Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Phân tích biến động lãi suất trong năm 2011 và dựbáo xu hướng lãi suất năm 2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (263.56 KB, 35 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lãi suất là một trong những biến số kinh tế quan trọng được theo dõi
một cách
chặt chẽ nhất trong nền kinh tế và cũng là một phạm trù kinh tế phản ánh
mối quan hệ
giữa người đi vay và người cho vay, phản ánh mối quan hệ giữa cung và cầu
tiền tệ, thực
trạng kinh tế của một nước. Việc nắm bắt biến động lãi suất có vai trò rất
quan trọng là
chìa khóa ảnh hưởng trực tiếp đến các quyết định của cá nhân, doanh nghiệp
cũng như
hoạt động của các tổ chức tín dụng cả toàn bộ nền kinh tế, các chính sách
điều tiết nền
kinh tế vĩ mô của nhà nước.
Lãi suất luôn thu hút được sự quan tâm của giới đầu tư và người dân.
Vì đây là một là một căn cứ so sánh hiệu quả đầu tư giữa các phương án đầu
tư của cá nhân, doanh nghiệp Trong thời gian vưa qua lãi suất là biến số
kinh tế khá nhạy cảm, đặc biết là 6 đầu năm 2011 mức lãi suất huy động
thực lên tới 19 -20%/năm, nghĩa là gần gấp rưỡi mức trần 14% và trong.6
tháng cuối năm 2011 lãi suất ít biến động, ổn định
Vậy đâu là nguyên nhân của hiện tượng biến động này, xu hướng của nó
trong thời gian tới ra sao và tác động của nó như thế nào là vấn đề thu hút sự
quan tâm của nhiêu người. Xuất phát từ tình hình và yêu cầu thực tế đó,
nhóm em chọn đề tài” Phân tích biến động lãi suất trong năm 2011 và dự
báo xu hướng lãi suất năm 2012” làm đề tài cho bài tiểu luận của mình
2. Mục đích nghiên cứu
1


Trên cở sở nghiên cứu cở sở lý luận về lãi suất, các nhân tố ảnh hưởng


lãi suất
thực trạng biến động lãi suất trong năm 2011, tiểu luận nhằm mục
đích tìm ra nguyên nhân gây ra sự biến động đó và đưa ra một số dự
báo xu hướng lãi suất năm 2012 ở Việt Nam
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là sự biến động lãi suất và dự báo xu
hướng lãi suất. Pham vi nghiên cứu là lãi suất Việt Nam trong giai
đoạn từ năm 2007 đến nay
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu bằng sử dụng phương pháp như so sánh, phương
pháp logic, tổng hợp, thống kê từ các bảng biểu, báo cáo thường niên
của các bộ cơ quan ban ngành và các tổ chức quốc tế
5. Nội dung nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu kết luận, danh mục chữ viết tắt, danh mục tài liệu
tham khảo , nội dung chính tiểu luận được chia làm 3 chương có
mootis quan hệ chặt che với nhau.
Chương I: Tổng quan về lãi suất
Chương II: Phân tích biến động lãi suất trong năm 2011
Chương III: Dự báo xu hướng lãi suất năm 2012

2


CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ LÃI SUẤT
I.

KHÁI NIỆM LÃI SUẤT

Kể từ khi hoạt động kinh tế xã hội của loài người phát triển từ thời sơ khai
cho đến nay đã phát triển đến trình độ cao, trong nền kinh tế luôn tồn tại một

mâu thuẫn đó là tại một thời điểm luôn tồn tại song song vấn đề dư thừa vốn
và thiếu hụt vốn. Mâu thuẫn này xuất phát từ sự tuần hoàn của vốn trong nền
kinh tế và được giải quyết thông qua hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín
dụng.
Với mạng lưới rộng khắp của mình, các ngân hàng thương mại và các tổ
chức tín dụng đã huy động được phần lớn lượng vốn nhàn rỗi trong xã hội
để tạo lập quỹ cho vay. Hàng hóa đặc biệt trên thị trường mà các ngân hàng
và tổ chức tín dụng đưa ra trao đổi chính là “vốn tiền tệ”. Thật vậy ngân
hàng tổ chức hoạt động kinh doanh của mình theo hình thức đi vay và cho
vay. Để đảm bảo hoạt động kinh doanh của mình an toàn và có hiệu quả thì
giữa vốn đi vay và vốn cho vay phải có sự chênh lệch nhất định, khoản
chênh lệch này gọi là lợi tức (lãi suất).
Lãi suất hiểu theo một nghĩa chung nhất là giá cả của tín dụng, vì nó là giá
của quyền được sử dụng vốn vay trong một khoảng thời gian nhất định, mà
người sử dụng phải trả cho người cho vay; là tỷ lệ của tổng số tiền phải trả
so với tổng số tiền vay trong một khoảng thời gian nhất định. Lãi suất là giá
mà người vay phải trả để được sử dụng tiền không thuộc sở hữu của họ và là
lợi tức người cho vay có được đối với việc trì hoãn chi tiêu.
Lợi tức là một phạm trù kinh tế gắn liền với sự vận động của tín dụng và do
bản chất của tín dụng quyết định. Lợi tức tín dụng là thu nhập mà người cho
vay nhận được ở người đi vay trả cho việc sử dụng tiền vay. Thực chất, lãi
suất được biểu hiện bằng quan hệ tỷ lệ giữa lợi tức tín dụng và tổng số tiền
vay trong một thời gian nhất định
3


II.

.CÁC LOẠI LÃI SUẤT TÍN DỤNG


Căn cứ vào từng nghiệp vụ hay giá trị hay tính linh hoạt của lãi suất mà lãi
suất được chia thành nhiều loại khác nhau.tuy nhiên trong giới hạn của bài
tiểu luận này tôi chỉ đưa ra một số loại lãi suất tiêu biểu, được theo dõi chặt
chẽ trong nền kinh tế và có tác động mạnh mẽ tới hoạt động kinh doanh của
các cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp, ngân hàng. Sau đây là một số khái
niệm lãi suất cơ bản:
1. Lãi suất đơn
Là lãi suất tính một lần trên số vốn gốc cho suốt kỳ hạn vay.
Công thức: L = V0 x i x hóa Trong đó

V0: Vốn gốc
i: lãi suất
n: số thời kỳ gửi vốn
Thời kỳ gửi vốn phải tương đương với thời kỳ của lãi suất.
2. Lãi suất thực tế
Là lãi suất được điều chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi về lạm phát.
Hay nói cách khác là lãi suất đã trừ đi tỷ lệ lạm phát.
4


3. Lãi suất cơ bản
Là lãi suất được các ngân hàng sử dụng làm cơ sở để ấn định mức lãi suất
kinh doanh của mình. Lãi suất cơ bản là lãi suất thấp nhất được các ngân
hàng thương mại chủ lực áp dụng đối với các khoản vay dành cho các
doanh nghiệp là khách hàng lớn, độ tín nhiệm cao. Lãi suất này được
quyết định bởi Ngân hàng Trung Ương.
4. Lãi suất liên ngân hàng
Là lãi suất các ngân hàng áp dụng cho nhau khi cho vay trên thị trường
liên ngân hàng.
5. Lãi suất chiết khấu

Áp dụng khi ngân hàng thương mại cho khách hàng vay dưới hình thức
chiết khấu các giấy tờ có giá chưa đến hạn thanh toán và thỏa mãn các
điều kiện chiết khấu theo qui định. Nó được tính bằng tỷ lệ % trên mệnh
giá của giấy tờ có giá và được khấu trừ ngay khi ngân hàng phát tiền vay
cho khách hàng.
6. Lãi suất tiền gửi
Được áp dụng để tính lãi phải trả cho người gửi tiền. Lãi suất tiền gửi có
nhiều mức khác nhau phụ thuộc vào thời hạn, qui mô tiền gửi.
7. Lãi suất cố định
Là lãi suất được cố định trong suốt thời hạn vay.
5


8. Lãi suất hoàn vốn
Là lãi suất làm cân bằng giá trị hiện tại của tiền thu nhập nhận được trong
tương lai từ một khoản đầu tư với giá trị hôm nay của khoản đầu tư đó. Ví
dụ: 1/1/2010: Khách hàng A mua 1 trái phiếu mệnh giá 1000đ với giá mua là
800đ,

thời

hạn

2

năm.

Giá trị hiện tại của khoản đầu tư là 800đ
Tiền thu nhập nhận được trong tương lai (1/1/2012) là 1000đ
Lãi suất hoàn vốn là i

Ta có phương trình: 800 = 1000/(1+i)2. Tính ra i = 11,8%
9. Lãi suất danh nghĩa
Là lãi suất tính theo giá trị danh nghĩa của tiền tệ vào thời điểm nghiên
cứu hay nói cách khác là loại lãi suất chưa loại trừ đi tỷ lệ lạm phát. Lãi
suất danh nghĩa thường được thông báo chính thức trong các quan hệ tín
dụng.
10.Lãi suất tái chiết khấu
Áp dụng khi ngân hàng Trung ương tái cấp vốn cho các ngân hàng dưới
hình thức chiết khấu lại các giấy tờ có giá ngắn hạn chưa đến hạn thanh
toán của ngân hàng. Lãi suất này do NHTƯ ấn định căn cứ vào mục tiêu
của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ và chiều hướng biến động lãi
suất trên thị trường tiền tệ.
11.Lãi suất tiền vay
Được áp dụng để tính lãi tiền vay mà khách hàng phải trả cho ngân hàng.

6


Lãi suất tiền vay có sự phân biệt giữa các khoản vay với thời hạn khác
nhau, mức rủi ro khác nhau.
12.Lãi suất thả nổi
Lãi suất thả nổi là lãi suất có thể thay đổi theo lãi suất tham chiếu hoặc
theo chỉ số lạm phát, nó không cố định trong suốt thời hạn vay.
13.Lãi suất kép
Là mức lãi suất có tính đến giá trị đầu tư lại của lợi tức thu được trong
thời hạn sử dụng tiền vay. Lãi của kỳ trước được nhập vào gốc để tính lãi
cho kỳ sau
Công thức: V = V0 x (1 + i)n
Trong đó
V: số tiền thu được theo lãi gộp sau n kỳ.

V0: Số tiền gốc ban đầu
Lãi suất kép = (1 + i)n – 1.
III.

CẤC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN LÃI SUẤT
Hoạt động trong nền kinh tế thị trường nên lãi suất luôn luôn biến động

và chịu tác động của nhân tố, sau đây là một số nhân tố quan trọng và tiêu
biểu:
3.1.Nhóm nhân tố ảnh hưởng đến cung cầu vốn
Lãi suất được xem là giá cả của quyền sử dụng vốn, do đó nó được xác định
trên cơ sở quan hệ cung cầu vốn trong thị trường.
Cầu vốn là nhu cầu vay vốn phục vụ mục đích kinh doanh hoặc tiêu dùng
khác nhau của các chủ thể khác nhau trong nền kinh tế. Tổng cầu vốn biến
7


động ngược chiều với sự biến động của lãi suất.Vì lẽ đó, đường cầu biểu
diễn mối quan hệ giữa lãi suất và cầu vốn là đường dốc xuống. Độ dốc càng
thoải phản ánh cầu vốn càng nhạy cảm với lãi suất. Cung vốn là khối lượng
tiền dùng để cho vay kiếm lời của các chủ thể khác nhau trong xã hội.Cung
vốn được tạo bởi số vốn dư thừa chưa sử dụng đến của các cá nhân,hộ gia
đình, hay doanh nghiệp, chính phủ trong nước hay nước ngoài. Mặc dù có
những bộ phận không nhạy cảm với lãi suất nhưng chúng chiếm tỉ lệ rất nhỏ
trong cung vốn nên cung vốn rất nhạy cảm với lãi suất, cung vốn tăng khi lãi
suất tăng và ngược lại ( khi lạm phát dự tính, của cải không đổi). Đường
cung biểu diễn mối quan hệ lãi suất với lương cung vốn là đường dốc lên, độ
dốc càng thoải chứng tỏ cung vốn càng nhạy cảm với lãi suất.
Đường cung và cầu vốn cắt nhau sẽ hình thành nên điểm lãi suất cân bằng
trên thị trường

• Nhóm nhân tố dịch chuyển đường cung vốn:
1) Tài sản và thu nhập
2) Lợi tức dự tính
3) Rủi ro
4) Tính lỏng
• Nhóm nhân tố dịch chuyển đường cầu vốn
1) Khả năng sinh lợi dự tính của các cơ hội đầu tư
2) Lạm phát dự tính
3) Tình hình ngân sách chính phủ
3.2.Các nhân tố ảnh hưởng đến cung cầu tiền tệ
Khi nghiên cứu về cung cầu tiền tệ, ta thấy có mối liên hệ giữa lãi suất với
cung cầu tiền tệ trên thị trường: ứng với mỗi mức cung cầu tiền sẽ xác định
được một mức lãi suất cân bằng tương ứng. Cho nên có thể nói nhưngx nhân
8


tố ảnh hưởng đến cung cầu tiền tệ cũng ảnh hưởng đến sự biến động của lãi
suất trên thị trường tương
• Nhóm nhân tố dịch chuyển đến cầu tiền gồm có:
1) Thu nhập
2) Mức giá
• Nhóm nhân tố tố dịch chuyển đến cung tiền gồm có:
1) Tác dụng tính lỏng
2) Tác dụng thu nhập
3) Tác dụng mức giá
4) Tác dụng lạm phát dự tính

9



CHƯƠNG II – PHÂN TÍCH BIẾN ĐỘNG LÃI SUẤT NĂM 2011
I.DIỄN BIẾN LÃI SUẤT TRONG THỜI GIAN QUA
Các ngân hàng thông báo và đường cong lãi suất mà thị trường chấp
nhận trong điều kiện mức lãi suất luôn có xu hướng tăng lên (từ năm 2008
đến nay). Ứng với các thời điểm Hiệp hội Ngân hàng và Ngân hàng Nhà
nước (NHNN) kêu gọi đồng thuận và ra quyết định khống chế lãi suất tiền
gửi lần lượt ở mức 11% (tháng 7/2010), 12% (tháng 11/2010), 14%
(tháng

12/2010)

Thông tư



cuối cùng



chế tài hóa đồng thuận theo

số 02/NHNN/2011 ngày 3/3/2011, các ngân hàng thông báo

mức lãi suất trong giới hạn của đồng thuận song song với việc áp dụng một
mức lãi suất thực chênh lệch khoảng 2 - 3% cho khách hàng gửi tiền. Bên
cạnh đó, các ngân hàng áp dụng cùng một mức lãi suất cho các kỳ hạn khác
nhau, đặc biệt, cho kỳ hạn từ 6 tháng trở xuống, cá biệt, có thể áp dụng cho
cả kỳ hạn 12 tháng làm cho đường cong lãi suất trở nên nằm ngang.
Nếu loại bỏ phần bù rủi ro tính lỏng ứng với kỳ hạn thì thực chất
đường cong lãi suất ngân hàng luôn có xu hướng dốc xuống từ năm

2009 đến nay, đặc biệt từ đầu năm 2010 tới nay. Trong thực tế, với
những kỳ vọng về lạm phát, mức độ căng thẳng thanh khoản và nhu cầu vốn
cho phục hồi và tăng trưởng thì đường cong lãi suất của Việt Nam không thể
có xu hướng này trong thời gian qua. Nếu nhìn mức độ dịch chuyển vị trí
của đường cong lãi suất từ năm 2009 đến năm 2011 có thể thấy rõ xu hướng
này (Bảng 1&2).
10


Bảng 1: Chênh lệch lãi suất so với 2011
Đơn vị: điểm cơ bản ( 100 điểm cơ bản = 1%)
thời hạn

2007/11

2008/11

2009/11

2010/11
1 tháng

896

100

940

530
2 tháng


880

100

930

520
3 tháng

910

120

940

531
6 tháng

914

120

914

531
9 tháng

910


110

910

531
12 thang

880

110

880

531
24 tháng

750

100

750

100

750

420
36 tháng

750


420

11


Bảng 2: Mức độ biến động lãi suất hàng năm 2007-2011.
Đơn vị: điểm cơ bản ( basic point)

Thời hạn

2007/08

2008/09

2009/10

2010/11
1 tháng

796

-840

410

530
2 tháng

780


-830

410

520
3 tháng

790

-820

409

531
6 tháng

794

-790

379

531
9 tháng

800

-790


369

531
12thang

770

-780

359

531
24 tháng

750

-740

320

420
36 tháng

750

-700

280

420


Tỷ trọng các khoản tiền gửi trung và dài hạn là rất nhỏ (các khoản vốn
gửi thời hạn từ 2 năm trở lên trong hệ thống ngân hàng chỉ chiếm khoảng
10% tổng số dư tiền gửi). Tới 90% các khoản tiền gửi có kỳ hạn dưới
12


12 tháng, trong đó, phần lớn là thời hạn 1 - 2 tháng. Các nhu cầu gửi tiền
thời hạn dài hơn thường là sử dụng hình thức lãi suất thả nổi theo cách quay
vòng các khoản tiền gửi 1 hoặc 2 tháng. Theo cách đó, các khoản vốn nằm
liên tục ở ngân hàng 6 tháng hoặc 12 tháng có lãi suất thực tế cao hơn nhiều
so với lãi suất thông báo trên bảng điện tử và được tính theo công
thức: Yn= (1+i) - 1 (trong đó, Yn là lãi suất kỳ hạn xem xét, i là lãi suất
ngắn hạn 1 tháng). Và nếu tính theo cách thực tế này, đường cong lãi suất
ngân hàng có hướng dốc lên chứ không nằm ngang hoặc dốc xuống.
Nếu tính thêm cả các khoản thanh toán đầu kỳ gửi hoặc các khoản khuyến
mại kèm theo ở một số ngân hàng thì đường cong lãi suất thực tế có độ dốc
khá cao
II.NGUYÊN NHÂN GÂY BIẾN ĐỘNG LÃI SUẤT TRONG NĂM
2011
Một là, quan hệ cung cầu thanh khoản căng thẳng trong thời gian quý
II và vẫn tiếp tục trong thời gian tới trước khi các chính sách giải
phóng
nguồn ngoại tệ (vì thế, mà nới nguồn cung nội tệ) phát huy hiệu quả. Diễn
biến này làm cho đường cong lãi suất ngân hàng có xu hướng dốc lên. Tình
trạng này xuất phát từ độ chênh lệch giữa tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng
và tốc độ tăng trưởng huy động vốn và từ chênh lệch thời lượng của bảng
cân đối tài sản của các ngân hàng thương mại (NHTM). Nguyên do không
chỉ trực tiếp từ chênh lệch kỳ hạn các khoản tiền gửi và cho vay mà còn gián
tiếp từ chất lượng tín dụng thấp kéo theo tình trạng gia hạn nợ, giãn nợ hoặc

nợ xấu làm tăng “duration gap” của bảng cân đối. Trong thực tế, vấn đề này
đôi khi đến từ các NHTM cổ phần nhỏ vốn gặp khó khăn trong huy động
vốn, buộc phải sử dụng công cụ duy nhất là lãi suất và các phương
tiện
13


khuyến mãi để hấp dẫn người gửi tiền. Để ngăn cản luồng vốn di chuyển,
các ngân hàng lớn cũng buộc phải tăng lãi suất huy động. Kết quả là trào lưu
tăng lãi suất xảy ra không hoàn toàn xuất phát từ nhu cầu vốn mà từ nhu cầu
giữ khách hàng. Thực trạng di chuyển vốn của khách hàng một cách dễ dàng
từ ngân hàng này sang ngân hàng khác phản ánh tình trạng không có sự khác
biệt

đáng kể về chất lượng, loại dịch vụ và sản phẩm cũng như

văn hóa
phục vụ khách hàng giữa các ngân hàng. Tình trạng thông tin thiếu
minh
bạch không cho phép khách hàng đánh giá mức độ rủi ro của ngân hàng và
vì thế, khách hàng có xu hướng kỳ vọng mức lãi suất như nhau cho các ngân
hàng khác nhau về mức rủi ro. Nhấn mạnh những lý do này để thấy rằng áp
lực về lãi suất không chỉ xuất phát từ nhu cầu vốn cho sản xuất, tiêu dùng
mà còn đến từ các yếu tố liên quan đến tình trạng độc canh tín dụng, công cụ
cạnh tranh thiếu đa dạng và những vấn đề liên quan đến khả năng thu hồi
vốn.
Xét riêng nhu cầu tín dụng. Mặc dù, NHNN cam kết và có các động
thái khá rõ nét để duy trì mức tăng trưởng dư nợ tín dụng tối đa 20% cho
năm 2011, đồng thời, với kiểm soát chặt các khoản tín dụng phi sản
xuất

nhưng động lực gia tăng nhu cầu tín dụng là rất mạnh. Trước hết, đặc điểm
tăng trưởng nhờ vốn trong điều kiện hiệu quả sử dụng vốn đầu tư thấp làm
cho nền kinh tế luôn khát vốn. Ảnh hưởng của khủng hoảng và suy
thoái

14


kèm theo làn sóng khủng hoảng nợ công làm cho các dòng vốn
từ nước ngoài giảm sút đáng kể. Nhu cầu phục hồi và duy trì mức tăng
trưởng tới 6%
năm 2011 chủ yếu trông đợi vào nguồn vốn trong nước. Nếu nhìn
vào sự thất bại liên tục của các đợt phát hành trái phiếu và tình trạng
thiếu thanh khoản của thị trường chứng khoán có thể thấy vốn tín dụng ngân
hàng vẫn là cứu cánh chủ yếu trong điều kiện hiện nay cho nhu cầu
tăng trưởng, hiển nhiên, không chỉ nhu cầu vốn ngắn hạn mà cả vốn trung
dài hạn.
Áp lực gia tăng lãi suất có thể xảy ra vào nửa cuối năm 2011. Cho đến
cuối quý I/2011, dư nợ tín dụng tăng 3,68% so với 31/12/2010 và cuối quý
II/2011, số liệu này mới là 7,05% (trong đó, tăng trưởng tín dụng VND chỉ
có 2,72%, phần còn lại là tín dụng ngoại tệ). Cần nhấn mạnh rằng, mặc dù,
các giải pháp chấm dứt thị trường nợ vàng, hạn chế dần thị trường nợ ngoại
tệ cùng với các giải pháp kiểm soát nạn đầu cơ vàng và ngoại tệ với hy vọng
tạo nên sự di chuyển luồng vốn từ ngoại tệ sang nội tệ và làm gia tăng nguồn
tiền gửi VND nhưng tỷ lệ tăng trưởng nguồn vốn huy động VND
vẫn rất
thấp và thấp hơn nhiều so với tỷ lệ tăng trưởng dư nợ tín dụng.
Tính đến
tháng 6/2011, tỷ lệ tăng vốn huy động chỉ là 2,37%, trong đó, tiền gửi nội tệ
là 1,15% (vốn ngoại tệ tăng 8,89%). Diễn biến này giải thích cho xu hướng

tăng mặt bằng lãi suất 6 tháng đầu năm và khả năng duy trì xu hướng này
trong 6 tháng cuối năm 2011 là rất rõ ít nhất là để thu hút nguồn vốn cho tỷ
lệ tăng trưởng tín dụng khoảng 13% còn lại.
Hai là, kỳ vọng về lạm phát
Hình 4 lạm phát 2010-2011
15


Hình1. lạm phát 2010-2011
Lạm phát được kỳ vọng tiếp tục tăng trong nửa cuối của năm
2011
(lạm phát cuối tháng 6/2011 đã là 20,82% so với cùng kỳ năm 2010) là lý
do
dự báo lãi suất danh nghĩa tăng lên trong thời gian tới, đặc biệt vào giai
đoạn
quý

IV/2011. Mặc dù, Nghị quyết 11 của Chính phủ được thực

hiện khá
quyết liệt nhằm hạn chế gia tăng tổng cầu bằng chính sách kiểm soát dư
nợ

16


tín dụng và cắt giảm chi tiêu công nhưng chu kỳ tác động tới mặt bằng
giá
sau giai đoạn suy thoái kinh tế không phải nằm ở phía tổng cầu. Đường
tổng

cung của nền kinh tế Việt Nam có xu hướng ngày càng dốc và
dịch sang
phía trái đồ thị AS-AD. Xu hướng này bắt đầu từ nhiều năm nay nhưng
đặc
biệt rõ nét sau giai đoạn khủng hoảng và suy thoái 2008 - 2009. Giai
đoạn
này được đánh dấu bằng việc giảm sút mạnh của thị trường xuất khẩu
hàng
hóa truyền thống của Việt Nam cùng với việc gia tăng giá hàng nhập
khẩu.
Lãi suất tăng vọt vào năm 2008 và kéo dài cho tới nay đã khiến cho hầu
hết
các doanh nghiệp phải giảm bớt quy mô sản xuất, chuyển đổi hướng
kinh
doanh hoặc đóng cửa. Việc nhập hàng loạt máy móc dây chuyền công
nghệ
thế hệ cũ và tiêu tốn điện năng từ Trung Quốc, quyết định tăng lương cơ
bản
khu vực doanh nghiệp trong điều kiện năng suất lao động ngày càng
giảm,
giá xăng dầu, giá điện và nguồn nguyên liệu đầu vào tăng là các yếu tố
làm
17


tăng chi phí sản xuất và đẩy giá cả hàng hóa lên. Với xu hướng tổng cung
như vậy, chỉ cần một lượng biến động nhỏ của tổng cầu, giá cả cũng tăng
rất
mạnh. Lạm phát trong giai đoạn hiện nay và trong thời gian tới xuất phát
từ

nguyên nhân chi phí đẩy nhiều hơn là cầu kéo.
Ba là, thị trường vàng và ngoại tệ biến động phức tạp và vẫn chứng tỏ
độ hấp dẫn của nó cho nhu cầu tích lũy tài sản của công chúng và là nơi trú
ẩn an toàn trong điều kiện lạm phát và những bất ổn vĩ mô mang tính toàn
cầu. Điều này làm cho cấu trúc lãi suất huy động không chỉ bao hàm tỷ lệ
biến động giá cả mà còn phải tính đến khả năng cạnh tranh đối với
các khoản tiền gửi ngoại tệ và mức độ biến động giá vàng của thị trường
trong và ngoài nước.Các chiến dịch dẹp bỏ thị trường kinh doanh ngoại tệ tự
do, chấm dứt thị trường nợ vàng và hạn chế thị trường nợ ngoại tệ có vẻ
chưa đem lại kết quả theo ý muốn: tỷ lệ tăng tiền gửi ngoại tệ vẫn cao gấp 4
lần tỷ lệ tăng tiền gửi nội tệ đến cuối tháng 6/2011. Nếu tính đến một phần
tăng tiền gửi nội tệ là do có sự di chuyển tiền gửi từ ngoại tệ sang thì mức
tăng tiền gửi nội tệ mới là rất nhỏ, mặc dù, mức thu nhập của tiền gửi nội tệ
cao hơn nhiều so với mức thu nhập từ tiền gửi ngoại tệ. Nguy cơ khủng
hoảng nợ công ở Mỹ trong thời gian tới đang làm cho giá USD Mỹ rớt
nhanh chóng so với các ngoại tệ khác, tỷ giá giữa VND và USD có thể khá
ổn định cho đến cuối năm (nếu không tính đến sức ép từ các số liệu nhập
siêu và nhu cầu thanh toán hàng nhập thường vào cuối năm). Tuy nhiên,
sự biến động của giá vàng thế giới và trong nước trong thời gian tới bởi
những bất ổn vĩ mô toàn cầu hoặc do sự thay đổi cơ cấu dự trữ quốc tế của
người khổng lồ Trung Quốc sẽ tạo lực hút mạnh đối với các khoản tiền gửi

18


ngân hàng. Lãi suất VND vì thế, có thể bước vào một làn sóng cạnh tranh
mới. (Hình 2&3)

19



V
Hình 2. Biến động giá vàng và giá ngoại tệ

Hình 3: Lãi suất VND và USD từ đầu 2010 đến nay.

20


Bốn là, những bất ổn của hệ thống tài chính toàn cầu và tình
trạng
khủng hoảng nợ công đang lan tràn từ châu Âu sang Mỹ, Nhật Bản báo
hiệu
tình trạng căng thẳng thanh khoản của thị trường vốn quốc tế trong nửa
cuối
năm 2011 và có thể còn kéo dài sang năm 2012 và các năm sau đó bởi
gánh
nặng nợ phải trả (bảng 3 & hình 7). Điều này ảnh hưởng tới mặt
bằng lãi
suất Việt Nam ở những khía cạnh sau: (i) Nguồn vốn nước ngoài
(ODA,
FDI) ngày càng giảm bởi các nhà tài trợ và đầu tư lớn hiện đang trong
tình
trạng khó khăn về tài chính. Với tổng dư nợ nước ngoài gần 40%/GDP và
nợ
nước ngoài khu vực công thường xuyên chiếm khoảng 30%GDP (và có xu
hướng tăng lên), sự giảm sút nguồn cung vốn nước ngoài sẽ tạo nên áp lực
mạnh đối với mặt bằng lãi suất trong nước; (ii) Lãi suất trên thị trường vốn
quốc tế tăng cộng với định mức tín nhiệm quốc gia của Việt Nam bị giảm
buộc Chính phủ phải chấp nhận vay với mức lãi suất cao hơn để đáp ứng

nhu cầu đầu tư năm 2011, 2012; (iii) Hậu quả của các chính sách ứng phó
khủng hoảng nợ công có thể là đợt lạm phát phi mã và làm tăng lãi suất danh
nghĩa ở phạm vi toàn cầu nếu chúng không đi kèm với các giải pháp tái cơ
cấu nền kinh tế, cải thiện hiệu quả sử dụng vốn nói chung. (Bảng 3, hình 7)

21


Bảng 3: Tỷ lệ nợ công/GDP 2007-2011 một số nước trên thế giới và Việt
Nam
2007
Italy

2008

2009
103,6

2010
106,3

2011
116,1

119
93

119,2
Bồ Đào Nhà


68,3

71,6

83

97
Tây Ban Nha

36,1

39,8

53,3

60,1

127,1

142,8

67
Hy Lạp

105,4

110,7

150
Irerland


25

44,4

65,6

96,2

93
Việt Nam

36,2

42

52,6

56,6

60
Nhật Bản

167

194

193

199


205
Mỹ

62

70

83

92

95
Năm là, lãi suất sẽ được duy trì ở mức cao như là biểu hiện tất yếu của
chính sách tiền tệ và tài khóa thắt chặt theo tinh thần của Nghị quyết 11. Cho
đến thời điểm nửa đầu năm 2011, lãi suất cũng không cao hơn giai đoạn cuối
năm 2010 hoặc giai đoạn căng thẳng lãi suất vào nửa cuối năm 2008. Cần
nhìn nhận rằng, yếu tố đẩy lãi suất lên cao thời gian qua chỉ bị ảnh hưởng
một phần bởi việc thực hiện chính sách thắt chặt cung tiền, phần còn lại vẫn
là các yếu tố đã từng tác động tới mặt bằng lãi suất. Vì thế, có thể dự báo
một mức lãi suất cao hơn nữa nếu NHNN và Chính phủ kiên quyết duy trì
22


cho đến cuối năm các chính sách thắt chặt chi tiêu mà không đi kèm với các
giải pháp nền tảng làm thay đổi hẳn cấu trúc rủi ro và kỳ hạn của lãi suất.
III- TÁC ĐỘNG LÃI SUẤT ĐẾN THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM
1. Tác động của lãi suất cho vay tới hoạt động sản xuất kinh doanh
- Mọi sự biến động về lãi suất cho vay trên thị trường cũng đều ảnh hưởng
trực tiếp đến hiệu quả SXKD hay nói cách khác là tác động trực tiếp đến lợi

nhuận của DN và qua đó điều chỉnh các hành vi của họ các hoạt động kinh
tế.
- Mặt bằng lãi suất cho vay của các NHTM trên thị trường đã có những biến
động bất thường và gây ra nhiều xáo trộn trong nền kinh tế, trong đó khu
vực DN là nơi chịu nhiều ảnh hưởng nhất. Có lẽ mãi sau này người ta không
thể quên được cảnh tượng “dòng người” xếp hàng để rút tiền từ nơi lãi suất
thấp sang nơi lãi suất cao vì lãi suất tiền gửi được đẩy lên liên tục, cao nhất
là 19-20%/năm. Theo đó lãi suất cho vay được đẩy lên đúng bằng lãi suất tối
đa, 21%/năm. Những tác động tiêu cực của lãi suất đến các DN trong năm
vừa

qua



thể

khái

quát

lại

như

sau:

+) Do lãi suất cho vay tăng cao, hiệu quả SXKD của hầu hết các DN đã bị
giảm sút, nhiều DN bị thua lỗ, khả năng trả nợ bị suy giảm.
+) Lãi suất vay cao, cùng với nguồn cung tín dụng bị hạn chế đã dẫn đến

tình trạng hầu hết các DN buộc phải cơ cấu lại hoạt động SXKD, cắt giảm
việc đầu tư, thu hẹp quy mô và phạm vi hoạt động.
+) Nhiều DN có quy mô nhỏ, vốn ít, không chịu đựng được mức lãi suất cao,
không có khả năng huy động vốn để duy trì hoạt động SXKD đã phải ngừng
hoạt động, giải thể và phá sản.

23


Bước sang năm 2009, bằng nhiều giải pháp của Chính phủ và Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam, mặt bằng lãi suất đã liên tục được điều chỉnh giảm,
nguồn cung tín dụng được nới lỏng, cùng với chính sách kích cầu thông qua
hỗ trợ lãi suất vay vốn phục vụ SXKD cho các DN, hoạt động SXKD của
các DN trong nền kinh tế đã có dấu hiệu phục hồi trở lại, nhu cầu vay vốn
của DN cũng như số tiền giải ngân cho nền kinh tế của các NHTM đã tăng
trở lại. Điều đó cho thấy các tác động tích cực của lãi suất trong bối cảnh cả
nước đang tập trung thực hiện các giải pháp kích cầu, chống suy giảm kinh
tế, đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu
đang diễn ra lan rộng.
2.Tác động của lãi suất đến tăng trưởng, lạm phát và vai trò điều tiết lãi
suất ngân hàng của ngân hàng trung ương:
- Lãi suất là biến số kinh tế nhạy cảm, sự thay đổi của lãi suất sẽ tác động
làm thay đổi hành vi sản xuất và tiêu dùng của xã hội. Về phương diện lý
thuyết cũng như thực tiễn các nước đã chứng minh, sự thay đổi lãi suất thực
sẽ có tác động nhạy cảm đến sản lượng và giá cả.
Lý thuyết kinh tế học đã chứng minh, lãi suất thực tác động đến:
- Chi tiêu dùng và đầu tư: Một sự tăng lãi suất làm giảm sức hấp dẫn trong
việc chi tiêu hiện tại hơn là chi tiêu trong tương lai của cá nhân và công ty.
Tín dụng trong nước, tổng lượng tiền và cầu thực tế đều giảm (nếu lãi suất
giảm sẽ có tác động ngược lại): Khi lãi suất thực tăng lên, đối với hộ gia

đình sẽ giảm nhu cầu mua sắm nhà ở hoặc các hàng tiêu dùng lâu bền do chi
phí tín dụng để mua các hàng hoá này tăng lên. Cùng với lãi suất cho vay, lãi
suất tiền gửi thực cũng tăng lên. Sự gia tăng lãi suất này tác động tới quyết
định tiêu dùng của khu vực hộ gia đình theo hướng giảm tiêu dùng hiện tại
và tăng tiết kiệm để cho tiêu dùng trong tương lai. Đối với khu vực doanh
24


nghiệp, sự gia tăng lãi suất làm tăng chi phí vốn vay ngân hàng. Điều này
đòi hỏi dự án đầu tư sử dụng vốn vay ngân hàng phải có tỷ lệ lợi nhuận lớn
hơn và kết quả là số dự án đầu tư có thể thực hiện với mức lãi suất cao hơn
này có thể giảm hay nói cách khác, đầu tư cố định có thể giảm. Ngoài ra, lãi
suất cao cũng làm tăng chi phí lưu giữ vốn lưu động (ví dụ như hàng trong
kho) và do vậy, tạo sức ép các doanh nghiệp phải giảm đầu tư dưới dạng vốn
lưu động.
- Phân phối lại thu nhập: Lãi suất tăng cao hơn sẽ phân phối lại thu nhập từ
người vay tiền sang người gửi tiền. Điều này làm tăng sức chi tiêu của người
tiết kiệm, nhưng sự chi tiêu này bị hạn chế bởi mức tiêu dùng cận biên (phần
chi tăng thêm cho tiêu dùng trong mỗi giá trị thu nhập tăng thêm), do vậy
người tiết kiệm có xu hướng tăng chi tiêu dùng thấp hơn sự hạn chế chi tiêu
đầu tư của người đi vay, nhất là khi lãi suất tăng cao vượt tỷ suất lợi nhuận
đầu tư và các danh mục đầu tư và dự án, làm thu nhập của người đi vay
giảm. Do vậy, dẫn đến tổng chi tiêu giảm, GDP giảm. Mặt khác, đối với các
hộ gia đình nắm giữ nhiều cổ phiếu, trái phiếu, lãi suất tăng sẽ làm giảm giá
tài sản tài chính, do đó, giảm thu nhập, từ đó tạo sức ép giảm tiêu dùng của
các hộ gia đình.
Vai trò điều tiết lãi suất của NHTƯ
- NHTƯ với chức năng bẩm sinh, là cơ quan duy nhất điều tiết được cung
tiền của nền kinh tế, chủ động tác động đến lãi suất thị trường, nhằm hướng
tới mục tiêu kiểm soát lạm phát

CHƯƠNG III – DỰ BÁO XU HƯỚNG LÃI SUẤT Ở VIỆT NAM NĂM
2012
I. CỞ SỞ DỰ BÁO
1.Tình hình thế giới

25


×