Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

Công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức thanh tra ngành tư pháp giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (446.78 KB, 103 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng Nhà nước pháp quyền đang trở thành một xu thế khách quan
tất yếu đối với các quốc gia dân chủ trong thế giới hiện đại, với mục tiêu là
xác lập dân chủ, tức là thừa nhận và đảm bảo thực hiện quyền lực của nhân
dân. Ở nước ta, Đảng và Nhà nước coi việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp đổi mới của đất nước và
là một trong những nhiệm vụ trọng tâm đang ngày càng phát triển cả bề rộng
lẫn bề sâu, từ đó khẳng định vị thế của Việt Nam trên thế giới.
Trước yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì vấn
đề cấp bách đặt ra là đào tạo và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức. Chính vì
lẽ đó, nhận rõ vai trò của giáo dục, đào tạo, Đảng và Nhà nước ta luôn nhất
quán với quan điểm “ con người là nguồn lực quý báu nhất, là trung tâm của
sự phát triển. Phát triển giáo dục, đào tạo và khoa học công nghệ là quốc sách
hàng đầu. Cũng như nhiều nước, chúng ta đã tạo lập khung pháp lý và những
chính sách làm cơ sở cho việc đào tạo và phát triển đội ngũ cán bộ, công
chức. Tuy nhiên, thực tế cho thấy rằng mục tiêu đào tạo, xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực đang gặp nhiều khó khăn, những
kết quả đạt được chưa tương xứng với những yêu cầu đặt ra. Đảng ta nhận
định: “Công tác tổ chức, cán bộ chậm đổi mới, chưa đáp ứng yêu cầu tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý, điều hành của Nhà nước
trong thời kỳ mới” [13]. Công tác đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức còn dựa
vào những định kiến chủ quan, chưa thực sự xuất phát từ yêu cầu công việc,
tệ quan liêu, tham nhũng đang thực sự là vấn đề đáng lo ngại. Do vậy chúng
ta chứ tích cực phát hiện, đào tạo và bồi dưỡng những cán bộ, công chức có
đức, có tài. Để khắc phục những tồn tại hiện nay và đáp ứng những yêu cầu
của công cuộc đổi mới, vấn đề cấp bách là phải có chiến lược về con người,


2


trong đó đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng hiệu quả đội ngũ cán bộ, công chức
thực sự trở thành động lực cho sự phát triển của xã hội.
Cùng với việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức nói chung thì việc
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức thanh tra ngành Tư pháp là một vấn đề
cấp bách vì nói như Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Cán bộ thanh tra là tai mắt của
quần chúng” [26, tr.269]. Cán bộ thanh tra của ngành Tư pháp là một bộ phận
quan trọng của cán bộ Nhà nước ta nói chung.
Trong điều kiện cải cách hành chính, xây dựng một Nhà nước pháp
quyền, hướng tới xây dựng nền hành chính dân chủ, trong sạch và từng bước
hiện đại hoá thì vai trò đào tạo đội ngũ công chức thanh tra càng có ý nghĩa
quan trọng vì công tác thanh tra gắn liền với công tác quản lý nhà nước.
Đội ngũ cán bộ thanh tra ngành Tư pháp được hình thành từ khi Bộ Tư
pháp được tái lập năm 1982, cùng với sự nghiệp cách mạng của đất nước đội
ngũ cán bộ thanh tra ngành Tư pháp đã làm tốt nhiệm vụ của mình. Song do
nhiều nguyên nhân: đội ngũ cán bộ còn thiếu; pháp luật điều chỉnh về lĩnh
vực này chưa cụ thể, thống nhất; nhận thức về cán bộ ngành thanh tra còn
thiếu nhất quán; bản thân cán bộ ngành thanh tra có những đồng chí còn non
kém về nghiệp vụ, đạo đức, vì thế còn nhiều hạn chế trong công việc của
mình.Vì vậy cần xây dựng được đội ngũ cán bộ thanh tra ngành Tư pháp đủ
về số lượng và chất lượng; cần có cơ chế để bảo đảm cho đội ngũ cán bộ đó
hoạt động có hiệu quả, hiệu lực.
Là một cán bộ thanh tra ngành Tư pháp, bản thân tôi hiểu rất rõ tầm
quan trọng của chức năng, nhiệm vụ của ngành mình. Thông qua hoạt động
thực tiễn, thông qua nhiều kênh thông tin, tôi thấy được những điểm mạnh,
yếu của ngành. Để ngành Tư pháp ngày càng phát triển tôi chọn đề tài:
“Đào tạo, bồi dưỡng công chức thanh tra ngành Tư pháp theo yêu cầu
của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ
ngành luật học.



3
2. Tình hình nghiên cứu
Chủ nghĩa Mác-Lênin đã coi cán bộ là một vấn đề chiến lược, V.I.Lênin
viết: Trong lịch sử chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị,
nếu nó không đào tạo được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị,
những đại biểu tiên phong có đủ năng lực tổ chức và lãnh đạo phong trào. Với
Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong tác phẩm: sửa đổi lề lối làm việc, Bác viết: “cán
bộ là cái gốc của mọi công việc”, “cán bộ tốt thì mọi công việc mới tốt” và
còn nhiều những bài viết, nói chuyện của Bác về lĩnh vực cán bộ... Đây là
những quan điểm, tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nói chung và cán bộ thanh tra ngành Tư
pháp nói riêng.
Tại nước ta trong những năm gần đây, chủ đề nghiên cứu về đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ công chức đã có nhiều sự quan tâm của nhiều nhà luật học. Ở
mức độ và phạm vi khác nhau, đã có nhiều công trình nghiên cứu được công
bố như: Đào tạo bồi dưỡng công chức hành chính Nhà nước tại thành phố
Hồ Chí Minh theo yêu cầu cải cách nền hành chính ở nước ta hiện nay của
Nguyễn Mạnh Bình, 2001; Cơ sở khoa học của việc đào tạo bồi dưỡng cán
bộ chính quyền cơ sở cấp xã của TS. Trần Quang Minh; Cơ sở lý luận và thực
tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ công chức của TS. Thang Văn Phúc, TS.
Nguyễn Minh Phương. Nxb CTQG, 2005; Xây dựng nhà nước pháp quyền
của dân, do dân, vì dân của TS Nguyễn Trọng Thóc Nxb CTQG, 2005; Tư
tưởng nhân văn Hồ Chí Minh với việc giáo dục đội ngũ cán bộ, đảng viên
hiện nay của TS Hoàng Trang, TS. Phạm Ngọc Anh, Nxb CTQG, 2004; Đổi
mới nâng cao chất lượng đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công chức,
Nghiên cứu lý luận, số 9 của TS. Nguyễn Hữu Thanh, 2000; Cơ sở lý luận và
thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân của TS Trần Hậu Thành, Nxb CTQG, 2005; Những vấn đề pháp
lý cơ bản của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thanh tra nhà nước ở Việt



4
Nam của Luận văn tiến sĩ luật học của Phạm Tuấn Khải; Thực trạng tổ chức
và hoạt động thanh tra bộ, ngành, chuyên ngành ở nước ta của Luận văn tiến
sĩ Phạm Văn Khanh, 1997
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đây đã đề cập trực tiếp
hoặc gián tiếp đến nhiều nội dung về đào tạo bồi dưỡng công chức theo yêu
cầu Nhà nước Pháp quyền ở những mức độ và phạm vi khác nhau, tương ứng
với những khoảng thời gian nhất định, giải quyết nhiều vấn đề bức xúc. Tuy
nhiên, việc nghiên cứu có hệ thống và tương đối đầy đủ về cơ sở lý luận và
thực tiễn của vấn đề đào tạo, bồi dưỡng công chức thanh tra ngành Tư pháp
đến nay vẫn chưa có công trình nào đề cập.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Mục đích của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng về đào tạo, bồi dưỡng công
chức thanh tra ngành Tư pháp trên toàn quốc từ năm 1982 tới nay, luận văn
đề xuất một số quan điểm và giải pháp về đào tạo, bồi dưỡng công chức thanh
tra ngành Tư pháp theo yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích nói trên, luận văn có một số nhiệm vụ sau:
- Phân tích đặc điểm, vai trò, nhiệm vụ của công chức thanh tra ngành
Tư pháp.
- Phân tích thực trạng năng lực, chất lượng đào tạo, bồi dưỡng công chức
thanh tra Tư pháp trên toàn quốc; đưa ra những ưu điểm, khuyết điểm, từ đó
rút ra những bài học kinh nghiệm.
- Đề xuất một số giải pháp để nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ công chức ngành thanh tra trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam và tình hình đổi mới của đất nước ta hiện nay.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Lý luận về đào tạo công chức đã có nhiều công trình khoa học nghiên

cứu, nên luận văn chỉ tập trung nghiên cứu, luận giải cơ sở lý luận và đánh giá


5
thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức thanh tra ngành Tư pháp
trên toàn quốc từ năm 1982 tới nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, những quan điểm,
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về
vấn đề đào tạo, bồi dưỡng công chức nói chung và công tác thanh tra nói
riêng trên cơ sở xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của triết học duy vật biện
chứng và triết học duy vật lịch sử. Bên cạnh việc sử dụng phương pháp duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử, luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu khác như: Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, tổng kết thực tiễn...
5. Những đóng góp và ý nghĩa thực tiễn của luận văn.
- Làm rõ một số quan điểm về đào tạo, bồi dưỡng công chức thanh tra
của ngành Tư pháp.
- Chỉ ra ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân trong công tác đào tạo, bồi
dưỡng công chức thanh tra ngành Tư pháp trên toàn quốc từ năm 1982 đến nay.
- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao công tác
đào tạo, bồi dưỡng công chức thanh tra ngành Tư pháp trong thời gian.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Với kết quả đạt được, luận văn góp phần làm phong phú thêm lý
luận về công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức nói chung và đào tạo, bồi
dưỡng công chức thanh tra ngành Tư pháp nói riêng, từ đó giúp cho
những công chức đang trực tiếp làm công tác thanh tra trong ngành Tư
pháp và những người làm nhiệm vụ quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng
rút ra nhận thức chung về vấn đề này để nâng cao chất lượng, hiệu quả

trong công tác thanh tra.


6
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên
cứu, giảng dạy về lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng công chức ngành Tư pháp.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
có 3 chương, 6 tiết.


7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÔNG CHỨC
THANH TRA NGÀNH TƯ PHÁP THEO YÊU CẦU CỦA NHÀ NƯỚC
PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG CHỨC THANH TRA VÀ ĐÀO
TẠO, BỒI DƯỠNG CÔNG CHỨC THANH TRA NGÀNH TƯ PHÁP

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của công chức thanh tra ngành
Tư pháp
1.1.1.1. Khái niệm công chức và công chức thanh tra ngành Tư
pháp
Công chức là một khái niệm mang tính lịch sử, nội dung của nó phụ
thuộc vào đặc điểm của mỗi quốc gia. Với những giai đoạn lịch sử nhất định
thuật ngữ công chức cũng mang những nội dung khác nhau. Theo kinh
nhiệm của các quốc gia đã thực hiện chế độ công chức, thì công chức được
hiểu là những công dân được tuyển dụng và bổ nhiệm giữ một công vụ
thường xuyên trong một công sở của Nhà nước ở Trung ương hay địa
phương, ở trong nước hay ngoài nước, được xếp vào một ngạch và hưởng

lương từ ngân sách Nhà nước.
Theo Luật Công chức Cộng hoà Liên bang Đức năm 1977 quy định:
các công chức Cộng hoà Liên bang Đức đều là những nhân viên làm việc
trong các cơ quan nhà nước, trong các cơ quan, tổ chức văn hoá, nghệ thuật,
giáo dục và nghiên cứu khoa học quốc gia gồm nhân viên các tổ chức công,
nhân viên công tác trong các xí nghiệp nhà nước, các công chức làm việc trong
các cơ quan Chính phủ, nhân viên lao động công, giáo viên đại học, giáo viên
trung học hay tiểu học, bác sĩ hộ lý bệnh viện, nhân viên lái xe lửa... [2].
Theo Điều lệ tạm thời về công chức nhà nước của nước Cộng hoà nhân
dân Trung Hoa công bố ngày 14/8/1993, có hiệu lực kể từ ngày 1/10/1993,


8
công chức nhà nước bao gồm công chức lãnh đạo và không lãnh đạo. Để trở
thành công chức mọi người đều phải thông qua một chế độ tuyển dụng hết
sức nghiêm ngặt.
Chức danh công chức không lãnh đạo gồm: Cán sự, chuyên viên,
chuyên viên tổ trưởng, chuyên viên tổ phó, trợ lý chuyên viên nghiên cứu,
chuyên viên nghiên cứu, trợ lý chuyên viên thanh tra, chuyên viên thanh tra.
Chức danh công chức lãnh đạo gồm: Thủ tướng Quốc vụ viện, Phó Thủ
tướng Quốc vụ viện, các thành viên quốc vụ viện; chức trưởng, phó cấp bộ,
cấp tỉnh, chức trưởng phó cấp vụ, cấp sở; Trưởng, phó phòng (trong các vụ,
sở, huyện); Tổ trưởng, tổ phó; Trưởng, phó cấp xã [40, tr.150].
Ở Pháp công chức gồm những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào làm
việc trong các công sở gồm các cơ quan hành chính công quyền và các tổ
chức dịch vụ công cộng do nhà nước tổ chức, bao gồm cả trung ương và địa
phương nhưng không tính các công chức địa phương thuộc các hội đồng địa
phương quản lý [15].
Những thông tin trên cho thấy, phạm vi công chức ở các nước rất khác
nhau. Tuy có những điểm khác nhau như vậy nhưng các nước đều có những

điểm chung về quan niệm công chức đó là:
Thứ nhất, công chức là người được tuyển dụng, bổ nhiệm thông qua
các hình thức thi tuyển.
Thứ hai, các nước đều giới hạn công chức trong phạm vi bộ máy hành
chính nhà nước, được xếp vào ngạch nhất định trong hệ thống thang bậc,
ngạch công chức (thể hiện tính thứ bậc, khác biệt của từng vị trí công việc mà
công chức thực thi).
Ở Việt Nam, khái niệm công chức được hình thành và phát triển liên
tục theo tiến trình lịch sử, qua mỗi thời kỳ khác nhau có quan niệm khác nhau
về công chức. Điều đáng quan tâm là ngay từ những ngày đầu của chính
quyền Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà cũng đã quan tâm tới năng lực


9
chuyên môn và phẩm chất đạo đức của đội ngũ công chức. Đây là tiêu chí có
tính chính trị xã hội định hướng cho sự phát triển của nền công vụ và đồng
thời là tiêu chuẩn để lựa chọn cán bộ, công chức. Trên cơ sở những quan
điểm, tư tưởng, nguyên tắc về một nền công vụ, công chức kiểu mới thể hiện
trong Hiến pháp 1946, Quy chế công chức Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà được ban hành theo Sắc lệnh số 76/SL do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày
20.5.1950. Bản Quy chế này đặt ra những nguyên tắc cơ bản và tổng hợp các
vấn đề công chức. Lần đầu tiên khái niệm công chức đã được đưa vào Quy
chế pháp lý của Nhà nước. Tại Điều 1 Sắc lệnh số 76/SL ngày 20.5.1950 quy
định công chức là “những công dân Việt Nam được chính quyền nhân dân
tuyển để giữ một chức vụ thường xuyên trong các cơ quan Chính phủ, ở trong
hay ngoài nước đều là công chức”, theo Quy chế này, trừ những trường hợp
riêng biệt do Chính phủ định.
Như vậy theo Sắc lệnh 76 thì công chức Việt Nam thời kỳ này có
những đặc điểm cơ bản sau:
- Công chức phải là công dânViệt Nam được chính quyền nhân dân tuyển

chọn. Tức là một người muốn trở thành công chức thì phải qua thi tuyển.
- Công chức là những người giữ chức vụ thường xuyên trong cơ quan
của Chính Phủ, ở trong nước hay ngoài nước.
- Công chức được xếp vào ngạch nhất định và hưởng lương từ ngân
sách nhà nước.
Có thể khẳng định rằng quan niệm về công chức trong Sắc lệnh 76/SL
có nhiều yếu tố hợp lý, phù hợp với quan niệm công chức của nhiều nước trên
thế giới: muốn trở thành công chức nhà nước thì phải qua thi tuyển; công
chức là người làm việc thường xuyên trong một công sở và hưởng lương từ
ngân sách nhà nước.
Do hoàn cảnh lịch sử nên Quy chế công chức này được thực hiện
không lâu. Nhưng các quy định của Quy chế vẫn là khuôn mẫu về sự điều


10
chỉnh của pháp luật là cơ sở pháp lý bảo đảm cho việc xây dựng một đội ngũ
công chức chính quy, hiện đại, mà ngày nay chúng ta cần nghiên cứu vận
dụng trong điều kiện mới, điều kiện cải cách nền hành chính nhà nước.
Những năm đầu thập kỷ 90, khái niệm công chức được xác định lại theo Nghị
định số 169/HĐBT ngày 25/5/1991, tại Điều 1 quy định như sau: “Là công
dân Việt Nam được tuyển dụng và bổ nhiệm giữ một công vụ thường xuyên
trong một công sở của Nhà nước ở trung ương hay địa phương, ở trong nước
hay ngoài nước đã được xếp vào một ngạch, hưởng lương do ngân sách Nhà
nước cấp”. Hiện nay, chúng ta thường dùng Cán bộ và Công chức để chỉ
những người làm việc trong các cơ quan Nhà nước, hưởng lương từ ngân sách
Nhà nước.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII và Nghị quyết Hội
nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, từ giữa năm 1993 công việc
xây dựng dự án Pháp lệnh cán bộ công chức được tiến hành khẩn trương. Một
trong những nội dung khó khăn và phức tạp nhất là xác định phạm vi khái niệm

công chức Việt Nam gồm những ai, họ phải hội tụ đủ những tiêu chí nào.
Khi cho ý kiến chỉ đạo về dự án Pháp lệnh Công chức do Ban cán sự
Đảng Chính phủ trình Bộ Chính trị ngày 25 tháng 8 năm 1995, Bộ Chính trị
Trung ương Đảng đã chỉ rõ:
Ở nước ta, sự hình thành đội ngũ cán bộ, viên chức có đặc
điểm khác các nước. Cán bộ làm việc trong các cơ quan nhà nước,
Đảng và đoàn thể là một khối thống nhất trong hệ thống chính trị do
Đảng lãnh đạo. Bởi vậy, cần có một pháp lệnh có phạm vi điều
chỉnh chung đối với cán bộ trong toàn bộ hệ thống chính trị bao
gồm: các công chức nhà nước (trong đó có công chức làm việc ở
các cơ quan quân đội, cảnh sát, an ninh,...), cán bộ làm việc chuyên
trách trong các cơ quan Đảng, đoàn thể [15, tr.13].


11
Tiếp thu tinh thần chỉ đạo trên của Bộ Chính trị, Điều 1 Pháp lệnh Cán
bộ, công chức 1998 được sửa đổi năm 2003 không đưa ra định nghĩa riêng
cho từng khái niệm "cán bộ", "công chức", cũng không đưa ra một định nghĩa
chung cho cả nhóm "cán bộ, công chức", mà chỉ quy định:
1. Cán bộ, công chức được quy định tại Pháp lệnh này là công
dân Việt Nam, trong biên chế, bao gồm:
a) Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm
kỳ trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội ở trung ương; ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau
đây gọi chung là cấp tỉnh); ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện);
b) Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao
nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện;
c) Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch công
chức hoặc giao giữ một công vụ thường xuyên trong các cơ quan

nhà nước ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện;
d) Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch viên
chức hoặc được giao giữ một nhiệm vụ thường xuyên trong đơn vị sự
nghiệp của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội;
đ) Thẩm phán Tòa án nhân dân, Kiểm sát viên Viện kiểm sát
nhân dân.
e) Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao
nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc
Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên
nghiệp, công nhân quốc phòng; làm việc trong các cơ quan, đơn vị
thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan
chuyên nghiệp;


12
g) Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm
kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân; Bí thư,
Phó bí thư Đảng ủy; người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội xã,
phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã);
h) Những người được tuyển dụng, giao giữ một chức danh
chuyên môn nghiệp vụ thuộc ủy ban nhân dân cấp xã.
2. Cán bộ, công chức quy định tại các điểm a, b, c, đ, e, g và h
khoản 1 điều này được hưởng lương từ ngân sách nhà nước; cán bộ,
công chức quy định tại điểm d khoản 1 điều này được hưởng lương
từ ngân sách nhà nước và các nguồn thu sự nghiệp theo quy định
của pháp luật [42].
Như vậy, Điều 1 Pháp lệnh cán bộ, công chức chưa đưa ra được căn
cứ để phân biệt được rõ đâu là công chức và đâu là cán bộ. Mặt khác, thuật
ngữ "cán bộ" vốn có nội hàm rất rộng, không xác định theo ý nghĩa thông
dụng từ ngôn từ tiếng Việt: Mọi người làm việc công, hoặc người có thẩm

quyền, hoặc người lãnh đạo ở một cương vị cao, thấp bất kỳ, không chỉ trong
bộ máy nhà nước, mà cả trong các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội,
tổ chức xã hội khác đều có thể được gọi là "cán bộ". Tuy nhiên, quy định trên
cũng là cơ sở pháp lý quan trọng tách viên chức sự nghiệp với công chức
hành chính, nhưng dường như coi công chức bao hàm cả viên chức (xem
khoản 2).
Trên cơ sở quy định tại Điều 1 Pháp lệnh cán bộ, công chức, cũng như
suy ra từ quan niệm về viên chức trước đây, thì cán bộ, công chức, viên chức
có ba đặc điểm chung: là công dân Việt Nam, trong biên chế và hưởng lương
từ ngân sách nhà nước. Điều 1 Pháp lệnh cũng chỉ rõ mỗi cán bộ, công chức,
viên chức có phương thức riêng để được vào làm việc trong cơ quan, tổ chức
nhà nước và xã hội.


13
Căn cứ Pháp lệnh năm 2003 sửa đổi, bổ sung một số điều Pháp lệnh
cán bộ, công chức năm 1998, ngày 10/10/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 117/2003/NĐ-CP về tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công
chức trong các cơ quan nhà nước. Theo đó, Điều 2 của Nghị định quy định về
công chức như sau:
Công chức nói tại nghị định này là công dân Việt Nam, trong biên
chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước được quy định tại điểm b, điểm c,
điểm e khoản 1, Điều 1 của Pháp lệnh cán bộ, công chức, làm việc trong các
cơ quan nhà nước, lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã
hội sau đây:
1. Văn phòng Quốc hội;
2. Văn phòng Chủ tịch nước;
3. Các cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện;
4. Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân các cấp;
5. Cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở

nước ngoài;
6. Đơn vị thuộc Quân đội nhân dân và Công an nhân dân;
7. Bộ máy giúp việc thuộc tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội
ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện.
Cũng theo quy định tại khoản 2 Điều 2 Nghị định số 114/2003/NĐ-CP
ngày 10 tháng 10 năm 2003 của Chính phủ về cán bộ, công chức xã, phường, thị
trấn, lần đầu tiên trong pháp luật nước ta có quy định về công chức xã,
phường, thị trấn. Theo quy định của Nghị định này, công chức xã, phường, thị
trấn (gọi chung là cấp xã) được hiểu là những người được tuyển dụng, giao
giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc ủy ban nhân dân cấp xã (gọi
chung là công chức cấp xã), gồm các chức danh sau đây:
1. Trưởng công an (nơi chưa bố trí lực lượng công an chính quy);
2. Chỉ huy trưởng quân sự;


14
3. Văn phòng - Thống kê;
4. Địa chính - Xây dựng;
5. Tài chính - Kế toán;
6. Tư pháp - Hộ tịch;
7. Văn hóa - Xã hội.
Đối chiếu Điều 2 Nghị định số 117/2003/NĐ-CP, khoản 2 Điều 2 Nghị
định số 114/2003/NĐ-CP chúng ta thấy rằng, phạm vi khái niệm công chức quy
định tại Điều 2 Nghị định số 117, khoản 2 Điều 2 Nghị định số 114 không bao
gồm những người làm việc trong các đơn vị sự nghiệp và bổ sung thêm những
người làm việc trong bộ máy giúp việc thuộc tổ chức chính trị, tổ chức chính
trị - xã hội ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện, những người giữ các chức
danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn.
Nghị định số 117/2003/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2003 của Chính
phủ về việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức trong các cơ

quan nhà nước phân loại công chức cũng theo trình độ đào tạo, vị trí công tác.
Điểm mới của Nghị định này còn phân công chức theo ngạch công chức:
Theo trình độ đào tạo, công chức được phân thành ba loại: 1) Công
chức loại A là người được bổ nhiệm vào ngạch yêu cầu trình độ đào tạo
chuyên môn giáo dục đại học và sau đại học; 2) Công chức loại B là người
được bổ nhiệm vào ngạch yêu cầu trình độ đào tạo chuyên môn giáo dục nghề
nghiệp; 3) Công chức loại C là người được bổ nhiệm vào ngạch yêu cầu trình
độ đào tạo chuyên môn dưới giáo dục nghề nghiệp. Theo Thông tư số
09/2004/TT-BNV ngày 19 tháng 2 năm 2004 hướng dẫn thực hiện một số
điều của Nghị định số 117/2003/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2003 của
Chính phủ về việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức trong
các cơ quan nhà nước, công chức loại A được hiểu là những người được bổ
nhiệm vào ngạch yêu cầu trình độ đào tạo chuyên môn giáo dục đại học và
sau đại học bao gồm: cao đẳng, đại học, thạc sĩ, tiến sĩ.


15
Theo vị trí công tác, công chức được phân ra làm hai loại: 1) Công
chức lãnh đạo, chỉ huy; 2) Công chức chuyên môn, nghiệp vụ.
Theo ngạch công chức, công chức được phân thành năm loại : 1) Công
chức ngạch chuyên viên cao cấp và tương đương trở lên; 2) Công chức ngạch
chuyên viên chính và tương đương; 3) Công chức ngạch chuyên viên và tương
đương; 4) Công chức ngạch cán sự và tương đương; 5) Công chức ngạch
nhân viên và tương đương.
Việc phân loại công chức theo Nghị định số 117 như đã trình bày, là
việc làm có ý nghĩa thiết thực về mặt lý luận và thực tiễn đối với việc cơ cấu,
quy hoạch, quản lý công chức trong hoạt động công vụ. Trên cơ sở cách phân
loại này để có những tiêu chí khác nhau trong việc đánh giá, sử dụng, đề bạt,
xử lý công chức vi phạm một cách thích hợp, đáp ứng yêu cầu của công cuộc
đổi mới xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do

nhân dân và vì nhân dân.
Trên cơ sở những vấn đề đã nêu, kết hợp điểm b, c, e khoản 1 và 2
Điều 1 Pháp lệnh Cán bộ, công chức và khoản 1 Điều 2, Điều 4 Nghị định số
117, khoản 2 Điều 2 Nghị định số 114, chúng ta có thể rút ra một định nghĩa
đầy đủ hơn về công chức "theo tinh thần" của Pháp lệnh hiện hành như sau:
Công chức Việt Nam là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào
ngạch hoặc được giao giữ một công vụ (được giao nhiệm vụ thường xuyên),
được phân loại theo trình độ đào tạo, ngành chuyên môn, vị trí công tác
trong các cơ quan, tổ chức của Nhà nước, bộ máy giúp việc của tổ chức chính
trị, tổ chức chính trị - xã hội, mỗi ngạch thể hiện chức và cấp về chuyên môn
nghiệp vụ, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Qua định nghĩa trên, chúng ta rút ra ba yếu tố căn bản gắn liền với công
chức nước ta đó là:
- Được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao giữ một công vụ thường xuyên
trong công sở nhà nước, cơ quan, đơn vị thuộc lực lượng vũ trang, tổ chức


16
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội. Đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân
làm theo nhiệm kỳ, còn công chức có thể thực thi công vụ suốt đời.
- Được xếp vào ngạch của “tính nghề nghiệp” công chức, bậc hưởng
lương do nhà nước quy định. Điều đó thể hiện tính chất ổn định của công
chức. Bởi vì, muốn xếp vào ngạch thì phải có tiêu chuẩn. Đây là yếu tố quan
trọng nhất để xác định công chức và không công chức - yếu tố chỉ phát sinh ở
chế độ có bộ máy công quyền.
- Được hưởng lương từ ngân sách nhà nước, nghĩa là được bao cấp.
Đây là một tiêu chí quan trọng để phân biệt công chức với viên chức. Vì
lương của viên chức chỉ lấy một phần từ ngân sách nhà nước, còn lại là từ
nguồn thu sự nghiệp của đơn vị.
Tóm lại, trên con đường hoàn thiện, phạm vi khái niệm công chức của

nước ta trải qua nhiều bước phát triển, mỗi bước đều phải phù hợp với đòi hỏi
khách quan của các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội hay nói cách khác, bị
quy định bởi những điều kiện khách quan đó. Đồng thời cũng bị chi phối bởi
nhận thức chủ quan của cơ quan lãnh đạo, nhà lập pháp trong từng thời kỳ,
trong đó nhân tố chủ quan vẫn là cơ bản, có ý nghĩa quyết định.
Khái niệm công chức thanh tra ngành Tư pháp:
Để hiểu rõ hơn về công chức thanh tra ngành Tư pháp trước tiên cần
hiểu rõ “khái niệm thanh tra Tư pháp” với ý nghĩa chung nhất. Khái niệm
thanh tra Tư pháp cũng được hiểu trong khái niệm chung về thanh tra. Thanh
tra (inspect) xuất phát từ gốc la tinh (Inspecture) có nghĩa là “nhìn vào bên
trong”, chỉ sự kiểm tra, xem xét từ bên trong vào họat động của một đối tượng
nhất định; “ là sự kiểm soát, kiểm kê đối tượng bị thanh tra”. Theo từ điển
tiếng Việt năm 2008 thanh tra là kiểm soát, xem xét tại chỗ của địa phương,
cơ quan, xí nghiệp. Với nghĩa này, thanh tra là kiểm soát, xem xét tại chỗ của
địa phương, cơ quan, xí nghiệp. Với nghĩa này, thanh tra là kiểm soát nhằm
phát hiện và ngăn chặn những gì trái với quy định. Thanh tra thường đi kèm
với chủ thể nhất định như đoàn thanh tra, người làm nhiệm vụ thanh tra, thanh


17
tra viên và được đặt trong phạm vi hoạt động nhất định. Trong các văn bản
pháp luật và thực tiễn quản lý của nước ta, cụm từ “ thanh tra kiểm tra” được
sử dụng để chỉ hoạt động không thể thiếu của quản lý nhà nước nhằm hướng
đối tượng quản lý theo mục tiêu nhất định.
Thanh tra Tư pháp vừa được dùng với ý nghĩa là hoạt động thanh tra
trong lĩnh vực quản lý nhà nước của ngành Tư pháp đồng thời vừa là một
khái niệm gọi tên các cơ quan thanh tra trong ngành Tư pháp. Ở Việt Nam,
ngành Tư pháp là các cơ quan thuộc thẩm quyền quản lý nhà nước của Bộ Tư
pháp và Sở Tư pháp. Điều này hoàn toàn khác với khái niệm “ tư pháp” để chỉ
đến hệ thống các cơ quan toà án và các hoạt động liên quan đến xét xử, tranh

tụng tại toà án. Thanh tra Tư pháp được tổ chức và hoạt động thuộc lĩnh vực
chuyên ngành Tư pháp. Thanh tra Tư pháp cũng có nhiệm vụ, quyền hạn
chung của các cơ quan thanh tra Nhà nước, bên cạnh đó có nhiệm vụ, quyền
hạn và đặc thù riêng của nganh Tư pháp. Nghị định số 74/2007/NĐ – CP ngày
01 tháng 8 năm 2007 của Chính phủ đã quy định chức năng, nhiệm vụ và tổ
chức hoạt động của thanh tra Tư pháp trong đó quy định nhiệm vụ, quyền hạn
của thanh tra Bộ Tư pháp, nhiệm vụ quyền hạn của thanh tra Sở Tư pháp.
Công chức thanh tra xác định rõ vị trí chức danh các ngạch công chức.
Trong tổ chức thanh tra có chức danh thanh tra viên và các chức danh công
chức hành chính khác. Chức danh thanh tra viên đã được khẳng định trong hệ
thống chức danh công chức nhà nước, đã được xây dựng tiêu chuẩn nghiệp
vụ chung cho từng cấp thanh tra viên.
Theo quy định của Điều 31 Luật Thanh tra năm 2004 thì tiêu chuẩn
chung của Thanh tra viên phải có đủ các tiêu chuẩn sau đây:
a) Trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam; có phẩm chất đạo đức tốt, có ý thức trách nhiệm, liêm khiết,
trung thực, công minh, khách quan;


18
b) Tốt nghiệp đại học, có kiến thức quản lý nhà nước và kiến thức pháp
luật; đối với Thanh tra viên chuyên ngành còn phải có kiến thức chuyên môn
về chuyên ngành đó;
c) Có nghiệp vụ thanh tra;
d) Có ít nhất hai năm làm công tác thanh tra đối với người mới được
tuyển dụng vào ngành thanh tra (không kể thời gian tập sự); nếu là cán bộ,
công chức công tác ở cơ quan, tổ chức khác chuyển sang cơ quan thanh tra
nhà nước thì phải có ít nhất một năm làm công tác thanh tra.
Thanh tra viên Tư pháp ngoài việc tuân thủ các quy định chung theo
tiêu chuẩn của luật Thanh tra còn có tiêu chuẩn riêng được quy định theo

Nghị định số 74/2007/NĐ – CP ngày 01 tháng 8 năm 2007 của Chính Phủ
được quy định như sau:
a) Thanh tra viên Tư pháp (sau đây gọi tắt là Thanh tra viên) là công
chức được bổ nhiệm vào ngạch thanh tra để thực hiện nhiệm vụ thanh tra.
b) Thanh tra viên phải là cử nhân luật hoặc tốt nghiệp đại học chuyên
ngành khác và có kiến thức pháp luật trong các lĩnh vực thuộc thẩm quyền
quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp và đáp ứng tiêu chuẩn chung của Thanh tra
viên theo quy định tại Điều 31 của Luật Thanh tra.
c) Thanh tra viên được hưởng chế độ, chính sách và được bảo đảm các
điều kiện cần thiết cho hoạt động thanh tra theo quy định của pháp luật.
Như vậy, công chức thanh tra Tư pháp làm việc trong cơ quan thanh
tra ngành Tư pháp theo chức danh, công việc phù hợp với những tiêu chuẩn
cụ thể mà pháp luật quy định.
Trong hoạt động thanh tra, Thanh tra viên Tư pháp có các quyền được sử
dụng theo pháp luật quy định như NĐ số 76/2006/NĐ - CP ngày 02/8/2006,
Nghị định Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp và
Nghị định số 74/2007/NĐ - CP ngày 01 tháng 8 năm 2007 của Chính phủ quy
định về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Tư pháp.


19
1.1.1.2. Đặc điểm công chức Thanh tra ngành Tư pháp
Đối với cán bộ công chức thanh tra trước hết phải có đầy đủ tiêu chuẩn
chung của một cán bộ, công chức và tiêu chuẩn riêng do đặc thù của hoạt
động thanh tra Tư pháp.
Trong các tổ chức Thanh tra nhà nước, các chức danh cán bộ, công
chức khác như chuyên viên, cán sự... áp dụng các tiêu chuẩn nghiệp vụ của
công chức đó. Xét về mặt lý luận và quá trình hình thành và phát triển công
chức thanh tra ở nước ta và một số nước trên thế giới, do tổ chức và hoạt động
thanh tra nên hình thành những nét đặc thù của công chức thanh tra, công

chức thanh tra ngành Tư pháp cũng không nằm ngoài những đặc trưng này.
Cụ thể những đặc trưng đó là: tính quyền lực, tính độc lập, tính tổng hợp
chuyên sâu.
a) Đội ngũ công chức thanh tra ngành Tư pháp mang tính quyền lực
Nói chung công chức nhà nước đều thực thi quyền lực nhà nước trong
phạm vi chức danh được giao. Riêng công chức được giao nhiệm vụ xem xét,
kiểm soát việc thi hành pháp luật của đối tượng quản lý, kết luận đúng sai,
quy trách nhiệm, có biện pháp ngăn ngừa, xử lý, kiến nghị cấp có thẩm quyền
xử lý có vi phạm. Như vậy, chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của thanh tra viên
khác với công chức hành chính khác, nó kiểm soát việc thực thi công vụ của
công chức hành chính và không làm thay chức trách của công chức chuyên môn.
Trong khi thi hành công vụ, công chức thanh tra Tư pháp được nhà nước giao
một số quyền và chịu trách nhiệm cá nhân về sử dụng các quyền đó.
b) Đội ngũ công chức thanh tra Tư pháp được nhà nước đảm bảo các
điều kiện cần thiết, quyền lợi chính đáng để có khả năng và yên tâm thực thi
công vụ
Để thực hiện công vụ, người công chức nói chung và công chức thanh
tra tư pháp nói riêng được nhà nước cung cấp các điều kiện cần thiết để tiến
hành thực thi công vụ, các điều kiện về cơ sở vật chất như: trụ sở, phương
tiện, điều kiện làm việc... Họ được sử dụng các quyền lợi vật chất và tinh thần


20
như hưởng lương từ ngân sách nhà nước tương xứng với chức trách và công
việc, nhận các loại trợ cấp, phụ cấp bằng tiền hoặc hiện vật và có lương hưu
khi đủ thời gian cống hiến cho nền công vụ, được khen thưởng khi có công
lao xứng đáng. Sự bảo đảm quyền lợi cho nguồn nhân lực này có tính ổn định,
lâu dài. Trong thực tế là suốt đời nếu như công chức thanh tra Tư pháp không
vi phạm kỷ luật hoặc bị thải hồi hoặc bị truy tố trước pháp luật.
c) Là lực lượng mang tính độc lập

Do chức trách, nhiệm vụ trong công tác thanh tra, kiểm tra, không chỉ
xem xét, đánh giá sự việc đúng hay sai để kiến nghị, đề xuất cách giải quyết,
mà còn đấu tranh bảo vệ lợi ích của nhà nước, các quyền và lợi ích hợp pháp
của các tổ chức và công dân. Cần kiên quyết bảo vệ lợi ích của nhà nước, các
quyền và lợi ích hợp pháp của các cơ quan, tổ chức và công dân. Cần kiên
quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện tham nhũng, gây tổn hại tài sản xã hội
chủ nghĩa và xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của công dân nên đòi hỏi thanh
tra viên phải chủ động quyết đoán, tự chịu trách nhiệm và lựa chọn hành động
của mình một cách đúng đắn, không vi phạm pháp luật; trong hoạt động thanh
tra công chức thanh tra chỉ tuân theo pháp luật, bảo đảm tính khách quan,
trung thực trong việc đánh giá hoạt động của đối tượng thanh tra, từ đó hoạt
động thanh tra và công chức thanh tra Tư pháp đòi hỏi phải có tính độc lập.
d) Đội ngũ công chức thanh tra Tư pháp mang tính tổng hợp và chuyên
ngành sâu
Hoạt động thanh tra gắn liền với hoạt động của chủ thể quản lý, thanh
tra đánh giá hiệu quả lao động của đối tượng quản lý. Nó được tổ chức theo
nguyên tắc quản lý theo ngành, lĩnh vực kết hợp theo địa phương. Do vậy, để
thực hiện được chức trách, nhiệm vụ của mình, đòi hỏi công chức thanh tra
nói chung và công chức thanh tra Tư pháp nói riêng phải có kiến thức tổng
hợp, đồng thời hiểu sâu về chuyên môn, nghiệp vụ của ngành và lĩnh vực;
chức năng, nhiệm vụ của cấp hành chính và chức trách, nhiệm vụ của công


21
chức hành chính.
Những đặc tính trên đây cũng là mực chính để phân biệt hoạt động của
công chức thanh tra với hoạt động của các công chức hành chính khác. Đồng
thời, đó chính là yếu tố quan trọng khi nghiên cứu đổi mới tổ chức, hoạt động
thanh tra cũng như việc nghiên cứu xây dựng đội ngũ công chức, quy chế công
vụ ngành Tư pháp phù hợp yêu cầu đổi mới chung của Đảng và nhà nước.

1.1.2. Khái niệm đào tạo, bồi dưỡng công chức thanh tra Tư pháp.
Nội dung, hình thức, phương pháp đào tạo
1.1.2.1. Khái niệm đào tạo, bồi dưỡng công chức thanh tra Tư pháp
Khái niệm đào tạo:
Theo từ điển Tiếng Việt năm 2008 trang 369 - Nhà xuất bản Đà Nẵng
“đào tạo là làm cho trở thành người có năng lực theo những tiêu chuẩn nhất
định”. Do vậy, có thể hiểu rằng, đào tạo là một quá trình truyền thụ kiến thức
mới để cán bộ thông qua đào tạo có văn bằng cao hơn trình độ trước đó. Đào tạo
có quan hệ mật thiết với giáo dục. Giáo dục là sự dạy dỗ đối với con người,
nhằm cung cấp và chuyển giao một khối lượng kiến thức nhất định, các giá trị
văn hoá, chuẩn mực xã hội để làm cho người trở thành thành viên hợp cách của
xã hội. Đào tạo là giáo dục chuyên sâu, là quá trình học tập của con người để có
kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng làm việc trong lĩnh vực nhất định, ở một trình
độ nhất định.
Đào tạo có những đặc điểm sau:
- Là quá trình tổ chức học tập có hệ thống. Đào tạo được tổ chức theo một
quy trình cụ thể, với những bước đi, thời gian thích hợp, có nội dung, chương
trình đào tạo và yêu cầu đặt ra đối với giảng viên, học viên theo từng giai đoạn,
được đánh giá qua các bài giảng, sự tiếp thu, các bài kiểm tra, thi tốt nghiệp... các
yếu tố trong quá trình đào tạo nói trên tác động qua lại lẫn nhau tạo nên một chỉnh
thể thống nhất. Tính thống nhất là đặc điểm không thể thiếu được của đào tạo;
- Tạo sự biến đổi về chất sau quá trình học tập. Đào tạo cán bộ, công chức


22
không những giúp cho cán bộ, công chức phát triển năng lực đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ đặt ra mà còn trang bị những phương pháp, kỹ năng tạo nền móng cho
cán bộ, công chức tiếp thu những kiến thức mới, trí tuệ nhân loại, đáp ứng yêu
cầu ngày càng tăng của xã hội. Một cách cụ thể hơn, đào tạo được xem như một
quá trình làm cho người ta “trở thành người có năng lực theo những tiêu chuẩn

nhất định” [41, tr.29].
Khái niệm bồi dưỡng:
Bồi dưỡng theo từ điển tiếng Việt năm 2008 trang 107 “Bồi dưỡng là tăng
thêm năng lực hoặc phẩm chất”. Như vậy, bồi dưỡng là quá trình làm tăng thêm
về trình độ hiểu biết, tư cách đạo đức, phẩm chất chính trị của con người. Bồi
dưỡng nhằm mục đích bổ sung kiến thức, thông qua quá trình bồi dưỡng sẽ giúp
cho đối tượng được bồi dưỡng nâng dần trình độ, chất lượng công tác đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, bồi dưỡng chưa tạo bước ngoặt căn bản
trong trình độ, kỹ năng nghiệp vụ cán bộ. Như vậy, khái niệm đào tạo và bồi
dưỡng rất gần nhau, trong đào tạo đã bao hàm nghĩa bồi dưỡng, nó khác với bồi
dưỡng ở chỗ đào tạo chỉ quá trình trang bị những kiến thức, kỹ năng mới mà
trước đó người công chức chưa được đào tạo. Một cách cụ thể hơn, người ta cho
rằng, bồi dưỡng là quá trình nâng cao trình độ chuyên môn, kiến thức, kỹ năng
nghề nghiệp một cách thường xuyên, quá trình tăng cường năng lực nói chung
trên cơ sở kiến thức, kỹ năng đã được đào tạo. Thông thường, hoạt động công
vụ, bồi dưỡng có nhiệm vụ cập nhật trang bị thêm, trang bị mới kiến thức, kỹ
năng thái độ cho cán bộ, công chức để thực hiện tốt hơn, hiệu quả hơn nhiệm vụ
được giao.
Việc tách bạch khái niệm đào tạo và bồi dưỡng riêng rẽ chỉ để tiện cho
việc phân tích sự giống và khác nhau giữa đào tạo và bồi dưỡng. Thực tế xét
theo khung cảnh đào tạo, bồi dưỡng công chức thì trong đào tạo đã bao hàm việc
bồi dưỡng.
Xét về mặt thời gian, đào tạo thường có thời gian dài hơn, thường là từ


23
một năm học trở lên. Về bằng cấp thì đào tạo có bằng cấp hoặc chứng chỉ chứng
nhận trình độ đã được đào tạo, còn bồi dưỡng thường chỉ có chứng chỉ chứng
nhận đã học qua khoá bồi dưỡng.
Như vậy vấn đề đào tạo, bồi dưỡng cán bộ không chỉ được hiểu qua một

khoá hay một vài khoá khác nhau của trường lớp nào đó, mà là cả một quá trình
bồi dưỡng của từng cán bộ, giữa những kiến thức được bổ sung từ cả lý luận và
thực tiễn. Công tác đào tạo, bồi dưỡng phải chú ý cả các mặt chính trị và tư cách,
kiến thức và khả năng sáng tạo vận dụng vào thực tiễn.
Đào tạo, bồi dưỡng công chức nói chung và công chức thanh tra Tư pháp
nói riêng được xác định là một quá trình có kế hoạch làm biến đổi thái độ, kiến
thức hoặc kỹ năng thông qua việc học tập rèn luyện để làm việc có hiệu quả
trong một hoạt động hay trong trong một loạt các hoạt động nào đó.
Như vậy đào tạo, bồi dưỡng chính là việc tổ chức những cơ hội cho người
ta học tập, nhằm giúp tổ chức đạt được mục tiêu của mình bằng việc tăng cường
năng lực, làm gia tăng giá trị của nguồn lực cơ bản quan trọng nhất là con người,
là cán bộ, công chức làm việc trong tổ chức. Với quan niệm như vậy thì đào tạo,
bồi dưỡng công chức thanh tra Tư pháp nhằm hướng tới các mục tiêu sau:
- Phát triển năng lực công chức và nâng cao khả năng làm việc thực tiễn
của họ;
- Giúp công chức phát triển để có thể đáp ứng được nhu cầu nhân lực
trong tương lai của tổ chức.
1.1.2.2. Mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng công chức thanh tra ngành Tư pháp
Là những dự kiến về kết quả của quá trình đào tạo trong một thời gian
nhất định. Mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng có ý nghĩa chỉ đạo, định hướng cho
quá trình hoạt động đào tạo, bồi dưỡng. Chất lượng đào tạo, bồi dưỡng phụ
thuộc vào mục tiêu. Theo Quyết định 40/2006/QĐ - TTg ngày 15/02/2006 về
phê duyệt Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giai đoạn 2006 –
2010, mục tiêu là: trang bị, nâng cao kiến thức, năng lực quản lý, điều hành


24
và thực thi công vụ cho đội ngũ công chức hành chính nhằm xây dựng đội
ngũ cán bộ, công chức chuyên nghiệp, có phẩm chất tốt và đủ năng lực thi
hành công vụ, tận tụy phục vụ đất nước và phục vụ nhân dân. Đó là mục tiêu

chung của Đảng và Nhà nước đã đề ra đối với công chức nói chung. Tuy
nhiên, do đặc thù của Thanh tra Tư pháp ngoài việc tuân thủ mục tiêu chung
còn có mục tiêu đào tạo riêng căn cứ vào những tiêu chí sau:
- Thường xuyên chú trọng nâng cao trình độ, năng lực, phẩm chất cho
cán bộ, công chức thanh tra viên để phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ, trung
thành với nhà nước xã hội chủ nghĩa, tận tâm phục vụ nhân dân, bảo vệ lợi ích
chính đáng của nhân dân, lợi ích quốc gia.
- Phấn đấu đến năm 2015, 100% công chức thanh tra ngành Tư pháp
được trang bị kỹ năng nghiệp vụ theo yêu cầu công vụ và có khả năng hoàn
thành có chất lượng nhiệm vụ được giao; trang bị kiến thức về văn hoá công
sở; trách nhiệm và đạo đức công chức thanh tra cho công chức các ngạch
thanh tra.
- Xây dựng quy hoạch cán bộ, điều chỉnh cán bộ sao cho hợp lý, từng
bước trẻ hoá đội ngũ cán bộ, thanh tra viên bảo đảm tính kế thừa, tính liên
tục, đổi mới công tác quản lý cán bộ, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
- Coi trọng và khẩn trương đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, thanh tra viên
đương chức và kế cận; kết hợp việc học tập ở trường với việc rèn luyện, học
tập công tác thực tế theo quy trình chặt chẽ, mạnh dạn bố trí cán bộ vào
những cương vị đòi hởi sự phấn đấu cao hơn trên cơ sở thường xuyên kiểm
tra, tạo điều kiện thuận lợi cho họ cống hiến và trưởng thành ngang tầm
nhiệm vụ được giao.
Như vậy, căn cứ vào mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
thanh tra Tư pháp phải đạt mục tiêu sau:
Thứ nhất, trang bị cho đội ngũ công chức thanh tra có năng lực để thực
hiện công việc của họ


25
Thứ hai, đảm bảo trang bị đủ kiến thức theo quy định theo tiêu chuẩn
cho thanh tra viên, thanh tra viên chính, thanh tra viên cao cấp. Tạo điều kiện

cho công chức thanh tra có khả năng triển khai và thực hiện công tác điều
hành quản lý
Thứ ba, nâng cao nghiệp vụ, chuyên môn, kỹ năng trong quá trình thực
thi pháp luật. Ngày nay, đào tạo, bồi dưỡng không còn được coi như là hoạt
động giáo dục thuần tuý. Mà đào tạo được sử dụng như một công cụ chủ yếu
để thực hiện triển khai trên thực tế cải cách nền hành chính, nhằm đáp ứng
các yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa.
Có thể nói rằng, xác định đúng đắn mục tiêu đào tạo công chức thanh
tra ngành Tư pháp có ý nghĩa hết sức quan trọng cả lý luận và thực tiễn. Vì có
đặt ra được mục tiêu đúng đắn mới đào tạo ra những công chức thanh tra tinh
thông về chuyên môn, nghiệp vụ, giúp cơ quan lãnh đạo và quản lý vừa kiểm
tra được công tác chấp hành pháp luật của các cơ quan thuộc quyền quản lý
của Bộ Tư pháp
Dó đó, việc đặt ra mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng là cơ sở cho việc đặt ra
các nguyên tắc, phạm trù, nội dung, phương tiện của quá trình đào tạo, bồi
dưỡng hướng tới tương lai. Việc xác định không chính xác hay phiến diện, sai
lầm về mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng đều ảnh hưởng, tác động tới chất lượng
tốt hay xấu của công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức thanh tra Tư pháp.
1.1.2.3. Nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng công chức thanh
tra ngành Tư pháp
Nội dung đào tạo là một yếu tố quan trọng của công tác đào tạo, bồi
dưỡng trên cơ sở mục tiêu và đồng thời xuất phát từ nhu cầu đặc điểm của đối
tượng. Xác định, phân loại đối tượng trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức thanh tra Tư pháp là một việc làm có ý nghĩa rất quan trọng trong việc
nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng. Nó sẽ khắc


×