Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

VẤN ĐỀ CHỌN TRƯỜNG VÀ CHỌN NGÀNH CỦA HỌC SINH VIỆT NAM TỪ GÓC NHÌN CỦA SINH VIÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (274.63 KB, 21 trang )

Bộ Giáo dục và Đào tạo
Trường Đại học Ngoại Thương Hà Nội

VẤN ĐỀ CHỌN TRƯỜNG VÀ CHỌN NGÀNH
CỦA HỌC SINH VIỆT NAM TỪ GÓC NHÌN CỦA
SINH VIÊN
Bộ môn: Phương pháp nghiên cứu khoa học
Ngành: Kinh tế - Chuyên ngành: Kinh tế đối ngoại


Vấn đề chọn trường và chọn ngành của học sinh Việt Nam từ góc nhìn của sinh viên

MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU...........................................................................................................4
B. NỘI DUNG.......................................................................................................6
I.Thực trạng vấn đề chọn trường, chọn ngành và giáo dục hướng nghiệp cho
học sinh Việt Nam. Hiện tượng chọn trường, chọn ngành sai của một bộ phận học
sinh, sinh viên................................................................................................................6
1.Thực trạng...................................................................................................6
a)Việc chọn trường, chọn ngành của học sinh Việt Nam.........................6
b) Giáo dục hướng nghiệp ở Việt Nam.....................................................8
2.Hiện tượng chọn trường, chọn ngành sai của một bộ phận học sinh, sinh
viên............................................................................................................................9
II. Hậu quả của việc chọn trường, chọn ngành sai..........................................10
1.Lãng phí thời gian:....................................................................................10
2.Lãng phí chất xám, nguồn nhân sự có năng lực, trình độ:.......................10
3.Khó tìm việc làm:.....................................................................................11
III. Nguyên nhân chọn trường, chọn ngành sai...............................................11
1. Khách quan..............................................................................................11
a) “Tâm lý đám đông”.............................................................................11
b) Gia đình...............................................................................................12


c) Hạn chế trong tư vấn, định hướng nghề nghiệp trước khi đăng ký
chọn trường, ngành thi........................................................................................12
2. Chủ quan..................................................................................................13
a) Thái độ không đúng.............................................................................13
b) Thiếu hiểu biết những yêu cầu của nghề............................................15
c) Thiếu thông tin về thị trường lao động...............................................16
2


Vấn đề chọn trường và chọn ngành của học sinh Việt Nam từ góc nhìn của sinh viên

d) Thiếu điều kiện tài chính để theo học nghề........................................17
IV. Đề xuất giải pháp.......................................................................................17
1. Đối với học sinh THPT đứng trước ngưỡng cửa tương lai bắt đầu chọn
ngành, chọn trường.................................................................................................17
2. Đối với những trường hợp đã chọn trường, chọn ngành sai...................19
C. KẾT LUẬN.....................................................................................................20

3


Vấn đề chọn trường và chọn ngành của học sinh Việt Nam từ góc nhìn của sinh viên

VẤN ĐỀ CHỌN TRƯỜNG VÀ CHỌN NGÀNH
CỦA HỌC SINH VIỆT NAM
TỪ GÓC NHÌN CỦA SINH VIÊN

A. MỞ ĐẦU
Chọn trường, chọn ngành luôn là vấn đề nóng tập trung sự chú ý của
nhiều người, đặc biệt là học sinh và phụ huynh mỗi mùa tuyển sinh. Chọn

trường, chọn ngành sai là vấn đề nan giải mà nhiều học sinh gặp phải trước ngã
rẽ đầu tiên trong cuộc đời. Nhiều học sinh chưa có cái nhìn đúng đắn, toàn diện
khi làm hồ sơ tuyển sinh, chọn trường học, ngành học. Nhiều sinh viên dù đang
theo học một trường đại học, cao đẳng hay trung cấp chuyên nghiệp vẫn có cảm
giác không hài lòng, hối hận về quyết định, lựa chọn có phần chưa chuẩn xác
của mình.
Có nhiều bài báo, bài nghiên cứu về thực tế chọn trường, chọn ngành của
học sinh, phản ánh không ít trường hợp chọn trường, chọn ngành sai. Hàng năm,
mỗi dịp tháng 3 về, mùa tuyển sinh bắt đầu, có rất nhiều bài khảo sát, điều tra,
phân tích hướng nghiệp, tư vấn ngành học, trường học. Tuy nhiên, các nguồn tài
liệu này chủ yếu được viết từ góc nhìn của những nhà giáo dục học, những
người quản lý.

4


Vấn đề chọn trường và chọn ngành của học sinh Việt Nam từ góc nhìn của sinh viên

Điểm mới của nhóm chúng tôi khi tiến hành nghiên cứu vấn đề này là ở
góc nhìn mới: trên cương vị là một sinh viên đã gần hoàn thành chương trình
học năm nhất tại trường Đại học Ngoại thương.
Mục đích của đề tài khoa học này nhằm: thứ nhất, đề ra một cách nhìn
mới khi tiếp cận vấn đề chọn trường, chọn ngành của học sinh, đặc biệt là hiện
tượng chọn trường, chọn ngành sai của một bộ phận học sinh, sinh viên; thực
trạng, nguyên nhân, hậu quả của hiện tượng này. Thứ hai, gợi ý một số giải pháp
tạm thời, dài hạn cho vấn đề này, đặc biệt là với những trường hợp đã chọn
trường, chọn ngành sai. Thứ ba, cảnh tỉnh, giúp cho các bạn học sinh THPT có
cái nhìn sâu sắc, toàn diện hơn về việc chọn trường, chọn ngành, từ đó có được
lựa chọn đúng đắn, phù hợp.
Nghiên cứu tiến hành trên phạm vi các sinh viên đang theo học tại các

trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp trên địa bàn thành phố Hà
Nội. Cụ thể với các sinh viên khối 6 – K50 - Đại học Ngoại thương.
Số liệu nghiên cứu dựa trên các tài liệu tham khảo trên các phương tiện
thông tin truyền thông, theo mẫu khảo sát điều tra.

5


Vấn đề chọn trường và chọn ngành của học sinh Việt Nam từ góc nhìn của sinh viên

B. NỘI DUNG

I.

Thực trạng vấn đề chọn trường, chọn ngành và giáo dục hướng

nghiệp cho học sinh Việt Nam. Hiện tượng chọn trường, chọn ngành
sai của một bộ phận học sinh, sinh viên

1. Thực trạng
a) Việc chọn trường, chọn ngành của học sinh Việt Nam

Các thăm dò trên trang web tuyển sinh của Bộ GD-ĐT cũng như một số
trang web khác cho thấy hơn 60% số người tham gia trả lời cho rằng ngành nghề
nóng nhất hiện nay là tài chính, ngân hàng, quản trị kinh doanh. Còn thực tế
chọn ngành của thí sinh thì sao?
Năm 2011 cả nước có gần 300 ngành học được tổ chức tuyển sinh tại 475
cơ sở giáo dục đại học, cao đẳng với khoảng 5.027 ngành (53% trình độ đại học
và 47% trình độ cao đẳng).


Thực tế chọn ngành đăng ký dự thi của thí sinh từ năm 2009-2011

6


Vấn đề chọn trường và chọn ngành của học sinh Việt Nam từ góc nhìn của sinh viên

So với các năm trước, thí sinh có nhiều cơ hội lựa chọn ngành học hơn, xu
thế chọn ngành học có thay đổi, nhưng nhìn chung nhóm ngành kinh doanh luôn
được thí sinh ưa chuộng nhất. Kết quả tuyển sinh ba năm gần nhất cho thấy
nhóm ngành kinh doanh vẫn là nhóm ngành chiếm thứ hạng cao nhất trong sự
lựa chọn của thí sinh. Tuy nhiên tỉ lệ 10,98% thí sinh dự thi vào nhóm ngành
kinh doanh năm 2011 đã giảm khá nhiều so với tỉ lệ 12,4% tổng số thí sinh trong
năm 2010.
Đáng lưu ý trong tốp “đầu bảng”, một số nhóm ngành “kén” thí sinh cũng
có dấu hiệu thu hút thí sinh như nhóm ngành y học. Lượng thí sinh dự thi vào
nhóm ngành này tăng 1,2 lần so với năm 2010, từ vị trí 10 lên vị trí 7 trong bảng
xếp hạng những nhóm ngành có nhiều thí sinh dự thi; nhóm ngành chế biến
lương thực, thực phẩm và đồ uống tăng 1,6 lần so với năm 2010, từ vị trí 17 lên
vị trí 8 trong nhóm những ngành được thí sinh lựa chọn nhiều nhất.
Xu thế chọn ngành dự thi cũng cho thấy thí sinh thường “né” các ngành
có số lượng thí sinh đăng ký dự thi năm trước cao, dẫn đến sự tăng - giảm theo
quy luật ở đại đa số các nhóm ngành, ngoại trừ các nhóm ngành sau có số thí
sinh ĐKDT tăng dần từ năm 2010 đến 2011: kế toán - kiểm toán (8,4%-9,0%);
luật (2,8%-3,0%); công nghệ kỹ thuật cơ khí (1,8%-2,6%), kỹ thuật điện, điện tử
và viễn thông (1,7%-1,9%) và dịch vụ y tế (1,6%-1,8%). Trong đó nhóm ngành
công nghệ kỹ thuật cơ khí tăng gấp 1,5 lần so với năm 2009.
Ngược lại, số lượng thí sinh dự thi vào nhóm ngành công nghệ thông tin
giảm với tỉ lệ hơn 1/3 so với tuyển sinh 2009, từ vị trí 7 xuống vị trí 13. Cùng
với quản trị kinh doanh, ngành công nghệ thông tin mặc dù nằm trong tốp năm

ngành học được thí sinh lựa chọn nhiều nhất nhưng đang có xu hướng giảm từ
năm 2009 đến 2011. Điều này cho thấy tác động tích cực của công tác hướng
nghiệp, công tác dự báo nhu cầu nguồn nhân lực đến xu thế chọn ngành của
người học.

7


Vấn đề chọn trường và chọn ngành của học sinh Việt Nam từ góc nhìn của sinh viên

Mùa tuyển sinh 2012, tỷ lệ hồ sơ đăng ký vào khối C và các khối ngành
sư phạm thường rất thấp trong khi đó khối A, D và các khối ngành kinh tế lại rất
cao. Khối C và ngành sư phạm có hồ sơ ĐKDT rất thấp. Theo tính toán của Sở
Giáo dục Hà Nội, trung bình mỗi học sinh lớp 12 ở đây nộp 2,12 bộ hồ sơ. Tỷ lệ
hồ sơ đăng ký vào khối A là nhiều nhất chiếm hơn 47%, khối B hơn 14%, khối
D là 24,5% và khối C thấp nhất với gần 5%.
Học sinh chọn trường thường thông qua lời khuyên của gia đình và người
thân, có tâm lý bầy đàn, không có chính kiến, đua theo bạn bè, chọn trường mà
không nắm được hết những thông tin cần thiết. Nhiều học còn chưa xác định
được mục tiêu học tập của mình, chưa có định hướng cho tương lai.

b) Giáo dục hướng nghiệp ở Việt Nam

Sơ đồ thực trạng hướng nghiệp ở Việt Nam

8


Vấn đề chọn trường và chọn ngành của học sinh Việt Nam từ góc nhìn của sinh viên


Mẫu khảo sát

KHẢO SÁT


Tên:…………………………………..Lớp…………Trường …………….



Khối ngành đang học………………………………………………………



Lý do chọn học ngành đó:
do bạn bè

do yêu thích

do gia đình

do phù hợp với bản thân

lý do khác



Khối ngành thực sự mong muốn…………………………………………..




Định hướng nghề nghiệp tương lai của bạn(1-3 câu)

…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………..
………………………………………………………...

2. Hiện tượng chọn trường, chọn ngành sai của một bộ phận học sinh,
sinh viên

Theo số liệu khảo sát riêng của L&A (Le & Associates), hiện có khoảng
20% sinh viên chọn sai ngành học, tốt nghiệp đi làm mới thấy công việc không
phù hợp nên bỏ việc hoặc làm trái nghề.
Một số liệu điều tra khác của Sở Lao Động Thương Binh Xã Hội
TP.HCM cho biết chỉ khoảng 30% sinh viên, học sinh tốt nghiệp có ý định làm
việc lâu dài, trong khi 30% muốn tìm việc làm khác vì không phù hợp với khả
năng, nguyện vọng và 40% chưa xác định mục tiêu nghề nghiệp. Đáng chú ý

9


Vấn đề chọn trường và chọn ngành của học sinh Việt Nam từ góc nhìn của sinh viên

hơn là có đến 40% lao động trẻ chọn nghề học chưa phù hợp với nghề mình
đang học.
Ông Trương Chí Dũng, Giám đốc phát triển Công ty IT Solutoin, cho
rằng: Học sinh, sinh viên vẫn còn mơ hồ giữa việc chọn ngành học và công việc
thực tế. Nhiều em chưa hiểu rõ những yêu cầu, công việc nên khi ra trường rất
lúng túng và khó tìm kiếm việc làm phù hợp.
Theo điểu tra sơ bộ của nhóm nghiên cứu, trong số các sinh viên hiện

đang theo học tại khối 6 – K50 - Đại học Ngoại thương, cũng có một số trường
hợp không hài lòng với công việc mình theo đuổi, ngôi trường mình đang học.

II. Hậu quả của việc chọn trường, chọn ngành sai
1. Lãng phí thời gian:

Khi chọn nghề, ngành sai, bạn sẽ uổng phí rất nhiều thời gian, tiền bạc,
công sức... khiến bạn thậm chí có thể hối hận suốt đời. Tuy nhiên nếu bạn quá
nóng vội thấy sai lầm bỏ luôn ngành nghề đang học chuyển sang ngành nghề
khác mà không suy nghĩ kĩ, rất có thể sẽ lại mắc sai lầm một lần nữa.
2. Lãng phí chất xám, nguồn nhân sự có năng lực, trình độ:

Người có khả năng có thể làm tốt hơn trong lĩnh vực, ngành nghề này, đạt
kết quả tốt hơn ở trường học này nhưng lựa chọn sai lầm khiến họ phải theo học
ngành nghề, trường họ không thích. Tinh thần chán nản, thiếu sự quyết tâm
khiến kết quả học tập không được như ý. Về lâu về dài, không yêu thích công
việc, không thực sự đam mê nó thì khó đạt được thành công trong sự nghiệp, kết
quả tốt trong công tác.

10


Vấn đề chọn trường và chọn ngành của học sinh Việt Nam từ góc nhìn của sinh viên

3. Khó tìm việc làm:

Theo số liệu khảo sát riêng của L&A (Le & Associates), hiện có khoảng
20% sinh viên chọn sai ngành học, tốt nghiệp đi làm mới thấy công việc không
phù hợp nên bỏ việc hoặc làm trái nghề. Một số liệu điều tra khác của Sở Lao
Động Thương Binh Xã Hội TP.HCM cho biết chỉ khoảng 30% sinh viên, học

sinh tốt nghiệp có ý định làm việc lâu dài, trong khi 30% muốn tìm việc làm
khác vì không phù hợp với khả năng, nguyện vọng và 40% chưa xác định mục
tiêu nghề nghiệp. Đáng chú ý hơn là có đến 40% lao động trẻ chọn nghề chưa
phù hợp với nghề mình đang học.

III. Nguyên nhân chọn trường, chọn ngành sai
1. Khách quan

a) “Tâm lý đám đông”
Thực tế phản ánh, đa số các bạn học sinh vẫn chịu tác động lớn của “tâm
lý đám đông” đến xu hướng chọn ngành, chọn trường, điều này phần nào phản
ánh tính tức thời và chạy theo nhu cầu hiện tại. Hành vi theo đám đông trong
lĩnh vực này nếu không có sự kiểm soát phù hợp rất dễ dẫn đến tình trạng bất
cân đối cung – cầu thị trường lao động, mà hệ quả của nó là những cử nhân, kỹ
sư, bác sĩ sẽ không tìm được việc làm phù hợp với chuyên môn được đào tạo,
ảnh hưởng rất lớn đến tương lai cuộc sống của bản thân người học và kéo theo là
sự lãng phí lớn nguồn lực của xã hội.
Thông tin tư vấn tuyển sinh, hướng nghiệp đại học, cao đẳng của nhiều
kênh truyền thông như: đài truyền thanh, tuyền hình, báo in, báo mạng, tư vấn
hướng nghiệp, tư vấn trực tuyến,… đến từ nhiều đối tượng: hệ thống các trường
đại học, cao đẳng, các trường phổ thông, các tổ chức thông tin truyền thông,…
ngày càng phong phú đa dạng đã cung cấp cho thí sinh nhiều thông tin bổ ích để
11


Vấn đề chọn trường và chọn ngành của học sinh Việt Nam từ góc nhìn của sinh viên

những học sinh hôm nay, thế hệ tri thức tương lai có nhiều lựa chọn để quyết
định cho tương lai, cuộc sống của bản thân.
Và cũng do có quá nhiều thông tin liên quan đến tuyển sinh từ nhiều phía

cung cấp, phần nào đã đặt những học sinh và cả phụ huynh vào thế đứng giữa
“ngã ba, ngã tư đường”, chẳng biết ngã nào là ngã rẽ phù hợp cho tương lai và
cuộc sống của bản thân học sinh và con em của họ, bởi việc chọn ngành, chọn
trường liên quan đến nhiều yếu tố và có ảnh hưởng quan trọng đến tương lai,
cuộc đời của mỗi học sinh.
b) Gia đình

Điều đầu tiên ảnh hưởng đến quyết định của không ít học sinh đó là
điều kiện kinh tế gia đình. Đây là vấn đề có thể nói là làm cho học sinh phân vân
nhiều nhất khi chọn nghề, nhất là các em học sinh ở tỉnh lẻ, vùng nông thôn.
Nhiều em có ước muốn thi vào ngành công nghệ thông tin nhưng nghĩ đến việc
phải trang bị máy tính ngay năm học đầu tiên thì hơi e ngại. Nhiều ngành như du
lịch, thiết kế thời trang, y… khá tốn kém cũng làm "chùn bước" không ít sĩ tử
khi đăng ký dự thi.
Mặt khác, truyền thống gia đình luôn quan trọng với người dân Việt Nam
nói riêng và người phương Đông nói chung. Chúng ta luôn bị ảnh hưởng của gia
đình khi đưa ra bất kỳ một quyết định nào. Nhiều ông bố, bà mẹ ép con học theo
những ngành nghề mà cha ông mình từ trước đến giờ theo đuổi. Nếu sinh ra
trong một gia đình có bố, mẹ, anh, chị làm bác sĩ, giáo viên, công an… thì học
sinh thường bị "gò” phải thi vào cái "khuôn" ấy của gia đình.
c) Hạn chế trong tư vấn, định hướng nghề nghiệp trước khi đăng
ký chọn trường, ngành thi.

Tại Ngày hội Việc làm - Hướng nghiệp năm 2010 do Báo Giáo Dục
TP.HCM tổ chức đã thực hiện cuộc khảo sát về nhu cầu hướng nghiệp của 250
HS THPT và kết quả cho thấy, có đến 80% HS cho biết rất thiếu thông tin trước
12


Vấn đề chọn trường và chọn ngành của học sinh Việt Nam từ góc nhìn của sinh viên


khi vào kỳ tuyển sinh CĐ-ĐH. Các em HS cần được tư vấn hướng nghiệp, cung
cấp những thông tin cần thiết để có cơ sở đưa ra các quyết định cho bản thân
trong lựa chọn nghề nghiệp sau khi tốt nghiệp phổ thông. Đặc biệt là các HS lớp
12 số này lên đến 98%.
Cũng tại cuộc khảo sát trên đa số HS (86%) cho rằng phải cố gắng học
giỏi các môn học để chuẩn bị cho tương lai của mình. Điều này có thể hiểu HSSV cho rằng cần tập trung học tập cao độ là kế hoạch tốt cho tương lai mà không
chú ý đến kỹ năng sống. Các kỹ năng như có cá tính, có khả năng lãnh đạo, biết
làm việc độc lập, biết tham gia các hoạt động xã hội, có niềm đam mê một lĩnh
vực nào đó và có nhiều năng khiếu khác nhau không được HS-SV quan tâm đến.
Trong khi đó, xu hướng của chương trình dạy học hiện đại từ lâu đã coi trọng kỹ
năng, năng lực thực tiễn hơn là kiến thức.
Thực tế hiện nay ở trường phổ thông, CĐ, ĐH đã có chương trình tư vấn,
giáo dục hướng nghiệp, tuy nhiên vẫn còn mang nặng tính hình thức, chưa
chuyên nghiệp. Đội ngũ làm công tác định hướng nghề nghiệp cho HS thường là
các giáo viên bộ môn kỹ thuật, vốn còn thiếu về số lượng và chưa bảo đảm về
chất lượng. Trong khi chưa có sự giúp đỡ một cách tích cực từ nhà trường, trách
nhiệm lại được đặt lên vai phụ huynh và HS. Chính vì vậy, nhiều HS gặp khó
khăn trong việc ra quyết định cho nghề nghiệp tương lai.

2. Chủ quan
a) Thái độ không đúng

- Cho rằng nghề thợ thấp kém hơn kỹ sư, giáo viên THCS thua kém giáo
viên THPT… Thực ra mỗi nghề (hay đúng hơn là mỗi chuyên môn đó) có
những bậc thang tay nghề của nó. Ví dụ, công nhân cơ khí có 7 bậc tay nghề.
Người công nhân được đào tạo theo chương trình riêng, họ có vai trò quan trọng
riêng trong các nhà máy, xí nghiệp. Một số bạn đã coi nhẹ công việc của người
13



Vấn đề chọn trường và chọn ngành của học sinh Việt Nam từ góc nhìn của sinh viên

thợ, của thầy giáo cấp I, của cô y tá, chỉ coi trọng công việc kỹ thuật, của thầy
giáo dạy ở bậc trung học hoặc đại học, của bác sĩ… Chính vì thế mà chỉ định
hướng vào những nghề có sự đào tạo bậc đại học.
- Thành kiến với một số nghề trong xã hội, chẳng hạn, coi lao động chân
tay là nghề thấp hèn, chê nhiều công việc dịch vụ là không “thanh lịch”, v.v…
Đã là nghề được xã hội thừa nhận thì không thể nói đến sự cao sang hay thấp
hèn được.
- Dựa dẫm vào ý kiến người khác, không độc lập việc quyết định chọn
nghề. Vì thế đã có nhiều bạn chọn nghề theo ý muốn của cha mẹ, theo ý thích
của người lớn, theo lời rủ rê của bạn bè. Cách chọn nghề này đã dẫn đến nhiều
trường hợp chán nghề vì không phù hợp.
- Bị hấp dẫn bởi vẻ ngoài của nghề, thiếu hiểu biết nội dung lao động của
nghề đó. Ví dụ, như với các nghề diễn viên điện ảnh, dẫn chương trình, người
mẫu thời trang… rất hấp dẫn với các bạn trẻ, nhưng để thạo nghề thì phải rèn
luyện gian khổ, vì vậy cũng dễ gây nhầm lẫn đối với ai chỉ thích vẻ hào hoa bề
nổi của nghề đó. Hoặc nhiều bạn thích đi đây đi đó nên chọn nghề thăm dò địa
chất, khi vào nghề, thấy công việc của mình gắn với rừng núi, quanh năm phải
tiến hành công việc khảo sát, ít có dịp tiếp xúc với cuộc sống thành thị, thiếu
điều kiện để giao lưu văn hóa và khoa học, do đó tỏ ra chán nghề. Có người chỉ
tin vào quảng cáo của các cơ sở đào tạo mà chọn nghề vào học cũng sẽ dễ chán
trường, chán nghề.
- Cho rằng đạt thành tích cao trong việc học tập một môn văn hóa nào đó
là làm được nghề cần đến tri thức của môn đó. Ví dụ, có người học giỏi môn văn
đã chọn nghề làm phóng viên báo chí. Đúng là nghề này cần đến người viết văn
hay, diễn đạt tư tưởng rành mạch. Song, nếu không nhanh nhẹn, tháo vát, năng
động, dám xông xáo… thì không thể theo đuổi nghề này được. Sai lầm ở đây là
do không thấy rằng năng lực đối với môn học chỉ là điều kiện cần, chứ chưa là

điều kiện đủ để theo đuổi nghề mình thích.
14


Vấn đề chọn trường và chọn ngành của học sinh Việt Nam từ góc nhìn của sinh viên

- Có quan niệm “tĩnh” về tính chất, nội dung lao động nghề nghiệp trong
các lĩnh vực sản xuất, quên mất những tác động mạnh mẽ của cách mạng khoa
học công nghệ ngày nay. Vì vậy, có bạn cho rằng học xong cấp I là đủ kiến thức
để xin vào học nghề tại các trường dạy nghề. Có bạn lại nghĩ, với vốn liếng lớp
12, mình học ở trường nghề nào mà chẳng được. Thực ra, nghề nghiệp luôn thay
đổi nội dung, phương pháp, tính chất lao động của nó. Người lao động không
luôn luôn học hỏi, trau dồi năng lực thì khó có thể đáp ứng với yêu cầu về năng
suất và hiệu quả lao động.
- Không đánh giá đúng năng lực lao động của bản thân nên lúng túng
trong khi chọn nghề. Do đó, có hai tình trạng thường gặp: hoặc đánh giá quá cao
năng lực của mình, hoặc đánh giá không đúng mức và không tin vào bản thân.
Cả hai trường hợp đều dẫn đến hậu quả không hay: Nếu đánh giá quá cao khi
vào nghề sẽ vấp phải tình trạng chủ quan ban đầu, thất vọng lúc cuối. Còn nếu
đánh giá quá thấp, chúng ta sẽ không dám chọn những nghề mà đáng ra là nên
chọn. Có trường hợp ngộ nhận mình có năng khiếu về nghề hấp dẫn, thời thượng
mà chọn nghề, khi vào nghề gặp thất bại sẽ chán nản.
- Thiếu sự hiểu biết về thể lực và sức khỏe của bản thân, lại không có đầy
đủ thông tin về những chống chỉ định y học trong các nghề. Điều này cũng rất
dễ gây nên những tác hại lớn: người yếu tim lại chọn nghề nuôi dạy trẻ, người
hay viêm họng và phổi lại định hướng vào nghề dạy học, người có bệnh ngoài
da lại đi vào nghề “dầu mỡ”, v.v…
b) Thiếu hiểu biết những yêu cầu của nghề

Nghề trong xã hội hết sức đa dạng và những yêu cầu của nghề đặt ra cho

người lao động cũng hết sức khác nhau. Ngoài những yêu cầu chung nhất là
lòng yêu nghề, ý thức trách nhiệm, lương tâm nghề nghiệp… còn cần quan tâm
tránh những khuyết tật của cơ thể. Hầu như các “thiếu sót” đó không hại gì đến
sức khỏe, nhưng chúng lại không cho phép ta làm nghề này hay nghề khác. Ví
dụ, với nghề thêu thủ công, chỉ cần hay ra mồ hôi ở lòng bàn tay là các bạn
15


Vấn đề chọn trường và chọn ngành của học sinh Việt Nam từ góc nhìn của sinh viên

không thể làm tốt công việc kỹ thuật của nghề đó, mặc dù mồ hôi tay không làm
cho bạn suy giảm thể lực. Nghề đòi hỏi đứng bên máy không cho phép tuyển
người mắc tật bàn chân bẹt (sự tiếp xúc của bàn chân đối với mặt đất quá lớn).
Nghề nào cũng yêu cầu người lao động phải chú ý vào công việc. Có nghề
đòi hỏi người lao động phải tập trung sự chú ý vào một đối tượng (quan sát màn
hình của máy vi tính…), nhưng có nghề cần ở người lao động sự phân phối chú
ý đến nhiều đối tượng trong cùng một lúc (dạy học, huấn luyện phi công, điều
độ ở ga…). Lại có nghề cần đến sự di chuyển chú ý, tức là nhanh chóng chuyển
chú ý từ đối tượng này sang đối tượng khác (lái xe, lái tàu, phiên dịch…).
Nghề nào cũng yêu cầu con người có thể lực tốt, dẻo dai trong công việc.
Song có nghề cần đến sự dẻo dai về cơ bắp, có nghề lại đòi hỏi sự dẻo dai của hệ
thần kinh. Người công nhân bốc vác ở bến cảng phải liên tục bê vác nặng hay lái
xe chuyển hàng nhiều giờ liên tục. Còn người nghiên cứu khoa học có khi phải
đọc liền 10 giờ một ngày ở thư viện, hơn nữa việc đó thường kéo dài hàng
tháng. Cả hai đều cần sức khỏe tốt, dẻo dai, nhưng một bên dùng cơ bắp, bên kia
dùng trí óc.
Vậy, khi chọn nghề mỗi người chúng ta phải biết nghề có yêu cầu như thế
nào đối với người lao động. Không có đủ những phẩm chất tâm lý và sinh lý để
đáp ứng yêu cầu của một nghề cụ thể thì đừng chọn nghề đó. Ví dụ: Người phản
ứng chậm chạp không nên vào nghề lái xe, người tính quá hiếu động, không nên

chọn nghề điều độ thông tin giao thông, điện lực, qua hệ thống mạng màn
hình…
c) Thiếu thông tin về thị trường lao động

Thị trường lao động biểu hiện quan hệ lao động diễn ra giữa một bên là
người lao động và một bên là người sử dụng lao động dựa trên nguyên tắc thỏa
thuận, thông qua các hợp đồng lao động.

16


Vấn đề chọn trường và chọn ngành của học sinh Việt Nam từ góc nhìn của sinh viên

Người lao động được đào tạo hoặc không được đào tạo đều tham gia vào
thị trường lao động và bị chi phối bởi qui luật cạnh tranh, thuê mướn, lợi nhuận
và hiệu quả. Do vậy, người lao động phải quan tâm đầy đủ tới chất lượng (tri
thức, kỹ năng, kỹ xảo) - giá thành - thời điểm (đáp ứng) khi họ tham gia vào thị
trường lao động. Đó là yêu cầu hết sức khắt khe đỏi hỏi sự tích lũy kinh nghiệm
và học nghề suốt đời của người lao động nếu như họ muốn có việc làm và thu
nhập cao.
Thông tin về thị trường lao động: là những thông tin về nhu cầu sử dụng
nhân lực của tỉnh, thành phố trong kế hoạch năm: nhu cầu sử dụng nhân lực các
loại cho các vùng kinh tế trọng điểm, khu công nghiệp, khu chế xuất và cho các
loại doanh nghiệp và liên doanh của các thành phần kinh tế khác.
d) Thiếu điều kiện tài chính để theo học nghề

Nhiều người đã chọn được nghề phù hợp nhưng thiếu điều kiện tài chính
theo học như không đủ tiền đóng học phí, không có điều kiện ở trọ đi học. Nhiều
gia đình có con thi đỗ vào trường đại học nhưng đành phải cho con ở nhà vì thu
nhập của gia đình không đủ sức cung ứng cho việc học của con em.


IV. Đề xuất giải pháp
1. Đối với học sinh THPT đứng trước ngưỡng cửa tương lai bắt đầu chọn
ngành, chọn trường

- Việc tư vấn hướng nghiệp nên tiến hành sớm, các trường nên có bộ phận
hướng nghiệp, các sở/trường THPT nên sớm cập nhật thông tin từ các trường
ĐH, CĐ, THCN… để học sinh nắm bắt kịp thời. Các bộ ban ngành phải có định
hướng về cung cầu lao động để tránh việc thừa - thiếu, thiếu - thừa…
- Phải cân nhắc nhu cầu việc làm của các ngành. Nếu xác định được điều
quan trọng này sẽ có ý nghĩa đối với cả cuộc đời... hơn là tìm câu trả lời cho câu
17


Vấn đề chọn trường và chọn ngành của học sinh Việt Nam từ góc nhìn của sinh viên

hỏi: “Thi trường nào, ngành nào để dễ đậu?”. Đậu rồi nhưng chỉ là sự trú chân
tạm bợ, chân đứng đó nhưng trong đầu lại không một chút tâm huyết gì với
ngành nghề đó.
- Không nên chạy theo đám đông, cần có cân nhắc kĩ lưỡng khi chọn
ngành, nghề, trường học. Việc phụ huynh và học sinh hi vọng vào các khối
ngành kinh tế cũng phản ánh mong muốn được làm giàu một cách chính đáng
của giới trẻ Việt Nam hiện nay. Nhưng việc để học sinh chỉ tập trung vào nhóm
ngành kinh tế sẽ tạo nguy cơ mất cân đối nguồn nhân lực trong xã hội.
Xét về thực tế sự phát triển kinh tế xã hội ở một nước chủ yếu kinh tế
nông nghiệp như Việt Nam thì những ngành thực sự có tiềm năng và có hướng
phát triển bền vững chính là các ngành về nông, lâm, ngư nghiệp, công nghệ
sinh học, điện tử, chế tạo… Nếu không chú trọng lĩnh vực then chốt, sẽ không
thu hút được người giỏi vào những ngành công nghệ cao thì nước ta sẽ dần tụt
hậu.

- Vì vậy, phụ huynh và bản thân học sinh không nên “đổ xô” vào những
trường và những khối, ngành “hot” theo trào lưu mà cần nhìn nhận đúng đắn lực
học của bản thân để có sự lựa chọn đúng đắn.
Nghề nghiệp hiện nay rất đa dạng nhưng năng lực của con người thì có
hạn, trong khi giới trẻ thì lại có quá nhiều ước mơ, mong mỏi. Sự lựa chọn nghề
nghiệp đương nhiên là chuyện tự do, tự nguyện. Tuy nhiên, cũng có nhiều
trường hợp học sinh… bị lệ thuộc vào quyết định của người khác. Cần nhớ rằng
lời khuyên tuy bổ ích, quan trọng, nhưng cũng chỉ dùng để tham khảo.
Hãy ưu tiên cho sở thích, nguyện vọng, sở trường của mình. Nhưng cũng
không nên quá bảo thủ, cực đoan mà hãy nghe những lời khuyên của những
người đi trước , tìm đọc thông tin trên các phương tiện đại chúng để có đủ thông
tin về ngành, trường mình muốn chọn

18


Vấn đề chọn trường và chọn ngành của học sinh Việt Nam từ góc nhìn của sinh viên

2. Đối với những trường hợp đã chọn trường, chọn ngành sai

- Suy nghĩ kĩ về ngành nghề, trường mình đang theo học. Tìm những ưu
điểm của ngành nghề ý, mặt tích cực mà nghề nghiệp này có thể mang lại cho
mình. Từ đó cố gắng thích nghi với nó. Tạo tâm thế thoải mái trong việc học
tập, có hứng thú và niềm say mê với những gì mình đã chọn.
- Với những ai xác định lại mục tiêu, có đủ quyết tâm, điều kiện sức khỏe,
khả năng học tập, tình hình gia đình cho phép,… có thể tiến hành chọn ngành,
chọn trường lại. Dành thời gian ôn thi lại một năm, thi vào ngôi trường, ngành
học mà mình mong muốn.
- Một lựa chọn khác cho các bạn, đó là thực hiện GAP YEAR. Sau khi thi
đại học, nếu cảm thấy không thực sự chuẩn bị tốt sức khỏe, tâm lý cho việc học

tập, xin bảo lưu kết quả, đi du lịch một năm. Trong thời gian này tham gia các
hoạt động tình nguyện, đi thăm thú nhiều vùng đất trên thế giới, gặp gỡ nhiều
con người… có cái nhìn sâu sắc hơn, có những kinh nghiệm sống thú vị, có
được sự trải nghiệm để trường thành, xác định lại mục tiêu, ước mơ của bản
thân.

19


Vấn đề chọn trường và chọn ngành của học sinh Việt Nam từ góc nhìn của sinh viên

C. KẾT LUẬN
Vấn đề chọn trường, chọn ngành của học sinh trung học phổ thông ngày
nay, khi được đặt dưới góc nhìn của những sinh viên năm nhất đại học, những
người chỉ vừa mới một năm trước thôi, vượt qua kì thi “cá chép hóa rồng” này,
mặc dù đã có những biến đổi mang tính tích cực, thì vẫn còn nhiều bất cập.
Những bất cập này đến từ nhiều phía, bản thân người học sinh nói riêng, và gia
đình, nhà trường, xã hội nói chung; gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng.
Để khắc phục thực trạng này, cần có những biện pháp đến từ toàn bộ xã
hội, bởi lẽ, vấn đề chọn trường, chọn ngành của học sinh trung học phổ thông
không phải là vấn đề của riêng ai, đó là một vấn đề mang tính xã hội. Những
mầm non tương lai của đất nước có chọn đúng ngành đúng nghề, đúng con
đường cho mình, cống hiến hết khả năng của bản thân mình cho sự nghiệp của
bản thân thì đất nước mới có thể phát triển bền vững và giàu mạnh. Nếu ngay từ
điểm khởi đầu của nghề nghiệp các em lựa chọn, mà các em sai lầm, để rồi trong
tương lai không có tình yêu với nghề với nghiệp mình đang làm, thì điều đó
chắc chắn sẽ đem lại nhiều hậu quả khôn lường. Một bác sĩ không yêu nghề có
thể gây chết người, một nhà chính trị không có hứng thú với công việc mình
đang làm có thể bán nước. Hàng ngàn, hàng triệu những con người với định
hướng sai lệch như thế sẽ là những tế bào ung thư phá hoại xã hội.

Thiết nghĩ, đã đến lúc chúng ta phải chung tay giải quyết một vấn đề
tưởng chừng như không có gì mới, nhưng lại chưa từng có cách giải quyết thỏa
đáng này. Việc chọn trường, chọn ngành là miếng domino đầu tiên của chuỗi
domino không có điểm dừng, một khi nó đổ, thì sẽ kéo theo hàng ngàn những
hậu quả mà bản thân chúng ta cũng không thể biết hết được.
20


Vấn đề chọn trường và chọn ngành của học sinh Việt Nam từ góc nhìn của sinh viên

Ý thức được tầm quan trọng của việc chọn trường, chọn ngành như thế,
chúng tôi, những sinh viên chỉ vừa mới giờ này năm trước thôi, dấn thân vào
một kì thi mà sức nặng của nó đặt trên vai tưởng chừng như có khi không thể
chịu đựng nổi, dồn hết tâm hết sức mình vào một con đường mà chính bản thân
mình cũng quá sức mù mờ về nó, chỉ mong rằng, năm nay, năm sau, và những
năm sau nữa, sẽ càng ngày càng ít những sinh viên năm nhất vừa bước chân vào
trường đại học, giống như chúng tôi đây, ngồi ngẩn ngơ ước gì thời gian quay
trở lại, để chúng tôi làm lại từ đâu.
Các em học sinh THPT hãy bản lĩnh lên, dám làm những gì mình muốn.
Xã hội hãy tôn trọng các em, cho các em chọn lựa theo đúng năng khiếu, năng
lực, theo đúng nguyện vọng, sở thích. Không phải cứ Ngoại thương, cứ Ngân
hàng là giỏi, bởi xã hội không chỉ cần những nhà kinh tế giỏi, xã hội còn cần
những giáo viên, những bác sĩ có tâm, những nhà văn, những kiến trúc sư yêu
nghề, những diễn viên, ca sĩ tài năng… Xã hội cần những người làm đúng theo
năng lực của mình. Và để đạt được điều đó, chúng ta cần phải chung tay hành
động ngay từ bây giờ.

21




×