Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Các cuộc khủng hoảng kinh tế lớn trên thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.53 KB, 14 trang )

Mục lục
Mục lục..................................................................................................................1
Chương 1: Khái quát chung về khủng hoảng kinh tế............................................3
Chương 2: Các cuộc khủng hoảng kinh tế lớn trên thế giới..................................4
Chương 3: Tác động của các cuộc khủng hoảng.................................................12


Lời nói đầu
Khủng hoảng kinh tế là hiện tượng suy giảm các hoạt động kinh tế kéo dài và
trầm trọng hơn cả suy thoái trong chu kỳ kinh tế. Trong lịch sự phát triển của
nhân loại đã xảy ra không ít các cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng, ảnh
hưởng đến mọi mặt của đời sống xã hội. Nếu như trong sản xuất hàng hóa giản
đơn, với sự phát triển của chức năng phương tiện thanh toán của tiền tệ đã làm
xuất hiện khả năng nổ ra khủng hoảng kinh tế, thì đến chủ nghĩa tư bản, khi nền
sản xuất đã xã hội hóa cao độ, khủng hoảng kinh tế là điều không tránh khỏi.
Nhắc đến đại khủng hoảng kinh tế thế giới, ta không thể không nhắc đến cuộc
khủng hoảng năm 1929 – 1933. Hậu quả mà nó để lại cho cả nhân loại là vô
cùng to lớn. Sau thắng lợi của các cuộc cách mạng tư sản, cùng với sự phát triển
như vũ bão của cách mạng khoa học kỷ thuật, chủ nghĩa tư bản được xác lập
khắp nơi trên thế giới, giai cấp tư sản thắng thế về kinh tế và ngày càng củng cố
vai trò thống trị của mình. Với bản chất bóc lột, giai cấp tư sản đã không từ bỏ
bất cứ thủ đoạn tàn bạo nào để đạt được mục đích lợi nhuận. Chính việc chay
theo lợi nhuận bất chấp các quy luật khách quan, trong lòng xã hội tư bản nảy
sinh những mâu thuẫn ngày càng gay gắt. Đó là mâu thuẩn giữa các giai cấp đối
kháng về lợi ích: giai cấp tư sản và vô sản, các tầng lớp nhân dân lao động.
Những mâu thuẫn trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã tạo ra khủng
hoảng này trong nền kinh tế thế giới.
Những cuộc khủng hoảng tiếp theo đó, mặc dù quy mô và tính chất đã mở rộng
hơn nhiều so với cuộc khủng hoảng 1029 – 1933, nhưng xét về tác động sâu sắc
thì cuộc khủng hoảng 1929 – 1933 vẫn để lại nhiều hậu quả nhất.



Chương 1: Khái quát chung về khủng hoảng kinh tế
Khủng hoảng kinh tế, là sự suy giảm các hoạt động kinh tế kéo dài và trầm trọng
hơn cả suy thoái trong chu kỳ kinh tế.
Một định nghĩa khác với cách hiểu ngày nay là trong học thuyết Kinh tế chính
trị của Mác-Lênin. Từ ngữ chỉ này khoảng thời gian biến chuyển rất nhanh sang
giai đoạn suy thoái kinh tế. Bài viết này chủ yếu về khái niệm Khủng hoảng
kinh tế của Karl Marx vốn vẫn được dùng thịnh hành trong Kinh tế chính trị
Marx. Khủng hoảng kinh tế đề cập đến quá trình tái sản xuất đang bị suy sụp
tạm thời. Thời gian khủng hoảng làm những xung đột giữa các giai tầng trong xã
hội thêm căng thẳng, đồng thời nó tái khởi động một quá trình tích tụ tư bản
mới.
Nhiều nhà quan sát sự áp dụng của học thuyết Marx cho rằng tự bản thân Karl
Marx không đưa ra kết luận cuối cùng về bản chất của khủng hoảng kinh tế
trong chủ nghĩa tư bản. Thực vậy, những nghiên cứu của ông gợi ý nhiều lý luận
khác nhau mà tất cả chúng đều gây tranh cãi. Một đặc điểm chủ yếu của những
lý luận này là khủng hoảng không phải ngẫu nhiên và không tự nhiên mà nó bắt
nguồn từ bản chất của chủ nghĩa tư bản với vai trò là một hình thái xã hội. Marx
viết, “cản trở của nền sản xuất tư bản chính là tư bản”.
Những lý luận này bao gồm:
1. Xu hướng suy giảm tỷ suất lợi nhuận. Tích tụ tư bản gắn liền xu hướng
chung của mức độ tập trung tư bản. Điều này tự nó làm giảm tỷ suất lợi
nhuận rồi kìm hãm chủ nghĩa tư bản và có thể đưa đến khủng hoảng.
2. Tiêu thụ dưới mức. Nếu giai cấp tư sản thắng thế trong cuộc đấu tranh
giai cấp với mục đích cắt giảm tiền lương và bóc lột thêm lao động, nhờ
đó tăng tỷ suất giá trị thặng dư, khi đó nền kinh tế tư bản đối mặt với vấn
đề thường xuyên là nhu cầu tiêu dùng không tương xứng với quy mô sản
xuất và tổng cầu không tương xứng với tổng cung.
3. Sức ép lợi nhuận từ lao động. Tích tụ tư bản có thể đẩy nhu cầu thuê
mướn tăng lên và làm tăng tiền lương. Nếu tiền lương tăng cao sẽ ảnh

hưởng đến tỷ suất lợi nhuận và khi đạt đến một mức độ nhất định sẽ gây
ra suy thoái kinh tế.
Về mặt lý luận, ít nhất những quan điểm trên không mâu thuẫn với nhau và có
thể đóng vai trò là những nội dung trong một học thuyết tổng hợp về khủng
hoảng kinh tế.


Chương 2: Các cuộc khủng hoảng kinh tế lớn trên thế giới
1. Cuộc đại khủng hoảng kinh tế tiền tệ từ năm 1929 – 1933
Khủng hoảng kinh tế thường xảy ra trong xã hội tư bản, nhưng cuộc khủng
hoảng kinh tế lần này rất nghiêm trọng và rất sâu sắc, vì nó kéo dài, bao trùm tất
cả các ngành của nền kinh tế.
Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 là cuộc khủng hoảng kinh tế lớn nhất
trong lịch sử của chủ nghĩa tư bản. Đó là cuộc khủng hoảng sản xuất “ thừa”,
bởi vì sự sản xuất bừa bãi, ồ ạt chạy theo lợi nhuận trong những năm ổn định
của chủ nghĩa tư bản 1924-1929 đã dẫn đến tình trạng hàng hoá ế thừa vì sức
mua của quần chúng đã bị giảm sút nhiều do sự bóc lột tàn tệ của giai cấp tư
sản.
Diễn biến:
Tháng 9 - 1929, cuộc khủng hoảng bắt đầu từ nước Mĩ, là nước tư bản giàu nhất.
Sản lượng công nghiệp ở Mĩ giảm 50%, trong đó gang, thép sụt xuống 75%, ô tô
giảm 90%, 11500 xí nghiệp nhỏ và cả những xí nghiệp lớn bị phá sản. Nông
thôn cũng bị tác động mạnh mẽ.
Để nâng cao giá hàng hoá và thu nhiều lời, các nhà tư bản kếch sù đã tiêu huỷ
hàng hoá : cà phê, sữa, lúa mì, thịt, ...v.v... bị đốt hay đổ xuống biển chứ không
được bán giá hạ.
Cuộc khủng hoảng lan rộng đến các nươc` tư bản chủ nghĩa khác. Ở Anh, sản
lượng gang năm 1931 sụt mất 50% , thép cũng sụt gần 50% , thương nghiệp sụt
60%. Ở Pháp, cuộc khủng hoảng bắt đầu từ cuối năm 1930và kéo dài đến năm
1936, sản lượng công nghiệp giảm 30%, nông nghiệp 40%, ngoại thương 60%,

thu nhập quốc dân 30%. Ở Đức, đến năm 1930, sản lượng công nghiệp giảm
77%. Ở các nước Ba Lan, Ý, Ru-ma-ni, Nhật, ... đều có khủng hoảng kinh tế.
- Để cứu vãn tình hình, chính phủ các nước tư bản thi hành một số chính sách
như đánh thuế nhập cảng nặng để hạn chế hàng hoá nước ngoài vào, lấy tiền
trong ngân quỹ nhà nước trợ cấp cho các nhà tư bản. Chính phủ Mĩ đã bỏ ra
hàng
chục
triệu
đô
la
trong
việc
trợ
cấp
này.
Cuộc khủng hoảng kéo dài trong 4 năm, đến năm 1933 thì chấm dứt.
Hậu quả:
Trong thời kì khủng hoảng kinh tế, đời sống nhân dân thật là khốn khổ.
Thứ nhất là nạn thất nghiệp. Ở Mĩ, năm 1933, có 17 triệu người thất nghiệp, đó
là chưa kể vô số nông dân bị phá sản, phải bỏ ruộng vườn đi ra thành phố sống
lang thang. Ở Anh, năm 1931, có 3 triệu người thất nghiệp. Ở các nước khác
cũng xảy ra tình trạng ấy.
Thứ hai là tiền lương bị giảm xuống rất nhiều. Ở Mĩ, lương công nhân công
nghiệp chỉ còn 56 % . Ở Anh lương giảm còn 66%; ở Pháp lương giảm từ 30


đến 40% . Đó là chưa kể giá đồng bạc sụt xuống làm cho tiền lương thực tế càng
bị giảm sút hơn. Ở Pháp, mức thu nhập của nông dân giảm 2,7 lần và hàng vạn
nông dân bị vỡ nợ và phá sản. Do đó đời sống của nhân dân lao động rất cùng
cực. Năm 1931, riêng thành phố Niu-ooc ( Mĩ ) có hàng nghìn người chết đói.

Bị đẩy đến bước cùng cực, công nhân và nhân dân lao động nổi dậy đấu tranh. Ở
Mĩ năm 1930 có 2 vạn công nhân biểu tình thị uy, từ năm 1929-1933, có 3 triệu
rưỡi công nhân tham gia bãi công. Ở Đức, năm 1930, 15 vạn công nhân bãi
công,
năm
1933,
35
vạn
công
nhân
mỏ
bãi
công.
Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 là cuộc khủng hoảng lớn nhất trong những
cuộc khủng hoảng kinh tế xảy ra từ xưa đến nay, kéo dài gần 4 năm. Sau đó là
thời kì tiêu điều. Nền kinh tế tư bản vừa hồi phục lại đôi chút, thì lại lâm vào
một cuộc khủng hoảng kinh tế mới 1937- 1938.
Khủng hoảng kinh tế làm cho mâu thuẫn giai cấp giữa tư bản và vô sản, giữa
nông dân lao động với địa chủ, phú nông trở nên gay gắt. Và một cao trào cách
mạng mới lại đến. Giai cấp thống trị các nước tư bản phải tăng cường chuyên
chính, hạn chế tự do dân chủ và ở một số nước, phải đi tới biện pháp cực đoan là
thiết lập chế độ phát xít.
Khủng hoảng kinh tế thế giới cũng làm cho mâu thuẫn giữa các đế quốc về vấn
đề thị trường trở nên cực kì gay gắt. Các đế quốc tích cực chuẩn bị chiến tranh
để chia lại thế giới. Chiến tranh thế giới thứ hai vì thế cuối cùng đã bùng nổ.


2. Cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1970
Khủng hoảng dầu mỏ 1973 bắt đầu diễn ra từ ngày 17 tháng 10 năm 1973 khi
các nước thuộc Tổ chức các quốc gia Ả Rập xuất khẩu dầu mỏ (gồm các nước Ả

Rập trong OPEC cùng với Ai Cập và Syria) quyết định ngừng xuất khẩu dầu mỏ
sang các nước ủng hộ Israel trong cuộc chiến tranh Yom Kippur chống lại Ai
Cập và Syria (gồm Hoa Kỳ, Nhật Bản và các nước Tây Âu). Sự kiện này đã
khiến giá dầu thế giới tăng cao đột ngột và gây ra cuộc khủng hoảng kinh tế
1973-1975 có quy mô toàn cầu. Một trong những nước chịu ảnh hưởng nặng nề
nhất từ cuộc khủng hoảng này, đó chính là Nhật Bản.
1973, cuộc khủng hoảng dầu mỏ nghiêm trọng chưa từng có bùng nổ rồi nhiều
cuộc khủng hoảng chính trị, kinh tế, tài chính, tiền tệ… tiếp diễn theo sau đó,
mở đầu cuộc khủng hoảng chung của toàn thế giới, đặt ra cho toàn thể nhân loại
những vấn đề bức thiết phải giải quyết như: sự bùng nổ dân số và hiểm hoạ vơi
cạn dần những tài nguyên thiên nhiên cung cấp cho sự sống của con người; yêu
cầu đổi mới, thích nghi về kinh tế, chính trị, xã hội trước sự phát triển vượt bậc
của cách mạng khoa học – kỹ thuật và sự giao lưu, hợp tác quốc tế ngày càng
phát triển mạnh mẽ theo xu thế quốc tế hoá cao…
Bắt đầu diễn ra từ ngày 17 tháng 10 năm 1973 khi các nước thuộc Tổ chức các
quốc gia Ả Rập xuất khẩu dầu mỏ (gồm các nước Ả Rập trong OPEC cùng với
Ai Cập và Syria) quyết định ngừng xuất khẩu dầu mỏ sang các nước ủng hộ
Israel trong cuộc chiến tranh Yom Kippur chống lại Ai Cập và Syria (gồm Hoa
Kỳ, Nhật Bản và các nước Tây Âu). Sự kiện này đã khiến giá dầu thế giới tăng
cao đột ngột và gây ra cuộc khủng hoảng kinh tế 1973-1975 có quy mô toàn cầu.
Cuộc Chiến tranh Yom Kippur, Ramadan War hay Chiến tranh tháng 10 (tiếng
Do Thái: ‫ ;מלחמת יום הכיפורים‬transliterated: Milkhemet Yom HaKipurim or ‫מלחמת‬
‫יום כיפור‬, Milkhemet Yom Kipur; Ả Rập: ‫ ;حرب أكتوبر‬transliterated: ħarb October
or ‫حرب تشرين‬, ħarb Tishrin), cũng còn gọi là Chiến tranh A Rập-Israel 1973 và
Chiến tranh A Rập-Israel thứ tư, là cuộc chiến diễn ra từ 6 cho tới 26 tháng 10
năm 1973 bởi liên minh các quốc gia A Rập dẫn đầu bởi Ai Cập và Syria chống
lại Israel. Cuộcc chiến khởi phát khi quân Ai Cập và Syria bất ngờ đồng loạt tấn
công Israel trong ngày lễ Yom Kippur, ngày lễ sám hối thiêng liêng của người
Do thái. Ai Cập và Syria vượt qua tuyến ngưng bắn tại bán đảo Sinai và Cao
nguyên Golan, vốn bị Israel chiếm năm 1967 trong cuộc Chiến tranh Sáu ngày.



Quân Ai Cập và Syria chiến thắng trong vòng 24–48 giờ đầu, sau đó tình hình
xoay chuyển theo hướng có lợi cho Israel. Tới tuần thứ hai của cuộc chiến, quân
Syria đã bị đánh bật khỏi Cao nguyên Golan. Tại Sinai, quân Israel đánh vào
chỗ nối tiếp hai đạo quân Ai Cập, vượt kênh đào Suez (là tuyến ngưng bắn trước
đó), cắt đứt Quân đoàn 3 Ai Cập, trước khi lệnh ngưng bắn của Liên Hiệp Quốc
có hiệu lực
Cuộc chiến có ảnh hưởng sâu rộng vì nhiều lý do khác nhau. Thế giới A Rập,
vốn bị đánh thua đau trong cuộc chiến tranh Sáu ngày, phấn chấn về mặt tâm lý
bởi một chuỗi thắng lợi lúc mở màn cuộc chiến. Tâm lý này mở đường cho cho
quá trình đàm phán hòa bình tiếp đó, và cũng khởi đầu cho các chính sách tự do
hóa của Ai Cập. Hiệp định hòa bình Trại David (1978) dẫn đến việc bình thường
hóa quan hệ giữa Ai Cập và Israel—lần đầu tiên một quốc gia Ả Rập công nhận
quốc gia Do thái. Ai Cập, vốn đã bắt đầu xa lánh Liên Xô, sau đó tách hoàn toàn
khỏi khu vực ảnh hưởng của Liên Xô (cũ).
Nguyên nhân chính của cuộc khủng hoảng dầu mỏ 1973 là "cuộc chiến tranh
Yom Kippur" (Yom Kippur là tên ngày lễ lớn nhất của người Do thái- lễ Sám
hối) xảy ra ngày 06/10/1973. Đây là cuộc chiến tranh giữa một bên là Ai CậpSyria cùng các đồng minh thuộc thế giới Ả Rập và một bên là Israel cùng các
đồng minh chính là Mỹ, Nhật và một số nước trong EU hiện nay. Trong cuộc
chiến tranh này, một động thái hỗ trợ chiến tranh quân sự của bên Ai Cập-Syria
chính là việc ngừng xuất khẩu dầu mỏ sang các nước ủng hộ Israel từ 10/1973
tới 4/1974, việc này đã đc "Tổ chức các quốc gia Ả Rập xuất khẩu dầu mỏ"(Các
nước Ả Rập trong OPEC, Ai Cập và Syria) thực hiện rất tốt.
Có một tài liệu khác thì lại cho biết nguyên nhân khác của cuộc khủng hoảng
1973:
Cuối năm 1973, một cuộc khủng hoảng dầu lửa bắt nguồn từ cuộc chiến tranh
vùng Vịnh chỉ trong mấy tháng đã “cuốn sạch” một nửa bán cầu rộng lớn. Tuy
nhiên, điều mà mọi người không biết đến chính là, sự bùng nổ cuộc khủng
hoảng này trên thực tế là hậu quả các hãng dầu mỏ lớn và các nhà đầu cơ tài

chính của Anh – Mỹ đã nhúng tay vào dưới sự ủng hộ của chính phủ.
Chinanews ngày 3/9 đưa tin, một học giả chính trị Đức đã dùng lịch sử khoa học
thiết thực để phân tích, vén bức màn bí mật về việc các nước phương Tây (chủ


yếu là Anh, Mỹ) sử dụng vũ khí dầu mỏ để tạo dựng sự bá quyền toàn cầu của
mình.
Tháng 5/1973, 84 chính trị gia và giới tài chính hàng đầu thế giới đã tề tựu tại
hòn đảo du lịch Baden của gia tộc Wallenberg, Thụy Điển. Trong cuộc họp bí
mật do “Câu lạc bộ Bilderberg” tổ chức, ông Levy đại diện cho phía Mỹ đã
miêu tả sinh động những lợi ích thu được của các nước xuất khẩu dầu mỏ
OPEC, tức là viễn cảnh tăng trưởng gấp 4 lần từ nguồn lợi dầu mỏ. Cuộc gặp
mặt tập thể này nhằm thao túng dòng chảy đô la dầu mỏ sắp xảy ra.
Từ năm 1945 đến nay, do các công ty dầu mỏ của Mỹ thống lĩnh thị trường năng
lượng, đồng USD với tiêu chuẩn định giá dầu mỏ đã trở thành thông lệ quốc tế.
Do đó, với việc giá dầu quốc tế đột nhiên tăng mạnh cũng đồng nghĩa với việc
lượng nhu cầu đồng USD dùng để thu mua dầu mỏ cũng đã tăng theo. Để hành
động, họ đã quyết định sử dụng vũ khí quyền lực tối cao để khống chế dòng
chảy dầu mỏ của thế giới.
Ngày 6/10/1973, cuộc “chiến tranh Yom Kippur” tại Trung Đông bùng nổ và
hậu quả của nó vô cùng nghiêm trọng. Thậm chí kiểu “ngoại giao con thoi” của
cựu Ngoại trưởng Mỹ Kissinger trên thực tế đều sắp xếp dựa trên cương lĩnh của
hội nghị Baden. Kết quả, nước sản xuất dầu mỏ Ả rập cũng đã trở thành “nạn
nhân bất đắc dĩ”, còn tổ hợp lợi nhuận Anh – Mỹ đáng ra phải chịu trách nhiệm
lại bình an vô sự núp đằng sau.
Ngày 16/10/1973, OPEC quyết định nâng giá dầu mỏ từ 3,01USD/thùng lên
5,11USD/thùng, biên độ tăng lên tới 70% (đến giữa năm thứ hai, con số này đạt
gần 12USD). Ngày hôm sau, các nước thành viên OPEC chính thức tuyên bố
ngừng xuất khẩu dầu mỏ cho Mỹ và Hà Lan. Cho đến lúc đấy, cuộc khủng
hoảng dầu lửa lần thứ nhất làm chấn động lịch sử thế giới bùng phát toàn diện.

Diễn biến:
Trong giai đoạn khủng hoảng dầu mỏ, tại nhiều bang mỗi người dân chỉ được
phép mua một lượng xăng dầu nhất định giá xăng trung bình tại Mỹ cũng tăng
86% chỉ trong 1 năm từ 1973-1974.


Không dừng lại ở đó, khủng hoảng dầu mỏ đã tạo ra thay đổi lớn trong chính
sách của phương tây, trong đó chú trọng tìm kiếm và bảo tồn năng lượng tự
nhiên, cũng như đặt ra các quy định tiền tệ chặt chẽ hơn để chống lạm phát.
Trái lại, biến cố trên góp phần thay đổi đáng kể vị thế chính trị, kinh tế của các
nước xuất khẩu dầu, đặc biệt các quốc gia Ả-rập tại khu vực Trung Đông.
Một vụ đổ vỡ nữa xảy đến với thị trường chứng khứng toàn cầu vào năm 197374. Chỉ số FT30 của Sở giao dịch chứng khoán London (khi ấy tương đương với
chỉ số Dow Jones) mất 73% giá trị, khiến đồng đô la Mỹ mất giá và làm cuộc
khủng hoảng dầu lửa 1973 thêm tồi tệ.
Kết quả là với việc dầu mỏ khan hiếm ở các quốc gia phương Tây mà nhu cầu
thì quá lớn,cuộc khủng hoảng làm tăng giá dầu thô gấp 4 lần vào năm 1973 dẫn
đến giá dầu đã tăng vòn vọt trong một thời gian ngắn lên đến gần 100$/thùng.
Chính cuộc khủng hoảng năng lượng này đã gây ra cuộc khủng hoảng kinh tế
1973-1975 trên quy mô toàn cầu


3. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới từ năm 2007 – 2009
Khủng hoảng tài chính 2007-2010 là một cuộc khủng hoảng bao gồm sự đổ vỡ
hàng loạt hệ thống ngân hàng, tình trạng đói tín dụng, tình trạng sụt giá chứng
khoán và mất giá tiền tệ quy mô lớn ở nhiều nước trên thế giới, có nguồn gốc từ
khủng hoảng tài chính ở Hoa Kỳ.
Bong bóng nhà ở cùng với giám sát tài chính thiếu hoàn thiện ở Hoa Kỳ đã dẫn
tới một cuộc khủng hoảng tài chính ở nước này từ năm 2007, bùng phát mạnh từ
cuối năm 2008. Thông qua quan hệ tài chính nói riêng và kinh tế nói chung mật
thiết của Hoa Kỳ với nhiều nước. Cuộc khủng hoảng từ Hoa Kỳ đã lan rộng ra

nhiều nước trên thế giới, dẫn tới những đổ vỡ tài chính, suy thoái kinh tế, suy
giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế ở nhiều nước trên thế giới.
Khủng hoảng tài chính Hoa Kỳ 2007-2009:
Hoa Kỳ là điểm xuất phát và là trung tâm của cuộc khủng hoảng. Ngay khi bong
bóng nhà ở vỡ cuối năm 2005, kinh tế Hoa Kỳ bắt đầu tăng trưởng chậm lại.
Tuy nhiên, bong bóng vỡ đã dẫn tới các khoản vay không trả nổi của người đầu
tư nhà ở đối với các tổ chức tài chính ở nước này. Giữa năm 2007, những tổ
chức tài chính đầu tiên của Hoa Kỳ liên quan đến tín dụng nhà ở thứ cấp bị phá
sản. Giá chứng khoán Hoa Kỳ bắt đầu giảm dần. Sự đổ vỡ tài chính lên đến cực
điểm vào tháng 10 năm 2008 khi ngay cả những ngân hàng khổng lồ và lâu đời
từng sống sót qua những cuộc khủng hoảng tài chính và kinh tế trước đây, như
Lehman Brothers, Morgan Stanley, Citigroup, AIG, … cũng lâm nạn. Tình trạng
đói tín dụng xuất hiện làm cho khu vực kinh tế thực của Hoa Kỳ cũng rơi vào
tình thế khó khăn, điển hình là cuộc Khủng hoảng ngành chế tạo ô tô Hoa Kỳ
2008-2010.
Chỉ số bình quân công nghiệp Dow Jones lúc đóng cửa ngày 9 tháng 3 năm
2009 là 6.547,05, mức thấp nhất kể từ tháng 4 năm 1997. Chỉ trong vòng 6 tuần
lễ, chỉ số này sụt tới 20%.
Nhiều tổ chức tài chính của các nước phát triển, nhất là các nước ở châu Âu,
cũng tham gia vào thị trường tín dụng nhà ở thứ cấp ở Hoa Kỳ. Chính vì vậy,
bóng bóng nhà ở của Hoa Kỳ bị vỡ cũng làm các tổ chức tài chính này gặp nguy
hiểm tương tự như các tổ chức tài chính của Hoa Kỳ. Những nước châu Âu bị
rối loạn tài chính nặng nhất là Anh, Iceland, Ireland, Bỉ và Tây Ban Nha.
Ngay từ tháng 9 năm 2007, Northern Rock của Anh bị tình trạng đột biến rút
tiền gửi và hậu quả là phải chịu quốc hữu hóa. Đột biến rút tiền gửi còn làm
căng thẳng các ngân hàng khác của nước này. Sang năm 2008, đến lượt
Bradford & Bingley plc của Anh phải chịu chia nhỏ thành 2 công ty riêng biệt.


Các ngân hàng khác phải chịu đổi chủ sở hữu bao gồm Catholic Building

Society, Alliance & Leicester. London Scottish Bank và Dunfermline Building
Society phải chịu sự giám sát đặc biệt của Chính phủ Anh.
Ở Iceland đã xảy ra một cuộc khủng hoảng ngân hàng trên diện rộng. Ngay quý
I năm 2008, GDP của Iceland giảm 1,5%, mức giảm lớn nhất kể từ năm 1983 tới
thời điểm này. Glitnir, Straumur Investment Bank, Reykjavík Savings Bank phải
chịu quốc hữu hóa. Kaupthing, Landsbanki của nước này phải chịu đặt dưới sự
quản lý của cơ quan giám sát tài chính quốc gia.
Đầu năm 2008, xếp hạng tín dụng của Ngân hàng Ireland bị giảm, khiến cho giá
cổ phiếu của ngân hàng này sụt ghê gớm, giá cổ phiếu tại thời điểm đầu tháng 3
Năm 2008 giảm tới 99% so với giá đỉnh cao vào năm 2007. Đầu năm 2009,
Anglo Irish Bank bị quốc hữu hóa. Allied Irish Banks cũng phải chịu tình trạng
cổ phiếu mất giá ghê gớm và phải chấp nhận cải cách để nhận được khoản vay
tái cơ cấu của Chính phủ.
Cuối năm 2008, Fortis của Bỉ bắt đầu bị bán dần, chỉ còn lại các bộ phận kinh
doanh dịch vụ bảo hiểm. Dexia chịu khoản lỗ 3,3 tỷ euro và phải xin Chính phủ
Bỉ cho vay để củng cố.
Ở Hà Lan, để đảm bảo hệ số an toàn vốn, ING Group đã phải xin Chính phủ Hà
Lan cho vay. Ở Đức, ngày từ đầu năm 2008, người ta phát hiện ra rằng
BayernLB đã chịu những khoản lỗ lớn do tham gia vào thị trường tín dụng nhà ở
thứ cấp ở Hoa Kỳ. Sau đó, ngân hàng này đã phải cầu xin sự giúp đỡ của Chính
phủ Liên bang Đức.
Các thị trường chứng khoán lớn của thế giới ở New York, London, Paris,
Frankfurt, Tokyo đều có thời điểm sụt giá lớn lịch sử.
Ở châu Âu, chỉ số FTSE 100 từ mức 4789,79 xuống còn 4699,82. Chỉ số DAX
hôm 2 tháng 3 năm 2009 chỉ còn 3666,4099 điểm so với 8067,3198 hôm 27
tháng 12 năm 2007. Chỉ số CAC 40 hôm 2 tháng 3 năm 2009 cũng xuống mức
thấp kỷ lục 2534,45 điểm.
Nhật Bản có một hệ thống tài chính tương đối vững vàng đã trải qua một thời kỳ
tái cơ cấu sau khủng hoảng 1996-1997. Tuy nhiên, tác động tiêu cực từ khủng
hoảng tài chính Hoa Kỳ vẫn khiến cho thị trường chứng khoán của nước này rối

loạn. Chỉ số giá cổ phiếu bình quân Nikkei đã xuống mức thấp lịch sử vào các
ngày 8 và 10 tháng 10 năm 2008.


Chương 3: Tác động của các cuộc khủng hoảng
1. Tác động đến nền kinh tế thế giới và mỗi quốc gia
Cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ, bắt đầu một năm trước đây, đã bước vào một thời
kỳ mới, ảm đạm hơn với sự sụp đổ của một loạt tập đoàn tài chính khổng lồ làm rung
chuyển nền kinh tế lớn nhất thế giới.
- Từ Phố Wall đến Tokyo, Thượng Hải các chỉ số chứng khoán đều tuột dốc mạnh. Tại
Châu Âu : Paris, Luân Đôn, Franfurt hay Amsterdam cùng chung số phận. Thị trường
Matxcơva cũng lâm vào tình trạng hoảng loạn đến nỗi phải tạm đóng cửa để chờ cho
cơn bão đi qua.
- Các nền kinh tế lớn nhất thế giới đã tiêu tốn tổng số 10,8 nghìn tỷ USD cho việc
chống khủng hoảng.
- Lĩnh vực tài chính tư nhân của thế giới đã chịu khoản thâm hụt tài sản lên tới 4 nghìn
tỷ USD trong năm 2009.
- Những số liệu thua lỗ trên là GDP của thế giới sụt giảm 2,3% trong năm 2009, tương
đương mức giảm gần 1 nghìn tỷ USD.
- Ba cột trụ chính của thế giới, Hoa Kỳ, Châu Âu và Nhật Bản trong hai quý cuối năm
liên tục đưa ra những chỉ số bi quan : thất nghiệp gia tăng, nhu cầu tiêu thụ từ Âu sang
Á đều bị chựng lại, sản xuất công nghiệp, xuất khẩu đều đi xuống.
- Ở Nhật, tình hình cũng đang xấu đi với tốc độ đáng báo động. Tốc độ suy thoái tại
của Nhật Bản thời gian gần đây đã vượt cả Mỹ, nơi đang phải trải nghiệm cuộc khủng
hoảng kinh tế khủng khiếp nhất trong vòng một thế kỷ qua.
- Nước Anh cũng đang trải qua những ngày u ám khi Quỹ Tiền tệ quốc tế IMF dự
đoán nền kinh tế lớn thứ 2 châu Âu có thể phải chịu đựng mức suy thoái lên tới 2,8% nặng nề nhất trong các nền kinh tế phương Tây.
- Theo dự báo của Tổ chức Hợp tác và Phát triển, sẽ có thêm từ 20 đến 25 triệu người
thất nghiệp trong hai năm sắp tới.
Sản xuất dầu hỏa tiêu điều : giá dầu xuống dưới ngưỡng 35 đô la một thùng mà khách

hàng thì vẫn dửng dưng.
Ngành công nghiệp xe hơi thế giới làm ăn thua lỗ, Big Tree là GM, Ford và Chrysler
của Hoa Kỳ đứng bên bờ vực thẳm, phải ngửa tay xin tiền của Quốc hội. Toyota lần
đầu tiên từ khi được hình thành bị thua lỗ.

2. Tác động đến nước Mỹ:
Nước Mỹ gặp phải 3 vấn đề lớn về tài chính:
- Thứ nhất sự phát triển không kiểm soát của thị trường cho vay địa ốc dưới chuẩn, có
nghĩa là không cần đặt cọc, không cần đủ thu nhập để chi trả mà vẫn được vay.
- Thứ hai cho vay tiêu dùng qua thẻ tín dụng quá mức mà City Group là nạn nhân đầu
tiên, lỗ 18 tỉ USD.
- Thứ ba, khủng hoảng tín dụng đã lan rộng đến cả khu vực đầu tư địa ốc văn phòng,
chứ không chỉ tập trung vào khu nhà ở.
Do đó gói giải cứu kinh tế của chính phủ Mỹ phải bơm vào thị trường tiêu tốn hơn 700
tỷ USD.
-Theo thống kê của chính phủ Mỹ, nền kinh tế Mỹ mất 605.000 việc làm trong 8 tháng
đầu năm 2008, đẩy tỉ lệ thất nghiệp từ 6,2% lên 9,7%, cao nhất trong 5 năm trở lại đây.


-Thâm hụt ngân sách trong năm 2008 đã ước tính lên tới con số 15.900 tỉ đô la, cao
nhất trong lịch sử, và số tiền nợ của chính phủ Mỹ đã lên tới con số kỉ lục trên 9.600 tỉ
đô la, tương đương khoảng 60% Tổng thu nhập Quốc dân của Mỹ.
-Các ngân hàng hàng đầu của Mỹ điêu đứng vì khủng hoảng, hoặc bị sáp nhập, hoặc bị
mua lại, tùy thuộc vào Chính Phủ.
-Đồng USD xuống giá khoảng 20% so với đồng euro cũng trong vòng năm qua.
-Gánh nặng ngân sách và đòi hỏi phải cấp tốc cải cách bộ máy chính quyền, phục hồi
hệ thống tài chính – ngân hàng, sẽ hạn chế chính phủ mới của Mỹ trong việc theo đuổi
các chương trình quốc nội và các cam kết quốc tế, đặc biệt là khả năng duy trì hai cuộc
chiến tranh tại Afghanistan và Iraq.
- Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ có thể dẫn đến sự sụp đổ của “đế chế Hoa Kỳ”, làm

thay đổi trật tự thế giới đơn cực hiện tại.


TÀI LIỆU THAM KHẢO










Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê Nin.
Báo The New York Times


Tác phẩm The End of History and the Last Man, xuất bản năm 1992, tác giả
Francis Fukuyama.
Chính phủ (2008), Báo cáo tại Kỳ họp Quốc hội tháng 11 năm 2008;
Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế xã hội (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), Báo
cáo nhanh.
Thông tấn xã Việt Nam
Và các nguồn khác.



×