo nguyên tắc lãnh thổ quy định tại Điều 5 BLHS: “Bộ luật Hình sự áp
dụng đối với mọi hành vi phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam”. Do vậy khi người phạm tội không là công dân Việt Nam nhưng đã
GVHD Nguyễn Văn Tròn
Page 12
SVTH Phan Thiết Kế
Tội chống người thi hành công vụ trong Luật hình sự Việt Nam
thực hiện hành vi chống người thi hành công vụ trên lãnh thổ Việt Nam thì phải
chịu trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam. Trong trường hợp
người nước ngoài phạm tội mà họ được hưởng các quyền miễn trừ tư pháp theo
luật quốc tế thì vấn đề trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết theo con
đường ngoại giao.
1.2.1.3Mặt khách quan của tội chống người thi hành công vụ
Mặt khách quan của tội phạm bao gồm những biểu hiện của tội phạm diễn
ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan. Thông qua những biểu hiện đó mà
con người có thể trực tiếp nhận biết được tội phạm.Tóm lại, các dạng hành vi
khách quan của tội chống người thi hành công vụ biểu hiện rất phức tạp trên
thực tế. Vì vậy, việc xem xét để đánh giá đúng mức độ của tội phạm để truy cứu
trách nhiệm hình sự hoặc áp dụng các biện pháp xử lý khác gặp rất nhiều khó
khăn. Tuy nhiên, có thể thấy rằng theo quy định tại khoản 1, Điều 257 BLHS thì
tội phạm được xem là hoàn thành kể từ khi người phạm tội đã thực hiện một
trong các hành vi kể trên2
Những biểu hiện đó là:
Hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Hậu quả nguy hiểm cho xã hội và mối quan hệ giữa hành vi và hậu quả.
Các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện hành vi phạm tội (Thời gian, địa
điểm… và công cụ, phương tiện, thủ đoạn…).Theo Điều 257 BLHS, hành vi chống
người thi hành công vụ được biểu hiện tập trung ở những dạng hành vi sau:
Hành vi dùng vũ lực chống người thi hành công vụ (Dùng vũ lực chống
người thi hành công vụ là hành vi dùng sức mạnh vật chất tấn công người đang thi
hành công vụ nhằm cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ. Hành
2
Nguyễn Hữu Minh: Về mặt khách quan của tội chống người thi hành công vụ trong Bộ luật
Hình sự 1999, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 24, 2005
GVHD Nguyễn Văn Tròn
Page 13
SVTH Phan Thiết Kế
Tội chống người thi hành công vụ trong Luật hình sự Việt Nam
vi dùng vũ lực có thể bằng chân, tay để đá, đấm, trói hoặc cũng có thể thông qua
công cụ, phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội như: gậy, dao, kiếm, thanh
sắt… làm cho người thi hành công vụ bị thương tổn đến sức khỏe nhưng chưa gây
thương tích hoặc thương tích không đáng kể (không có tỉ lệ thương tật).Còn nếu
hành vi dùng vũ lực đã gây ra thương tích cho người thi hành công vụ, mà có tỉ lệ
thương tật hoặc gây chết người thi hành công vụ, thì tùy theo trường hợp mà có thể
người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo Điều 104 BLHS hoặc tội giết người
theo Điều 93 BLHS với tình tiết là yếu tố định khung hình phạt “để cản trở người
thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân” hoặc “giết người đang thi
hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân”.
Vì vậy, tùy thuộc vào hậu quả xảy ra của hành vi chống người thi hành
công vụ mà hành vi này có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Người có hành vi
dùng vũ lực đối với người thi hành công vụ chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự
về tội chống người thi hành công vụ khi chưa gây ra thương tích (không có tỉ lệ
thương tật) hoặc thương tích không đáng kể hay chưa gây ra chết người.
Hành vi đe dọa dùng vũ lực chống lại người đang thi hành công vụ
Hành vi đe dọa dùng vũ lực chống lại người thi hành công vụ là việc dùng
cử chỉ, hoặc lời nói có tính đe dọa, uy hiếp khiến cho người thi hành công vụ sợ
hãi phải chấm dứt việc thi hành công vụ… sự đe dọa là thực tế và có cơ sở để
người thi hành công vụ tin rằng nếu không ngừng việc thực hiện công vụ sẽ bị
dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc sau đó một thời gian.
Ví dụ: Đoàn cưỡng chế thi hành án do A dẫn đầu đến nhà B để thực hiện
nhiệm vụ cưỡng chế. B và nhiều người trong gia đình cầm dao, gậy đứng trận ở
cửa, B nói “đứa nào vào thì biết tay tao”. Thấy thái độ hung hăng của B đoàn
cưỡng chế phải ra về. Trong ví dụ này hành vi đe dọa dùng vũ lực của B là có cơ
GVHD Nguyễn Văn Tròn
Page 14
SVTH Phan Thiết Kế
Tội chống người thi hành công vụ trong Luật hình sự Việt Nam
sở, để A và đoàn cưỡng chế tin rằng B và những người trong gia đình B sẽ dùng
vũ lực ngay tức khắc đối với A và những người trong đoàn cưỡng chế khi họ vào
nhà B để thi hành quyết định cưỡng chế, bởi những hung khí và thái độ hung
hăng của B.
Hành vi ép buộc người thi hành công vụ phải thực hiện hành vi trái pháp
luật
Ép buộc người thi hành công vụ phải thực hiện hành vi trái pháp luật là hành
vi khống chế người thi hành công vụ phải làm những việc trái với chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của họ (buộc phải trả lại tang vật vi phạm, hủy biên bản xử
phạt...) hoặc không làm những việc thuộc chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của họ
(để xe chở hàng lậu đi qua trạm gác, cửa khẩu… ). Nếu chỉ căn cứ vào tính chất
của hành vi ép buộc thì không có liên quan gì đến tội danh “chống người thi hành
công vụ”, bởi vì việc ép buộc người khác thực hiện một hành vi trái pháp luật
không phải là chống lại họ mà buộc họ phải làm một việc sai trái ngoài ý muốn
của họ. Ngay trong lĩnh vực này, cũng chỉ giới hạn ở hành vi ép buộc người đang
thi hành công vụ thực hiện hành vi trái pháp luật. Tuy nhiên, do tính chất của việc
bảo đảm việc thực hiện nhiệm vụ công và do hành vi ép buộc mà làm cho nhiệm
vụ không thực hiện được, do đó hành vi này vẫn được xem là hành vi chống
người thi hành công vụ. Trên thực tế, biểu hiện của hành vi ép buộc này thường là
sử dụng những thông tin có ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của
người thi hành công vụ như bí mật đời tư hoặc có thể là những hành vi vi phạm
pháp luật của người đang thi hành công vụ… nếu như người thi hành công vụ
không làm theo yêu cầu của người kia đưa ra nhằm giúp cho người đó thực hiện
hành vi trái pháp luật như: không thực hiện việc xử lý vi phạm, xử lý các hành vi
vi phạm ở mức độ thấp, không thực hiện nghĩa vụ mà người thi hành công vụ
phải thực hiện và có điều kiện để thực hiện, thì họ sẽ công khai những thông tin
GVHD Nguyễn Văn Tròn
Page 15
SVTH Phan Thiết Kế
Tội chống người thi hành công vụ trong Luật hình sự Việt Nam
gây ảnh hưởng xấu đến người thi hành công vụ
Dùng thủ đoạn khác cản trở người thi hành công vụ
Thực tiễn nhận thấy rằng thủ đoạn chống người thi hành công vụ hết sức
phức tạp, với rất nhiều thủ đoạn khác nhau. Vì vậy, một điều luật trong phạm vi
giới hạn của nó không thể liệt kê được đầy đủ tất cả thủ đoạn đó. Tuy nhiên, để
đảm bảo việc xử lý nghiêm minh mọi hành vi vi phạm pháp luật, đặc biệt là hành
vi phạm tội thì cần phải có quy định các hành vi này trong Bộ luật Hình sự và các
văn bản hướng dẫn thi hành. Xuất phát từ thực tiễn xét xử cho thấy, nhiều trường
hợp người phạm tội không dùng vũ lực, cũng không đe dọa dùng vũ lực đối với
người thi hành công vụ nhưng vẫn cản trở được việc thi hành công vụ của họ nên
các nhà làm luật đã đưa ra quy định chung có thể coi là một dạng của hành vi
chống người thi hành công vụ: “Thủ đoạn khác cản trở người thi hành công vụ
thực hiện công vụ”. Đây là điểm mới bổ sung so với BLHS 1985 về cấu thành tội
phạm nhằm mô tả bao quát và đầy đủ hơn các dạng hành vi phạm tội trên thực tế.
“Dùng thủ đoạn khác” cũng là một dạng hành vi chống người thi hành công vụ
hành vi tương tự như các dạng hành vi đã phân tích ở trên nhưng không thuộc
những hành vi đó. Ví dụ như: bôi nhọ, vu khống, nằm trước đầu xe đoàn cưỡng
chế, tự gây thương tích hoặc giả gây thương tích để vu khống cho cán bộ hành
hung… hoặc sử dụng súc vật để cản trở việc thi hành công vụ như việc đuổi chó
ra cắn chiến sĩ công an đến bắt người…
Tóm lại, các dạng hành vi khách quan của tội chống người thi hành công
vụ biểu hiện rất phức tạp trên thực tế. Vì vậy, việc xem xét để đánh giá đúng
mức độ của tội phạm để truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc áp dụng các biện
pháp xử lý khác gặp rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên, có thể thấy rằng theo quy
định tại khoản 1, Điều 257 BLHS thì tội phạm được xem là hoàn thành kể từ khi
người phạm tội đã thực hiện một trong các hành vi kể trên
GVHD Nguyễn Văn Tròn
Page 16
SVTH Phan Thiết Kế
Tội chống người thi hành công vụ trong Luật hình sự Việt Nam
1.2.1.4 Mặt chủ quan của tội chống người thi hành công vụ
Mặt chủ quan là biểu hiện tâm lý bên trong của người phạm tội. Với ý nghĩa
là một mặt của hiện tượng thống nhất, mặt chủ quan của tội phạm không tồn tại
độc lập mà nó luôn gắn liền với mặt khách quan của tội phạm.
Thông qua mặt khách quan ta có thể đánh giá nhận biết được thái độ chủ
quan của người phạm tội .Những hoạt động tâm lý đó bao gồm những nội dung
chủ yếu sau:
- Lý trí và ý chí của người phạm tội đối với những biểu hiện bên ngoài
của tội phạm như thế nào (lỗi).
- Điều gì thúc đẩy người đó thực hiện hành vi phạm tội (động cơ).
- Người phạm tội nhằm đạt được điều gì qua việc thực hiện hành vi gây
nguy hiểm cho xã hội (mục đích).
Trong các nội dung biểu hiện của mặt chủ quan thì lỗi là biểu hiện cơ bản
được phản ánh trong tất cả các cấu thành tội phạm. Nó có ý nghĩa quyết định
trong việc xác định trách nhiệm hình sự của một người. Mục đích và động cơ tuy
là dấu hiệu của mặt chủ quan nhưng không phải luôn có ý nghĩa quyết định đối
với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Ở tội chống người thi
hành công vụ, động cơ và mục đích là một trong những dấu hiệu để phân biệt tội
phạm này với một số tội phạm khác.
Người phạm tội chống người thi hành công vụ thực hiện bằng hành vi cố
ý, tức là người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là chống người thi hành
công vụ, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn
nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra
* Lỗi của người phạm tội
Lỗi là trạng thái tâm lý của một người đối với hành vi nguy hiểm cho xã
GVHD Nguyễn Văn Tròn
Page 17
SVTH Phan Thiết Kế
Tội chống người thi hành công vụ trong Luật hình sự Việt Nam
hội của mình và hậu quả do hành vi đó gây ra và được biểu hiện dưới hình thức
cơ bản là lỗi cố ý hoặc vô ý.
Trong trường hợp người phạm tội không biết hoặc có nghi ngờ về tính hợp
pháp của người đang thi hành công vụ, thì tùy từng trường hợp cụ thể mà xác
định người đó có lỗi hay không. Tuy nhiên, việc xem xét nhận thức của người
phạm tội trong những trường hợp này cần phải cẩn trọng. Bởi nhiều trường hợp
người phạm tội tuy nhận thức được rõ là người thi hành công vụ nhưng vẫn cố
tình thể hiện là mình không biết.
* Động cơ và mục đích của tội phạm
Mục đích của tội phạm là kết quả cuối cùng tội phạm muốn hướng đến. Đối
với tội chống người thi hành công vụ thì mục đích của tội phạm là công vụ.
Nghĩa là tội phạm mong muốn nhiệm vụ công không được thực hiện. Vì vậy, nếu
căn cứ vào mục đích phạm tội thì người phạm tội đối với người đang thi hành
công vụ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội khác mà không bị truy cứu
trách nhiệm hình sự về tội chống người thi hành công vụ. Ví dụ như dùng gậy
đập vào đầu của người đang thi hành công vụ nhằm cướp tài sản, thì bị truy cứu
trách nhiệm hình sự về tội cướp tài sản. Hoặc trường hợp người thực hiện tội
phạm có hành vi chống lại nhân viên nhà nước, cán bộ chính quyền đang thi hành
công vụ nhưng nhằm mục đích chống lại chính quyền nhân dân thì có thể phạm
tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân (Điều 84 BLHS). Vì chúng ta có
thể thấy rằng mục đích của tội phạm lúc này không nhằm vào công vụ đang được
thi hành.
Động cơ và mục đích đều là những yếu tố, dấu hiệu không bắt buộc phải
có trong mặt chủ quan của tội phạm. Trên thực tế để xác định rõ chính xác động
cơ, mục đích hay nói một cách khác là làm rõ ý chí chủ quan của người phạm tội
cũng không hề đơn giản. Khó xác định vì nhiều khi sự việc diễn biến rất nhanh,
GVHD Nguyễn Văn Tròn
Page 18
SVTH Phan Thiết Kế
Tội chống người thi hành công vụ trong Luật hình sự Việt Nam
kẻ phạm tội bên cạnh việc thực hiện các hành vi nguy hiểm cho xã hội bởi ý chí
chủ quan của chính mình còn hành động theo bản năng tự nhiên mà đôi khi sau
này họ cũng không hiểu vì sao mình lại làm như vậy. Tuy nhiên, người viết cho
rằng để xác định được có hành vi chống người thi hành công vụ hay không thì
cần phải chứng minh được nó.
Động cơ của tội phạm là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực
hiện hành vi phạm tội (có thể hiểu là nguyên nhân tinh thần của tội phạm) Đối
với tội chống người thi hành công vụ thì động cơ cũng rất đa dạng nhưng thường
mang tính chất cá nhân, riêng lẻ như là sợ bị nộp phạt hoặc sợ bị tịch thu hàng
hóa… nên chống người thi hành công vụ.
1.2.2 Các trường hợp phạm tội cụ thể
Trong luật hình sự Việt Nam, hành vi chống người thi hành công vụ được
quy định là tội phạm theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Theo nghĩa hẹp, hành vi chống người thi hành công vụ có thể cấu thành tội
chống người thi hành công vụ theo quy định tại Điều 257 BLHS nếu không có
dấu hiệu của một tội khác.
Theo nghĩa rộng, hành vi chống người thi hành công vụ có thể là tình tiết
định khung tăng nặng trong cấu thành một trong các tội sau:
Tội giết người nếu “giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lí do công vụ
của nạn nhân” (điểm d khoản 1 Điều 93 BLHS)
-
Tội đe doạ giết người nếu “đe doạ giết người thi hành công vụ hoặc vì lí
do công vụ của nạn nhân” (điểm b khoản 2 Điều 103 BLHS);
-
Tội cố ý gây thương tích hoặc... nếu cố ý gây thương tích hoặc... “để cản
trở người thi hành công vụ hoặc vì lí do công vụ của nạn nhân” (điểm k khoản
1, 2, 3, 4 Điều 104 BLHS)
- Tội
lây truyền HIV cho người khác nếu lây truyền HIV “đối với người
GVHD Nguyễn Văn Tròn
Page 19
SVTH Phan Thiết Kế
Tội chống người thi hành công vụ trong Luật hình sự Việt Nam
thi hành công vụ hoặc vì lí do công vụ của nạn nhân” (điểm d khoản 2 Điều
117BLHS
-
Tội cố ý truyền HIV cho người khác nếu cố ý truyền HIV “đối với
người đang thi hành công vụ hoặc vì lí do công vụ của nạn nhân” (điểm d
khoản 2 Điều 118 BLHS);
-
Tội làm nhục người khác nếu làm nhục “đối với người thi hành công vụ”
(điểm d khoản 2 Điều 121 BLHS);
-
Tội vu khống nếu vu khống “đối với người thi hành công vụ” (điểm đ
khoản 2 Điều 122 BLHS);
- Tội
bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật nếu bắt, giữ hoặc giam “đối
với người thi hành công vụ” (điểm c khoản 2 Điều 123 BLHS);
Đối tượng bị xâm hại là người thi hành công vụ, thời điểm họ bị xâm hại
có thể là trước, trong hoặc sau khi thực hiện công vụ được giao vì lợi ích
chung. Riêng tội chống người thi hành công vụ thì nạn nhân luôn bị xâm hại
khi đang thi hành công vụ
1.2.2.1 Phạm tội chống người thi hành công vụ không có các tình tiết định
khung tăng nặng
Đây là cấu thành tội phạm cơ bản của tội chống người thi hành công vụ
được quy định tại khoản 1 Điều 257 BLHS 1999“Người nào dùng vũ lực, đe
dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở người thi hành công vụ thực
hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật, thì bị phạt
cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”, theo
khoản này thì người phạm tội có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm
hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm là tội phạm ít nghiêm trọng. Tuy nhiên,
cũng cần lưu ý rằng người thi hành công vụ là người đã bắt đầu thực hiện nhiệm
vụ và chưa kết thúc nhiệm vụ đó, nếu chưa bắt đầu hoặc đã kết thúc nhiệm vụ mà
GVHD Nguyễn Văn Tròn
Page 20
SVTH Phan Thiết Kế
Tội chống người thi hành công vụ trong Luật hình sự Việt Nam
bị xâm phạm thì không thuộc trường hợp chống người thi hành công vụ và công
vụ đó phải hợp pháp, nghĩa là mọi trình tự, thủ tục thi hành phải bảo đảm đúng
pháp luật. Nếu người thi hành công vụ lại là người làm trái pháp luật mà bị xâm
phạm thì người có hành vi xâm phạm không phải là hành vi chống người thi hành
công vụ.
Về hình phạt, theo khoản này thì người phạm tội có thể bị áp dụng một
trong hai loại hình phạt đó là phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt
tù từ sáu tháng đến ba năm. Tuy nhiên, người phạm tội có thể được áp dụng hình
phạt cải tạo không giam giữ hoặc dưới sáu tháng tù giam trong trường hợp người
phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 BLHS 1999 nhưng
không được dưới ba tháng tù vì đối với hình phạt tù mức thấp nhất là ba tháng.
Hoặc người phạm tội có thể bị phạt đến ba năm tù nếu như không có các tình tiết
giảm nhẹ quy định tại Điều 46 BLHS 1999
1.2.2.2 Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 257 BLHS
1999
Điều 257 BLHS 1999 đã kế thừa tình tiết định khung tăng nặng “gây hậu
quả nghiêm trọng” của Điều 205 BLHS 1985, đồng thời quy định thêm một số
tình tiết tăng nặng định khung: “Phạm tội có tổ chức; phạm tội nhiều lần; xúi
giục, lôi kéo, kích động người khác phạm tội; tái phạm nguy hiểm”, nhằm quy
định một cách đầy đủ hơn tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi, từ đó đề ra
mức hình phạt tương xứng với mức độ nguy hiểm cho xã hội mà người phạm tội
thực hiện.
a)Phạm tội có tổ chức
“Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ của
những người cùng thực hiện tội phạm”. Như vậy, phạm tội chống người thi hành
công vụ có tổ chức là trường hợp nhiều người cố ý cùng bàn bạc, câu kết chặt
GVHD Nguyễn Văn Tròn
Page 21
SVTH Phan Thiết Kế
Tội chống người thi hành công vụ trong Luật hình sự Việt Nam
chẽ với nhau, vạch ra kế hoạch để thực hiện việc chống người thi hành công vụ,
dưới sự điều khiển, thống nhất của người cầm đầu. Thậm chí ở đây còn có sự
điều khiển chung thống nhất cho phép người phạm tội có điều kiện chuẩn bị tốt
hơn về mọi mặt, có khả năng thực hiện tội phạm liên tục, lâu dài, cản trở triệt để
hơn việc thi hành công vụ của người đang thi hành công vụ. Trong đó, tùy thuộc
vào quy mô, mức độ phạm tội mà có những người giữ những vai trò khác nhau
như: người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức.
- Người tổ chức tồn tại với nhiều dạng khác nhau như là: người chủ mưu,
cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tôi phạm. Là người giữ vai trò trọng tâm từ việc
khởi xướng, lập kế hoạch, lôi kéo, bố trí phân công nhiệm vụ cho từng đồng
phạm khác đến đôn đốc, thúc đẩy quá trình phạm tội và điều khiển hành động
của các đồng phạm theo đúng kế hoạch đã hoạch ra.
- Người thực hành là người trực tiếp thực hiện hành vi, giữ vai trò quyết
định đến việc thực hiện hành vi chống người thi hành công vụ. Những hành vi đó
có thể là trực tiếp dùng vũ lực hay đe dọa dùng vũ lực đối với người thi hành
công vụ; cản trở người thi hành công vụ hoặc dùng thủ đoạn ép buộc người thi
hành công vụ thực hiện hành vi trái pháp luật.
Như vậy, nếu không có người thực hành thì tội chống người thi hành công
vụ chỉ dừng lại ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội, mục đích chống người thi hành
công vụ không được thực hiện, hậu quả chưa xảy ra vì thế trách nhiệm hình sự
của các đồng phạm khác phụ thuộc rất nhiều vào hành vi của người thực hành.
Trên thực tế, ít có trường hợp người thực hành thực hiện theo kế hoạch mà
các đồng phạm khác đặt ra, có trường hợp người thực hành tự ý không thực hiện
tội phạm hoặc tự ý nửa chừng chấm dứt việc thực hiện tội phạm, nhưng cũng có
nhiều trường hợp người thực hành tự ý thực hiện những hành vi vượt quá yêu cầu
của các đồng phạm khác đặt ra.
GVHD Nguyễn Văn Tròn
Page 22
SVTH Phan Thiết Kế
Tội chống người thi hành công vụ trong Luật hình sự Việt Nam
Trong vụ án chống người thi hành công vụ có đồng phạm, vai trò của
người giúp sức cũng tương đối quan trọng vì nếu không có người giúp sức thì
người thực hiện tội phạm sẽ gặp một số khó khăn nhất định. Tuy nhiên, dù tạo
điều kiện về tinh thần hay vật chất cho việc thực hiện tội phạm thì hành vi này
cũng chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện tội phạm được dễ dàng chứ
không phải là người trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, trong một vụ án
chống người thi hành công vụ nếu các tình tiết khác, thì người giúp sức bao giờ
cũng được áp dụng hình phạt nhẹ hơn những người đồng phạm khác.
b)Phạm tội nhiều lần
Phạm tội chống người thi hành công vụ nhiều lần là người phạm tội thực
hiện hành vi chống người thi hành công vụ từ hai lần trở lên và chưa bị xét xử,
trong đó mỗi lần thực hiện hành vi đã cấu thành tội chống người thi hành công vụ
và tất cả các lần phạm tội đó đều bị xét xử trong cùng một bản án.
Cần phân biệt phạm tội chống người thi hành công vụ nhiều lần với phạm
tội chống người thi hành công vụ liên tục vì rất dễ nhằm lẫn giữa hai trường hợp
này. Phạm tội liên tục là do một loạt hành vi phạm tội cùng loại xảy ra kế tiếp
nhau về mặt thời gian tạo thành, nhằm đạt đến một mục đích phạm tội. Trong
loạt các hành vi này, có hành vi cấu thành tội phạm; có hành vi chưa cấu thành
tội phạm nhưng phải tổng hợp tất cả các hành vi này thì mới thành tội phạm.
Một số điều cần lưu ý khi xác định phạm tội chống người thi hành công vụ
nhiều lần:
- Nếu hành vi chống người thi hành công vụ của bị cáo đã bị xử lý không
kể bị xử lý bằng hình thức gì như: đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án, xử phạt hành
chính, xử lý kỷ luật... thì không tính lần phạm tội đó vào lần phạm tội sau để coi
bị cáo phạm tội nhiều lần.
- Trường hợp hành vi chống người thi hành công vụ đã được Viện kiểm
GVHD Nguyễn Văn Tròn
Page 23
SVTH Phan Thiết Kế
Tội chống người thi hành công vụ trong Luật hình sự Việt Nam
sát miễn truy tố hoặc không truy tố cùng với hành vi chống người thi hành công
vụ bị đưa ra xét xử hoặc đã tách để xử lý ở vụ án khác thì cũng không coi là
phạm tội nhiều lần.
c) Xúi giục, lôi kéo, kích động người khác phạm tội
Khác với trường hợp phạm tội có tổ chức, các vụ án này xảy ra không có
tổ chức, phân công nhiệm vụ phạm tội. Những người phạm tội do thiếu hiểu biết,
ý thức chấp hành pháp luật còn kém nên đã bị người khác xúi giục, kích động, lôi
kéo và đã nảy sinh hành vi chống lại người thi hành công vụ.
Trong trường hợp này người phạm tội đã có những hành vi xúi giục, kích
động đến người khác khiến người này phạm tội. Người phạm tội có thể xúi giục,
nghĩ ra việc phạm tội, thúc đẩy cho tội phạm đó được thực hiện thông qua người
khác nhằm thực hiện ý định phạm tội đã có. Sự xúi giục này được thực hiện bằng
nhiều thủ đoạn như lôi kéo, kích động, cưỡng ép, lừa dối. Việc xúi giục, kích
động, lôi kéo có mức độ nghiêm trọng khác nhau, tùy thuộc vào một hoặc một số
người nhất định và tùy và từng trường hợp.
d)Gây hậu quả nghiêm trọng
Phạm tội chống người thi hành công vụ gây hậu quả nghiêm trọng là phạm
tội mà gây ra những hậu quả nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm của người thi hành công vụ, những thiệt hại nghiêm trọng về tài sản
của cơ quan, tổ chức và những thiệt hại quan trọng khác do hành vi chống người
thi hành công vụ gây ra. Tuy nhiên, chỉ tính những thiệt hại về tính mạng, sức
khỏe, tài sản và những thiệt hại phi vật chất do lỗi vô ý gây ra hoặc do người
khác gây ra.
Hiện nay, pháp luật chưa có văn bản nào hướng dẫn hành vi chống người
thi hành công vụ gây hậu quả nghiêm trọng.
Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khỏe và tài sản, thì thực tiễn cho thấy
GVHD Nguyễn Văn Tròn
Page 24
SVTH Phan Thiết Kế
Tội chống người thi hành công vụ trong Luật hình sự Việt Nam
có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường
lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an
toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tùy vào từng trường hợp cụ thể để
đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra là nghiêm trọng, rất nghiêm
trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
đ)Tái phạm nguy hiểm
Khoản 2, Điều 49 BLHS 1999 quy định:
“Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:
a. Đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố
ý, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt
nghiêm trọng do cố ý;
b. Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội do cố ý”.
Theo qui định khoản 2 Điều 257 BLHS 1999 thì mức độ cao nhất của
khung hình phạt trong trường hợp này chỉ là bảy năm tù (tội nghiêm trọng). Do
đó việc xem xét có phải là tái phạm nguy hiểm tại điểm a khoản 2 Điều 49 BLHS
1999 sẽ không được đặt ra.
Như vậy, trường hợp phạm tội chống người thi hành công vụ với tình tiết
tái phạm nguy hiểm có nghĩa là người phạm tội đã tái phạm về bất cứ tội gì, chưa
được xóa án tích mà lại phạm tội chống người thi hành công vụ.
Về hình phạt nếu người phạm tội phạm tội thuộc trường hợp quy định tại
khoản 2 Điều 257 BLHS 1999 thì có thể bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm. Nếu
người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ và chỉ thuộc một trường hợp quy định
tại khoản 2 điều này, không có tình tiết tăng nặng hoặc tình tiết tăng nặng không
đáng kể thì người phạm tội có thể được áp dụng hình phạt dưới hai năm tù hoặc
chuyển sang hình phạt cải tạo không giam giữ. Và ngược lại, nếu không có tình
tiết giảm nhẹ hoặc tình tiết giảm nhẹ không đáng kể và thuộc nhiều trường hợp
GVHD Nguyễn Văn Tròn
Page 25
SVTH Phan Thiết Kế