Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

HIỆN TRẠNG MÔI TRƯỜNG BIỂN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (564.43 KB, 16 trang )

MỤC LỤC
I.MỞ ĐẦU
Việt Nam có diện tích đất liền khoảng 330.000km
2
và một
vùng biển đặc quyền kinh tế khoảng trên 1.000.000km
2
. Khu vực bờ biển
cũng như các đảo có vị trí địa lý rất trọng yếu đối với phát triển và an ninh,
quốc phòng. Trên biển có trên 3.000 đảo lớn nhỏ.các đảo và quần đảo là
điểm tựa vững chắc cho bố trí thế trận phát triển kinh tế biển gắn với bảo
vệ an ninh chủ quyền trên biển. Nhiều đảo có thể xây dựng thành các trung
tâm kinh tế đảo và dịch vụ cho các hoạt động khai thác biển xa. Bờ biển
nước ta kéo dài trên 3.260km, đây là những tiền đề cho phép hoạch định
một chiến lược biển, phù hợp với xu thế phát triển của một quốc gia biển.
Biển thực sự là phần lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam, là di sản
1
thiên nhiên của dân tộc, là chỗ dựa tinh thần và vật chất cho người Việt
Nam hôm nay và mai sau.
Tuy nhiên do sức ép dân số, sức ép kinh tế và khả năng quản lý tài
nguyên kém hiệu quả dẫn tới hậu quả ô nhiễm môi trường biển và đới bờ
trở thành vấn đề báo động đỏ.
Nhận thấy tính bức thiết của vấn đề, chúng tôi thực hiện bài tiểu
luận với đề tài: “Thực trạng ô nhiễm biển Việt Nam và một số nguyên
nhân gây ra thực trạng đó”. Trong khi thực hiện còn thiếu sót, mong thầy
cô góp ý cho bài tiểu luận hoàn thiện hơn.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn!!!!


II. NỘI DUNG
II.1. HIỆN TRẠNG MÔI TRƯỜNG BIỂN VIỆT NAM


Hiện nay, môi trường biển nước ta đang có dấu hiệu bị ô nhiễm
và suy thoái. Môi trường vùng nước ven bờ đã bị ô nhiễm dầu, kẽm, và
chất thải sinh hoạt. Các chất rắn lơ lửng như Si, NO
3
, NH
4
và PO
4
cũng ở
mức đáng lo ngại. Chất lượng trầm tích đáy biển ven bờ- nơi cư trú của
nhiều loài thuỷ hải sản- cũng bị ô nhiễm.
Hàm lượng hoá chất bảo vệ thực vật chủng anđrin và enđrin trong
các mẫu sinh vật đáy ở các vùng cửa sông ven biển phía bắc đều cao hơn
2
giới hạn cho phép. Đa dạng sinh học động vật đáy ở ven biển miền bắc và
thực vật nổi ở miền trung suy giảm rõ rệt.Lượng hoá chất bảo vệ thực vật
tồn lưu trong cơ thể các loài thân mềm hai mảnh vỏ được xác định cao nhất
là tại Sầm Sơn và cửa Ba Lạt (11,14- 11.83 mg/kg thịt ngao), tháp nhất là
tại Trà Cổ (1,54 mg/kg).Các chất anđrin, enđrin, đienđrin, đặc biệt là
anđrin và enđrin có hầu hết ở các mẫu phân tích, biến đổi từ 0,12 đến 3,11
mg/kg.
Hiện tượng thuỷ triều đỏ cũng đã xuất hiện ở nước ta từ tháng sáu
đến trung tuần tháng bảy âm lịch tại vùng biển nam trung bộ, đặc biệt là tại
Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận. Thuỷ triều đỏ xuất hiện khá nhiều ở
nam trung bộ. Hơn 30km bãi biển từ Cà Ná đến Long Hương nhầy nhụa
nhũng bột báng màu xám đen dày cả tắc, trộn với xác chết của sinh vật tạo
nên mùi hôi thối. Thiệt hại do thuỷ triều đỏ gây ra rất lớn. Vùng biển ven
bờ nước ta đã phát hiện được khoảng 8-16 loài vi tảo biển gây hại tiềm
năng với mật độ hơn 2 x 104 tế bào/ lít. Hiện tượng thuỷ triều đỏ xảy ra ở
vùng biển Bình Thuận đã tiêu diệt tôm, cua, cá, san hô, rong cỏ biển.

Theo số liệu thống kê cho thấy khoảng 70% ô nhiễm biển đại
dương có nguồn gốc từ đất liền, xuất phát từ chất xả thải của các thành
phố, thị xã, thị trấn, từ các ngành công nghiệp, xây dựng, hoá chất…trong
đó đáng kể nhất và nguy hại nhất là các chất thải từ các nhà máy thông qua
hệ thống cống rãnh, xả thải ra biển và đại dương một lượng lớn các chất
bồi lắng, hoá chất, kim loại, nhựa, cặn dầu và thậm chí cả các chất phóng
xạ.
3
Ô nhiễm biển Đà Nẵng
Hàng năm, trên 100 con sông ở nước ta thải ra biển 880 km
3
nước, 270-300 triệu tấn phù xa, kéo theo nhiều chất có thể gây ô nhiễm
biển, như các chất hữu cơ, dinh dưỡng, kim loại nặng và nhiều chất độc
hại từ các khu dân cư tập trung, từ các khu công nghiệp và đô thị, từ các
khu nuôi trồng thuỷ sản ven biển và các vùng sản xuất nông nghiệp. Đến
năm 2010, dự tính lượng chất thải sẽ tăng rất lớn ở các vùng nước ven bờ,
trong đó dầu khoảng 35.160 tấn/1 ngày, nitơ tổng số 26-52 tấn/ngày và
tổng amoni 15-30 tấn/ngày.
Báo cáo hiện trạng môi trường đã chỉ ra rằng chất lượng môi
trường biển và vùng ven biển tiếp tục bị suy giảm. Nước biển của một số
khu vực có biểu hiện bị axit hoá do độ pH trong nước biển tầng mặt biến
đổi trong khoảng 6,3-8,2. Nước biển ven bờ có biểu hiện bị ô nhiễm bởi
chất hữu cơ, kẽm, một số chủng thuốc bảo vệ thực vật. Hiện tượng thuỷ
triều đỏ xuất hiện tại vùng biển nam trung bộ, đặc biệt tại Khánh Hoà,
Ninh Thuận, Bình Thuận làm chết các loại tôm cá đang nuôi trồng tại vùng
này. Chất lượng môi trường biển thay đổi dẫn đến nơi cư trú tự nhiên của
4
loài bị phá huỷ gây tổn thất lớn về đa dạng vùng bờ.Có khoảng 85 loài hải
sản có mức độ nguy cấp khác nhau và trên 70 loài đã được đưa vào sách đỏ
Việt Nam. Hiệu suất khai thác hải sản giảm rõ rệt, thêm vào đó, tình trạng

dùng các ngư cụ đánh bắt có tính chất huỷ diệt diễn ra khá phổ biến như
xung điện, chất nổ, đèn cao áp quá công suất cho phép… làm cạn kiệt các
nguồn lợi hải sản ven bờ. Nguồn lợi hải sản có xu hướng giảm dần về trữ
lượng, sản lượng và kích thước cá đánh bắt.
Trong các yếu tố làm ô nhiễm môi trường biển thì các chất phóng
xạ cũng đóng góp một vai trò đáng kể. Các vùng biển, đặc biệt là nước
biển tại các vùng lân cận các mỏ sa khoáng titan, trong điều kiện môi
trường thủy địa hóa thuận lợi, các chất phóng xạ bị hòa tan và di chuyển ra
biển, gây ô nhiễm nước biển. Khi con người khai thác khoáng sản, tài
nguyên thiên nhiên vô hình dung đã tàn phá thiên nhiên, làm mất cân bằng
sinh thái, mất lớp phủ thực vật che chắn và bảo vệ đất, làm cho vùng mỏ bị
xói lở và bóc mòn, quặng bị phong hóa phá hủy và phát tán đi các nơi, ảnh
hưởng đến môi trường và sức khỏe con người.Nước thải từ các khai
trường, xưởng tuyển không được xử lý, thu gom, để chảy tràn lan ra môi
trường xung quanh. Các bãi biển đều có địa hình dốc ra phía biển, càng
làm cho các chất thải, nước thải trôi xuống biển, đem theo các chất phóng
xạ và các chất độc hại khác làm ô nhiễm môi trường nước biển.
Ô nhiễm môi trường biển còn xảy ra ở các cảng. Các cảng đều
phải đối mặt với nước đục do liên quan đến hoạt động của tàu thuyền ra
vào cảng, nạo vét luồng lạch, đổ phế thải. Độ đục nước vùng cảng Hải
Phòng là 418-424mg/l, cảng Đà Nẵng 33-167mg/l. Nồng độ dầu ở tất cả
các cảng đều vượt mức cho phép 0,3mg/l(TCVN5943-1995), cảng Hải
Phòng 0,42mg/l, cảng Cái Lân 0,6mg/l, cảng Vũng Tàu 0,52mg/l, cảng
5
Vietso Petro 7,57mg/l. Mặt dầu loang ngăn chặn không khí hoà tan vào
nước nên hàm lượng oxy trong nước thấp, trung bình 3,3-10,9mg/l vào
mùa khô và 1,16-6,1mg/l vào mùa lũ, trong khi đó nhu cầu oxy rất cao,cần
tới 13,6-31mg/l. Nước thải công nghiệp và nước thải sinh hoạt đổ ra biển
chưa qua xử lý nên chỉ số vi trùng học luôn ở mức cao. Ở một số cảng
đáng báo động là hàm lượng thuỷ ngân đã vượt ngưỡng cho phép,cảng

Vũng Tàu vượt 3,1 lần, cảng Nha Trang vượt 1,1 lần. Hiện nay, hàm lượng
dầu trong nước biển của Việt Nam nhìn chung đều vượt giới hạn tiêu
chuẩn Việt Nam và vượt rất xa tiêu chuẩn hiệp hội các nước Đông Nam Á.
Đặc biệt có những thời điểm vùng nước khu vực cảng Cái Lân có hàm
lượng dầu đạt mức 1,75mg/l, gấp 6 lần giới hạn cho phép, vịnh Hạ Long có
1/3 diện tích biển hàm lượng dầu thường xuyên từ 1-1,73mg/l.
Môi trường biển bị ô nhiễm đã dẫn tới suy thoái đa dạng sinh học
biển, điển hình là hệ sinh thái san hô. Vùng biển Việt Nam có khoảng
1.122 km
2
rạn san hô, nếu hệ sinh thái này bị mất, biển nước ta có nguy cơ
sẽ trở thành "thủy mạc" không còn tôm cá nữa. Đó là thông điệp mà các
nhà môi trường và bảo tồn thiên nhiên nước ta đã cảnh báo. Theo số liệu
của Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam đến nay có khoảng 20% rạn có độ
phủ san hô sống nghèo (độ phủ 0-25%), 60% thuộc loại thấp (26-50%),
17% còn tốt (51-75%) và chỉ có 3% rất tốt (trên 75%). Các rạn san hô ở
vùng biển Việt Nam có giá trị cực kỳ quan trọng như điều hòa môi trường
biển, cung cấp dinh dưỡng trong vùng biển thông qua các chu trình sinh
địa hóa; đồng thời còn là nơi cư trú, sinh đẻ và ươm nuôi ấu trùng của
nhiều loài thủy sinh vật không chỉ vùng bờ, mà còn từ ngoài khơi vào theo
mùa trong đó có nhiều loài đặc hải sản.
6

×