Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Một số biện pháp, kiến nghị nhằm gia tăng nguồn vốn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.48 KB, 12 trang )

Chương 3: Một số biện pháp, kiến nghị nhằm gia tăng nguồn vốn ...

CHƯƠNG 3:

MỘ T SỐ BIỆ N PHÁ P, KIẾ N NGHI
GÓ P PHẦ N GIA TĂNG NGUỒ N TIỀ N GỬ I
TẠ I CHI NHÁ NH
3.1. Nh ận xét
Công tác huy động vốn có ý nghĩa rất lớn đối với nền kinh tế quốc dân cũng
như đối với các ngân hàng thương mại. Song việc mở rộng nguồn vốn này, biến nó
thành thói quen trong xã hội còn là một chặng đường dài và phải có những bước đi
thích hợp. Trong khuôn khổ chuyên đề tốt nghiệp này, tôi xin nêu 1 số ý kiến của
mình nhằm góp phần thúc đẩy hoạt động huy động vốn của ngân hàng phát triển
trong tầng lớp dân cư, trong toàn xã hội.

3.2. Một số biện pháp
3.2.1. Lãi suất
Như chúng ta đã biết: Chính sách lãi suất là một bộ phận quan trọng của
chính sách tiền tệ. Sự vận động, thay đổi chính sách lãi suất có tác động nhanh và
mạnh đến thị trường tiền tệ, tín dụng. Trong cơ chế thị trường lãi suất được phát
huy mạnh mẽ vai trò của nó với tư cách là giá cả của vốn và chịu tác động của qui
luật cung – cầu về vốn tín dụng.
Trong chính sách huy động vốn thì lãi suất là yếu tố quan trọng hàng đầu, do
đó, vừa phù hợp với chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ là yếu tố tiên quyết tạo
nên sự thành công của các Ngân hàng. Vì vậy, mức lãi suất cần được điều chỉnh kịp
thời, phù hợp với tình hình thực tế ở địa phương.

3.2.2. Đa dạng hóa các hình thức gửi tiền

SVTH: Mai Thị Mỹ Hạnh


47


Chương 3: Một số biện pháp, kiến nghị nhằm gia tăng nguồn vốn ...

Khi các hình thức huy động tiền gửi được đa dạng hoá, sản phẩm phong phú
thì nó sẽ hấp dẫn người gửi tiền. Bởi vì người gửi tiền sẽ chủ động lựa chọn hình
thức cho phù hợp với thời gian nhàn rỗi đồng vốn của mình.
Huy động tiết kiệm có mục đích
Đây là loại hình tiết kiệm thu hút và hấp dẫn vì người gửi tiền vào Ngân
Hàng không chỉ vì mục đích hưởng lãi mà còn vì mục tiêu đã định trước nn áp dụng
thể thức này và có chính sách ưu đãi đối với người gửi tiền. Chẳng hạn, ngân hàng
có thể tài trợ người gửi tiền thêm một phần khi họ đã gần đủ số tiền dự định. Đây là
khoản cho vay khá an toàn vì ngân hàng nắm được thu nhập của khách hàng (với
điều kiện tiền tiết kiệm bao gồm lương, thưởng và các khoản thu nhập ổn định khác
luôn luôn được chuyển đều đặn vào tài khoản khách hàng) và vật đảm bảo là món
hàng, nhà cửa mà khách hàng đã tạo lập được với giá trị lớn hơn nhiều so với khoản
tín dụng đã cấp.
Huy động tiết kiệm với nhiều kỳ hạn khác nhau, lãi suất khác nhau
 Đối với tiết kiệm không kỳ hạn
Hệ thống ACB nói chung và chi nhánh Văn Lang nói riêng với lợi thế là có
mạng lưới rộng khắp nên nghiên cứu áp dụng thí điểm và mở rộng hình thức gửi
tiền tiết kiệm một nơi, rút nhiều nơi. Đây cũng là hình thức dễ thu hút khách hàng vì
họ không phải mang tiền mặt đi nhiều nơi, không phải chuyên chở, đỡ nguy hiểm
và không tốn cổng kiểm đếm. Nếu cần có nhu cầu chi tiêu, họ chỉ cần ghé vào bất
kỳ điểm giao dịch nào là có thể rút tiền ra gọn nhẹ, nhanh chóng và an toàn.
 Đối với tiết kiệm có kỳ hạn
Hiện nay, chi nhánh Văn Lang có các loại tiết kiệm có hạn sau: 1 tháng, 2
tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng, 13 tháng, 24 tháng, 36 tháng. Xét nhu
cầu của khách hàng, Ngân Hàng cần đa dạng hoá các phương thức gửi tiền với

nhiều kỳ hạn khác nhau để khách hàng dễ dàng lựa chọn phương thức thích hợp.

SVTH: Mai Thị Mỹ Hạnh

48


Chương 3: Một số biện pháp, kiến nghị nhằm gia tăng nguồn vốn ...

Ví dụ: một khách hàng có số tiền nhàn rỗi trong 4 tháng, trong khi ngân hàng
chỉ áp dụng hình thức tiền gửi có kỳ hạn 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng. Việc này sẽ buộc
khách hàng vào loại hình không kỳ hạn với lãi suất 0,25%/tháng – trong khi đó lãi
suất tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn 3 tháng là 10.5%/năm. Trong trường hợp này, tất
nhiên là khách hàng mong muốn có một thể thức tiền gửi khác phù hợp và có lãi
suất cao hơn 0,25%/tháng. Vì vậy, ngân hàng nên có thêm các loại kỳ hạn 4 tháng,
5 tháng, 7 tháng… để khách hàng nên có thể tự do lựa chọn hình thức gửi tiền thích
hợp với mình.
Trong năm 2007, Ngân Hàng Á Châu chi nhánh Văn Lang đã được phép huy
động các hình thức tiết kiệm có kỳ hạn lĩnh lãi trước, lĩnh lãi hàng tháng, tiết kiệm
bậc thang, tiết kiệm gửi góp hàng tháng… Tuy nhiên các hình thức này cần được
duy trì và bổ sung thường xuyên cho phù hợp với tâm lý và nguyện vọng của dân
chúng ở địa phương.
Cần nghiên cứu, áp dụng nhiều hình thức huy động vốn đa dạng, phong phú
về loại hình, lãi suất,… để giữ vững và phát triển thị phần, thị trường đã có. Xâm
nhập vào các lĩnh vực mới như tiết kiệm gửi một nơi lĩnh nhiều nơi, tiết kiệm học
đường, tiết kiệm hưu trí phát hành kỳ phiếu trung và dài hạn.
Bên cạnh đó cần chú trọng các hình thức tiết kiệm dài hạn để phục vụ nhu
cầu xây dựng nhà ở, mua sắm hàng cao cấp.
Ngân Hàng cấp trên nên sớm ban hành thể thức tiền gửi tiết kiệm được phép
chuyển nhượng để khi khách hàng có nhu cầu chi tiêu đột xuất trước thời hạn hoặc

có nhu cầu cho, tặng… thì họ có thể chuyển nhượng lại cho người khác một cách dễ
dàng, tuỳ ý. Còn Ngân Hàng sẽ được nguồn vốn ổn định hơn, dễ dàng trong việc
cân đối vốn, giảm bớt các khoản chi phí dự trữ cho nhu cầu chi trả đột xuất.
 Tiết kiệm có kỳ hạn dự thưởng theo xổ số
Đây cũng là hình thức khuyến khích vật chất được khách hàng ưa chuộng vì
ngoài việc hưởng lãi họ còn có cơ hội tham dự xổ số và cơ may trúng thưởng.

SVTH: Mai Thị Mỹ Hạnh

49


Chương 3: Một số biện pháp, kiến nghị nhằm gia tăng nguồn vốn ...

Có thể áp dụng hình thức này khi tiền gửi của khách hàng đạt một số dư nhất
định. Lãi suất của loại hình này sẽ thấp hơn lãi suất các loại tiền gửi có kỳ hạn khác,
ngân hàng sẽ tiết kiệm giảm được chi phí và phần chênh lệch lãi suất đó sẽ được
dùng để trả thưởng cho khách hàng. Loại hình này sẽ góp phần nâng cao nguồn vốn
huy động cho ngân hàng vì nó khuyến khích những người thích phiêu lưu mạo
hiểm, thích thử thời vận.
Thành lập các điểm giao dịch ngoài giờ hành chính
Do hiện nay ngân hàng chỉ làm việc 8 giờ / ngày. Hơn nữa, từ khi áp dụng
Luật lao động mới một tuần làm việc 40 giờ thì số ngày làm việc chỉ còn có 05 ngày
/ tuần. Điều này làm cho số đông khách hàng là công chức, thậm chí những người
lao động hay kinh doanh cũng khó khăn trong việc thu xếp thời gian đến giao dịch
với Ngân hàng trong giờ hành chánh. Vì vật, cần có thêm các bàn huy động vốn
ngoài giờ tại những địa điểm thích hợp vào buổi trưa, buổi chiều hoặc cả buổi tối để
tạo điều kiện cho khách hàng đến gửi và rút tiền. Đây cũng là biện pháp giúp ngân
hàng gia tăng có lượng khách hàng và khối lượng tiền gửi cho mình.


3.2.3. Mở rộng mạng lưới giao dịch
Chi nhánh cần nghiên cứu khảo sát mức thu nhập bình quân, tỷ trọng để
dàng của từng tầng lớp dân cư, xác định lượng vốn có thể huy động ở từng khu vực
từ đó xác định mục tiêu cụ thể và giải pháp cho chiến lược huy động vốn của mình.
Cần xác định số lượng, qui mô, địa điểm để mở các điểm huy động vốn. Đặt
các bàn tiết kiệm tại các khu vực đông dân cư, thị trấn, thị tứ… Xác định hình thức
và thời điểm huy động vốn cụ thể, phong phú và phù hợp với từng đối tượng khách
hàng, đặc điểm thi nhập, tâm lý, đặc điểm luân chuyển vốn của từng loại khách
hàng.
Bên cạnh đó nguồn vốn huy động từ tiền gửi của các doanh nghiệp, tổ chức
kinh tế cũng đóng vai trò rất quan trọng trong tổng nguồn vốn huy động của Ngân
Hàng. Ngân hàng cần có kế hoạch khảo sát, nghiên cứu nhu cầu về vốn của các
doanh nghiệp, tổ chức kinh tế trên địa bàn để lập các đề án huy động nguồn vốn rẻ
SVTH: Mai Thị Mỹ Hạnh

50


Chương 3: Một số biện pháp, kiến nghị nhằm gia tăng nguồn vốn ...

từ các doanh nghiệp. Chú trọng các biện pháp như mở thêm các dịch vụ để phục vụ
trực tiếp các nhu cầu của khách hàng như: thanh toán, chi trả lương, thu – chi tiền
mặt trực tiếp, chuyển tiền nhanh, lắp đặt hệ thống rút tiền tự động ATM…
Mở rộng thêm đối tượng huy động vốn ở các trường học, bệnh viện… bằng
các hình thức như : mở tài khoản thanh toán, tài khoản tiền gửi phục vụ thanh toán
chuyển tiền cho sinh viên, bệnh nhân.

3.2.4. Tăng cường cơ sở vật chất, đội ngũ quân sự
Về cơ sở vật chất
Trong lĩnh vực kinh doanh ngân hàng ngày nay, quan hệ cung cầu không chỉ

gói gọn trong phạm vị huy động vốn, sử dụng vốn mà còn phải xét đến việc cung
cấp dịch vụ cho các nhu cầu ngày càng đa dạng và phong phú của khách hàng.
Công nghệ thông tin là chìa khoá đặc biệt để mở ra cơ hội kinh doanh thật sự.
Cho đến nay, hầu hết các nghiệp vụ ngân hàng đều được xử lý trên máy vi
tính. Tuy nhiên, mục đích xử lý chủ yếu tập trung vào việc kiểm soát hạch toán kế
toán, trợ giúp giao dịch, phục vụ. Xét về khía cạnh đáp ứng yêu cầu dịch vụ của
Ngân Hàng trong thời gian qua so với việc xử lý thủ công trước đây thì qủa là có
những tiến bộ đáng kể. Nhưng với sự có mặt của các chi nhánh ngân hàng nước
ngoài cùng hệ thống dịch vụ ngân hàng áp dụng công nghệ mới, tiêu chuẩn hoá
trong mọi lĩnh vực đã làm cho các ngân hàng Việt Nam nhận thức ra rằng đã đến
lúc cần phải đầu tư một cách đúng mức trong việc hiện đại hoá hệ thống ngân hàng.
Điểm lại phương pháp giao dịch thanh toán thông thường từ trước đến nay,
khách hàng một khi có nhu cầu giao dịch phải trực tiếp đến ngân hàng quan hệ
thông qua nhân viên ngân hàng. Phương pháp này có những thế mạnh riêng, nó tạo
ra sự gắn bó, thân thiện giữa ngân hàng và khách hàng, có thể giải quyết ngay
những vướng mắc trong quá trình xử lý yêu cầu của khách hàng. Tuy nhiên, mặt
khác nó lại làm phiền hà khách hàng vì luôn luôn phải đi lại giao dịch. Để khắc
phục yếu điểm trên, một số nơi ngân hàng đã cho ra đời các loại thẻ thanh tốn, thẻ
SVTH: Mai Thị Mỹ Hạnh

51


Chương 3: Một số biện pháp, kiến nghị nhằm gia tăng nguồn vốn ...

rút tiền tự động… Tuy vậy, nhu cầu của sự phát triển không dừng lại ở những cái gì
đã có. Trong tương lai, để giữ được những thị phần đáng kể ngân hàng cần mở rộng
thêm các phương pháp thanh toán hiện đại khác. Chẳng hạn như cải tiến phương
thức chuyển tiền bằng telex, song song với phương thức chuyển tiền bằng mạng vi
tính đã được mở rộng giữa các chi nhánh với nhau. Tuy nhiên, yêu cầu này đòi hỏi

hạ tầng viễn thông của nước ta phải phát triển trước một bước, đáp ứng đầy đủ nhu
cầu truyền tin trong cả nước. Đồng thời đòi hỏi ngành ngân hàng phải liên kết với
ngành Bưu điện để thiết lập một mạng truyền thông tin giữa các mạng lưới Ngân
Hàng với công nghệ bậc cao.
Đội ngũ nhân sự
Ngoài việc nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ, công nhân viên còn phải
xây dựng đội ngũ cán bộ năng động, có hiệu quả.
• Thực hiện “văn hoá giao dịch” nhằm đổi mới phong cách phục vụ để
tranh thủ thiện cảm của khách hàng. Chủ động trong cạnh tranh. Cần coi
đây là biện pháp chính để khách hàng luôn gắn bó với ngân hàng.
• Thực hiện điều động cán bộ từ bộ phận này sang bộ phận khác để nâng
cao tay nghề.
• Khuyến khích sự tượng trợ nhau giữa các bộ phận để công việc chung
được xúc tiến một cách hiệu quả.
Con người là yếu tố quan trọng trong việc quyết định sự thành công của hoạt
động ngân hàng. Vì vậy, lãnh đạo cần đặc biệt chú trọng đến việc khuyến khích,
khen thưởng cho các nhân viên có đóng góp thiết thực cho sự phát triển của Ngân
Hàng. Đồng thời động viên mọi người hết lòng đóng góp công sức và trí tuệ của
mình vì thành quả chung. Ban Lãnh đạo phải thật sự là những người tài năng, mẫu
mực, biết lắng nghe và tạo điều kiện để nhân viên bày tỏ ý kiến của mình.
Đặc biệt nhân viên trong khâu huy động và ngân quỹ cần có đạo đức tốt,
trung thực, ân cần để tạo lòng tin nơi khách hàng.

SVTH: Mai Thị Mỹ Hạnh

52


Chương 3: Một số biện pháp, kiến nghị nhằm gia tăng nguồn vốn ...


3.2.5. Quảng bá hình ảnh ngân hàng
Bất kỳ doanh nghiệp nào cũng muốn đạt được mục tiêu hoạt động là tối đa
hoá lợi nhuận. Hơn nữa, còn phải làm thế nào để cân đối cả 3 yếu tố: lợi nhuận
doanh nghiệp, nhu cầu khách hàng và lợi ích xã hội.
Mọi ngân hàng thương mại đều hiểu rằng, kinh doanh trong cơ chế thị
trường thì khách hàng là lực lượng nuôi sống mình. Bởi vậy họ luôn tìm cách để
duy trì và phát triển mối quan hệ với khách hàng.
Marketing giải quyết mối quan hệ giữa ngân hàng và thị trường. Marketing
phân tích thị trường, nghiên cứu nhu cầu của thị trường đối với sản phẩm, tình hình
kinh tế, cơ cấu thị trường, các hình thức và các phương pháp được những người
hoạt động trên thị trường áp dụng, phân tích sự phân đoạn của thị trường, các đặc
trưng của khách hàng… Từ đó, giúp ngân hàng thu nhận thông tin và đưa ra các
quyết định quản lý có hiệu quả. Marketing là bí quyết tạo thắng lợi trong kinh
doanh.
Đối với hoạt động ngân hàng, thực hiện tốt công tác marketing cần phải thực
hiện và đẩy mạnh các công việc sau:
Có chiến lược riêng về khách hàng:
Các sản phẩm của ngân hàng không thể xác định bằng các đặc điểm nội tại,
chúng không phải là những vật thể sờ mó được mà là sự cung ứng dịch vụ phi vật
chất được biểu hiện qua việc sử dụng theo thời gian các loại tiền gửi không kỳ hạn,
tiết kiệm kỳ phiếu,… đồng thời đó là các phương tiện thanh toán các dịch vụ khác
như: quản lý tiền, bảo quản vật có giá, dịch vụ ngoại tệ, kiều hối,…
Hầu hết mọi ngân hàng đều cố gắng để khách hàng nhận biết các dạng sản
phẩm của mình nhưng chỉ có tổng thể dịch vụ của ngân hàng (sự đón tiếp, các sản
phẩm) mới tạo ra hình ảnh ngân hàng.

SVTH: Mai Thị Mỹ Hạnh

53



Chương 3: Một số biện pháp, kiến nghị nhằm gia tăng nguồn vốn ...

Về cơ bản, sản phẩm ngân hàng ít có khả năng thay đổi thường xuyên vì
chúng phải hướng vào những qui định chặt chẽ và khó làm khác biệt giữa các Ngân
Hàng. Hơn nữa, sản phẩm mới chỉ là khái niệm tương đối vì có thể mới đối với thị
trường này nhưng không phải mới đối với thị trường khác.
Như vậy, điều có thể khẳng định được ở đây là: sự chung thuỷ của khách
hàng phụ thuộc vào chất lượng dịch vụ mà họ cảm nhận vì đối với người tiêu dùng
khi mua một dịch vụ thì điều đó rủi ro hơn khi mua:
• Thường xuyên tạo sự khác biệt, có nghĩa là làm tốt hơn ngân hàng cạnh
tranh. Điều này thể hiện ở chất lượng dịch vụ chứ không phải bản chất kỹ
thuật của dịch vụ đó.
• Trong chiến lược khách hàng thì quan hệ với khách hàng giữ vai trò cực
kỳ quan trọng bởi vì:
-

Khách hàng mà một yếu tố tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất
và phân phối dịch vụ ngân hàng.

-

Khách hàng thường có nhu cầu sử dụng một nhóm dịch vụ Ngân
Hàng có quan hệ với nhau và sử dụng dịch vụ như một tổng thể.

-

Các sản phẩm tài chính thường kéo dài theo thời gian đối với khách
hàng.


-

Sự xói mòn lòng trung thành do cạnh trang ngày càng gay gắt.

Do đó việc tạo lập và duy trì quan hệ khách hàng có ý nghiã là đem lại sự
thành công lâu dài cho một ngân hàng và ngân hàng phải chủ động trong tất cả quan
hệ khách hàng.
Khi đã tạo lập quan hệ với khách hàng thì việc phát triển quan hệ khi khách
hàng quay lại tiếp tục sử dụng dịch vụ, mua thêm dịch vụ tài chính khác là rất cần
thiết bởi vì lúc này lợi nhuận tăng dần. Trong giai đoạn này nên:

SVTH: Mai Thị Mỹ Hạnh

54


Chương 3: Một số biện pháp, kiến nghị nhằm gia tăng nguồn vốn ...

• Nghiên cứu thăm dò để chủ động phát hiện các nhu cầu tài chính mới của
khách hàng.
• Chủ động giới thiệu các dịch vụ mới và những lợi ích thuyết phục.
• Chủ động bán thêm các dịch vụ có liên quan mật thiết với dịch vụ trước
đó khi khách hàng nảy sinh nhu cầu và bị thuyết phục.
• Giữ vững chất lượng dịch vụ trước đó.
Các biện pháp này có tác dụng hướng đến sự thoả mãn nhu cầu ở mức độ cao
hơn bằng cách ổn định và tăng cường chất lượng dịch vụ, chủ động bán thêm sản
phẩm có liên quan.
Khuyến khích vật chất và tinh thần cho người gửi tiền
Khi khách hàng đã có những giao dịch thường xuyên với ngân hàng thì việc
kết chặt mối quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng là rất quan trọng. Đây là giai

đoạn mấu chốt của chiến lược quan hệ khách hàng, nó quyết định sự thành công của
ngân hàng, lợi nhuận đạt đỉnh cao và ổn định. Lúc này cần quan tâm đến những vấn
đề sau:
• Giảm thiểu những phiền hà cho khách hàng càng nhiều càng tốt.
• Dành những ưu ái cho khách hàng thường xuyên.
• Khen thưởng theo giá trị dịch vụ, thời gian giao dịch.
• Thăm viếng và tặng quà cho khách hàng vào dịp lễ lớn, Tết cổ truyền để
tạo quan hệ thân thiện giữa ngân hàng và khách hàng, đồng thời tạo thói
quen giao tiếp với ngân hàng trong công chúng.
• Duy trì và nâng cấp chất lượng dịch vụ thường xuyên hơn.
• Tiếp đón có chất lượng là giai đoạn dẫn đến sự chung thuỷ, khách hàng
bằng lòng với sự đón tiếp:
-

Sẽ trở lại

SVTH: Mai Thị Mỹ Hạnh

55


Chương 3: Một số biện pháp, kiến nghị nhằm gia tăng nguồn vốn ...

-

Sẽ đưa khách hàng mới đến cho ngân hàng.

Vì vậy, cuộc đối thoại đầu tiên giữa khách hàng và nhân viên phục vụ có vai
trò quyết định. Nhân viên phục vụ phải dung hoà lợi ích của khách hàng và lợi ích
Ngân hàng, sự sẵn sàng đón tiếp cần phải được biểu lộ ngay cả khi chúng ta đang

bận.
Mặt khác, đối với khách hàng giao dịch lần đầu cần tặng những món quà lưu
niệm nhỏ để tác động vào tâm lý khách hàng.
Tăng cường công tác quảng cáo cho hoạt động Ngân Hàng
Giao tế công cộng hiện nay trở nên phức tạp hơn với nhiều hình thức phong
phú nhằm tạo sự hiểu biết lẫn nhau giữa ngân hàng với các đối tượng truyền thông
đa dạng.
Đối với ngân hàng, việc duy trì và nâng cao hình ảnh của mình có ý nghĩa
quan trọng đặc biệt. Bởi lẽ, khách hàng thường đánh giá dịch vụ ngân hàng thông
qua hình ảnh tổng thể của ngân hàng được xã hội công nhận. Các hình thức giao tế
công cộng cần được sử dụng là:
• Quan hệ với các cơ quan truyền thông (báo chí, đài truyền hình…)
• Tổ chức các buổi hội thảo, những lớp đào tạo liên quan đến các vấn đề
thời sự, nâng cao kiến thức, kỹ năng ngân hàng.
• Tham gia các bài viết trên các báo chuyên ngành.
Ngân hàng cần phải vật chất hoá cái phi vật chất, nghĩa là cho xem, phô
trương trong quảng cáo, trong tài liệu, cách bố trí nhà cửa, tất cả những gì mang
hình ảnh, những cái mang lại giá trị gia tăng cho ngân hàng so với ngân hàng cạnh
tranh bằng cách:
• Tuyên truyền, quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng về các
hoạt động tiện ích của ngân hàng.

SVTH: Mai Thị Mỹ Hạnh

56


Chương 3: Một số biện pháp, kiến nghị nhằm gia tăng nguồn vốn ...

• Nhà sản xuất luôn mong muốn sản phẩm của mình làm ra được sự chú ý

của nhiều khách hàng và tiêu thụ nhanh chóng. Khách hàng cũng mong
muốn mua những sản phẩm phù hợp với nhu cầu của mình. Song sự hiểu
biết về nhu cầu mua hàng của người tiêu dùng không phải lúc nào nhà
sản xuất cũng nhận thức được bởi vì nó hết sức đa dạng, phong phú và
luôn thay đổi. Như vậy, người sản xuất – người tiêu dùng có những
khoảng cách biệt nhau về không gian, thời gian, thông tin, cách đánh giá,
quyền sở hữu,… đối với ngân hàng, biện pháp hiệu quả nhất là hoạt động
giao tiếp của ngân hàng đối với khách hàng riêng của mình. Những hoạt
động giao tiếp này có thông qua thư từ, tiếp xúc trực tiếp hay bằng con
đường vòng là thông qua chính những khách hàng.
• In ra những thể lệ hướng dẫn cụ ther cho khách hàng biết cách làm thủ
tục nộp và lãnh tiền, cách sử dụng tài khoản và sec cá nhân,… một cách
đơn giản và dễ hiểu để các hình thức huy động ngày càng phổ biến hơn.

3.3. Một số kiến nghị
3.3.1. Kiến nghị đối với ngân hàng Á Châu
Triển khai thực hiện một cách đồng bộ và có hiệu quả các mục tiêu , trong đó
chú trọng đến kế hoạch tăng vốn điều lệ, mở rộng mạng lưới giao dịch, trên cơ sở
đảm bảo tỉ suất lợi nhuận hợp lý.
Nhanh chóng xây dựng thương hiệu vững mạnh nhằm nâng cao năng lực
cạnh tranh, mở rộng thị phần kinh doanh và thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư.
Nâng cao năng lực cạnh tranh trong thời kì hậu WTO. Cạnh tranh cả về số
lượng lẫn chất lượng. Quan tâm đến kĩ năng chăm sóc khách hàng của tất cả cán bộ
công nhân viên để tạo ra sự khác biệt giữa Á Châu với các ngân hàng khác. Có thể
mời các chuyên gia hàng đầu về chăm sóc khách hàng trong và ngoài nước huấn
luyện cho cán bộ công nhân viên của ngân hàng.

SVTH: Mai Thị Mỹ Hạnh

57



Chương 3: Một số biện pháp, kiến nghị nhằm gia tăng nguồn vốn ...

Đổi mới nhiều hơn và nhanh hơn trong lĩnh vực quản trị điều hành phù hợp
với thông lệ và chuẩn mực quốc tế, tạo ra một hệ thống vận hành đồng bộ, thông
suốt, minh bạch và hiệu quả.
Xây dựng chính sách kiểm soát xử lý thông tin thật nhanh nhạy, có kế hoạch
dự phòng, đối phó với những tình huống bất ngờ, sự khủng hoảng hoặc khi thị
trường chứng khoán có biến động xấu.

3.3.2. Kiến nghị về phía Nhà Nước
Ngân hàng cần phải quản lý vốn chặt chẽ từ các ngân hàng thương mại, tránh
các ngân hàng thương mại đổ vốn vào chứng khoán mà quên đi nguồn vốn dành cho
sự phát triển của doanh nghiệp.
Các ngân hàng nên lập hiệp hội ngân hàng, để có kênh hỗ trợ nhau tốt hơn,
và ngân hàng nhà nước nên có điều kiện hỗ trợ.
Ngân hàng nhà nước nên từng bước nới lỏng chính sách lãi suất, nên cho áp
dụng theo cơ chế thả nổi hoàn toàn, để cho các ngân hàng chủ động trong việc đưa
ra lãi suất của mình. Ngân hàng Nhà nước chỉ nên thực hiện các công cụ vĩ mô như:
công cụ thị trường mở, công cụ lãi suất taí cấp vốn.

SVTH: Mai Thị Mỹ Hạnh

58



×