Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của đảng bộ bệnh viện đa khoa đông anh, hà nội trong giai đoạn hiện nay thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (314.78 KB, 60 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I

NGUYỄN QUỐC TIẾN

NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO, SỨC CHIẾN
ĐẤU CỦA ĐẢNG BỘ BỆNH VIỆN ĐA KHOA
ĐÔNG ANH, HÀ NỘI HIỆN NAY
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH

3


Hà Nội, tháng 8 năm 2014

4


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I

NGUYỄN QUỐC TIẾN

NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO, SỨC CHIẾN
ĐẤU CỦA ĐẢNG BỘ BỆNH VIỆN ĐA KHOA
ĐÔNG ANH, HÀ NỘI HIỆN NAY


THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH

Người hướng dẫn: Th.s Tạ Thị Minh Phú
Khoa Xây dựng Đảng

5


LỜI CẢM ƠN!
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo Học viện Chính trị
Khu vực I; các đồng chí lãnh đạo tại bệnh viện Đông Anh, Hà Nội. Cảm
ơn thạc sĩ Tạ Thị Minh Phú- giảng viên Khoa Xây dựng Đảng đã tận
tình, quan tâm, động viên, giúp đỡ tạo điều kiện giúp tôi trong quá trình
học tập, nghiên cứu và hoàn thành Luận văn tốt nghiệp.
Tuy nhiên, do thời gian, năng lực tổng hợp, nghiên cứu có hạn nên
luận văn không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế, rất mong nhận
được sự góp ý của các thầy cô giáo, các đồng chí, đồng nghiệp để Luận
văn được hoàn thiện hơn.
Trân trọng cảm ơn!

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong công cuộc đổi mới đất nước do Đảng khởi xướng và lãnh đạo,
chúng ta đã giành nhiều thành tựu lớn, đất nước đã vững vàng thoát ra khỏi
cuộc khủng hoảng về kinh tế, nền kinh tế có bước phát triển khá, văn hoá - xã
hội có nhiều khởi sắc, tình hình chính trị ổn định, an ninh - quốc phòng được
đảm bảo, đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể. Thắng lợi đó khẳng định

vị thế nước ta trên trường quốc tế, tạo tiền đề cần thiết cho sự nghiệp công
nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Đảng ta khảng định: Phát triển kinh tế là
6


trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt, là quyết định sự thành công hay thất bại
của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ.
Đảng cộng sản Việt Nam là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và
hành động từ Trung ương đến cơ sở. Hệ thống tổ chức bộ máy của Đảng bao
gồm 4 cấp cơ bản tương ứng với hệ thống tổ chức hành chính Nhà nước.
Trong đó, tổ chức cơ sở đảng có vị trí, vai trò là nền tảng, là hạt nhân chính trị
ở cơ sở.
Với vị trí là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở sơ sở, vai trò của
tổ chức cơ sở đảng rất quan trọng. Tổ chức cơ sở đảng là nơi triển khai và tổ
chức thực hiện đường lối, nghị quyết của Đảng các cấp, biến đường lối, nghị
quyết của Đảng thành hiện thực. Mọi hoạt động của Đảng chủ yếu và trước
hết đều được thể hiện và thực hiện ở cơ sở. Những thành tựu cách mạng đã
đạt được, những tiềm năng được khai thác, những kinh nghiệm có giá trị đều
bắt nguồn từ sự nỗ lực phấn đấu của quần chúng ở cơ sở mà hạt nhân lãnh đạo
là tổ chức cơ sở đảng. Vì vậy, ngay từ khi ra đời và trong suốt quá trình lãnh
đạo cách mạng hơn 80 năm qua, Đảng ta luôn chăm lo xây dựng, củng cố,
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các chi bộ, đảng bộ cơ sở,
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cốt yếu trong công tác xây dựng Đảng.
Thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, các tổ
chức cơ sở đảng và Đảng bộ bệnh viện đa khoa Đông Anh, Hà Nội trong
những năm qua đã thể hiện bản lĩnh chính trị, giữ vững vai trò lãnh đạo, là hạt
nhân chính trị ở cơ sở, thực hiện nghiêm túc các chỉ thị, nghị quyết, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, lãnh đạo các mặt hoạt động ở
cơ sở đạt được kết quả tích cực, đặc biệt là công tác khám chữa bệnh cho
nhân dân trong huyện; đội ngũ cán bộ, đảng viên trưởng thành nhiều mặt,

kiên định mục tiêu lý tưởng, chấp hành tốt hơn nguyên tắc tổ chức và sinh
hoạt của Đảng.
Bên cạch những kết quả đã đạt được, qua thực tiễn hoạt động, một số
chi bộ trực thuộc Đảng bộ bệnh viện đa khoa Đông Anh - Hà Nội, còn bộc lộ
những hạn chế, khuyết điểm trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị,
7


trong công tác xây dựng Đảng. Một số chi bộ xác định đúng mục tiêu, phương
thức lãnh đạo chưa thực sự sát thực với tình hình thực tế tại Bệnh viện, dẫn đến
giảm sút vai trò lãnh đạo, sức chiến đấu, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với
Đảng, ảnh hưởng đến kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị của bệnh viện.
Với lý do trên, tác giả chọn đề tài “Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của Đảng bộ bệnh viện đa khoa Đông Anh, Hà Nội trong giai
đoạn hiện nay - Thực trạng và giải pháp” làm Luận văn tốt nghiệp Cao cấp
lý luận chính trị - Hành chính.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
-Vận dụng những kiến thức lý luận đã được học tập để xem xét, đánh
giá thực trạng năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của đảng bộ bệnh viện đa
khoa Đông Anh, Hà Nội.
-Xác định nguyên nhân, những kinh nghiệm thực tiễn từ đó tìm ra giải
pháp nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng bộ bệnh viện
đa khoa Đông Anh, Hà Nội ngang tầm nhiệm vụ mới.
3. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu
*Đối tượng nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận của việc nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu của tổ chức cơ sở đảng trước yêu cầu nhiệm vụ cách mạng mới.
- Đánh giá thực trạng năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng bộ bệnh
viện đa khoa Đông Anh, Hà Nội hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến

đấu của Đảng bộ bệnh viện đa khoa Đông Anh, Hà Nội ngang tầm nhiệm vụ
của thời kỳ mới.
*Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu
của Đảng bộ bệnh viện đa khoa Đông Anh, Hà Nội. Mốc thời gian để khảo
sát, đánh giá thực trạng trong khoảng từ năm 2009 đến nay và đề xuất giải
pháp cho những năm tiếp theo.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

8


*Cơ sở lý luận: Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lê Nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng và công tác xây dựng
Đảng; những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi mới, chỉnh đốn,
nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng nói chung, của tổ chức
cơ sở đảng nói riêng trong tình hình hiện nay.
*Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp luận của
phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác-Lênin; kết
hợp các phương pháp cụ thể như thống kê, phân tích, so sánh tổng hợp, khảo
sát, phỏng vấn nhanh v.v...
5. Kết cấu của Luận văn
Luận văn kết cấu thành 3 chương. Bao gồm các phần:
- Phần mở đầu
- Chương 1: Những vấn đề lý luận
- Chương 2: Thực trạng
- Chương 3: Phương hướng và giải pháp
- Kết luận
- Tài liệu tham khảo


9


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO,
SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG
1.1. Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về tổ chức cơ sở đảng
1.1.1. Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về tổ chức cơ sở đảng
Trong hệ thống tổ chức bộ máy của Đảng, mỗi cấp có vị trí, vai trò, chức
năng, nhiệm vụ khác nhau. Tổ chức cơ sở đảng là cấp cuối cùng trong hệ
thống tổ chức bộ máy của Đảng. Tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng, là
hạt nhân lãnh đạo chính trị ở cơ sở. Tổ chức cơ sở đảng trực tiếp lãnh đạo các
tầng lớp nhân dân thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước. Tổ chức cơ sở đảng là nơi thể hiện toàn diện, trực tiếp
và cụ thể nhất mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng và nhân dân; là nơi đào
tạo, giáo dục, bồi dưỡng, quản lý, rèn luyện kết nạp và sàng lọc đội ngũ cán bộ,
đảng viên. Sự vững mạnh của các tổ chức cơ sở đảng quyết định sự tồn tại,
vững mạnh của toàn Đảng, của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
V.I. Lê Nin là người đưa ra thuật ngữ Tổ chức cơ sở đảng lần đầu tiên
tại Đại hội III Đảng công nhân dân chủ - xã hội Nga. V.I Lê Nin viết "Mỗi tổ
chức đảng cho tới chi bộ công nhân đều là cơ sở của Đảng... phải được xác
định thành phần và nhất định phải ổn định những mối quan hệ đều đặn với
trung ương”1.
Tiếp đó, trong bài “Tiến tới thống nhất”, Lê Nin lại nói rõ thêm:
Những điều kiện khách quan đòi hỏi rằng: Những chi bộ công nhân phải làm
cơ sở của đảng.
C. Mác và Ph-ăng ghen là những người đầu tiên tham gia sáng lập
chính Đảng cộng sản. Trong tuyên ngôn Đảng cộng sản do Mác và Ăng ghen

khởi thảo và được xuất bản lần đầu tiên bằng tiếng Đức năm 1848, Mác và
1

V.I Lênin toàn tập NXB tiến bộ Matxcơva- 1979. tr217

10


Ăng ghen đã viết: Giai cấp công nhân là giai cấp cách mạng nhất, tiến bộ
nhất, có sứ mệnh giải phóng giai cấp và nhân dân lao động khỏi áp bức, bóc
lột bất công, xây dựng chế độ xã hội văn minh, tiến bộ; nhưng giai cấp công
nhân chỉ có thể thực hiện được sứ mệnh lịch sử của mình khi tự nó thành lập
ra được chính Đảng độc lập của giai cấp công nhân và đối lập với các kiểu
chính Đảng tư sản khác.
Theo Mác và Ăng ghen, cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân phát
triên đến một trình độ nhất định thì cần có một tổ chức để tập hợp, lãnh đạo
cuộc đấu tranh, tổ chức đó là Đảng. Sự ra đời của Đảng cộng sản là nhằm
thống nhất và lãnh đạo lực lượng đấu tranh, bảo đảm sức mạnh của tổ chức để
chiến thắng. Đảng ra đời là đòi hỏi tất yếu của lịch sử, là sản phẩm của cuộc
đấu tranh giai cấp. Đảng là một tổ chức chặt chẽ nhất, thống nhất cả về chính
trị, tư tưởng và tổ chức. Các cơ quan lãnh đạo của Đảng phải được bầu cử một
cách dân chủ và họ có thể bị bãi miễn nếu không hoàn thnàh được nhiệm vụ
tổ chức giao. Mọi thành viên trong Đảng, tự do thảo luận những vấn đề sinh
hoạt, tranh luận trong khuôn khổ tổ chức.
Khi xác định vai trò của tổ chức cở sở đảng trong bộ máy của Đảng,
Mác và Ăng ghen viết: Nhiều chi bộ cơ sở hợp thành một Công xã gồm từ ba
đến mười thành viên, đó là "hạt nhân" của công tác chính trị của Đảng trong
quần chúng lao động. Đảng phải "Biến mỗi chi bộ của mình thành trung tâm
và hạt nhân của các Đội liên hiệp công nhân, trong đó, lập trường và lợi ích
của giai cấp vô sản có thể đưa ra thảo luận độc với những ảnh hưởng tư

sản”1. Đây là những quan niệm ban đầu về tổ chức cơ sở đảng của Mác và
Ăng ghen.
Trên cơ sở những tư tưởng của C.Mác và Ăng ghen, trong cuộc đấu
tranh chống chủ nghĩa cơ hội và lãnh đạo xây dựng Đảng Bôn sê vích Nga,
V.I. Lê Nin đã khẳng định: Đảng cộng sản là đội tiên phong chính trị có tổ
1

C.Mác và Ph-ăng ghen: Toàn tập, tập 7,NXB CTQG ,Hà Nội,1993, tr398; 3. V.I Lênin toàn tập, Tập 41,
NXB T. bộ Matxcơva,1977, tr232

11


chức chặt chẽ nhất của giai cấp công nhân, tính tiên phong về chính trị thể
hiện ở chỗ Đảng được vũ trang bằng lý luận khoa học và cách mạng của Chủ
nghĩa Mác- nền tảng tư tưởng và kim chỉ cho hành động của Đảng. Tính chặt
chẽ về tổ chức được đảm bảo bằng sự phục tùng nguyên tắc tập chung dân
chủ - nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của Đảng.
Lê Nin cho rằng: "Chế độ tập trung dân chủ một mặt thật khác xa với
chế độ tập trung quan liêu chủ nghĩa và mặt khác thật khác xa chủ nghĩa vô
hình chính phủ”1.
Đây là một nguyên tắc tổ chức và hoạt động đem lại sức mạnh cho Đảng
cộng sản trong cuộc đấu tranh lật đổ xã hội cũ và xây dựng Đảng xã hội mới,
bảo đảm sự thống nhất từ Ban chấp hành Trung ương đến từng chi bộ và mỗi
đảng viên. Đây cũng là nguyên tắc cơ bản để phân biệt chính Đảng cộng sản
chân chính với các kiểu chính Đảng cơ hội, cải lương, vô chính phủ.
Trong cuộc đấu tranh để xây dựng đảng kiểu mới của giai cấp công
nhân, V.I Lê Nin hết sức coi trọng chăm lo xây dựng các tiểu tổ công nhân dân
chủ - xã hội, phát triển những tiểu tổ đó trở thành những chi bộ cơ sở trong các
nhà máy, công xưởng, khu dân cư của Đảng Bônsêvích Nga. Khi cách mạng

thắng lợi, đứng trước những nhiệm vụ nặng nề, phức tạp của Đảng cầm quyền,
tổ chức cơ sở đảng không ngừng tăng lên về số lượng và đa dạng về nội dung
hoạt động, V.I LêNin xác định rõ hơn vai trò của các tổ chức cơ sở đảng, người
nhấn mạnh:"Những chi bộ ấy liên hệ chặt chẽ với nhau và với Trung ương
Đảng, phải trao đổi kinh nghiêm lẫn cho nhau, phải làm công tác cổ động,
tuyên truyền, công tác tổ chức, phải thích nghi với mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội, với tất mọi loại và tầng lớp quần chúng lao động. Những chi bộ ấy
phải thông qua cong tác muôn hình muôn vẻ đó mà rèn luyện bản thân mình,
rèn luyện Đảng, giai cấp, quần chúng một cách có hệ thống để lãnh đạo và
qua đó rèn luyện bản thân Đảng”2.
Bảo đảm sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Đảng và phát huy vai
trò chủ động, sáng tạo của mỗi tổ chức đảng ở cơ sở là hai mặt của một vấn đề.
1
2

V.I Lênin toàn tập, Tập 8, NXB T. bộ Matxcơva,1979, tr 466.
V.I Lênin toàn tập, Tập 41, NXB T. bộ Matxcơva,1977, tr232, 233

12


Một mặt, Lê Nin phê phán gay gắt những biểu hiện tự do, cục bộ, tuỳ tiện ở
từng tổ chức đảng địa phương và cơ sở, là nguy cơ phá vỡ tính tập trung thống
nhất của tổ chức đảng và nhà nước Xô Viết. Người viết:"Tôi cần vạch rõ cái
xu hướng không thể chối cãi được nhằm bênh vực chế độ tự trị, chống lại chế
độ tập trung, là một đặc điểm có tính nguyên tắc của chủ nghĩa cơ hội trong
các vấn đề tổ chức"1, vì vậy phải đem hết sức lực để phát huy một cách chủ
động hơn ở cơ sở.
Khi cách mạng chuyển từ thực hiện "chính sách cộng sản thời chiến"
sang" chính sách kinh tế mới" là một bước đột phá lớn trong tư duy nhận thức

của Đảng cầm quyền lãnh đạo kinh tế, V.I Lê nin cho rằng, trách nhiệm đó
không chỉ của ban chấp hành trung ương mà của từng tổ chức cơ sở đảng và
mỗi Đảng viên. Chỉ khi cơ sở tăng cường vai trò lãnh đạo, phát huy tính chủ
động sáng tạo của cơ sở thì những nhiệm vụ của Đảng Bônsêvích và chính
quyền Xô Viết mới thành công.
1.1.2. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam
về tổ chức cơ sở đảng
*Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tổ chức cơ sở đảng
Vận dụng sáng tạo học thuyết Mác - Lê Nin về chính Đảng vô sản, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã sáng lập và có nhiều đóng góp trong xây dựng Đảng
cộng sản Việt Nam. Trong hành trình tìm đường cứu nước, mối quan tâm lớn
nhất của Hồ Chí Minh là bằng cách nào tập hợp được lực lượng dân tộc thành
một đoàn kết thống nhất. Câu hỏi đó đã được giải đáp khi đến với chủ nghĩa
Mác - Lê Nin. Đối với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác- Lê Nin không những
chỉ ra mục tiêu, lý tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng
con người, mà còn cung cấp một khoa học về tổ chức lực lượng giai cấp và
dân tộc để thực hiện cuộc cách mạng. Người viết:"Muốn làm cách mệnh thì
"Trước hết phải có Đảng cách mệnh, bề trong thì vận động và tổ chức dân
chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi.
1

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 2, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, Tr5

13


Đảng có vững mạnh cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có
vững thuyền mới chạy"1
Bởi vậy, ngay từ khi thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, trong Điều lệ
vắn tắt của Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo được thông qua tại Hội

nghị thành lập Đảng ngày 3/2/1930 đã chỉ rõ cách thức xây dựng tổ chức đảng
từ Trung ương đến chi bộ. Trong đó, "Chi bộ”gồm tất cả đảng viên trong một
nhà máy, một công xưởng, một hầm mỏ, một cơ sở xe lửa, một chiếc tàu, một
đồn điền, một đường phố ...
Tháng 4/1931, khi Đảng ta mới thành lập còn nhiều khó khăn, do cách
mạng bị khủng bố, đàn áp, từ nước ngoài chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn theo dõi
sát diễn biến từng tổ chức cơ sở đảng và gửi thư về nước chỉ đạo vấn đề củng
cố tổ chức đảng và yêu cầu cho dịch và xuất bản tài liệu nước ngoài để giúp
Đảng ta có thêm kinh nghiệm xây dựng tổ chức đảng.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn quan
tâm đến vấn đề xây dựng tổ chức cơ sở đảng, vấn đề xây dựng chi bộ trong nhà
máy, xí nghiệp, khu dân cư... được Hồ Chí Minh hết sức quan tâm và có những
chỉ đạo kịp thời.
Nhờ sự chăm lo đó, Đảng ta không ngừng vững mạnh từ Trung ương
đến cơ sở, đảm bảo đủ sức lãnh đạo thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm
1945, giữ vững chính quyền nhân dân trong những năm 1945-1946, lãnh đạo
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ thành công, đưa cả nước quá
độ lên chủ nghĩa xã hội.
Khi hoà bình lập lại trên miền Bắc, mỗi lúc đến thăm đơn vị, cơ quan,
trường học, bệnh viện, đơn vị sản xuất... Hồ Chí Minh đều hết sức nhấn mạnh
yêu cầu củng cố nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của chi bộ, bởi
vì "Chi bộ là nền móng của Đảng, chi bộ tốt thì mọi việc đều tốt..."

1

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 2, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, Tr7

14



Nhận thức rõ đặc điểm của một đất nước nông nghiệp, phần lớn dân cư
sinh sống ở nông thôn, kinh tế nông nghiệp có vị trí trọng yếu, Hồ chí Minh
đặc biệt quan tâm xây dựng tổ chức cơ sở Đảng nông thôn. Người viết:"Chi
bộ là gốc rễ của Đảng ở nông thôn. Chi bộ nông thôn mạnh thì mọi chính
sách của Đảng, chính phủ nhất định thi hành được tốt" 1. Người còn nói:" chi
bộ thật thà, đoàn kết, nhất trí thì lãnh đạo được nông thôn đoàn kết nhất trí.
Chi bộ nông thôn đoàn kết nhất trí công việc sản xuất và công việc khác tuy
nhiều khó khăn phức tạp, cũng nhất định làm được”2.
Trong qúa trình lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền, cùng với quá
trình không ngừng hoàn thiện đường lối, phương pháp cách mạng của đảng,
vấn đề xây dựng, củng cố tổ chức Đảng từ Trung ương đến cơ sở được Hồ
Chí Minh hết sức chú trọng. Người theo dõi sửa sai diễn biến từng chi bộ điển
hình cũng như từng chi bộ yếu kém, viết báo và gửi thư khen ngợi những chi
bộ tốt, phê bình những chi bộ yếu và gợi ý phương pháp sửa chữa. Trong bài
nói tại hội nghị tổng kết 3 năm xây dựng chi bộ và Đảng bộ "bốn tốt"
(4/1966), Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Xây dựng chi bộ cho tốt, cho vững
mạnh là một công việc vô cùng quan trọng"3. Người đã đưa ra các tiêu chí
đánh giá chi bộ "bốn tốt" là: "Đảng viên gương mẫu trong mọi công việc, liên
hệ chặt chẽ với quần chúng, nội bộ thật sự đoàn kết; chấp hành tốt đường lối,
chính sách của đảng, lãnh đạo tốt sản xuất và chiến đấu; một lòng một rạ
phục vụ nhân dân, thiết thực chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân; đối với Đảng thì củng cố và phát triển tốt"4. Để các chi bộ ngày
càng vững mạnh, Người yêu cầu phải phát huy tinh thần tự phê bình và phê
bình, phát huy dân chủ rộng rãi trong Đảng. Người yêu cầu:"Huyện uỷ,
Thành uỷ, Tỉnh uỷ cần phải đi sâu sát đến các chi bộ, cần phải giúp các chi
bộ một cách thiết thực và thường xuyên. Các Tỉnh uỷ, Thành uỷ, Huyện uỷ
1

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 8, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, Tr 307
Sđd, Tập 8, tr 318, 319

3
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 12, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, Tr 77
2

4

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 12, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, Tr 79

15


cần chỉ đạo riêng chi bộ để rút kinh nghiệm về xây dựng chi bộ "Bốn tốt" 1.
Trước "lúc đi xa" trong di chúc điều đầu tiên mà Người căn dặn cũng là "Nói
về Đảng"; "Các đồng chí từ trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự
đoàn kết nhất trí như giữ gìn con người của mắt mình" 2. "Mỗi chi bộ của
đảng phải là hạt nhân lãnh đạo quần chúng ở cơ sở, đoàn kết chặt chẽ, liên
hệ mật thiết với quần chúng, phát huy được trí tuệ và lưc lượng vĩ đại của
quần chúng"3.
*Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt nam về tổ chức cơ sở đảng
+ Khái niệm và hình thức tổ chức của tổ chức cơ sở đảng
Điều 21, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam (do Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ XI thông qua ngày 25/1/2011) ghi rõ: Tổ chức cơ sở đảng (chi
bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở.
Ở xã, phường, thị trấn có từ 3 đảng viên chính thức trở lên lập tổ chức cơ sở
đảng. Ở cơ quan, hợp tác xã, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp, đơn vị trong
quân đội, công an và các đơn vị khác có từ 3 đảng viên chính thức trở lên lập
tổ chức đảng (tổ chức cơ sở đảng hoặc chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở), trực
thuộc cấp ủy nào do cấp ủy cấp trên trực tiếp quyết định…
Khái niệm trên chỉ rõ tổ chức cơ sở đảng gồm cả chi bộ cơ sở và đảng
bộ cơ sở, tuỳ thuộc vào số lượng đảng viên và yêu cầu nhiệm vụ cụ thể của

từng cơ sở để cấp ủy cấp trên quyết định tổ chức đảng đó là chi bộ cơ sở hay
đảng bộ cơ sở. Theo đó, hình thức tổ chức của tổ chức cơ sở đảng có 3 hình
thức cơ bản sau:
- Tổ chức cơ sở đảng có từ 3 đảng viên chính thức đến dưới 30 đảng
viên thành lập chi bộ cơ sở, dưới chi bộ có thể có các tổ đảng.
- Tổ chức cơ sở đảng có từ 30 đảng viên chính thức trở lên thành lập đảng
bộ cơ sở và có các chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở.

1

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 12, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, Tr 79
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 12, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, Tr 510
3
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 11, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, Tr 23
2

16


- Tổ chức cơ sở đảng có số lượng đảng viên đông, hoặc đảng viên công
tác phân tán có thể thành lập đảng bộ bộ phận trực thuộc đảng uỷ cơ sở, dưới
đảng bộ bộ phận có các chi bộ trực thuộc.
- Những nơi do đặc điểm, yêu cầu nhiệm vụ muốn thành lập đảng bộ cơ
sở có dưới 30 đảng viên, chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở có trên 30 đảng viên
hoặc thành lập đảng bộ bộ phận thì phải báo cáo cấp ủy cấp trên đồng ý mới
thực hiện.
+ Vị trí, vai trò của tổ chức cơ sở đảng
Trong mọi giai đoạn cách mạng nào, Đảng ta luôn quan tâm và chú
trọng công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng, tổ chức cơ sở đảng là nền tảng
của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở, là pháo đài, là đơn vị chiến đấu cơ

bản của Đảng. Những bài học thành công và chưa thành công của Đảng đều
gắn liền với vị trí, vai trò của tổ chức đảng. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ VII của Đảng đã khẳng định: Những thành tựu đã đạt được,
những tiềm năng được khai thác, nhưng kinh nghiệm có giá trị đều bắt nguồn
từ sự lỗ lực phấn đấu của quần chúng cơ sở mà hạt nhân là tổ chức Đảng.
Nhưng mặt khác, sự yếu kém của nhiều tổ chức cơ sở Đảng đã hạn chế những
thành tựu cựu của cách mạng, vai trò của tổ chức cơ sở Đảng có thể khái quát
ở những nội dung sau:
- Tổ chức cơ sở đảng là cầu nối liền các cơ quan lãnh đạo của Đảng với
quần chúng. Mọi tâm tư nguyện vọng chính đáng của nhân dân vì thế mà
được phản ánh kịp thời lên tổ chức đảng cấp trên thông qua chi bộ, đảng bộ
cơ sở.
- Tổ chức cơ sở đảng là nơi trực tiếp đưa chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào quần chúng và tổ chức quần
chúng thực hiện thắng lợi trong thực tiễn.
- Tổ chức cơ sở đảng là nơi trực tiếp giáo dục, rèn luyện, kết nạp và
sàng lọc đảng viên; nơi xuất phát để cử ra cơ quan lãnh đạo cấp trên của

17


Đảng; là cửa ngõ quan trọng bảo đảm tính tiên phong, tính trong sạch của
Đảng.
1.2 Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng là
nhiệm vụ thường xuyên và cấp bách hiện nay
1.2.1 Khái niệm, nội dung nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của
tổ chức cơ sở đảng
*Khái niệm về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức
cơ sở đảng.
- Khái niệm về năng lực lãnh đạo: Năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở

đảng là do các tổ chức đảng và từng đảng viên tạo nên, bao gồm năng lực
nhận thức và năng lực tổ chức thực tiễn, cụ thể là:
Năng lực nhận thức: Là năng lực trí tuệ được cấu thành từ nhiều yếu tố
cơ bản như tri thức sâu rộng, khả năng bao quát, nhìn xa trông rộng, biết khai
thác trí tuệ tập thể, phát hiện vấn đề cụ thể để giải quyết kịp thời. Năng lực trí
tuệ biểu hiện khả năng nhận thức, nắm bắt chủ trương, đường lối, chính sách
của Đảng và nhà nước; khả năng nắm bắt quy luật khách quan ở cả chiều rộng
và chiều sâu, bao quát cả không gian và thời gian để vận dụng vào điều kiện
thực tế địa phương đơn vị mình.
Năng lực tổ chức thực tiễn biểu hiện ở khả năng vận dụng tri thức đã
được tích lũy để giải quyết những yêu cầu đòi hỏi trên từng lĩnh vững đời
sống xã hội; khả năng huy động lực lượng thực hiện đường lối; khả năng điều
phối các nguồn lực một cách hợp lý và lộ trình phù hợp; khả năng kiểm tra và
quá trình thực hiện và điều chỉnh kịp thời; linh hoạt khi nảy sinh tình huống
ngoài dự kiến; khả năng sơ, tổng kết quá trình tổ chức thực hiện, đúc rút kinh
nghiệm, hoàn thiện quy trình lãnh đạo, quản lý cho các lần tiếp theo.
Năng lực nhận thức và năng lực tổ chức thực tiễn có mối quan hệ hữu
cơ chặt chẽ với nhau. Năng lực nhận thức là cơ sở của năng lực tổ chức thực
tiễn và ngược lại năng lực tổ chức thực tiễn trong điều kiện nhất định lại trác
động tới sự phát triển của năng lực nhận thức.
18


Khi đánh giá năng lực của cán bộ, đảng viên phải xem xét hiệu quả
hoàn thành nhiệm vụ là chủ yếu; đồng thời, phải lắm rõ trình độ mọi mặt và
quá trình công tác như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: "Năng lực của con
người không phải hoàn toàn do tự nhiên mà có, một phần lớn do công tác, do
luyện tập tạo lên”1.
Như vậy, năng lực lãnh đạo của Đảng nói chung, của các tổ chức cơ sở
đảng nói riêng phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó con người là nhân tố

quyết định.
- Khái niệm về sức chiến đấu:
Sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng biểu hiện ở ý chí quyết tâm hoàn
thành nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng, ở sự đoàn kết, thống nhất về chính trị,
tư tưởng và tổ chức, trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh; thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ; thường xuyên tự
phê bình và phê bình; gắn bó mật thiết với nhân dân.
Sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng còn thể hiện ở trình độ, chất
lượng của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Chất lượng của đảng viên và tổ chức
đảng lại tùy thuộc vào trình độ và phẩm chất của đội ngũ, cả hai mặt đó không
xem nhẹ mặt nào, đặc biệt trong tình hình hiện nay. Phẩm chất chính trị, phẩm
chất đạo đức có vai trò rất quan trọng bảo đảm sức chiến đấu của tổ chức cơ
sở đảng.
Sức chiến của tổ chức cơ sở đảng còn thể ở tinh thần đấu tranh ủng hộ
cái mới, cái tích cực, phê phán cái cũ, cái lạc hậu; đấu tranh chống các biểu
hiện tiêu cực, chống các tư tưởng hành động sai trái, thù địch.
Sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng thể hiện ở quan hệ máu thịt với
nhân dân, vì vậy, sự nghiệp cách mạng là của quần chúng nhân dân. Sức
mạnh của Đảng ở nơi dân. Hồ Chí Minh khẳng định:"Dễ mười lần không dân
cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng qua". Từ thực tiễn cách mạng Việt

1

Hồ Chí Minh, Về tổ chức cán bộ, NXB Sự thật, Hà Nội, 1974, Tr 86

19


Nam, Đảng ta khẳng định: Sức mạnh của Đảng là gắn bó trực tiếp với quần
chúng.

- Mối quan hệ giữa năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức
cơ sở đảng
Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng có mối
quan hệ hữu cơ, tác động qua lại lẫn nhau. Nâng cao năng lực lãnh đạo là
nhằm làm cho sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng cao hơn và ngược lại
nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng làm cho tổ chức cơ sở đảng
trong sạch, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo cao. Vì vậy, nâng cao năng lực
lãnh đạo đồng thời phải nâng cao sức chiến đấu, không được xem nhẹ hoặc
tuyệt đối hoá một mặt nào.
Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng là hai yếu tố bảo
đảm cho vai trò lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng được thực hiện, tạo lên sức
mạnh của Đảng; thiếu một trong hai yếu tố, Đảng không thể hiện được vai trò
lãnh đạo của mình. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng gắn bó chặt
chẽ, hữu cơ, thâm nhập vào nhau, tác động qua lại, làm tiền đề cho nhau phát
triển. Bởi vậy, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng là hai mặt của
một vấn đề, không thể có mặt này mà không có mặt kia.
*Nội dung nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức
cơ sở đảng hiện nay
- Nội dung nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng: Là
nâng cao năng lực cụ thể hoá chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách
pháp luật của nhà nước, nghị quyết, chỉ thị của cấp trên thành chương trình,
kế hoạch, biện pháp cụ thể trên tinh thần chủ động, sáng tạo, phù hợp với
tình hình, đặc điểm của cơ sở và để tổ chức thực hiện có hiệu quả. Nâng cao
năng lực tổ chức, chỉ đạo thực hiện, năng lực đánh giá, tổng kết thực tiễn, rút
kinh nghiệm để điều chỉnh, bổ sung nghị quyết của cấp mình và đề xuất cấp
trên điều chỉnh, bổ sung nghị quyết cho phù hợp, tạo sự thống nhất cao trong
nhận thức và hành động của đảng bộ, chi bộ; năng lực lãnh đạo Mặt trận và
20



các đoàn thể nhân dân, tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng
với nhân dân, huy động và tổng hợp các tổ chức trong hệ thống chính trị và
nhân dân thực hiện thắng lợi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách
pháp luật của Nhà nước, chỉ thị, nghị quyết của cấp trên và cấp mình.
- Nội dung nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng: Là làm cho
mỗi cán bộ, đảng viên, từng tổ chức và cấp uỷ đảng phải có ý chí phấn đấu
vươn lên, quyết tâm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, thường xuyên
rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống. Thường xuyên tự phê bình và phê bình
trên tinh thần thẳng thắn; xây dựng, không nể nang, né tránh, kiên quyết đấu
tranh với những hiện tượng tiêu cực, suy thoái ở ngay trong bản thân từng
đảng viên, từng chi bộ, đảng bộ, cấp uỷ trong cơ quan địa phương nơi mình
sinh hoạt, công tác ở trong đảng và ngoài xã hội, dũng cảm đấu tranh chống
lại các quan điểm sai trái, lệch lạc, các luận điệu xuyên tạc của kẻ thù, xây
dựng nội bộ Đảng thực sự đoàn kết thống nhất cả về tư tưởng, chính trị và tổ
chức. Gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm.
1.2.2 Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở
đảng là nhiệm vụ thường xuyên và cấp bách hiện nay
Quy định số 97/QĐ - TW ngày 22/03/2004 của Ban Bí thư Trung ương
Đảng khoá IX, xác định chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ bộ cơ
sở trong các đơn vị sự nghiệp (trường học, bệnh viện, viện nghiên cứu...)
như sau:
*Về Chức năng
- Đảng bộ, chi bộ cơ sở trong các đơn vị sự nghiệp là hạt nhân chính trị,
lãnh đạo thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước; lãnh đạo thực hiện có hiệu quả các chủ trương, nhiệm vụ, công tác
của đơn vị; hoàn thành nghĩa vụ đối với Nhà nước; nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần của cán bộ, đảng viên và quần chúng; xây dựng đảng bộ, chi
bộ và đơn vị vững mạnh.
21



*Về nhiệm vụ
- Thứ nhất, Lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị, an ninh, quốc phòng:
+ Lãnh đạo xây dựng và thực hiện có hiệu quả các chủ trương, nhiệm
vụ, công tác chuyên môn của đơn vị theo đúng đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, hoàn thành nghĩa vụ của đơn vị đối với Nhà nước, nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ, đảng viên và quần chúng.
+ Lãnh đạo cán bộ, đảng viên và quần chúng giám sát mọi hoạt động
của đơn vị theo đúng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước; đề cao tinh thần trách nhiệm, phát huy tính chủ động sáng tạo, không
ngừng cải tiến lề lối, phương pháp làm việc, nâng cao hiệu quả công tác, hoàn
thành tốt các nhiệm vụ được giao.
+ Lãnh đạo xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở đơn vị,
phát huy quyền làm chủ của cán bộ, đảng viên và quần chúng, đấu tranh
chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, trù dập, ức hiếp quần chúng và các
hiện tượng tiêu cực khác, nhất là những tiêu cực trong tuyển sinh, cấp văn
bằng, chứng chỉ, khám chữa bệnh, nghiên cứu khoa học và trong các hoạt
động văn hoá, thể thao...
+ Lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ quốc phòng toàn dân, giữ vững an ninh
chính trị và trật tự an toàn xã hội trong đơn vị. Đoàn kết nội bộ, đề cao tinh
thần cảnh giác cách mạng, đấu tranh chống âm mưu diễn biến hoà bình của
các thế lực thù địch; giữ gìn bí mật quốc gia, bảo vệ chính trị nội bộ, bảo vệ
tài sản của Nhà nước và của đơn vị.
- Thứ hai, Lãnh đạo công tác tư tưởng:
+ Thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng, đạo đức, tác phong Hồ Chí Minh cho cán bộ, đảng viên và quần
chúng; phát huy truyền thống yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, xây dựng
tinh thần làm chủ, tình đoàn kết, hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau trong công
nhân, viên chức; kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của cán bộ, đảng
viên, quần chúng để giải quyết và báo cáo lên cấp trên.

22


+ Kịp thời phổ biến, quán triệt để cán bộ, đảng viên và quần chúng nắm
vững và chấp hành đúng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước và các chủ trương, nhiệm vụ của đơn vị, thường xuyên bồi dưỡng, nâng
cao trình độ chính trị, kiến thức và năng lực công tác cho cán bộ, đảng viên.
+ Lãnh đạo cán bộ, đảng viên và quần chúng đấu tranh chống các quan
điểm sai trái, tư tưởng cơ hội, thực dụng, cục bộ, bản vị, những hành vi nói,
viết và làm trái với đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước;
những biểu hiện mất dân chủ, gia trưởng, độc đoán, tác phong quan liêu, thiếu
tinh thần trách nhiệm, tinh thần hợp tác và ý thức tổ chức, kỷ luật; phòng,
chống sự suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.
Thứ ba, Lãnh đạo công tác tổ chức, cán bộ:
+ Cấp ủy lãnh đạo xây dựng và thực hiện chủ trương về kiện toàn tổ
chức, sắp xếp bộ máy và quy chế hoạt động của đơn vị.
+ Cấp ủy lãnh đạo xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ và nhận xét, đánh giá, bổ nhiệm, miễn nhiệm, điều động, luân chuyển,
khen thưởng, kỷ luật… đối với cán bộ thuộc thẩm quyền quản lý của cấp ủy.
Lãnh đạo việc thực hiện các quyết định đó. Chú trọng phát hiện, đào tạo, bồi
dưỡng và phát triển tài năng.
+ Cấp ủy đề xuất ý kiến để cấp trên xem xét, quyết định các vấn đề về
tổ chức và cán bộ của đơn vị thuộc thẩm quyền của cấp trên.
- Thứ tư, Lãnh đạo các đoàn thể nhân dân:
+ Lãnh đạo các đoàn thể nhân dân trong đơn vị xây dựng tổ chức vững
mạnh, thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ theo luật định và điều lệ của mỗi
đoàn thể; phát huy quyền làm chủ của cán bộ, đảng viên và quần chúng, đẩy
mạnh các phong trào thi đua, thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ được giao.
+ Lãnh đạo các đoàn thể nhân dân và cán bộ, đảng viên, quần chúng
trong đơn vị tham gia xây dựng và bảo vệ đường lối, chính sách của Đảng,

pháp luật của Nhà nước, các chủ trương, nhiệm vụ của đơn vị.
- Thứ năm, Xây dựng tổ chức đảng:
23


+ Đề ra chủ trương, nhiệm vụ và biện pháp xây dựng đảng bộ, chi bộ
trong sạch, vững mạnh; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ
chức đảng và đội ngũ đảng viên, nhất là việc phát hiện và đấu tranh chống
quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực trong đơn vị. Thực
hiện đúng các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, nhất là nguyên tắc tập
trung dân chủ, chế độ tự phê bình và phê bình; thực hiện có nền nếp và nâng
cao chất lượng sinh hoạt đảng, nhất là sinh hoạt chi bộ, bảo đảm tính lãnh
đạo, tính giáo dục và tính chiến đấu.
+ Giáo dục, rèn luyện đội ngũ đảng viên nêu cao vai trò tiền phong,
gương mẫu, thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao; xây dựng kế hoạch và tạo
điều kiện để đảng viên thực hiện nhiệm vụ học tập, không ngừng nâng cao
trình độ về mọi mặt.
+ Cấp ủy xây dựng kế hoạch, biện pháp quản lý đảng viên, phân công
nhiệm vụ và tạo điều kiện cho đảng viên hoàn thành nhiệm vụ được giao;
thực hiện tốt việc giới thiệu đảng viên đang công tác thường xuyên giữ mối
liên hệ với chi ủy, đảng ủy cơ sở và gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân
nơi cư trú. Làm tốt công tác động viên, khen thưởng, kỷ luật đảng viên; biểu
dương, khen thưởng kịp thời những cán bộ, đảng viên có thành tích xuất sắc,
xử lý nghiêm, kịp thời những cán bộ, đảng viên vi phạm Điều lệ Đảng, pháp
luật của Nhà nước.
+ Làm tốt công tác tạo nguồn và phát triển đảng viên, bảo đảm về tiêu
chuẩn và quy trình; chú trọng đối tượng là đoàn viên thanh niên cộng sản Hồ
Chí Minh và những quần chúng ưu tú, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ.
+ Xây dựng cấp ủy có đủ phẩm chất, năng lực, hoạt động có hiệu quả,
được đảng viên và quần chúng tín nhiệm. Nói chung, bí thư cấp ủy phải là cán

bộ lãnh đạo của đơn vị, tiêu biểu cho đảng bộ, chi bộ, đoàn kết, tập hợp được
cán bộ, đảng viên và quần chúng.
+ Cấp ủy thường xuyên kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên chấp hành
Điều lệ, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và
24


Quy định của Bộ Chính trị về những điều đảng viên không được làm. Định kỳ
hằng năm, cấp ủy tổ chức để quần chúng tham gia góp ý về sự lãnh đạo của tổ
chức đảng và vai trò tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên.
Ngày nay đất nước đang bước sang giai đoạn cách mạng mới, với yêu
cầu nhiệm vụ cao hơn, vị trí, vai trò của tổ chức cơ sở đảng lại càng đặc biệt
quan trọng. Đảng ta xác định: Trong điều kiện chuyển sang cơ chế quản lý
mới, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của các đơn vị cơ sở, mở rộng dân
chủ xã hội chủ nghĩa, các tổ chức cơ sở đảng đóng vai trò hết sức quan trọng.
Vì vậy, Đảng phải tập trung củng cố, xây dựng tổ chức, xây dựng đảng,
không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, làm cho các tổ
chức cơ sở đảng thực sự trở thành hạt nhân chính trị lãnh đạo các mặt hoạt
động ở cơ sở.
Những nghị quyết của Đảng về xây dựng tổ chức cơ sở đảng đã thể
hiện rõ quan điểm của Đảng về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của việc xây
dựng, củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở
đảng, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến tổ chức cơ sở đảng trong các trường
học, bệnh viện. Đây là vấn đề then chốt của nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa
quyết định đến sự sống còn của Đảng cộng sản Việt Nam trong giai đoạn
thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay.
Tổ chức cơ sở đảng trong trường học, bệnh viện có vị trí, vai trò đặc
biệt quan trọng trong hệ thống tổ chức bộ máy của Đảng hiện nay. Bởi vì:
Thứ nhất, trong những năm qua, thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của
Trung ương về xây dựng tổ chức cơ sở đảng, cấp ủy đảng các cấp đã quan tâm

lãnh đạo, chỉ đạo nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, đạt được
những chuyển biến tiến bộ, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới đất nước.
Tuy nhiên, so với yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, mở cửa, hội nhập quốc tế, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
các tổ chức cơ sở đảng chưa ngang tầm.
25


Thứ hai, hiện nay nước ta đang chuyển sang thời kỳ phát triển mới thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thực hiện mục tiêu
“Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”, vững bước
tiến lên chủ nghĩa xã hội. Chính thời kỳ mới đã đặt ra cho việc nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng nhiều thuận lợi, thời cơ,
vận hội lớn, nhưng cũng phải đối mặt với những thách thức, những nguy cơ
không thể xem thường như: tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong
khu vực; chệch hướng xã hội chủ nghĩa, tham nhũng và tiêu cực; diễn biến
hòa bình. Không những vậy, chúng ta chủ trương phát triển kinh tế nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng quan hệ quốc tế. Trong cơ chế thị
trường, bên cạnh mặt tích cực nếu không có sự quản lý chặt chẽ, kịp thời,
không có giải pháp điều tiết hữu hiệu thì nền kinh tế có thể bị chệch hướng,
một bộ phận giàu lên nhanh chóng, đẩy nhanh sự phân hóa giàu nghèo ngày
càng lớn giữa các giai cấp tầng lớp trong xã hội, xuất hiện khuynh hướng chạy
theo đồng tiền. Hệ quả của khuynh hướng này đang làm thay đổi quan niệm về
thang bậc trong xã hội: Phẩm chất đạo đức, lòng trung thành, đức hy sinh tận
tụy, tính nhân văn của nhiều người. Tình hình trên đây đặt ra nhiều vấn đề đòi
hỏi Đảng ta phải trong sạch, vững mạnh. Muốn Đảng ta trong sạch vững mạnh
thì Đảng tiếp tục không ngừng xây dựng và chỉnh đốn, nâng cao năng lực và
sức chiến đấu.
Thứ ba, thế kỷ XXI sẽ tiếp tục có nhiều biến đổi. Khoa học và công

nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt. Kinh tế tri thức ngày càng có vai trò nổi bật
trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Toàn cầu hóa kinh tế là một xu
thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia, vừa có mặt tích cực,
vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh. Các mâu thuẫn cơ bản
trên thế giới biểu hiện dưới những hình thức và mức độ khách quan vẫn tồn
tại và phát triển, có mặt sâu sắc hơn. Đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp
tiếp tục diễn ra gay gắt. Sự biến đổi của thế giới sẽ tác động vào cán bộ, đảng
26


viên và nhân dân ta cả mặt tích cực lẫn mặt tiêu cực. Để phát huy mặt tích
cực, hạn chế mặt tiêu cực đòi hỏi Đảng phải trong sạch, vững mạnh. Muốn
vậy, Đảng hiện nay phải xây dựng, chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu ngang tầm nhiệm vụ đó.
Thứ tư, từ sau sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở
Đông Âu, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch ra sức chống phá chủ
nghĩa xã hội bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình”; mưu toan chuyển hóa
từng bước, làm xói mòn lý tưởng cộng sản, tiến tới phá sập niềm tin vào chủ
nghĩa xã hội và sự lãnh đạo của Đảng cộng sản… bằng chính bàn tay của
những người cộng sản và nhân dân các nước này. Chúng coi Việt Nam là một
trọng điểm áp dụng chiến lược đó. Với mưu đồ thâm độc, chúng triển khai
chiến lược “Diễn biến hòa bình” trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội,
cả chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, tư tưởng, văn học, nghệ thuật, lối
sống, quan hệ quốc tế… Chúng dùng mọi thủ đoạn thâm độc, bằng mọi hình
thức, biện pháp xâm nhập vào tất cả các đối tượng nhằm lật đổ chế độ xã hội.
Chiến lược “Diễn biến hòa bình” tập trung vào hướng chính là phá
hoại nền tảng tư tưởng và tổ chức của Đảng. Thủ đoạn của chúng thường là
xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng, phủ nhận sự hy sinh và
công lao của người cộng sản, thổi phồng sai lầm của Đảng. Chúng lợi dụng
những kẻ cơ hội, phản bội về chính trị và thoái hóa về phẩm chất đạo đức để

chia rẽ, làm suy yếu, phá hoại Đảng từ bên trong. Trước những âm mưu và
thủ đoạn phá hoại của địch, nếu không cảnh giác, không chăm lo xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức thì tổn thất đối
với cách mạng là không thể lường hết được.
Vì vậy, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở
đảng khu vực sự nghiệp, trường học, bệnh viện là nhiệm vụ tất yếu và cấp
bách, cần được Trung ương và các cấp ủy đảng quan tâm chú trọng đúng
mức, kịp thời.

27


×