Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

CƠ CHẾ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH TẠI CÁC BỆNH VIỆN CÔNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.56 KB, 16 trang )

Trường Đại Học Kinh Tế TP.HCM
Khoa Kế toán – Kiểm toán



TIỂU LUẬN KẾ TOÁN CÔNG

CƠ CHẾ QUẢN LÝ
TÀI CHÍNH TẠI CÁC BỆNH VIỆN
CÔNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

GVHD: PGS.TS MAI THỊ HOÀNG MINH
Ths PHẠM QUANG HUY
HỌC VIÊN TH: NGUYỄN THANH HÀ

1


MỤC LỤC

2


1. Tính cấp thiết của đề tài
Kinh tế thị trường Ngành y tế được coi là một ngành trong hệ thống kinh tế quốc dân và
thuộc nhóm ngành dịch vụ phục vụ các nhu cầu có tính chất phúc lợi xã hội. Nói cách khác,
ngành y tế có đóng góp vào GDP của đất nước. Đầu tư cho y tế không phải là tiêu phí mà là đầu
tư cơ bản, đầu tư cho phát triển. Theo quan điểm mới, bệnh viện là một đơn vị kinh tế dịch vụ
nhưng khác với các đơn vị kinh doanh dịch vụ bởi hoạt động cung cấp dịch vụ của bệnh viện
không đặt mục tiêu lợi nhuận làm mục tiêu quan trọng nhất. Đơn vị kinh tế dịch vụ thông qua
các hoạt động dịch vụ của mình để có thu nhập và tích cực hoạt động không vì doanh lợi.


Xuất phát từ quan niệm mới trên, Đảng và Nhà nước ta đã có những thay đổi căn bản
trong cơ chế quản lý tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp có thu trong chương trình nghị sự
cải cách tài chính công. Đó là:
Thứ nhất, thay cho việc cấp kinh phí theo số lượng biên chế như hiện nay bằng việc tính
toán kinh phí căn cứ vào kết quả và chất lượng hoạt động, hướng vào kiểm soát đầu ra, chất
lượng chi tiêu theo mục tiêu cho đơn giản hơn, tăng quyền chủ động cho đơn vị sử dụng ngân
sách.
Thứ hai, xoá bỏ cơ chế cấp phát theo kiểu “ Xin- Cho”, thực hiện chế độ tự chủ tài chính
cho các đơn vị sự nghiệp trên cơ sở xác định nhiệm vụ phải thực hiện, mức hỗ trợ tài chính từ
ngân sách và phần còn lại do đơn vị tự trang trải.
Thứ ba, khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước phát triển trong các lĩnh vực
giáo dục, y tế . Khuyến khích liên doanh và đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào lĩnh vực này.
Thực tế trên đòi hỏi quản lý tài chính trong bệnh viện vừa phải đảm bảo các mục tiêu tài
chính vừa đảm bảo tính hiệu quả, công bằng trong chăm sóc sức khoẻ. Quản lý tài chính bệnh
viện trở thành chìa khoá quyết định sự thành công hay thất bại trong việc quản lý bệnh viện;
quyết định sự tụt hậu cũng như phát triển của bệnh viện.
Đề tài “ Cơ chế quản lý tài chính tại các Bệnh viện công ở Việt nam hiện nay” được
lựa chọn nghiên cứu cho người đọc hiểu được cơ chế hoạt động tài chính tại các bệnh viện công
hiện nay ở Việt nam.
2. Mục đích nghiên cứu
* Đưa ra bức tranh toàn cảnh về tình hình khai thác và sử dụng các nguồn tài chính tại
Bệnh viện công Việt Nam.


* Chỉ ra ưu, nhược điểm, những khó khăn cũng như thuận lợi trong việc quản lý tài chính
tại Bệnh viện công Việt Nam.
* Đề xuất một số giải pháp theo hướng vừa đảm bảo mục tiêu tài chính vừa đảm bảo mục
tiêu kinh tế- xã hội của bệnh viện: tăng vốn chính đáng và chi hữu hiệu nhằm hoàn thiện công
tác quản lý tài chính tại Bệnh viện công trong cơ chế tài chính mới.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài

Về nội dung: đề cập chủ yếu tới việc khai thác và sử dụng các nguồn tài chính của bệnh viện
công.
4. Phương pháp nghiên cứu
Thông qua nghiên cứu tài liệu, phân tích, tổng hợp là những biện pháp cơ bản được sử
dụng trong quá trình triển khai nghiên cứu
5. Kết cấu của đề tài :
Gồm 3 phần chính
Phần I

: Những vấn đề cơ bản về quản lý tài chính bệnh viện công

Phần II

: Thực trạng cơ chế quản lý tài chính tại Bệnh viện công Việt Nam

Phần III

: Một số giải pháp hoàn thiện công tác quản lý tài chính tại Bệnh viện

công Việt Nam.

PHẦN NỘI DUNG
PHẦN I : NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP
Ở VIỆT NAM
Trong phần này nghiên cứu quản lý tài chính đơn vị sự nghiệp vì Bệnh viện công cũng là
một đơn vị sự nghiệp.
1. Khái niệm Quản lý tài chính trong đơn vị sự nghiệp
Quản lý tài chính là một bộ phận, một khâu của quản lý kinh tế xã hội và là khâu quản lý
mang tính tổng hợp. Quản lý tài chính được coi là hợp lý, có hiệu quả nếu nó tạo ra được một
cơ chế quản lý thích hợp, có tác động tích cực tới các quá trình kinh tế xã hội theo các phương

hướng phát triển đã được hoạch định. Việc quản lý, sử dụng nguồn tài chính ở các đơn vị sự
nghiệp có liên quan trực tiếp đến hiệu quả kinh tế xã hội do đó phải có sự quản lý, giám sát,
kiểm tra nhằm hạn chế, ngăn ngừa các hiện tượng tiêu cực, tham nhũng trong khai thác và sử
dụng nguồn lực tài chính đồng thời nâng cao hiệu quả việc sử dụng các nguồn tài chính.


Trong đơn vị sự nghiệp, Nhà nước là chủ thể quản lý, đối tượng quản lý là tài chính đơn
vị sự nghiệp. Tài chính đơn vị sự nghiệp bao gồm các hoạt động và quan hệ tài chính liên quan
đến quản lý, điều hành của Nhà nước trong lĩnh vực sự nghiệp.
Là chủ thể quản lý, Nhà nước có thể sử dụng tổng thể các phương pháp, các hình thức và
công cụ để quản lý hoạt động tài chính của các đơn vị sự nghiệp trong những điều kiện cụ thể
nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Để đạt được những mục tiêu đề ra, công tác quản lý
tài chính đơn vị sự nghiệp bao gồm ba khâu công việc: Thứ nhất, lập dự toán thu, chi ngân sách
nhà nước trong phạm vi được cấp có thẩm quyền giao hàng năm; Thứ hai, tổ chức chấp hành dự
toán thu, chi tài chính hàng năm theo chế độ, chính sách của Nhà nước; Thứ ba, quyết toán thu,
chi ngân sách Nhà nước.
2. Nội dung quản lý tài chính đơn vị sự nghiệp
2.1.Lập dự toán thu chi ngân sách
Lập dự toán ngân sách là quá trình phân tích, đánh giá giữa khả năng và nhu cầu các
nguồn tài chính để xây dựng các chỉ tiêu thu chi ngân sách hàng năm một cách đúng đắn, có căn
cứ khoa học và thực tiễn. Có hai phương pháp lập dự toán thường được sử dụng là phương pháp
lập dự toán trên cơ sở quá khứ (incremental budgeting method) và phương pháp lập dự toán cấp
không (zero basic budgeting method). Mỗi phương pháp lập dự toán trên có những đặc điểm
riêng cùng những ưu, nhược điểm và điều kiện vận dụng khác nhau.
2.2 Tổ chức chấp hành dự toán thu chi
Chấp hành dự toán là quá trình sử dụng tổng hợp các biện pháp kinh tế tài chính, hành
chính nhằm biến các chỉ tiêu thu chi ghi trong dự toán ngân sách của đơn vị thành hiện thực.
Trên cơ sở dự toán ngân sách được giao, các đơn vị sự nghiệp tổ chức triển khai thực hiện, đưa
ra các biện pháp cần thiết đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ thu chi được giao đồng thời phải có
kế hoạch sử dụng kinh phí ngân sách theo đúng mục đích, chế độ, tiết kiệm và có hiệu quả. Để

theo dõi quá trình chấp hành dự toán thu chi, các đơn vị sự nghiệp cần tiến hành theo dõi chi
tiết, cụ thể từng nguồn thu, từng khoản chi trong kỳ của đơn vị.
2.3.Quyết toán thu chi
Quyết toán thu chi là công việc cuối cùng của chu trình quản lý tài chính. Đây là quá
trình kiểm tra, tổng hợp số liệu về tình hình chấp hành dự toán trong kỳ và là cơ sở để phân tích,
đánh giá kết quả chấp hành dự toán từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho các kỳ tiếp


theo. Để có thể tiến hành quyết toán thu chi, các đơn vị phải hoàn tất hệ thống báo cáo tài chính
và báo cáo quyết toán ngân sách.
PHẦN II : THỰC TRẠNG CƠ CHẾ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH BỆNH VIỆN CÔNG VIỆT
NAM
Những thành tựu về chăm sóc sức khỏe nhân dân của Việt Nam gắn liền với quá trình
đổi mới và phát triển đất nước trong hơn 20 năm qua, trong đó có đổi mới hệ thống y tế. Có thể
nhận định rằng, đổi mới lĩnh vực y tế ở Việt Nam được bắt đầu từ đổi mới các chính sách và cơ
chế tài chính trong lĩnh vực cung ứng dịch vụ khám chữa bệnh, như các chính sách thu một
phần viện phí (1989), Pháp lệnh Hành nghề y dược tư nhân (1993 và sửa đổi năm 2003), chính
sách về bảo hiểm y tế (1992), chính sách miễn, giảm viện phí cho người có công với nước,
người nghèo (1994), chính sách “xã hội hóa” và giao quyền tự chủ về tài chính cho các cơ sở y
tế công lập.
1.Quy định chung quản lý tài chính bện viện công Việt nam
Quản lý tài chính trong bệnh viện là việc quản lý toàn bộ các nguồn vốn: vốn ngân sách
Nhà nước cấp, vốn viện trợ, vốn vay và các nguồn vốn khác; tài sản, vật tư của bệnh viện để
phục vụ nhiệm vụ khám bệnh, chữa bệnh, đào tạo, nghiên cứu khoa học, chỉ đạo tuyến…
Quản lý tài chính trong bệnh viện phải đạt các mục tiêu:
- Sử dụng, quản lý các nguồn kinh phí ngân sách Nhà nước cấp và các nguồn được coi là
ngân sách Nhà nước cấp như: viện phí, bảo hiểm y tế, viện trợ … theo đúng chế độ, định mức
quy định của Nhà nước.
- Tăng nguồn thu hợp pháp, cân đối thu chi, sử dụng các khoản chi có hiệu quả, chống
lãng phí, thực hành tiết kiệm.

- Thực hiện chính sách ưu đãi và đảm bảo công bằng trong khám bệnh, chữa bệnh cho
các đối tượng ưu đãi xã hội và người nghèo.
- Từng bước tiến tới hạch toán chi phí và giá thành khám bệnh, chữa bệnh.
Giám đốc bệnh viện là người chịu trách nhiệm quản lý tài chính trong bệnh viện.
2. Các quy định cụ thể
2.1. Quản lý các nguồn thu:
Hình thành ngân sách của bệnh viện và được quản lý thống nhất theo chế độ kế toán
hành chính sự nghiệp bao gồm:
- Ngân sách Nhà nước cấp hàng năm.
- Thu viện phí và bảo hiểm y tế ( nguồn thu sự nghiệp của bệnh viện).


- Thu về viện trợ (nếu có).
- Thu về thanh lý, nhượng bán tài sản.
- Các khoản thu khác như trợ cấp khó khăn, quỹ hỗ trợ khác …
Các nguồn thu tài chính của bệnh viện phải được lập kế hoạch từng năm trên cơ sở định
mức của Nhà nước quy định, định mức do bệnh viện xây dựng đã được cơ quan chủ quản duyệt
và dự báo về khả năng thu.
2.1.1 Ngân sách nhà nước cấp hàng năm
Trước khi có Luật ngân sách sửa đổi 2002, NSNN được phân bổ cho các bệnh viện theo
những định mức chung theo khu vực kinh tế - xã hội. Từ khi có Luật ngân sách sửa đổi, mức
ngân sách cho bệnh viện tuyến tỉnh và huyện chủ yếu do chính quyền địa phương quyết định và
có sự khác nhau đáng kể. Hiện chưa có một hệ thống dữ liệu chính thức và phương thức phân
bổ ngân sách chính thống cho các bệnh viện.
Từ 2007, phương thức phân bổ ngân sách đã có những chuyển đổi theo hướng “cấp ngân
sách ở mức ổn định theo giai đoạn 3 năm” - một bước chuyển theo hướng khoán ngân sách,
giảm bớt những quy định liên quan tới các định mức tài chính khá cứng nhắc đối với các cơ sở
bệnh viện.
Cùng với việc thực hiện chính sách thu một phần viện phí, nhất là chính sách xã hội hóa,
giao quyền tự chủ cho bệnh viện, tỷ trọng NSNN cấp cho bệnh viện ngày càng có xu thế giảm.

Song, mức độ giảm có sự khác nhau giữa các loại bệnh viện. Năm 2010, tỷ lệ ngân sách cấp cho
bệnh viện tuyến trung ương chiếm khoảng 28%; bệnh viện tuyến tỉnh khoảng 12% và bệnh viện
tuyến huyện khoảng 40%.
NSNN cấp cho các cơ sở cung ứng dịch vụ KCB công lập hiện nay chủ yếu là để chi cho
lương và hỗ trợ cho đầu tư phát triển (tùy theo khả năng tự chủ về tài chính của bệnh viện) và
một phần cho chi thường xuyên. Kinh phí hoạt động thường xuyên của các bệnh viện có khả
năng tự chủ về tài chính cao chủ yếu lấy từ nguồn thu sự nghiệp (gồm viện phí và chi trả của
BHYT).
2.1.2 Nguồn thu viện phí và bảo hiểm y tế.
Nguồn thu từ Bảo hiểm y tế
Nguồn thu của bệnh viện từ BHYT thường được ghép chung với nguồn thu từ viện phí
trực tiếp, nên khó tìm được số liệu chính xác. Tuy nhiên, có thể thấy tỷ lệ đóng góp từ quỹ
BHYT trong tổng chi y tế gia tăng qua các năm, từ 7,9% năm 2005 lên 17,6% năm 2008. Tín
hiệu đáng mừng là phần chi của BHXH cho các đơn vị cung cấp dịch vụ y tế công lập năm


2007 chiếm tỷ lệ khá cao trong ngân sách chi cho các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế công lập cùng
năm (38,2%, với 9 945 762 triệu đồng).
Năm 2008, thực hiện Nghị định 63 về BHYT, số người nghèo được cấp thẻ BHYT tăng
gấp 3 lần so với năm 2005, với tổng số trên 15,8 triệu thẻ, chiếm trên 40% tổng số người có thẻ
BHYT. Thực hiện Nghị định số 36/2005/NĐ-CP, kinh phí cấp cho KCB trẻ em dưới 6 tuổi tăng
từ 890,1 tỷ năm 2005 lên 1.053 tỷ năm 2008. 66% trẻ em dưới 6 tuổi được cấp thẻ KCB miễn
phí.
Viện phí trực tiếp
Chính sách thu một phần viện phí được thực hiện từ tháng 4/1989, theo Quyết định số
45/HĐBT, ngày 24/4/1989, của Hội đồng Bộ trưởng và sau đó là Nghị định 95/CP, ngày
27/8/1994, và Nghị định 33/CP, ngày 23/5/1995. Theo Nghị định 33/CP, khoản thu viện phí là
nguồn thu của ngân sách nhà nước, được sử dụng như sau: 70% sử dụng cho cơ sở KCB thu
khoản viện phí đó để bổ sung kinh phí mua thuốc, máu, dịch truyền, hóa chất, phim X quang,
vật tư, trang thiết bị, dụng cụ y tế phục vụ người bệnh kịp thời. 30% dành để khen thưởng cho

CBCNV hoàn thành tốt nhiệm vụ chuyên môn và để lập quỹ hỗ trợ và khen thưởng cho các đơn
vị, cá nhân ở các bệnh viện không có điều kiện thu viện phí.
Tính chung, nguồn thu từ viện phí ngày càng chiếm tỷ trọng cao hơn trong tổng ngân
sách của các bệnh viện công. Kết quả từ báo cáo kiểm tra 731 bệnh viện năm 2007 của Vụ Điều
trị, Bộ Y tế cho thấy nguồn thu chủ yếu của bệnh viện là từ viện phí, chiếm 59,4% các nguồn
thu và tăng 26,5% so với năm 2006.
Nguồn thu viện phí và bảo hiểm y tế thực hiện các quy định sau:
- Nguồn thu viện phí và bảo hiểm y tế được Nhà nước quy định là một phần ngân sách sự
nghiệp y tế của Nhà nước giao cho bệnh viện quản lý và sử dụng. Các nguồn ngân sách này
được quản lý tập trung thống nhất tại phòng tài chính kế toán của bệnh viện theo chế độ kế toán
hành chính sự nghiệp.
- Giá viện phí do giám đốc bệnh viện đề xuất, phù hợp với tình hình kinh tế xã hội của
địa phương và được cấp trên có thẩm quyền duyệt. Bảng giá phải được niêm yết công khai.
Trưởng phòng tài chính kế toán chịu trách nhiệm tổ chức thu viện phí đảm bảo nhanh chóng,
thuận tiện, tránh phiền hà cho người bệnh và hạch toán các khoản thu viện phí theo chế độ quy
định.
- Đối với việc khám bệnh, chữa bệnh theo yêu cầu thì mức thu được tính trên cơ sở hạch
toán và được cấp có thẩm quyền duyệt. Bệnh viện không được tùy tiện đặt giá.
- Trưởng các khoa trong bệnh viện có trách nhiệm ký duyệt bảng kê các khoản chi cho
người bệnh để làm căn cứ cho phòng tài chính kế toán thực hiện việc thu viện phí.


- Việc thu viện phí trực tiếp của người bệnh phải sử dụng hóa đơn theo mẫu quy định của
Bộ Tài chính: một liên của hóa đơn phải trả cho người bệnh.
- Đối với người bệnh có thẻ bảo hiểm y tế thì phòng tài chính kế toán có trách nhiệm thu
viện phí từ cơ quan bảo hiểm y tế.
- Giám đốc bệnh viện hoặc người được ủy quyền chịu trách nhiệm xét miễn, giảm viện
phí cho người bệnh theo chế độ quy định.
2.1.3 Nguồn viện trợ và các nguồn thu khác:
- Nguồn viện trợ và các nguồn thu khác được Nhà nước quy định là một phần ngân sách

sự nghiệp y tế của Nhà nước giao cho bệnh viện quản lý và sử dụng hạch toán theo chế độ kế
toán hành chính sự nghiệp.
- Khi bệnh viện tiếp nhận tiền, hàng viện trợ phải làm các thủ tục xác nhận viện trợ theo
quy định.
- Các loại tài sản được viện trợ phải hạch toán tăng nguồn vốn và quản lý theo quy định
như các tài sản được mua bằng nguồn vốn sự nghiệp do Nhà nước cấp.
2.2 Quản lý tiền mặt:
Tất cả các nguồn thu bằng tiền mặt của bệnh viện phải được quản lý chặt chẽ theo đúng
chế độ Nhà nước quy định.
Thủ quỹ là người chịu trách nhiệm trước trưởng phòng tài chính kế toán và giám đốc
bệnh viện về bảo quản, thu, chi và bồi thường nếu thiếu hụt ngân quỹ theo quy định.
Trưởng phòng tài chính kế toán và thủ quỹ phải tổ chức kiểm kê quỹ định kỳ hàng tháng
và đột xuất nếu có lệnh của cấp trên.
Giám đốc bệnh viện không được tuyển dụng cha, mẹ, vợ, chồng, con của trưởng phòng
tài chính kế toán của bệnh viện làm thủ quỹ.
2.3. Quản lý chi:
Các khoản chi đều phải có kế hoạch được duyệt, thực hiện đúng các quy định của luật
ngân sách, chế độ kế toán hành chính sự nghiệp, chế độ đấu thầu xây dựng và mua sắm tài sản.
Các khoản chi phải đúng chế độ, định mức do cơ quan có thẩm quyền quy định và được
giám đốc bệnh viện duyệt chi.
2.4. Quản lý tài sản:
Tài sản của bệnh viện khi xây dựng hoàn thành, mua sắm, tiếp nhận từ mọi nguồn theo
quy định phải được ghi thể hiện, phản ánh trên sổ sách kế toán theo chế độ kế toán hành chính


sự nghiệp và đảm bảo các thủ tục cần thiết về đấu thầu, chọn thầu xây dựng, mua sắm tài sản
theo quy định.
Việc sử dụng vật tư, tài sản của bệnh viện phải căn cứ theo định mức. Tài sản phải được
giao trách nhiệm quản lý tới giám đốc, trưởng khoa, trưởng phòng và cá nhân, bảo dưỡng định
kỳ theo quy định kỹ thuật bệnh viện. Tài sản cố định mang ra khỏi bệnh viện để thực hiện

nhiệm vụ phải có ý kiến đồng ý của giám đốc.
Tài sản cố định và vật rẻ tiền mau hỏng của bệnh viện khi thanh lý, nhượng bán phải
thực hiện theo chế độ quản lý công sản của Nhà nước. Trường hợp cần điều chuyển tài sản cố
định cho các đơn vị khác phải xin ý kiến của cấp trên và cơ quan quản lý công sản bệnh viện
không được tùy tiện cho nơi khác.
Các vật tư kỹ thuật và vật tư chuyên dùng, thuốc, máu, dịch truyền sau khi mua, tiếp
nhận phải nhập kho. Vật tư nào chưa có giá phải tổ chức hội đồng đánh giá. Khi xuất kho phải
có lệnh của giám đốc bệnh viện hoặc người được ủy quyền.
Thủ kho phải chấp hành đầy đủ các quy định của Nhà nước về quản lý kho, chịu trách
nhiệm bồi thường nếu mất, thiếu hụt vật tư, tài sản và các trách nhiệm pháp luật khác theo quy
định.
Vật tư, tài sản, đất đai, công nghệ … của bệnh viện đem góp vốn liên doanh, góp vốn cổ
phần (nếu có) phải được cấp có thẩm quyền phê duyệt và xác định về giá trị.
2.5. Việc chấp hành chế độ kế toán, quyết toán tài chính, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán:
Chế độ kế toán hành chính sự nghiệp được thực hiện theo các quy định hiện hành của Bộ
Tài chính và áp dụng cho tất cả các đơn vị hành chính sự nghiệp. Các bệnh viện là đơn vị sự
nghiệp y tế, có nhiệm vụ chấp hành nghiêm chỉnh chế độ kế toán hành chính sự nghiệp.
Bệnh viện có trách nhiệm lập và nộp đúng hạn các báo cáo tài chính cho cơ quan chủ
quản và cơ quan tài chính theo quy định; dùng các báo cáo tài chính để phân tích và đánh giá
hiệu quả sử dụng các nguồn kinh phí, vốn, quỹ, để phục vụ cho công tác quản lý tài chính và
công tác quản lý chung của bệnh viện.
Bệnh viện chịu sự kiểm tra tài chính của cơ quan chủ quản, thanh tra tài chính và kiểm
toán khi có quyết định của cơ quan có thẩm quyền. Bệnh viện phải đảm bảo lưu trữ chứng từ kế
toán theo quy định để phục vụ công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán và công tác quản lý tài
chính của đơn vị.
3. Những mới đổi cơ chế tài chính bệnh viện công Việt nam
Nhằm thực hiện cải cách tài chính công trong chương trình tổng thể cải cách hành chính
Nhà nước giai đoạn 2001-2010, Chính phủ đã tiến hành triển khai chế độ tự chủ tài đối với các



đơn vị sự nghiệp có thu trong đó có hệ thống bệnh viện công. Một hệ thống các văn bản quy
định chế độ tài chính áp dụng cho các đơn vị sự nghiệp có thu được ban hành đánh dấu một
bước đổi mới trong cơ chế quản lý tài chính mà gần đây nhất là Nghị định số 10/2002/NĐ-CP
của Chính phủ ngày 16/01/2002 về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu và
Thông tư 25/2002/TT-BTC ngày 21/3/2002 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định 10.
Cơ chế quản lý tài chính mới cho phép đơn vị sự nghiệp có thu tự chủ về tài chính, lao động và
tự chịu trách nhiệm trong hoạt động của đơn vị. Cụ thể là:
Mở rộng quyền cho các đơn vị sự nghiệp có thu
Thứ nhất, theo cơ chế cũ các đơn vị sự nghiệp có thu chỉ được phép sử dụng nguồn kinh
phí Nhà nước hoặc được coi là kinh phí Nhà nước ( viện phí, phí…). Trong cơ chế tài chính
mới, các đơn vị sự nghiệp có thu ngoài nguồn kinh phí Nhà nước cấp còn được phép vay tín
dụng ngân hàng hoặc quỹ hỗ trợ phát triển để mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động, cung
ứng dich vụ và tự chịu trách nhiệm trả nợ vay theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, theo quy định hiện nay, các đơn vị hành chính sự nghiệp không được phép mở
tài khoản tại ngân hàng. Theo quy định mới, các đơn vị sự nghiệp có thu được chủ động sử
dụng số tiền gửi tại ngân hàng hoặc kho bạc để phản ánh các khoản thu chi của hoạt động sản
xuất, cung ứng dịch vụ. Các khoản kinh phí Ngân sách Nhà nước vẫn được phản ánh qua tài
khoản tại kho bạc.
Thứ ba, các đơn vị sự nghiệp có thu quản lý và sử dụng tài sản Nhà nước theo quy định
đối với đơn vị hành chính sự nghiệp. Với tài sản cố định dùng cho hoạt động sản xuất, cung ứng
dịch vụ được phép trích khấu hao thu hồi vốn theo chế độ áp dụng cho các doanh nghiệp Nhà
nước. Ngoài ra, số tiền trích khấu hao tài sản cố định và số tiền thu do thanh lý tài sản thuộc
nguồn Ngân sách Nhà nước thay cho việc phải nộp Nhà nước như hiện nay đơn vị được phép sử
dụng tại đơn vị để đầu tư tăng cường cơ sở vật chất, đổi mới trang thiết bị cho đơn vị.
Thứ tư, một điểm mới nữa trong cơ chế quản lý mới là đơn vị còn được chủ động trong
việc sử dụng số biên chế được cấp có thẩm quyền giao; sắp xếp và quản lý lao động phù hợp
với chức năng nhiệm vụ của đơn vị. Đơn vị được phép thực hiện chế độ hợp đồng lao động theo
quy định của Bộ Luật lao động phù hợp với khối lượng công việc và khả năng tài chính của
mình. Đồng thời, đơn vị hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ có trách nhiệm thực hiện các
nghĩa vụ đối với Ngân sách theo luật định.

Về các nguồn tài chính
Nguồn thu của đơn vị gồm:
* Nguồn Ngân sách Nhà nước cấp : giống như hiện nay, nguồn NSNN bao gồm các
khoản kinh phí thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học; kinh phí theo đơn đặt hàng của Nhà nước;
vốn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị; kinh phí cấp để thực hiện tinh giản


biên chế. Có sự thay đổi trong nguồn NSNN cấp là: Nhà nước chỉ cấp kinh phí hoạt động
thường xuyên đối với các đơn vị không tự đảm bảo toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên, các
đơn vị tự bảo đảm chi phí sẽ không nhận khoản kinh phí này.
* Nguồn tự thu của đơn vị: gồm phần để lại từ số phí, lệ phí thuộc Ngân sách Nhà nước
do đơn vị thu theo quy định. Mức thu, tỷ lệ nguồn thu để lại đơn vị sử dụng và nội dung chi
theo quy định của Nhà nước. Riêng với các khoản thu thu từ hoạt động sản xuất, cung ứng dịch
vụ: thủ trưởng đơn vị quyết định mức thu theo nguyên tắc bảo đảm bù đắp chi phí và có tích
luỹ.
* Nguồn khác: viện trợ, vốn vay tín dụng trong và ngoài nước…
Về chi
Nội dung chi của đơn vị gồm: Chi thường xuyên (chi cho con người lao động, chi quản
lý hành chính, chi nghiệp vụ chuyên môn, chi mua sắm và sửa chữa TSCĐ. Một khoản chi nữa
được coi như chi thường xuyên là chi cho hoạt động sản xuất và cung ứng dịch vụ); chi thực
hiện đề tài nghiên cứu; Chi tinh giản biên chế; Chi đầu tư phát triển; Các khoản chi khác.
Những điểm mới trong quy định về khai thác và sử dụng các nguồn tài chính là:
Thứ nhất, về định mức chi quản lý hành chính. Theo quy định cũ định mức chi cho quản
lý hành chính (công tác phí, hội nghị phí, điện thoại…) và chi nghiệp vụ thường xuyên phải
tuân thủ nghiêm ngặt theo định mức do Nhà nước quy định bất kể tính thực tế cũng như hiệu
quả của công việc. Điều này đã không khuyến khích người thực hiện đồng thời cũng gây lãng
phí, kém hiệu quả. Theo cơ chế mới, định mức chi này do chính thủ trưởng đơn vị quyết định
căn cứ vào nội dung và hiệu quả công việc. Định mức này có thể cao hơn nhưng cũng có thể
thấp hơn mức chi do Nhà nước quy định.
Thứ hai, đổi mới trong việc chi trả lương cho người lao động. Nhà nước khuyến khích

đơn vị tăng thu, tiết kiệm chi, thực hiện tinh giản biên chế tạo điều kiện tăng thu nhập cho người
lao động trên cơ sở hoàn thành nhiệm vụ được giao và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với
NSNN. Căn cứ vào kết quả hoạt động tài chính của đơn vị mà thủ trưởng đơn vị xác định quỹ
lương, tiền công của hoạt động đơn vị. Trong phạm vi quỹ lương này, sau khi thống nhất với tổ
chức Công đoàn và công khai trong đơn vị, thủ trưởng đơn vị quyết định việc chi trả lương theo
chất lượng và hiệu quả công việc trên nguyên tắc người nào, bộ phận nào có thành tích, có đóng
góp làm tăng thu, tiết kiệm chi, có hiệu suất công tác cao thì được hưởng cao hơn. Tiền lương
cho mỗi cá nhân ngoài mức lương tối thiểu, hệ số lương cấp bậc, hệ số phụ cấp như hiện nay
còn được hưởng mức điều chỉnh tăng thêm cho mỗi cá nhân từ 1- 3,5 lần mức lương tối thiểu.
Về trích lập quỹ
Hàng năm ngoài việc trích lập quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi như hiện nay đơn vị phải
trích lập thêm quỹ dự phòng ổn định thu nhập và quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp. Sau khi


thống nhất với tổ chức Công đoàn, thủ trưởng đơn vị quyết định việc trích lập các quỹ theo
trình tự sau:
Quỹ dự phòng ổn định thu nhập : để đảm bảo thu nhập cho người lao động trong trường
hợp nguồn thu bị giảm sút.
Quỹ khen thưởng: dùng để khen thưởng định kỳ hay đột xuất cho tập thể, cá nhân theo
kết quả công tác và có thành tích đóng góp.
Quỹ phúc lợi: dùng cho các nội dung phúc lợi.
Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp: dùng để đầu tư, phát triển nâng cao hoạt động sự
nghiệp, bổ sung vốn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm máy móc thiết bị,…

PHẦN III : MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ TÀI CHÍNH
TẠI BỆNH VIỆN CÔNG VIỆT NAM
1. Giải pháp khai thác nguồn tài chính
1.1Tăng cường nguồn NSNN
Mặc dù kinh phí thường xuyên là do NSNN cấp hàng năm tăng chậm và ngày càng có tỷ
trọng giảm trong tổng nguồn kinh phí của Bệnh viện song đây là nguồn kinh phí tương đối ổn

định. Có thể nói nguồn NSNN hiện vẫn là nguồn kinh phí chủ đạo cho các bệnh viện công. Bởi
ngoài kinh phí thường xuyên, NSNN còn đầu tư với khối lượng lớn cho Bệnh viện dưới các Dự
án đầu tư XDCB và các chương trình mục tiêu quốc gia.
1.2.Tăng cường huy động sự đóng góp của nhân dân
Đóng góp của Nhân dân thể hiện dưới hình thức viện phí và BHYT. Đây hiện đang là
nguồn chủ yếu bổ sung kinh phí cho hoạt động chuyên môn của Bệnh viện. Trong những năm
qua, nguồn thu này có tốc độ tăng trưởng mạnh. Bệnh viện cần duy trì tốc độ tăng trưởng này.
Hiện nay Bệnh viện vẫn còn để thất thoát trong quá trình thu viện phí.Vấn đề đặt ra là cần thu
đúng, thu đủ. Đây là điều kiện thiết yếu và là yếu tố để tăng nguồn vốn quan trọng này nhưng
vẫn đảm bảo được công bằng y tế. Đó là:
Thu đúng theo quy định của Nhà nước. Thực hiện thu từng mục đặc biệt là thuốc và
chuẩn đoán hình ảnh, xét nghiệm. Riêng đối với giá chi phí cho hình thức tự nguyện cần hạch
toán đủ trong phẫu thuật, xét nghiệm và chuẩn đoán hình ảnh.
Thu đủ: ngoài việc thu đúng theo quy định của Nhà nước, Bệnh viện cần thu phí có chọn
lọc theo khuyến cáo của World Bank: thu đủ những ai có khả năng đóng góp và miễn giảm cho


những ai ít có khả năng đóng góp. Thu đủ còn bao gồm việc thu vào kinh phí bệnh viện chứ
không phải thu vào túi của một số cá nhân.
2. Giải pháp sử dụng nguồn tài chính của Bệnh viện
2.1.Xây dựng hệ thống định mức, tiêu chuẩn chế độ chi tiêu nội bộ hợp lý
Định mức chi NSNN không những là căn cứ để lập kế hoạch mà còn là cơ sở để tiến
hành công tác kiểm tra kiểm sát công tác tài chính kế toán. Mỗi ngân sách chi của Bệnh viện
cần phải có tiêu chuẩn thích hợp nhằm đảm bảo tính hiệu quả tránh lãng phí . Khi xây dựng
định mức tiêu chuẩn trong nội bộ cần đảm bảo những nguyên tắc sau:
Thứ nhất, quy chế chi tiêu nội bộ phải đảm bảo cho Bệnh viện hoàn thành nhiệm vụ
chính trị, thực hiện hoạt động thường xuyên phù hợp với tính đặc thù trong lĩnh vực y tế nhưng
vẫn đảm bảo sử dụng kinh phí có hiệu quả và tăng cường công tác quản lý tài chính.
Thứ hai, quy chế chi tiêu nội bộ được công khai thảo luận trong Bệnh viện, có ý kiến của
tổ chức công đoàn. Nguyên tắc xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ là ưu tiên chi nghiệp vụ để

đảm bảo chất lượng chuyên môn. Tăng thu, tiết kiệm chi hành chính và tổ chức, phân công lao
động cho hợp lý và có hiệu quả.
2.2. Thực hiện khoán quản tại một số viện, khoa trong Bệnh viện
Thực hiện khoán quản có nghĩa là Bệnh viện chỉ khoán về kế hoạch còn toàn bộ nguồn
tài chính vẫn do Bệnh viện thu và quản lý. Bệnh viện giao cho các Khoa, phòng nhận khoán
một mức khoán. Nếu vượt qua ngưỡng khoán đó thì đơn vị nhận khoán được thưởng theo mức
trong khung quy định của Nhà nước.
Việc xác định mức khoán kế hoach dựa trên số kinh phí mà Bệnh viện chi cho bộ phận
này. Làm tốt công tác khoán sẽ giúp cho Bệnh viện giảm sức ép quản lý theo chiều rộng, tập
trung nguồn lực quản lý theo chiều sâu. Đồng thời vẫn đảm bảo cho việc quản lý có hiệu quả
nguồn kinh phí nhất là tránh thất thoát các nguồn thu. Đối với các đơn vị nhận khoán bắt buộc
phải có kế hoạch tăng thu tiết kiệm các khoản chi.
2.3. Tăng cường cơ sở vật chất, đưa tiến bộ tin học ứng dụng vào công tác quản lý
tài chính
Để đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ được giao, việc tăng cường cơ sở vật chất, hiện đại
hóa trang thiết bị làm việc đưa vào ứng dụng tin học vào trong quản lý tài chính nhằm nâng cao
chất lượng quản lý là việc làm hết sức có ý nghĩa.


2.4. Xây dựng đội ngũ cán bộ tài chính kế toán chuyên trách có tinh thần trách nhiệm, có
nghiệp vụ cao
Việc xây dựng đội ngũ cán bộ Tài chính chuyên trách, có tinh thần trách nhiệm, có
nghiệp vụ Tài chính kế toán cần được xem như một khâu then chốt trong việc hoàn thiện quản
lý Tài chính. Để thực hiện giải pháp này cần từng bước thực hiện các bước sau:
Rà soát đánh giá lại toàn bộ bộ máy quản lý Tài chính kinh tế về năng lực, trình độ, phẩm
chất đạo đức. Trên cơ sở đó tiến hành sắp xếp lại tổ chức, kiện toàn lại toàn bộ bộ máy quản lý
Tài chính theo hướng tinh gọn, chuyên trách, hoạt động có hiệu quả.
Tăng cường công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ bằng nhiều hình thức
Cán bộ làm công tác tài chính kế toán phải là những cán bộ trung thực, phải có nghiệp vụ
chuyên môn giỏi. Do đó, việc đào tạo bồi dưỡng cán bộ phải toàn diện cả về lý luận chính trị,

phẩm chất đạo đức trình độ chuyên môn và năng lực thực tiễn.

KẾT LUẬN
Ngày nay, mối quan hệ người bệnh với bệnh viện là mối quan hệ giữa người cung cấp
dịch vụ và người trả giá cho những dịch vụ đó. Thêm nữa những bệnh viện công nói chung
không còn “độc quyền” như trước mà bên cạnh đó còn những hệ thống dịch vụ y tế tư nhân
được phép tự do hoạt động theo luật hành nghề y dược. Do đó, quản lý tài chính bệnh viện
công là chìa khoá quyết định sự thành bại của bệnh viện; quản lý tài chính bệnh viện quyết
định sự tụt hậu hay phát triển của bệnh viện.

Tài liệu tham khảo
1. Bài giảng kê toán công của PGS.TS Mai Thị Hoàng Mình và Ths Phạm Quang Huy
2. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2002), Luật Ngân sách Nhà
nước số 01/2002/QH11 ngày 16/12/2002, Hà Nội.
3. Các văn bản pháp luật liên quan
4. Tài chính bệnh viện ở Việt Nam và những vấn đề cần quan
tâm (dự thảo) (22/10/2010)


5. Tự chủ bệnh viện ở Việt Nam mang lại thay đổi tích
cực và thách thức mới



×