Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

CHÍNH TRỊ LÀ Ý CHÍ THẮNG TRỊ CỦA MỘT GIAI CẤP NÀY ĐỐIVỚI MỘT GIAI CẤP KHÁC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.82 KB, 30 trang )

LỊCH SỬ CÁC HỌC THUYẾT VÀ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ

Đăng Huy Trinh
Giáo viên Khoa Hành chính - Nhà nước
Trường Đại học Luật Hà Nội - 1993
CHÍNH TRỊ LÀ Ý CHÍ THẮNG TRỊ CỦA MỘT GIAI CẤP NÀY ĐỐI
VỚI MỘT GIAI CẤP KHÁC.

MỞ ĐẦU
I. Vị trí, vai trò của các tư tưởng và học thuyết chương trình
trong sự phát triển xã hội.
Lịch sử các học thuyết chính trị chiếm một vị trí quan trọng trong hệ
thống các môn Khoa học xã hội. Nó là lịch sử quá trình đang tiến triển
nhằm nhận thức các hình tháicht của đời sống xã hội. Hệ tư tưởng chính trị
gắn bó mật thiết với sự tồn tại của xã hội và Nhà nước có giai cấp bởi vì nó
phản ánh mối quan hệ giữa các giai cấp, các đảng phái, các nhóm xã hội
với chế độ nhà nước.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, các học thuyết chính trị
là sự thể hiện cô đọng những lợi ích kinh tế của giai cấp này hoặc giai cấp
khác. Những lợi ích kinh tế ấy của các giai cấp cần có quyền lực chính trị
bảo vệ và vì vậy nó thúc đẩy các giai cấp này phải nghiên cứu và chứng
minh những tư tưởng chính trị của mình. Lợi ích kinh tế của các giai cấp
khác nhau thì khác nhau. Chính vì thế nảy sinh những cuộc đấu tranh giai
cấp quyết liệt. Phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp đó trên bình diện tư tưởng
là sự đối chọi của các học thuyết xung đột tư tưởng. Sự thắng thế của một


học thuyết thời lưu tư tưởng này hay khác đều có tác dụng quan trọng đối
với khuynh hướng phát triển xã hội.
-Những tư tưởng chính trị phục vụ các lực lượng lỗi thời trong xã
hội, bảo vệ chế độ kinh tế - xã hội và kiến trúc thượng tầng chính trị của


chế độ đang suy tàn. Các tác dụng cản trở sự phát triển xã hội và vì vậy
chúng là những học thuyết, tư phản động.
Những tư tưởng và những quan điểm chính trị mới tiến bộ phục vụ
lợi ích của các lực lượng tiên tiến trong xã hội, phản ánh những lợi ích của
các giai cấp tiến bộ trong xã hội nảy sinh trên cơ sở phát triển đầy đủ
những nhu cầu về vật chất và tinh thần của đời sống xã hội.
Những tư tưởng và học thuyết ấy tạo điều kiện xoá bỏ chế độ chính
trị xã hội cũ và sản sinh củng cổ chế độ chính trị xã hội mới.
Chính do tính chất đối khàng nhau nưh vậy mà các tư tưởng và học
thuyết chính trị tiến bộ luôn xuất hiện và phát triển trong cuộc đấu tranh
với các học thuyết phản động. Lênin đã chỉ rõ: “lịch sử tư tưởng chính trị là
lịch sử của quá trình thay thế của tư tưởng, do đó là lịch sử đấu tranh tư
tưởng”. (LN Toàn tập T25, tr.131).
-Sau khi ra đời các học thuyết tiến bộ trở thành tài sản của quần
chúng nhân dân, động viên, tổ chức quần chúng đấu tranh chống lại các lực
lượng phản động trong xã hội. Vai trò tổ chức của các tư tưởng và học
thuyết đặc biệt trong thời gian diễn ra các cuộc cách mạng xã hội. Không
có học thuyết, không có tư tưởng chỉ đạo thì không thể có sự biến đổi cách
mạng. Trong những hoàn cảnh ấy, những tư tưởng và học thuyết tiên tiến
kêu gọi quần chúng lao động đoàn kết và phát động họ tham gia cuộc đấu
tranh vì một chế độ chính trị xã hội mới mới, một một thiết chế nhà nước
và pháp quyền mới. Cách mạng mới mà nhiệm vụ chính trị của nó là xoá


bỏ dưới hình thức này hoặc hình thức khác các mối quan hệ sản xuất đã lỗi
thời làm cho chúng phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất.
-Mỗi giai cấp đều đưa ra những học thuyết và tư tưởng chính trị của
mình. Những học thuyết và tư tưởng thống trị trong xã hội, là những tư
tưởng, học thuyết giai cấp thống trị, giai cấp cầm quyền. Những tư tưởng

và học thuyết khác tồn tại trong xã hội là những học thuyết và tư tưởng của
giai cấp không giữ địa vị thống trị, nó được đưa ra để bảo vệ và chứng
minh cho những đòi hỏi thống trị về kinh tế và xã hội của giai cấp ấy. Nó
thúc đẩy quá trình làm tan rã những điều kiện vật chất cũ và làm phát sinh
những nhân tố cách mạng mới.
-Giữa các học thuyết và tư tưởng không có sự tách rời riêng biệt
tuyệt đối mà chúng chịu tác động, ảnh hưởng qua lại của nhau. Người ta
không thể giới thiệu một khuynh hướng tư tưởng này hay khác bằng một sự
vay mượn trần trụi, bằng một sự chuyển dịch máy móc các tư tưởng từ
hoàn cảnh lịch sử này sang hoàn cảnh lịch sử khác. Song người ta cũng
không thể giải thích cặn kẽ thấu đáo một hệ tư tưởng nếu cô lập tuyệt đối
nó.
Chính vì thế nghiên cứu các học thuyết chính trị là cơ sở nền tảng để
tìm hiểu về Nhà nước và pháp luật. Cuộc đấu tranh và sự thay thế các
khuynh hướng chính trị chủ yếu đã làm bộc lệ sâu sắc bản chất giai cấp của
các thiết chế nhà nước và pháp luật, những thiết đã hình thành và phát triển
phù hợp với các tư tưởng chính trị pháp luật.
II. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu của môn khoa học lịch
sử các học thuyết và tư tưởng chính trị.


Môn lịch sử các học thuyết và tư tưởng chính trị nghiên cứu các tư
tưởng và học thuyết chính trị pháp luật trong lịch sử, có nghĩa là nghiên
cứu chúng trong quá trình phát sinh và phát triển trong những điều kiện
kinh tế - xã hội nhất định.
-Có những quan niệm cho rằng đối tượng nghiên cứu của môn khoa
học này là những vấn đề thuần thuý lý luận trừu tượng, không liên quan gì
tới các giai cấp trong xã hội. Bằng cách đó đã tách các hình thái kinh tế - xã
hội cụ thể, biến chúng thành một cái gì đó nằm ngoài lịch sử và phi giai
cấp.

-Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin trong bất kỳ một sự
nghiên cứu lý luận nào không nên chỉ xác nhận những hiện tượng đang
nghiên cứu mà cần đi sâu tìm hiểu bản chất khám phá nguyên nhân của
chúng. Không chỉ cần giải thích máy móc các tư tưởng và học thuyết chính
trị mà còn cần phải hiểu được nghĩa thực tế của chúng trong sự phát triển
vai trò của chúng trong quá trình thay thế hợp quy luật hình thái kinh tế xã hội này bằng hình thái kinh tế - xã hội khác, kiểu nhà nước này bằng
kiểu nhà nước khác trong lịch sử.
-Lênin đã chỉ rõ: “Mjốn thực sự hiểu được sự vật cần phải nhìn bao
quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và quan hệ gián
tiếp” của sự vật đó… Toàn bộ thực tiễn của con người, thực tiễn này vừa
với tính cách là tiêu chuẩn của chân lý, vừa với tính cách là kẻ xác định
một cách thực tế sự liên hệ giữa sự vật với những điều kiện cần thiết đối
với con người, cần phải được bao hàm trong “định nghĩa” đầy đủ của sự
vật”.
-M<ôn lịch sử các học thuyết chính trị không nghiên cứu các tư
tưởng và học thuyết chung một cách mà đi sâu nghiên cứu toàn bộ những
tư tưởng và học thuyết chính trị pháp quyền mà sự phát sinh, phát triển của


hình thái này nó liên quan chặt chẽ tới sự tồn tại nhà nước, tới lịch sử phát
triển cụ thể của nhà nước và pháp quyền.
Nội dung, đối tượng nghiên cứu của môn khoa học này là hệ thống
các tư tưởng và học thuyết chính trị pháp lý của tất cả các hình thái kinh tế
- xã hội có giai cấp.
-Hệ tư tưởng chính trị là một trong những lĩnh vực ý thức xã hội
phưc tạp nhất. Khi nghiên cứu nó qua các tuyên bố và luận thuyết khác
nhau cần tìm ra lợi ích khách quan, lợi ích Đảng nào đó, qua đó phát hiện
ra được ý nghĩa xã hội (tiến bộ nhay phản động) của học thuyết chính trị
này.
-Lịch sử các học thuyết chính trị không chỉ nghiên cứu quan điểm

của các giai cấp, các đảng phái đối với quyền lực nhà nước với các tư
tưởng chính trị mà còn nghiên cứu những tư tưởng pháp quyền quan trọng
nhất liên quan trực tiếp đến nhà nước, Pháp luật như dưới góc độ của lịch
sử các học thuyết chính trị là hình thức chính trị của các giai cấp thống trị
được đưa vào hoạt động thực tế của chính quyền nhà nước. Nếu các tư
tưởng, chính trị và pháp luật. Như vậy là trọng tâ,m là trực tiếp môn lịch sử
các học thuyết chính trị nó được nghiên cứu như là những bộ phận liên
quan một cách hữu cơ trong một chỉnh thể thống nhất nhằm chỉ ra lịch sử
các học thuyết chính trị là quá trình tích luỹ hợp quy luật những kiến thức
về nhà nhà nước và pháp quyền diễn ra trong cuộc đấu tranh giai cấp giữa
các khuynh hướng thể hiện lợi ích chính trị của các giai cấp khác nhau.
Từ những điểm phân tích ở trên chúng ta thấy: “Đối tượng nghiên
cứu của môn khoa học lịch sử các học thuyết chính trị là những tư tưởng và
học thuyết chính trị pháp luật xuất hiện và phát triển hợp quy luật trong
suốt lịch sử xã hội có tổ chức nhà nước. Những tư tưởng và học thuyết này


xét cho cùng là do các mối quan hệ kinh tế quy định và chúng phản ánh lợi
ích của các giai cấp tranh đấu trong xã hội”.
-Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu lịch sử - cụ thể
cho phép nhận định và đánh giá đúng các tư tưởng và học thuyết. (Dựa trên
phép biện chứng duy vật).
Phê phán các phương pháp: (xuyên tạc, hiện đại hoá, so sánh bề
mặt).
Thực chất của phương pháp này là như thế nào/
Lịch sử các học thuyết chính trị là một môn khoa học không chỉ làm
rõ tính giai cấp của các tư tưởng và học thuyết chính trị và pháp luật mà nó
còn làm rõ phát triển hệ tư tưởng chính trị trong lịch sử giúp cho sự thâm
nhập dần dần của tư duy con người vào bản chất thực sự của các chế độ nh
- pháp luật buộc đối tượng nghiên cứu cũng phải trở thành đối tượng nhận

thức luạn trong lịch sử các học thuyết và tư tưởng chính trị . Đây cũng là
một khía cạnh của phương pháp tiếp cận này.
Lênin nói rằng, mục đích của mọi môn khoa học là ở chỗ nó đưa ra
được bức tranh thật về thế giới. Điều đó có nghĩa là cần phải xác định một
cách khách quan khoa học, cụ thể trong lịch sử chế độ đúng của các tư
tưởng chính trị và pháp luật, xác định vai trò và ý nghĩa của chúng trong sự
phát triển xã hội, trong cuộc đấu tranh giữa các giai cấp.
Một nguyên tắc mang tính chất phương pháp luận hết sức quan trọng
của môn lịch sử các học thuyết chính trị là tính Đảng của nó. Theo quan
niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin thì nguyên tắc Đảng la cơ sở để nghiên
cứu mọi môn Khoa học xã hội. Theo đó tính Đảng trong Khoa học xã hội là
sự thừa nhận bản chất và nội dung giai cấp của Khoa học xã hội.


Lênin đã viết: “Chừng nào người ta chưa biết phân biệt được lợi ích
của giai cấp này hay của giai cấp khác ẩn đằng sau bất kỳ những câu nói,
những lời tuyên bố và những lời hứa hẹn nào có tính chất đạo đức, tôn
giáo, chính trị và xã hội thì trước sau bao giờ người ta cũng vẫn là kẻ ngốc
nghếch bị người khác lừa bịp và tự lừa bịp mình về chính trị”. LN toàn tập,
T23, tr 57.
Yêu cầu về tính Đảng Cộng sản loại trừ mọi sự chủ quan và xu thời
trong khi nghiên cứu lịch sử các học thuyết chính trị. Thực chất nó đòi hỏi
phải phân tích chính xác ý nghĩa thực của mỗi yếu tố trong hệ tư tưởng của
những giai cấp khác nhau. Từ đó tìm ra các quy luật phát triển khách quan,
xác định những chân lý khách quan, giải quyết các mâu thuẫn khách quan.
Một cách cụ thể hơn khi nghiên cứu lịch sử các học thuyết chính trị
phải chú ý trước tiên đến các điều kiện kinh tế - xã hội của thời đại, tới
những hoàn cảnh cụ thể của xã hội ấy.
Chúng ta đều biết rằng những quan điểm chính trị là tiến bộ trong
thời kỳ lịch sử này có thể lại là những quan điểm phản động trong thời kỳ

khác (quan điểm của giai cấp tư sản trong thời kỳ cách mạng tư sản là tiến
bộ, đến thời kỳ cách mạng xã hội chủ nghĩa lại trở nền lỗi thời lạc hậu). Vì
thế khi nghiên cứu lịch sử các học thuyết chính trị, khi đánh giá giá trị của
các quan điểm chính trị cần phải xem nó đóng góp, giải quyết được những
vấn đề gì so với đòi hỏi đương đại. Những sự xem xét, phân tích và giải
quyết vấn đề một cách rõ ràng triệt để như vậy làm nên cách tiếp cận lịch
sử cụ thể trong môn khoa học lịch sử các học thuyết chính trị.
III. Các khái niệm và thuật ngữ cơ bản.
1. Quyền lực và những yếu tố cấu thành quyền lực.


-Hiện còn tranh cãi nhiều về khái niệm “chính trị”, song hầu như đều
thống nhất ở chỗ vấn đề quyền lực có vai trò rất quan trọng. Phân tích
quyền lực xã hội người ta thấy nó gồm 2 mặt cấu thành cơ bản:
+ Mặt vũ lực (hay sức mạnh vật chất).
Quyền lực là sức mạnh cưỡng chế dựa vào những lực lượng vật chất.
Xã hội muốn tồn tại và đứng vững cần có những cơ quan như Công an,
quân đội, nhà tù, nó thể hiện sức mạnh bạo lực của quyền lực.
+ Mặt tinh thần: chỉ bạo lực không thường không đủ để giữ vững trật
tự xã hội. Quyền lực xã hội còn có khía cạnh thứ hai là khái cạnh lòng tin.
Lòng tin tưởng là nền tảng của quyền lực (ngay từ thời cổ đại Khổng Tử đã
nói: “Dân vô tín bất lập” - Không có lòng tin tưởng thì không thể xây dựng
được một xã hội ổn định, phát triển.
-Một cách phân chia khác, người ta phân chia quyền lực thành nhiều
loại khác nhau tuỳ theo lĩnh vực mà nó chi phối.
+ Quyền lực chính trị (lực lượng chính trị).
+ Quyền lực kinh tế (lực lượng kinh tế, lao động kinh tế).
+ Quản lý tinh thần… (giáo hội, nhà thờ)
Quyền lực nói chung là khả năng cưỡng chế hướng theo một mục
tiêu nhất định dựa vào những lực lượng vật chất và tinh thần nhất định.

2. Tư tưởng và ý thức hệ chính trị.
-Tư tưởng là sự biểu hiện phản ánh trong trí óc một hình tượng nhất
định. Tư tưởng là những hệ rời rạc và chưa sắp xếp thành hệ thống.
-Nhiều tư tưởng kết hợp với nhau thành một hệ thống chặt chẽ, mạch
lạc có thư lớp ta có một lý thuyết (một thuyết).


-Lý thuyết được áp dụng tỏng hoạt động thực tiễn ta có một học
thuyết (học thuyết Mác-Lênin).
Nếu học thuyết nào hướng tơi việc lôi kéo nhiều người tin tưởng và
tham gia dựa vào nó trong hoạt động chính trị tạo nên sự cải biến xã hội
sâu sắc thì nó trở thành chủ nghĩa.
Một hệ thống tư tưởng hay lý thuyết bao quát được hết cả mọi khía
cạnh của đời sống xã hội, định chiều hướng cho sự suy nghĩa, lý luận, hành
động, sinh sống của hầu hết mọi thành viên trong xã hội thì được gọi là ý
thức hệ. Mỗi xã hội đều có ý thức hệ riêng của mình (ý thức hệ phong kiến,
ý thức hệ tư bản, ý thức hệ xã hội chủ nghĩa).
3. Nền tảng triết lý của các học thuyết chính trị.
+ Bản thể luận, vũ trụ quan:
x Duy vật
x Duy tâm
x Ng luận
+ Nhận thức luận: Phương pháp biện chứng hây siêu hình, lực lượng
phản ánh.
+ Nhân sinh quan:
x Phái chủ trương tính thiện.
x Phái chủ trương tính ác.
x Phái chủ trương duy hoà: do giáo dục không tự nhiên thiện
hay ác.
4. Hình thức chính trị:

x Hình thức : thần quyền.


x Hình thức : quân quyền
x Hình thức : dân quyền.
*Hình thức thần quyền: tôn giáo và chính trị trùng hợp nhau, các xã
hội cổ đại. Các giáo sĩ có một vai trò quan trọng trong đời sống chính trị.
*Hình thức quân quyền: Có sự tồn tại của một nhà vua, các quyết
định chính trị được thực hiện một cách cực đoan. Mọi việc đều do nhà vua
chủ trì, mọi pháp lệnh đều do nhà vua mà ra thần dân phải triệt để tuân lệnh
nhà vua.
*Hình thức dân quyền: Quyền quyết định nằm trong tay toàn dân.
4. Các nguyên tắc cơ bản hướng dẫn sự tổ chức xã hội.
a. Nguyên tắc thiên trị: được áp dụng rộng rãi trong những xã hội
thần quyền. Đặc điểm cơ bản của nguyên tắc này là thiết lập tin tưởng
mãnh liệt nơi trời, nơi thần linh. Theo nguyên tắc này sự cai trị phải noi
theo ý muốn của trời của thần linh. Nhà cầm quyền được xem là đại diện
của trời của thần linh.
(Hy lạp Cổ đại, tuyển chọn người cầm quyền bằng cách rút thăm hợp
với ý thần linh).
b. Nguyên tắc Nhân trị (Đức trị): Đặt nền tảng sự cai trị trên giá trị
của người cầm quyền. Những người theo nguyên tắc này cho rằng sự hưng
suy của xã hội do đức độ, tài năng của người cầm quyền mà ra, tất cả vấn
đề ở chỗ là làm sao cho xã hội có người cai trị giỏi (các khả năng và đức
tính của người cai trị ở mỗi giai đoạn khác nhau vô cùng. Hồ Chủ Tịch:
Cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư).


c. Nguyên tắc pháp trị: Lấy pháp luật làm căn bản, những người theo
phái này chủ tửơng con người rất yếu hèn dễ sai lầm nên phải dựa vào pháp

luật là những quy tắc khái quát áp dụng cho mọi người một cách bình đẳng.
d. Nguyên tắc, chủ trương vô trị: Chop rằng việc cai trị phiền nhiễu
mọi người  tốt hơn hết không cần có sự cai trị hay cai trị càng ít càng
tốt. Đây là lập trường của phái Đạo gia Trung Quốc và của các nhóm vô
chính phủ phương Tây.
quyền lực là tổng hợp mọi sức mạnh vật chất và tinh thần, nhằm thực
hiện những mục tiêu nhất định trong việc lãnh đạo và quản lý xã hội. Quan
hệ bao giờ cũng có chủ thể xã hội của nó.


TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM
I. Tư tưởng chính trị Lê Quý Đôn.
Lê Quý Đôn sinh 1726 mất 1784 thọ 58 tuổi, năm 18 tuổi đi thi đậu
giải nguyên. Năm 27 tuổi thi hội và thi đình đều đỗ đầu (Bảng nhãn - Trạng
Nguyên). Ông đã giữ nhiều chức vụ quan trọng trong bộ máy quan lại của
Vua Lê, Chúa Trịnh.
Năm 1764 Lê Quý Đôn dâng sớ đề nghị xây dựng Pháp chế làm nền
tảng cho việc cai trị quốc gia song không được nhà Trịnh chấp nhận lại còn
bị đẩy ra ngoài làm đốc đồng Kinh Bắc, (Hải Dương ngày nay). Ông tỏ ý
bất mãn và lui về làm sách.
Năm 1773 đã giữ chức Bồi trung tương đương với Phó Thủ tướng.
Lê Quý Đôn là một học giả uyên bác nhất trong lịch sử chế độ phong kiến
Việt Nam. Tác phẩm của ông đề cập nhiều lĩnh vực. Về chính trị xã hội có
các tác phẩm như: Thư kinh diễn nghĩa, Quần thư khảo biện, Vân đài loại
ngữ, Kiến văn tiểu học v.v…
Lê Quý Đôn là nhà tư tưởng có cách lý giải độc đáo và độc lập. Ông
nghiên cứu, phân tích cái hay, cái dở trong hàng loạt chính sách của Chúa
Trịnh lúc bấy giờ cũng như phân tích cái hay và cái dở của các nhân vật
lịch sử trong Bắc Sử như Tần Thuỷ Hoàng, Tào Tháo v.v…
Tuy nhiên Lê Quý Đôn không thoát ra khỏi hệ tư tưởng của thời đại

mình đó là hệ tư tưởng phong kiến. Ông là phần tử trí thức đứng trên lập
trường của giai cấp phong kiến suy tàn. Tư tưởng chính trị của ông thể hiện
mong muốn củng cố chế độ phong kiến đang lung lay. Biện pháp của ông
có tính chất cải cách song cải cách là để duy trì và ổn định Nhà nước phong
kiến, luật lệ phong kiến chứ không phải là để thay thế nó. Chính vì thế nó
vẫn mang tính chất lạc hậu. Lê Quý Đôn chủ trương duy trì đức trị đồng


thời không xem nhẹ pháp trị. Tuy nhiên ông không hoàn toàn theo lập
trường của phái Pháp gia mà trước sau vẫn trung thành với Nho giáo bảo vệ
đạo đức và lễ nghi phong kiến.
Đường lối cai trị quốc gia trong tư tưởng Lê Quý Đôn là kết hợp Đức
trị với Pháp trị. Xã hội chính trị, lý tưởng của Lê Quý Đôn là một xã hội
phong kiến ổn định, có phân biệt đẳng cấp (giàu, nghèo, thân sơ v.v… ảnh
hưởng của Khổng Tử). Song trong xã hội đó không được tồn tại một sự bóc
lột quá mức.
Trong xã hội đó bộ máy cai trị được xây dựng một cách hợp lý dựa
trên nền tảng là một tầng lớp những người tài năn và đức độ. Lê Quý Đôn
viết trong “Quần thư khảo biên” như sau:
“Trị nước có gốc ở việc kính sư yêu dân dùng người hềin, bỏ kẻ gian
thì lòng người thường qui phục kỷ cương không rối loạn, khi đó rõ việc văn
chi đem ra xếp đặt mà thôi”.
Bên cạnh việc đề cao trọng dụng người hiền Lê Quý Đôn cũng
khẳng định: “đường lối chính trị phải có pháp luật, điều lệ. Vua quan không
thể tuỳ ý xét xử tội hình hay ban thưởng công trạng”.
Lê Quý Đôn cho rằng làm chính trị phải giữ lẽ công bằng mới đứng
vững được, ông viết: “Pháp độ là của chung của cả thiên hạ, cốt phải quy
định từng điều, từng luật, nặng nhẹ lớn nhỏ đều phải cho xứng đáng, công
bố minh bạch cho thiên hạ biết. Sau mới căn cứ vào đó mà quyết định”.
(Tư tưởng này có thể tìm thấy trong tuyên ngôn nhân quyền và dân

quyền Pháp).
Pháp luật phải thống nhất rõ ràng và công bố cho mọi người đều biết.


TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ NGUYỄN TRÃI
Nguyễn Trãi là một trong những nhà tư tưởng yêu nước xuất sắc
nhất nửa đầu thế kỷ XV. Tư tưởng của ông đã vươn lên ngang tầm thời đại
lúc bấy giờ.
Nguyễn Trãi hiệu Ức Trai sinh năm 1380 là con của quan tư đồ Trần
Nguyên Hãn. Năm 20 tuổi đã thi đậu Tiến sĩ dưới triều Hồ. (hai cha con
cùng một triều vua). Năm 1442 Lê Thái Tông chết đột ngột, ông bị vu oan
và bị giết.
Tư tưởng của ông nổi lên các vấn đề như quốc gia, chủ quyền quốc
gia, đường lối trị nước, Nguyên nhân hưng suy thành bại của các triều đại.
Nguyễn Trãi đã suy nghĩ tới những yếu tố cấu thành quốc gia có lúc
ông dùng khái niệm thành có lúc ông dùng khái niệm bang. Để từ đó xây
dựng khái niệm quốc gia dân tộc Đại Việt ngang hàng với các quốc gia
khác. Quốc gia trong quan niệm của Nguyễn Trãi trước tiên là biểu hiện về
mặt thống nhất lãnh thổ của nó. Vì vậy nó phải vừa xác thực, vừa toàn vẹn
và bất khả xâm phạm Quốc gia đó có chủ thể của nó. Chủ thể đó là những
chủ nhân thực sự của Đại Việt, đó là những bậc hiền nhân quân tử, những
bậc tối mưu, hành động hợp với đạo Trời. (ảnh hưởng Nho giáo - phân tầng
đẳng cấp).
Tư tưởng về việc xây dựng giải quyết Việt Nam độc lập, tự do đã
được Nguyễn Trãi đề cập tới nhiều nơi, nhiều chỗ. Cô đọng và tập trung
nhất đó là trong Đại cáo Bình Ngô:
Xét như nước Đại Việt ta.
Thật là một nước văn hiến
Mà hào kiệt không bao giờ thiếu.



Đại cáo Bình ngô đã thể hiện như một bản tuyên ngôn độc lập hào
hùng của dân tộc vào thế kỷ XV. Trong đó nó khẳng định chủ quyền quốc
gia của dân tộc. Đó là lĩnh vực thiêng liêng và bất khả xâm pham. (Đây là
bản tuyên ngôn xuất hiện lần đầu tiên trong lịch sử chiến tranh giải phóng
dân tộc trong lịch sử tư tưởng chính trị thế giới.
Về đường lối trị nước tư tưởng của Nguyễn Trãi chịu ảnh hưởng
nhiều của Nho giáo và có thể nói ông đã xây dựng một phương pháp tổng
hợp trong đó nhấn mạnh.
1.

Dân là gốc nước, an dân là điều kiện để an xã hội, để chính
nghĩa dành được thắng lợi và triều đại được củng cố.

2.

Lấy nhân nghĩa làm cơ sở làm gốc của sức mạnh của quyền
lực.
“Lấy yêu chống mạnh.
Lấy trí nhân để thay cường bạo v.v…”.

Xây dựng một quốc gia phong kiến ổn định. Vua sáng tôi hiền.


TƯ TƯỞNG NGUYỄN BỈNH KHIÊM
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585) quê ở Vĩnh Bảo, Hải Phòng, xuất
thân trong một gia đình có mẹ là con gái quan Thượng thư Nhữ Văn Lan,
bố ông là Văn Định - một người có học vấn. (Là một nhà tư tưởng lớn của
Việt Nam thế kỷ 16 ông đã từng là bạn học là thầy dạy của nhiều lớp trí
thức Việt Nam thế kỷ 16). (Học rộng biết nhiều nhưng mãi đến năm 1535

khi đã 45 tuổi ông mới đi thi đậu Trạng Nguyên và ra làm quan với nhà
Mạc.)
Nguyễn Bỉnh Khiêm còn là một nhàtư tưởng đã chững kiến những
biến cố lớn của chế độ phong kiến đang chuyển sang thời kỳ suy tần. Băn
khoăn day dứt trước thực trạng xã hội, đối đầu với những vấn đề nan giải
mà chế độ cát cứ phong kiến đặt ra nhưng cuối cùng Nguyễn Bỉnh Khiêm
vẫn không thể xoay chuyển được thời thế đem lại thống nhất hoà bình cho
Tổ quốc, đem lại đời sống ấm no cho nhân dân. Thực tế lịch sử đó đã thể
hiện trong tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông đã đi từ lập trường ủng hộ
và khẳng định nhà nước phong kiến chế độ phong kiến sang lập trường
nghi ngờ trật tự phong kiến, nhà nước phong kiến, lo âu trước số phận dân
tộc. Nguyễn Bỉnh Khiêm phần nào nhận thấy thời thế đổi khác nhà nước
phong kiến Việt Nam đã từ đỉnh cao của nó trong thế kỷ XV trượt dài
xuống dốc. Giai cấp phong kiến không còn có thể giương cao ngọn cờ dân
tộc mà đã bộc lộ một cách sâu sắc những mâu thuẫn không thể dung hoà
của chúng. Các tập đoàn phong kiến thay nhau chia cắt đất nước và gây ra
tình trạng chiến tranh phong kiến kéo dài. Cùng với phong kiến là nạn bắt
phu bắt lính cướp bóc hết sức nặng nề.
Nhận thức được điều đó nhưng không có điều kiện như Nguyễn Trãi
trước đây là theo một minh chủ để rồi tìm kiếm xây dựng một nền hoà bình
vững chắc cho đất nước.


Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tìm cách giảm nhệ sự đối địch giữa các tập
đoàn phong kiến bằng cách tách chúng ra mỗi tập đoàn ở một góc: Nhà
Mạc lên Cao Bằng, Nhà Trịnh ở lại Thăng Long, còn Nhà Nguyễn thì
Nguyễn Bỉnh Khiêm khuyên vào miền Trung (Hoành Sơn) - dãy núi có đèo
ngang Nguyễn Bỉnh Khiêm đã từng mách nước cho cả ba tập đoàn phong
kiến Mạc, Trịnh, Nguyễn và điều này chứng tỏ ông mong muốn tìm kiềm
một thế cân bằng, tạm ổn định nhằm giảm nhẹ nỗi khổ cho nhân dân. Kế

sách đó của Nguyễn Bỉnh Khiêm có hạn chế đã gây ra tìnhtrạng cát cứ một
cách lâu dài. Có thể thấy ở đây Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thể hiện quan điểm
chống lại chiến tranh phong kiến song biện pháp của ông chưa có hiệu quả,
hữu hiệu.
Nguyễn Bỉnh Khiêm trước sau vẫn là một trí thức Nho học, sp của
chế độ phong kiến nên vẫn không thể thoát ra khỏi hệ tư tưởng phong kiến.
Ông tìm cách lý giải các vấn đề chính trị, các hiện tượng chính trị thực tiễn
bằng những quan niệm của Nho, ý lý số. Tương truyền Nguyễn Bỉnh
Khiêm là một người rất giỏi về đoán trước các sự kiện xảy ra. Sử sách còn
lưu giữ tập: “Trình quốc công Sấm ký ghi lại những lời tiên tri của ông.
(Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà lý học rất giỏit sử, vẽ chép rằng ông đã
nắm được những điều bí truyền của sách Thái ất thần kinh”.


CHƯƠNG II. TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI.

I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI.
Ấn Độ là một quốc gia phương Đông rộng lớn có nền văn hoá lâu
đời đặc sắc. Cư dân đầu tiên sinh sống ở Ấn Độ là người Dravidian. Người
Dravidian là một tộc người có trình độ văn minh tương đối phát triển. Họ
đã xây dựng và thiết lập những thiết chế nhà nước đầu tiên ở Ấn Độ, trong
khoảng từ thế kỷ X đến thế kỷ VI trước công nguyên . Cùng với sự xuất
hiện nhà nước sơ khai trong xã hội Ấn Độ cũng đã bắt đầu xuất hiện mầm
mống của sự phân chia giai cấp. Đến thế kỷ III TCN sự phân hoá giai cấp
giàu nghèo đã hình thành rõ rệt. Người ta đã tìm thấy dấu vết của những
thành phố cổ lớn ở Ấn Độ. Trong những khu vực dành cho người giàu đã
tìm thấy dấu tích của những kiến trúc rất gần với hiện đại như đường xá
rộng, bể bơi, bồn tắm v.v.. Nền văn minh của người Dravidian tồn tại
không bao lâu thì bị người Aryan với trình độ văn minh kém hơn nhưng có
sức mạnh quan sự chinh phục. Người Auyan thống trị Ấn Độ, thực hiện

quá trình thống nhất. Ấn Độ thành một đế chế hùng mạnh. Trong quá trình
thống nhất đó cũng đã diễn ra sự đồng hoá lẫn nhau giữa người Aryan và
Dravidian. Những yếu tố tinh thần tư tưởng của hai tộc người không những
không bị tiêu diệt mà còn hoà quyện vào nhau tạo nên bản sắc độc đáo của
tư tưởng Ấn Độ.
II. KINH VEDA VÀ UPANISAHD - CỘI NGUỒN CỦA TƯ
TƯỞNG CHÍNH TRỊ TÔN GIÁO ẤN ĐỘ.
Tinh thần Ấn Độ đã được thể hiện rất sớm trong những bản kinh
luận tối cổ xuất hiện từ thế kỷ thứ XIII trước công nguyên - Kinh Vêda và
Uryan Sáh. Tinh thần đó được gìn giữ, kế thứa, phát triển và có ảnh hưởng


sâu rộng trong mọi lĩnh vực từ triết học, chính trị, pháp quyền đến hoạt
động thực tiễn của người Ấn Độ. Theo đó người Ấn Độ cổ tin rằng trong
vũ trụ đồng thời tồn tại ba lực lượng liên quan mật thiết với nhau đó là thần
linh con người và quỷ ác tương ứng với ba phần của vũ trụ: Thiên giới,
Trần thế và địa ng.
Trong đó thần linh được thừa nhận như một lực lượng tối cao quy
định và chi phối hoạt động của tất cả các bộ phận khác. Điều thừa nhận đó
ngay từ đầu đã đem lại mầu sắc tôn giáo, tính chất tôn giáo cho tư tưởng
Ấn Độ. Tính chất tôn giáo, tư tưởng Tôn giáo cũng đã hoà quyện và trộn
lẫn trong mọi thiết chế chính trị pháp quyền. Ở Ấn Độ điểm tôn giáo dưới
dạng những tín điều tôn giáo.
Nghiên cứu tư tưởng chính trị Ấn Độ không thể bỏ qua sự ảnh hưởng
của Tôn giáo và đặc biệt của hai cuốn kinh luận cổ Veda và Upanishad.
Kình Veda: Kinh Veda không do một cá nhân nào sáng tạo ra mà nó
là sp tập thể tổng hợp chắt lọc từ tất cả những câu ca dao vịnh phú, những
quan niệm tư tưởng tập tục của nhiều bộ lạc người Aryan. Veda bắt nguồn
từ chữ “Vid” nghĩa là tri thức, sự hiểu biết, nó cũng được dùng với nghĩa
là: “Kinh Thánh”, “Sự sáng suốt cao nhất” v.v… Kinh Veda chứa đựng

những lập luận khái quát về thế giới, con người về những chân lý do
Thượng đế quy định cho loài người. Những chân lý ấy tồn tại tự nó, tuyệt
đối và có tính tiên thiên, siêu thời gian. Con người chỉ nhận thức được
những chân lý đó bằng trực giác qua một quá trình chiêm nghiệm lâu dài.
Veda bao gồm bốn cuốn Thánh kinh chủ yếu:
1. Rigveda: gồm 1017 bài về sau bổ sung thêm 11 bài nữa dùng để
cầu nguyện chúc tụng công đức các bậc thánh thần.


2. Sama Veda; còn gọi là ca vịnh Veda gồm 1549 bài ca, ca ngợi
thần thành (có những vần dài tới chín giây đồng hồ).
3. Yajus Veda: là bộ kinh tập hợp những công thức khấn bái.
4. Atharva Veda: Gồm 731 bài văn vần trong đó chứa đựng những an
về con người, thế giới, tổ chức xã hội và những cách thức phù phi ma thuật
nhằm đem lại những điều tốt lành cho mình, gây tai hoạ cho kẻ thù.
Trong những an về xã hội và tổ chức xã hội. Kinh Veda đã thể hiện
quan niệm về sự phân tầng đẳng cấp trong xã hội. Theo quan niệm của
Kinh Veda trong xã hội tồn tại những Varna khác nhau. Varna theo tiếng
Sankrit có nghĩa là mầu sắc chủng tín hay còn có nghĩa là thuần tuý, không
pha trộn, dùng để chỉ nhiều tầng lớp thuần nhất đặc biệt. Varna thực chất là
những nhóm xã hội khác nhau không bình đẳng về quyền hạn, trách nhiệm
và vị trí xã hội. Veda ghi nhận bốn Varna chính trong xã hội:
-Brahmana hay còn gọi là Tăng lữ Bàlamôn bao gồm các tăng lữ,
giáo sỹ, những người hoa đông Tôn giáo có quyền lực vô cùng lớn.
-Kshatriya bao gồm Vua chúa, vương công, võ sỹ, chiến bình v.v…
những người có trách nhiệm thực thi những tín điều tôn giáo, điều hoà và
gìn giữ quốc gia.
-Vaishya bao gồm thương nhân, điền chủ, bị dân những người có
trách nhiệm duy trì hoạt động bình thường, cung cấp, đảm bảo những nhu
cầu vật chất cho quốc gia.

-Shudra là những người bị coi như là nô không có một chút thực
quyền nào.
Tư tưởng về phân tầng đẳng cấp có ảnh hưởng rất lớn trong tất cả
các trào lưu tư tưởng Ấn Độ sau này. Nếu hệ tư tưởng, trào lưu tư tưởng
nào thừa nhận Varna, thừa nhận sự phân tầng đẳng cấp thì được coi là hệ tư


tưởng chính thống, ngược lại không thừa nhận Varna thì bị coi là hệtt
không chính thống.
Kinh Upanishad: Kinh Upanishad xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ
XIX trước công nguyên là một cuốn kinh luận được ghi dưới dạng vấn đáp
giữa thầy và trò. Theo tiếng Saukrit nghĩa của chữ Upanishad có nghĩa là
người gần ở dưới. Ý nghĩa của nó là biểu thị mối quan hệ giữa thầy và trò.
Kinh Upanishad tuyên bố không có gì cao hơn con người, thế giới, con
người xã hội là một thể phụ thuộc lẫn nhau và có chung một bản chất. Nó
nhấn mạnh vào việc tự hiểu mình, tự hiểu cá nhân mình. Mọi hoạt động của
con người đều nhằm mục đích đi tìm chân lý. Chân lý là cái thiện tối cao,
mọi kết cấu, thiết chế và tổ chức xã hội đều nhằm vươn tới cái thiện này.
Tôn giáo là cái duy nhất đúng mà con người cần phải tuân theo để đi tìm
chân lý và cái thiện. Tôn giáo dẫn dắt con người từ nơi tối tăm đến nơi ánh
sáng. Kinh Upanishad miêu tả Tôn giáo như một thứ linh hồn tuyệt đối mà
mọi linh hồn cá nhân đều bị hút vào đó. Bên cạnh những sự miêu tả và giải
thích có tính chất Tôn giáo Kinh Upanishad còn chứa đựng đầy tinh thần
tìm hiểu, khám phá thế giới. Trong Kinmh Upanishad có thể tìm thấy sự
giải đáp mang tính chất thô sơ về tự nhiên. Trả lời câu hỏi vũ trụ là gì? Sinh
ra từ đâu và sẽ đi tới cái gì Kinh Upanishad cho rằng: vũ trụ nổi lên trong
tự do, nghỉ ngơi trong tự do và tan biến đi trong tự do. Sự giải thích hết sức
thô sơ. Tuy nhiên nó cũng đã đặt ra vấn đề cần phải tìm hiểu thế giới bên
cạnh việc cần phải tuân theo ý muốn của một thứ tinh thần tuyệt đối siêu
nhiên. Kinh Upanishad sau này được các giáo sỹ Balamôn sử dụng.

III. HỆ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ KHÔNG CHÍNH THỐNG
(NASTIKA).
Hệ tư tưởng chính trị không chính thống ở Ấn Độ bao gồm Đạo
Jaina (Jainisme) và Đạo Phật (Buddhism) là hai đạo giáo không thừa nhận


hệ thống phân tầng đẳng cấp - Verna có trong kinh Veda. Đạo Jaina và Đạo
Phật đều cho rằng mọi người đều có quyền được giải thoát như nhau, đều
có quy tụ luyện để đạt đến sự thải thoát và vì thế bình đẳng với nhau.
Đạo Jaina (Jainism) : xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ VI trước công
nguyên. Người sáng lập là Mahavira.
Nhiều quan điểm của Jaina chung cho các tôn giáo ở Ấn Độ. Jaina
thừa nhận bản chất của con người nằm ở linh hồn của họ. Linh hồn là một
bản thể bất biến cho nên vấn đề tối cao trong Jaina là tự hoàn thiện linh hồn
cá nhân để đi đến giải thoát. Đạo Jaina được trình bày một cách có hệ
thốgn trong cuốn: “Tattvartha - Sudrd” chủ yếu đề cập tới quan niệm về
con người vàthế giới, đề cập tới cách thức giải thoát con người. Jaina cho
rằng cuộc sống ác là đã để đạt đến giải thoát con người cần phải trải qua
các bước sau đây:
-Nhìn nhận thế giới, sự vật hiện tượng, xã hội như nó vốn có.
-Đạt đến tri thức, hoàn thiện bằng cách khắc phục cái vô minh tức là
khắc phục cài ham muốn khát vọng cội nguồn của vô minmh.
-Phái thực hiện hành vi thiện tức là không gây độc hại cho chúng
sinh, tôn trọng sự sống, cấm sát sinh, sống chân thật.
-Từ bỏ những mối liên hệ gắn bó với trần tục đi theo con đường tu
khổ hạnh, hành xác, cho rằng hành xác là một biện pháp tất yếu để khắc
phục ham muốn của con người.
Trong học thuyết tôn giáo của Jaina họ không thừa nhận có đấng
sáng tạo tối cao, giúp con người giải thoát mà chỉ có thể giải thoát bằng nỗ
lực của bản thân. Ý chí của con người được đề cao. Chỉ có hai phương

pháp để giải thoát tức là tu luyện hành động (Karma - Yoga) và tu luyện trí
thức (Jaina - Yoga). Để đảm bảo sử dụng hai phương pháp đó qua các bước


tu luyện kế trên đạo Jaina đã đưa ra những giáo lý hết sức nghiêm khắc.
Chính vì lẽ đó Đạo Jai-na ít được phổ biến ở nưcớ ngoài cũng như Tôn
giáo. Song Đạo Jaina khác về chất so với thứ tôn giáo của tầng lớp thống
trị. Nó thừa nhận con người, bản chất tốt đẹp và ý chí cũng như tri thức và
trí tuệ của họ. Nó chống lại hệ thống phân tầng đẳng cấp mang lại nhiều bất
công xã hội.
Đạo Phật (Buddhism): Đạo Phật nảy sinh ở Ấn Độ trong khoảng từ
thế kỷ thứ VI đến thế kỷ thứ V Trước công nguyên. Ngưới sáng lập là
Sicđactha, Gôtama (4560 - 480 trước công nguyên, nguyên là hoàng tử con
trai vua xứ Kapilavastu (nay thuộc Nêpan) một nước nhỏ ở chân dãy núi
Himalaya. Do thấy mình sung sướng mà nhẫn lại lầm than nên năm 30 tuổi
Gotama quyết định rời bỏ kinh thành ra đi tìm thầy học đạo. Năm 35 tuổi
sáng lập đạo Phật và nhanh chóng thu thập được đông đảo tín đồ. Sau này
tín đồ gọi ông bằng tên tôn kính là Phật (Buddha) có nghĩa là người giác
ngộ hay bậc trí giả.
Phật giáo xuất hiện do nhu cầu cứu vớt chúng sinh và coi mọi người
đều có quyền cứu vớt như nhà Phật giáo tuyên bố về sự bình đẳng của mọi
người chống lại hệ thống phân tẩng đẳng cấp đã được ghi nhận trong kinh
Veda. Chính vì lí do đó, nó đã trở thành hệ tư tưởng chống lại giai tầng
thống trị.
Phật giáo sơ khai phản ánh sự bất bình của các tầng lớp nhân dân bị
ápbức do sự nô dịch của chính quyền tăng lý. Phật giáo cho răng chính
quyền của bọn tăng lữ Bàlamôn tham lam vô hạn và là một trong những
nguồn gốc nảy sinh đau khổ cho chúng sinh. Đức Phật nói: “Các hoàng đế
trị vì các vương quốc có biết bao nhiêu của cải, châu báu thì tham lam
nhòm ngó lẫn nhau, nung nấu trolng lúc những thèm khát vô hạn. Và nếu

họ cứ hành động không biết mệt mỏi như vậy, cứ chìm đắm trong dòng


xoáy triền miên của sự tham lam, thì liệu ai có thể bình yên đi trên trái đất?
Nhận thức được sự áp bức của chính quyền tăng lỹ Bàlamôn somi… Phật
giáo cho rằng bên cạnh cái khổ do chính quyền gây ra con người còn phải
chịu đựng nhiều nỗi khổ đau có tính chất phổ biến khác nữa. Phật giáo nói
đến nhiều nỗi khổ trong cuộc sống con người nhân sinh khổ, lão khổ, bệnh
khổ, tử khổ, oan.


GIÁO TRÌNH LỊCH SỬ CÁC HỌC THUYẾT CHÍNH TRỊ
(Đề cương chi tiết)

Chương I: Những vấn đề chung.
I.

Khái niệm chính trị, khoa học chính trị .

II.

Quyền lực, các yếu tố cấu thành quyền lực-phân loại quyền lực.

III.

Các học thuyết chính trị, vị trí vai trò và các cấp độ phát triển
của nó.

IV.


Đối tượng và phương pháp nghiên cứu.

V.

Mối quan hệ giữa lịch sử các học thuyết chính trị và các môn
khoa học xã hội, khoa học chính trị - pháp lý khác.

Chương II. Tư tưởng chính trị Ấn Độ cổ đại.
I.

Khái quát chung về Ấn Độ cổ đại.

II.

Kinh Veda và Upanishad - cội nguồn của tư tưởng chính trị tôn
giáo Ấn Độ.

III.

Hệ tư tưởng chính trị không chính thống (Nastika).

IV.

Hệ tư tưởng chính trị chính thống (Astika).
1. Đạo Balamôn (Brahmanism).
2. Luận văn chính trị triết học Artashashtra

Chương III: chính trị chính trị Trung Quốc cổ đại.
I.


Khái quát chung về Trung Quốc cổ đại.


×