Tải bản đầy đủ (.docx) (50 trang)

tiểu luận ĐỀ TÀI CÂY KIWI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 50 trang )

Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Khoa: Sinh học
Lớp: 11shh

ĐỀ TÀI

CÂY KIWI

GVHD

: TS.Dương Công Kiên

Sinh viên

: Đoàn Thị Lành 1115268
Nguyễn Thị Lan Kha 1115242


CÂY KIWI

2

I. Tổng quan:
I.1.

Mục đích đề tài:

Tìm hiểu về cây Kiwi - một loại cây trồng còn khá mới mẻ ở Việt Nam.
Từ đó có một cái nhìn khái quát hơn về lịch sử, nguồn gốc cây Kiwi. Qua đề
tài: “Cây Kiwi” này, cũng giúp nắm rõ các phương pháp nhân giống cây trồng
cũng như kỹ thuật trồng Kiwi trên thế giới, từ đó rút ra được những lưu ý cũng


như học tập các kinh nghiệm để ứng dụng vào thực tế trồng trọt tại Việt Nam.
Đồng thừi cũng cung cấp những thông tin quan trọng về các giá trị to lớn mà
cây Kiwi mang lại không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà đặc biệt quan trọng hơn
là ở giá trị dinh dưỡng trong y học và thực phẩm.
I.2.

Phân bố địa lí:

Hai phần ba tổng sản lượng thế giới của quả Kiwi vào thị trường toàn cầu
và tương đối chiếm vài đối thủ chính cho phần lớn nền thương mại quốc tế
trong quả Kiwi. OECD các nước thành viên chiếm gần 85 phần trăm của nhập
khẩu thế giới của Kiwi năm 2004 (Belrose Inc 2006) và xuất khẩu trên thế giới
hiện đang bị chi phối bởi Ý (35 phần trăm), New Zealand (32 phần trăm) và
Chile (15 phần trăm) (HortResearch 2005).
Mười quốc gia sản xuất quả Kiwi Top 2003 – 2005
China New
Italy
zealand
23%

20%

Chile

28% 10%

Sounth Japan USA
Korea

France


Greece Iran

Oth
ers

1%

5%

1%

4%

3%

2%

3%


CÂY KIWI

3

Ở New Zealand, Kiwi được trồng ở nhiều huyện trên đảo phía bắc và
trong khu vực Nelson trên đảo Nam. Các vùng trồng nhiều Kiwi ở New
Zealand:

Bên cạnh đó Kiwi được trồng tại California từ năm 1935 và hiện được

trồng khá rộng rải tại Tây ban Nha, Y, Hy lạp, Ấn Độ, Việt Nam,… Và dĩ nhiên
là Trung Hoa. Tân tây lan hiện cung cấp 68% sản lượng thế giới, khoản 300
ngàn tấn mỗi năm(1990) phần còn lại là Hoa Kỳ 12%, Nhật 6%, Pháp 6%.
Trong khi đó thị trường tiêu thụ cao nhất là Đức 24%, Nhật 25%, Tây Âu 16%,
và Mỹ 12%.
I.1.

Giới thiệu cây trồng:

Dương đào có nguồn gốc từ Trung Hoa, sống hoang dại tại vùng thung
lũng sông Dương tử và là một loại cây leo mọc theo giàn, do đó mới có tên
đằng lê (đằng là giây leo rậm-rạp quấn quít). Lá rất đẹp có thể lớn khoản 10cm
màu xanh đậm ở mặt trên, màu nhung hoặc trắng nhạt ở mặt dưới với nhiều
lông tơ. Cây thường trổ hoa vào tháng 5, hoa màu vàng mọc ở kẻ lá khoảng 2.5
- 4cm. Quả lớn cỡ trứng gà, vỏ màu nâu đầy lông tơ, phần thịt màu xanh có vị
ngon, ngọt. Quả thường được hái khi còn xanh chưa chín, cứng và chát . Quả
được giữ ở nhiệt độ bình thường để chờ trước khi đưa ra thị trường.


CÂY KIWI

4

Cây Dương đào được du nhập vào Tân-tây-lan vào năm 1904 do một du
khách đi thăm vùng Dương Tử, nhận thấy người Trung Hoa thích ăn một loại
trái đào xanh gọi là Mi hầu đào hay đào của khỉ. Du khách này đã đem hạt trái
Kiwi về cho ông Alexander Allison, một chủ nhà vườn tại vùng Bắc đảo Tântây-lan. Sau suốt 30 năm tìm đủ cách để lai tạo và đã đạt được kết quả rất tốt
đẹp.
Mãi đến năm 1952 do một sự tình cờ mà quả Kiwi nhập được vào thị
trường Anh Quốc : trong một chuyến chở chanh xuất cảng sang Anh, viên chủ

tàu có chở thêm 10 thùng Kiwi. Nhưng vì gặp phải cuộc đình công kéo dài hơn
1 tháng nên chanh bị hư hại, trong khi đó Kiwi còn nguyên và người tiêu thụ
thấy trái này ngon ngọt không kém gì sự pha trộn của chuối, dâu và dứa .
I.2.

Thành phần hóa học của trái cây Kiwi:

Nước
Chất béo
Calori
Potassium
Chất sắt
Calcium

83.9g
0
36 Kcal
270 mg
0.31 mg
20 mg

Chất đạm
Chất bột
Vitamin C
Vitamin A
Vitamin B1
Magnesium

1.02g
0.02g

57mg
133IU
0.30mg
23 mg


CÂY KIWI

5

1. Acid và đường:
Acid và đường trong kiwi được nghiên cứu bởi Heatherbell (1975). Sau
quá trình tinh sạch bằng cách kết tủa muối chì và trao đổi ion, những loại
đường và acid được xác định nồng độ bằng sắc ký khí lỏng với dẫn xuất là
trimetylsilyl. Kết quả của Heatherbell thì thấp hơn những báo cáo khác bởi vì
có sự khác nhau về độ chín và phương pháp phân tích. Matsumoto et al.(1983)
đã báo cáo sự thay đổi của các loại đường trong suốt quá trình chin của trái
Kiwi
Những loại đường chủ đạo trong Kiwi là Fructose, glucose và sucrose.
Acid citric, quinic, và malic là những acid chính có trong Kiwi. Acid
phosphoric, ascorbic, gluconic và galacturonic, oxalic, succinic, furmaric,
oxaloacetic, và P-coumaric cũng xuất hiện với một lượng nhỏ. Heatherbell
cũng đã nói rằng có 69 mg acid ascorbic / 100g Kiwi được xác định bằng
phương pháp sắc ký khí lỏng tương đương với 130 mg/ 100g bằng phương
pháp chuẩn độ bằng 2,6 diclorophenolindophenol. Những mùa khác nhau sẽ
thay đổi hàm lượng của ascorbic và dehydroascorbic acid trong trái Kiwi.
Bảng 4.2: phương pháp phân tích hàm lượng đường bằng HPLC trong trái
kiwi chín

Treatment


Sugar
Fructose
Ethylen
Glucose
5ppm at Sucrose
200C
Total
Control

Fructose
Glucose
Sucrose
Total

Initial
2.77
2.67
0.47
5.91
Initial
2.77
2.67
0.47
5.91

1
2.69
2.69
1.79

7.17
1
2.77
2.70
0.85
6.32

Days
2
3.47
3.61
2.22
9.30
3
2.93
2.78
0.84
6.55

3
4.15
4.15
1.72
10.57
6
3.09
3.05
0.72
6.86


4
4.47
4.60
1.50
10.57
9
3.17
3.34
0.80
7.31

5
4.88
5.00
1.19
11.07
12
3.64
3.80
0.81
8.25

20
4.12
4.30
1.05
9.47


CÂY KIWI


6

2. Cholorophyll và Pectin:
Robertson và Swinburne (1981) đã nghiên cứu sự thay đổi cholophyll và
pectin trong bảo quản và đóng hộp. Kiwi được thu hoạch và bảo quản ở 0 0C.
Sau 92 ngày được bảo quản, trái cây sẽ được làm chin đến 13 0Brix bằng cách
giữ ở 250C và được đóng hộp dưới dạng những lát nhỏ trong dung dịch syrup
đường. Có một sự thay đổi về lượng của chlorophyll và tác nhân pectin sau
bảo quản và đóng hộp. những nồng độ của chlorophyll tổng vẫn còn hầu như
không đổi trong suốt quá trình bảo quản và làm chin. Matsumoto (1993) cũng
không nhận thấy sự thay đổi đặc biệt của chlorophyll trong suốt quá trình chin
sau thu hoạch của trái kiwi. Trong suốt quá trình đóng hộp khoảng 90%
chlorophyll bị giảm từ phản ứng đầu tiên. Tổng hàm lượng pectin tăng lên vượt
qua 100% trong suốt quá trình bảo quản lạnh, nhưng lại giảm một cách đáng kể
trong quá trình đóng hộp.
3. Enzyme protease:
Một loại enzyme thủy phân protein ( actinidin) có trong trái kiwi được cho
rằng là chứa đựng nhóm sulfhydryl cần thiết đến cho enzyme hoạt động
(MeDowall,1970). Khối lượng phân tử enzyme là 12800 ± 700 được ước tính
bởi sắc ký lọc gel trên cột Sephadex G-50. Carne và Moore (1978) nghiên cứu
chuỗi amino acid của những peptide có chứa trypsin trong enzyme. Họ đã báo
cáo rằng có 12 peptide thuộc về trypsin cái mà với một chuỗi polypeptide với
220 acid amin với khối lượng phân tử khoảng 23500. Một cách bất bình
thường, khối lượng phân tử cho thấy những loại protease khác nhau được tìm
thấy bởi Voordouw et al.(1974) bằng sắc ký lọc gel. Cái lý do cho khối lượng
phân tử thấp vẫn chưa được tìm hiểu kỹ, họ đề nghị rằng sự thận trọng khi dùng
phương pháp sắc ký lọc gel riêng cho những tính chất của protease với khía
cạnh xác định khối lượng phân tử của họ. MeDowall (1970) đã thông báo rằng
enzyme thủy phân protein tương tự như papain trong phản ứng với benzoylarginince ethyl ester.

I.3.

Đặc tính và phân loại thực vật:
 Lá : Thuộc nhóm lá rụng, xanh lá cây.Lá lớn và rộng (12 – 20cm), mọc xen,
bầu dục hình trái tim, bìa lá có răng và gân lá lộ rõ. Những lá non được bao
phủ bởi một lớp lông đỏ, những lá giàu màu xanh đậm, lá lông ở mặt trên,
mặt dưới trắng lông dày đặc.


CÂY KIWI

7

 Hoa: Hoa nhỏ ( 2,5 đến 5 cm đường kính), trước hết màu trắng, kể màu
vàng. Vành hoa 5 hay 6 hoa và hợp thành nhóm 3 trên thân ở nách lá. Hoa
thơm và không mật hoa. Hoa trổ vào khoảng tháng 6.
 Hoa đực: cánh hoa màu trắng kem, nhụy hoa vàng nhỏ hơn, tụ
thành nhóm cyme 3 trên thân ở nách lá.
 Hoa cái: 3 – 4 cm, mọc đơn độc ở nách lá, nhụy hoa ngắn, phấn hoa
vô tính không thụ.
 Thụ phấn: thông thường những hoa phát tán phấn hoa nhờ những côn trùng
như những loài ong nhưng trong sự canh tác quy mô, người ta chủ động
trong sự thụ phấn, được thực hiện do người thực hiện (nhân môi). Phấn hoa
của những hoa đực được thu hoạch và sự thụ phấn trên cây cái bằng
phương pháp phun sương hạt phấn.
 Trái: hình bầu dục khoảng 6 cm dài. Lớp da nâu mỏng được bao phủ bởi
lớp lông dày đặc. Nạc Kiwi xanh nhạt với trung tâm có khoảng 1000 đến
1200 hạt nhỏ, màu trắng, hiện diện những dòng tia trăng trắng. Hương vị
chua ngọt.


Cây Kiwi thích hợp với đất xốp, thông thoáng nước và có độ pH từ 5.0
đến 6.5. Tùy giống lai tạo, có loại cần phải có mùa đông để ở vào giai đoạn
“mien trạng” cần thiết cho sự phát triển.
 Những loại Kiwi được chú ý:
• Actinidia Arguta (Kiwi cứng) : Loại này có lưỡng tính nên cần có cây
đực và cây cái đẻ có thể thụ phấn, trái nhỏ màu xanh, cây có thể thu
hoạch sau 3 năm. Còn có thêm vài giống phụ như Ananas naja hay đào
Mãn Châu ( Anna Kiwi), Hood river. Riêng loại hiếm là Issai có thể tự
thụ phấn và cho quả không có hạt.
• Actinidia chinensis hay Deliciosa : đây là loại nguyên thủy với các loại
phụ nổi tiếng như Hayward, Chico, Vincent và Tomuri.
• Actinidia Kolomikta loại này lớn rất nhanh có thể cao đến 4-m với nhiều
lá màu sắc rất đẹp khác nhau từ xanh tới trắng, trắng, sọc xanh và hoa rất
đẹp nên thường được gọi là Arctic Beauty.


CÂY KIWI

8

Tuy nhiên có rất nhiều loại khác trên thế giới: Bảng các loại Kiwi trên thế giới

II. Tính chất phân
II.1.

Cườn

loại:
g độ hô hấp


Để biểu thị cho khả năng hô hấp của rau trái theo thời gian, ta xác định lượng
không khí CO2 (ml/mg) sinh ra trong thời gian một giờ của 1 kg trái tươi. Dựa
vào cường độ hô hấp có thể xác định thời điểm thu hoạch rau trái và trái coa đỉnh
hô hấp thường có thời gian bảo quản lâu vì có thời gian ngủ. Kiwi có cường độ hô
hấp là 6 mg CO2/kg.h tại 50C, caj vào bảng phân loại rau trái theo cường độ hô
hấp và biểu đồ ( hình) ta thấy kiwi có cường độ hô hấp thấp và thuốc nhóm trái có
đỉnh hô hấp.
.


CÂY KIWI

9

Hình 2.1: Biểu đồ hô hấp (CO2 và Ethylene) của kiwi ở 0oC và 20oC
II.2.
Tăng trưởng và chín sinh lý
Sự phát triển của trái cây và hạt giống trồng cây Kiwi sau khi ra hoa đã nghiên
cứu bởi Hopping. Các đường cong tăng trưởng được đo bằng sự gia tăng trọng
lượng tươi với các thừi gian trong ngày sau khi ra hoa được thể hiện trong hình 1
A. Sự tăng trưởng có thể được phân chia thành 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1: (0 – 58 ngày sau khi ra hoa)
Giai đoạn 2: (58 – 76 ngày sau khi ra hoa)
Giai đoạn 3: ( 76 – 160 ngày sau khi ra hoa).
Không có sự phân chia tương đối với cân nặng trái khô. Trái cây tăng trưởng
trong giai đoạn 1 ban đầu là do sự phân chia tế bào ở lớp vỏ bên ngoài, bên trong
và ở trong lõi trung tâm. Phân chia tế bào ở vỏ ngoài và bên trong sẽ chấm dứt
tương ứng tại ngày thứ 23 và 33. Nhưng tiếp tục phát triển vào trung tâm lõi cho
đến 110 ngày sau khi ra hoa. Sự phân chia tế bào ngay lập tức mỡ rộng ra cả 3



CÂY KIWI

10

mô ngay sau khi ra hoa cho đến khi bắt đầu giai đoạn 2. Có thể thấy các hoạt
động gần như phát triển ngay lập tức sau khi thụ phấn và phát triển cho tới 80
ngày. Trong khi đó các nhân đang đạt đến kích thước tối đa và dần thay thế cho
nội nhũ và lớp nội mạc. Khoảng 60 ngày sau khi ra hoa 2 phôi bào tiếp tục phân
chia sau đó tiếp tục phát triển kích thước cuối cùng của nó tại 110 ngày.
Wright và Heatherbell (1967) đã nghiên cứu tỷ lệ hô hấp và sự thay đổi hóa lý
của Kiwi thu hoạch ở các giai đoạn khác nhau và được lưu trữ ở nhiệt độ khác
nhau từ 0 đến 250C. Họ kết luận rằng Kiwi là nonclimacteric. Ngược lại, Pratt và
Rid(1974) báo cáo rằng Kiwi sẽ được Climateric vì mỗi quả sau khi thu hoạch cho
thấy sự gia tăng về đường hô hấp cuối cùng, kèm theo làm mềm trái, phát triển
các hương thơm, và tạo ra khí ethylene đối với từng loại trái. 26 loại trái sinh ra
khí ethylene sớm hơn 1 tuần so với đường hô hấp.
III.

Kỹ thuật nhân giống:

III.1.

Nhân giống hữu tính:

1. Gieo hạt:
Đây là hình thức nhân giống tương đối phổ biến. Dùng hạt của trái Kiwi để
gieo trồng.
Ưu điểm:
Nhân giống nhanh, số lượng nhiều, hệ số nhân giống cao, có thể tạo giống mới

từ phương pháp nhân giống này bằng khi lai tạo.
Nhược điểm :
Do thụ phấn tự do trong tự nhiên nên dễ lẫn giống, cây con không đồng đều,
năng suất thấp, hạt hoa thường nhỏ, không hoàn chỉnh nên tỷ lệ nảy mầm thấp.
Nhân giống bằng gieo hạt ngoài áp dụng đối với một số cây hoa còn đừng để
tạo cây gốc ghép từ cây thực sinh với bộ rễ khoé, sinh trưởng mạnh. Mặt khác
tuổi sinh lý của gốc ghép trẻ do vậy tuổi thọ của cây dài.

III.2.

Nhân giống Vô tính:


CÂY KIWI

11

Cây kiwi có thể được nhân giống bằng cách ghép cây giống hoặc bằng
cách cắt rễ. Cả hai phương pháp đều có thể được sử dụng cho cây giống và cây
trồng. Cả hai loại này đều có thể trồng phát triển tốt trên các vườn ươm hoặc
các chậu chứa cây. Các cây kiwi được phát triển đến kích thước lớn nhất trong
các vườn ươm và được chuyển vào trồng trong các vườn Kiwi vào mùa đông.
Các chậu chứa cây được bám ở độ cao trung bình đến cao và có thể chuyển vào
vườn Kiwi bất cứ thời gian nào trong năm.
1. Kỹ thuật giâm cành:
o Đầu tiên cho giá thể vào khay: giá thể được làm từ đá
o Kéo cắt cành được sát khuẩn bằng dung dịch khử trùng sau đó rửa kéo
bằng nước sạch.
o Trước khi giâm ngâm cành trong nước sau đó cắt cành trong nước để
không khí không thể vào mao mạch thì nước mới có thể vào được mao

mạch tốt.
o Trước khi giâm dùng đầu cành nhúng vào chất kích thích ra rễ khoảng 1
cm.
o Chọn cành giâm: chọn cành không già quá, không non quá. Sau khi
giâm xong để khay giâm vào chỗ mát không để nắng trực tiếp chiếu vào
cây.Khoảng 1 tháng sau giâm cành cây ra rễ, cứ 2 h tươi phun mưa một
lần, khi đánh cây đi trồng không để rễ mọc quá dài.

Ưu điểm của phương pháp:
o
o
o
o

Giữ được đặc tính di truyền của cây mẹ
Tạo ra cây giống sau trồng sớm ra hoa kết quả.
Thời gian nhân giống nhanh.
Có thể nhân nhiều giống mới từ một nguồn vật liệu giới hạn ban
đầu.

Nhược điểm của phương pháp:
Sử dụng phương pháp đòi hỏi phải có những trang thiết bị cần thiết để
có thể khống chế được điều kiện nhiệt độ, ẩm độ và ánh sáng trong nhà
giâm.
2. Cây cấy ghép:


CÂY KIWI

12


Hạt giống trồng có thể được lấy từ trái Kiwi chín bất kỳ. Các hạt giống
sau khi được tách ra sẽ được sấy khô để lưu trữ. Khi cần thiết các tờ giấy được
bọc trong tờ giấy ướt, bọc trong túi nhựa và đạt trong tủ lạnh 3 tuần để chuẩn bị
cho quá trình nảy mầm. Tiếp theo chúng được gieo trồng trong đất tiệt trùng và
sẽ nảy mầm trong 3 tuần ở nhiệt độ 18 -24 0C sau đó có thể được cấy vào chậu
cao 8 – 10cm ở nhiệt độ 16 – 24 0C . Những cây Kiwi có thể cao được đến
35cm với khoảng cách 1m tại các vườm ươm.
Cây giống được chăm sóc phát triển bình thường 1 mùa trước khi đưa vào
cấy ghép như mong muốn. Cây non 1 năm tuổi có thể được cấy ghép với những
nhánh gỗ được cắt vào tháng 1, hoặc tháng 4,5. Sau khi cấy ghép cây non sẽ
được chăm sóc phát triển đến tháng 12 sau đó được đưa vào trồng trong các
vườn cây Kiwi.
Ưu điểm của phương pháp:
o Cây cấy ghép sinh trưởng tốt nhờ sự phát triển, hoạt động tốt của
bộ rễ gốc ghép và khả năng thích ngi với điều kiện khí hậu, đất
đai của cây gốc ghép.
o Cây ghép giữ được các đặc tính của giống muốn nhân.
o Hệ số nhân giống cao, trong thời gian ngắn có thể sản xuất được
nhiều cây giống đáp ứng yêu cầu của sản xuất.
o Giống làm gốc ghép sớm cho ra hoa kết quả vì mắt ghép chỉ tiếp
tục giai đoạn phát dục của cây mẹ.
o Tăng cường khả năng chống chịu của cây với điều kiện bất thuận
như: chịu hạn, chịu úng, chịu rét và sâu bệnh.
o Thông qua gốc ghép có thể điều tiết được sự sinh trưởng của cây
ghép.
o Có khả năng phục hồi sinh trưởng của cây, duy trì giống quý
thông qua các phương pháp ghép như: Ghép nối đầu hay ghép tiếp
rễ.
Nhược điểm của phương pháp:

Cây ghép dễ bị nhiễm bệnh nếu không chú ý chọn mắt ghép, gốc ghép
sạch bệnh. Đòi hỏi cán bộ nhân giống phải có trình độ, có tay nghề thành thạo.
Phải có các dụng cụ chuyên môn: dao ghép, kéo cắt cành, dây nilon… Lấy
mắt ghép liên tục nhiều đời của một giống để ghép có thể dẫn đến hiện tượng
thoái hoá giống.


CÂY KIWI

13

3. Cây cắt rễ:
Vào giữa hè, rễ cây được cắt để chuẩn bị cho nhân giống có đường kính
khoảng từ 1 – 3 cm, mỗi 1 vết cắt từ 2 – 3 đốt rễ dài từ 13 – 20 cm. Sau khi kết
thúc việc cắt rễ, chúng được ngâm trong các dung dịch indolebutyric acid 4000
– 8000ppm, hoặc trong dung dịch 4% naphtalen acetid…
III.3.

Nuôi cấy mô

Ưu điểm :
Cây được sản xuất từ nuôi cấy mô tế bào là sạch bệnh, cây sinh trưởng, phát
triển khoẻ, độ đồng đều cao, hệ số nhân giống cao so với các phương pháp
nhân giống khác.
Nhược điểm:
Phải đầu tư các phương tiên kỹ thuật, hoá chất. Giá thành cây con giống cao,
khó áp dụng.
Nhân giống bằng nuôi cấy mô tế bào là phương pháp nhân giống vô tính
tiên tiến nhất hiện nay. Bộ phận để nhân giống có thể là ngọn cây, ngọn cành,
nhánh một phần của lá, hoa, rễ cây

Sau đây là một nghiên cứu hình thành mô sẹo từ lá và tế bào đơn cây kiwi
(Actinidia deliciosa).
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm khảo sát quá trình tạo mô sẹo và
ảnh hưởng của chất điều hòa sinh trưởng, pH môi trường, nồng độ đường và
thể tích môi trường đến việc nuôi cấy tế bào đơn cây Kiwi in vitro. Kết quả
nghiên cứu cho thấy, các mẫu lá cây Kiwi in vitro có kích thước 1×1 cm cho
khối lượng tươi và khối lượng khô mô sẹo tốt nhất khi nuôi cấy trên môi trường
MS có bổ sung 0,8 mg/l 2,4-D, mẫu lá đặt úp cho khối lượng tươi (0,99 g/bình)
và khối lượng khô (0,067 g/bình) mô sẹo tạo thành nhiều hơn so với mẫu lá đặt
ngửa tương ứng là 0,82 g/bình và 0,055 g/bình. Số tế bào đơn thu được cao
nhất là 342 tế bào/µl sau 16 ngày nuôi cấy; 0,8 g mô sẹo trong 20 ml môi
trường MS lỏng có bổ sung 0,6 mg/l 2,4-D; 60 g/l sucrose và pH môi trường là
6,1. Nghiên cứu này sẽ là tiền đề cho các nghiên cứu về tế bào đơn kiwi sau
này


CÂY KIWI

14

Nuôi cấy tế bào đơn hay huyền phù tế bào là phương pháp nuôi cấy
thường được sử dụng ở nhiều loài thực vật nhằm thu nhận các hợp chất thứ cấp
nói chung và alkaloid nói riêng . Bên cạnh đó, việc nuôi cấy tế bào đơn còn
được sử dụng với nhiều mục đích khác nhau bởi những thuận lợi như: điều kiện
nuôi cấy có thể được kiểm soát, từ đó có thể tối ưu cho việc sản xuất các sản
phẩm trao đổi chất thứ cấp; tế bào có thể được chọn lọc và cải thiện bằng cách
nhân dòng, gây đột biến hoặc biệt hóa bằng phương pháp hóa học hoặc sinh học;
có thể dễ dàng nghiên cứu chuyển hóa các chất trong tế bào và cơ chế của sản
phẩm trao đổi chất thứ cấp. Hiện nay, đã có nhiều công bố nghiên cứu về nuôi
cấy tế bào đơn ở nhiều loài thực vật khác nhau.Teng (1997) đã tái sinh thành

công cây Lan ổ rồng (Platycerium bifurcatum) từ huyền phù tế bào lá. Nistri &
Somporn (2009) đã tái sinh thành công cây Vetiveria zizanioides L. từ huyền
phù tế bào thông qua mô sẹo từ nuôi cấy phát hoa.
Tại Việt Nam, những vùng có khí hậu ôn hòa như Đà Lạt, Sa Pa có thể
thích hợp để trồng loại cây này. Tuy nhiên, ở Việt Nam loài cây có giá trị này
chưa được trồng phổ biến mà chủ yếu được nhập khẩu nên giá bán trên thị
trường rất cao, cũng vì vậy, ở Việt Nam còn ít người biết đến loại quả này. Với
mong muốn kiwi trở nên phổ biến ở Việt Nam cũng như giảm giá thành, chúng
tôi tiến hành nhân giống cây Kiwi bằng phương pháp vô tính nhằm tạo ra số
lượng lớn giống cây này phục vụ cho việc trồng thử ở Việt Nam. Tuy nhiên, các
nghiên cứu hiện nay mới chỉ dừng lại ở nhân giống cây Kiwi từ nuôi cấy đỉnh
sinh trưởng, nuôi cấy chồi bên của thân non hay các lá non, gieo từ hạt... mà
chưa có nghiên cứu nào thực hiện trong việc nhân giống cây Kiwi từ nuôi cấy tế
bào đơn, một phương pháp nhân giống cho hệ số nhân cao. Tiến hành khảo sát
ảnh hưởng của một số yếu tố lên khả năng tạo mô sẹo từ mẫu lá và quá trình
nuôi cấy tế bào đơn cây Kiwi in vitro nhằm tìm ra một số điều kiện thích hợp
cho quá trình nuôi cấy tế bào đơn cũng như tạo tiền đề cho các nghiên cứu tiếp
theo trên đối tượng này.
 Vật liệu và phương pháp:
o Vật liệu:
Nguồn mẫu ban đầu là các cây Kiwi (Actinidia deliciosa) in vitro 8 tuần
tuổi có tại phòng Sinh học Phân tử và Chọn tạo giống cây trồng, Viện Sinh học
Tây Nguyên.
o Môi trường nuôi cấy:


CÂY KIWI

15


Môi trường nuôi cấy được sử dụng trong nghiên cứu này là môi trường
MS có bổ sung 30 g/l sucrose (ngoại trừ thí nghiệm khảo sát ảnh hưởng của
sucrose trở về sau), 8 g/l agar (hoặc không bổ sung agar đối với môi trường
nuôi cấy lỏng lắc) và các chất điều hòa sinh trưởng thực vật (tùy vào mục đích
thí nghiệm). Tất cả môi trường nuôi cấy được điều chỉnh pH về khoảng 5,7-5,8
(trừ thí nghiệm khảo sát ảnh hưởng của pH trở về sau) trước khi hấp khử trùng
ở nhiệt độ 121°C, áp suất 1 atm trong 30 phút.
o Điều kiện nuôi cấy:
Tất cả các mẫu thí nghiệm được nuôi cấy trong điều kiện với: thời gian
chiếu sáng là 16 giờ/ngày; nhiệt độ là 25 ± 2°C; cường độ chiếu sáng 2.5003.000 lux và độ ẩm trung bình là 75-80%.
o Phương pháp:
Hệ thống nuôi cấy lỏng lắc. Dung dịch huyền phù tế bào được nuôi trong
các bình 250 ml và đặt trên hệ thống máy lắc (Orbital Shaker SO1, Hoa Kỳ) với
tốc độ lắc100 vòng/phút.
o Bố trí thí nghiệm:
+ Khảo sát ảnh hưởng của 2,4-D lên sự hình thành mô sẹo từ mẫu lá cây
Kiwi in vitro:
Các mẫu lá cây Kiwi in vitro được cắt với kích thước 1×1 cm, sau đó cấy
vào môi trường MS có bổ sung 30 g/l sucrose, 8 g/l agar và 2,4-D với các nồng
độ khác nhau (0; 0,2; 0,4; 0,6; 0,8 và 1,0 mg/l).
+ Khảo sát ảnh hưởng của cách đặt mẫu lá lên khả năng tạo mô sẹo từ mẫu
lá cây Kiwi in vitro:
Các mẫu lá cây Kiwi in vitro được cắt với kích thước 1×1 cm, sau đó đặt úp
(mặt gân lá hướng lên trên) hoặc đặt ngửa (mặt gân lá tiếp xúc với bề mặt môi
trường) trên môi trường MS có bổ sung 30 g/l sucrose, 8 g/l agar với nồng độ
2,4-D tốt nhất ở thí nghiệm trên.
+ Khảo sát ảnh hưởng của 2,4-D lên khả năng sinh trưởng và phát triển của
tế bào mô sẹo trong quá trình nuôi cấy lỏng lắc :
Cấy 0,8 g mô sẹo vào môi trường MS lỏng có bổ sung 30 g/l sucrose và 2,4D ở các nồng độ khác nhau (0,2; 0,4; 0,6; 0,8 và 1,0 mg/l).
+ Khảo sát ảnh hưởng của pH đến khả năng sinh trưởng và phát triển của

tế bào mô sẹo trong quá trình nuôi cấy lỏng lắc :
Cấy 0,8 g mô sẹo vào môi trường MS lỏng có bổ sung 30 g/l sucrose, nồng
độ 2,4-D tốt nhất ở thí nghiệm trên và pH môi trường được điều chỉnh về 4,9;
5,2; 5,5; 5,8; 6,1; 6,4 hoặc 6,7.


CÂY KIWI

16

+ Khảo sát ảnh hưởng của nồng độ sucrose đến khả năng sinh trưởng và
phát triển của tế bào mô sẹo trong quá trình nuôi cấy lỏng lắc:
Cấy 0,8 g mô sẹo vào môi trường MS lỏng có bổ sung nồng độ 2,4-D tốt
nhất, pH thích hợp thu được ở thí nghiệm trên và đường sucrose ở các nồng độ
khác nhau (20, 30, 40, 50, 60, 70 và 80 g/l).
+ Khảo sát ảnh hưởng của thể tích môi trường đến khả năng sinh trưởng và
phát triển của tếbào mô sẹo trong quá trình nuôi cấy lỏng lắc:
Cấy 0,8 g mô sẹo vào môi trường MS lỏng có bổ sung 2,4-D, sucrose, pH
tốt nhất thu được ở thí nghiệm trên với các thể tích môi trường nuôi cấy khác
nhau (10, 20, 30 và 40 ml). Bình nuôi cấy được sử dụng có thể tích 250 ml.
+ Xác định đường cong sinh trưởng của tế bào:
Mô sẹo được cấy vào môi trường MS lỏng có bổ sung 2,4-D, sucrose, pH
và thể tích môi trường thích hợp nhất ở các thí nghiệm trên.
 Kết quả và thảo luận:
Ảnh hưởng của 2,4-D lên sự hình thành mô sẹo từ mẫu lá cây Kiwi in vitro.
Các chất điều hòa sinh trưởng thực vật là thành phần quan trọng của môi
trường nuôi cấy. Trong số các auxin, 2,4-D sử dụng rất có hiệu quả trong việc
tạo mô sẹo ở nhiều loài thực vật. Kết quả thu được cho thấy, tỷ lệ mẫu hình
thành mô sẹo ở tất cả các thí nghiệm có bổ sung 2,4-D đều đạt 100%, còn ở
môi trường không bổ sung chất điều hòa sinh trưởng thì không có mẫu nào phát

sinh mô sẹo (bảng 1,).Sau 2 tuần nuôi cấy, các mẫu cấy bắt đầu cảm ứng hình
thành mô sẹo. Mô sẹo ban đầu phân bố ở vùng gân chính, sau đó là ở gân hai
bên rồi hình thành ở xung quanh rìa lá, ngay vết cắt. Ứng với mỗi nồng độ của
2,4-D khác nhau thì khả năng tạo mô sẹo cũng khác nhau. Sau 4 tuần nuôi cấy,
giữa các công thức đã có sự chênh lệch về khối lượng tươi, khối lượng khô
(bảng 1). Ở nồng độ 0,8 mg/l 2,4-D cho các chỉ tiêu về khối lượng tươi, khối
lượng khô là lớn nhất (khối lượng tươi đạt 0,99 g/mẫu; khối lượng khô đạt
0,067 g/mẫu). Khối lượng tươi và khối lượng khô của mô sẹo ở các nồng độ
còn lại (0,2; 0,4; 0,6 và 1,0 mg/l 2,4-D) không có sự khác biệt nhau rõ ràng
(bảng 1).

Bảng 1: Ảnh hưởng của 2,4-D lên khả năng tạo mô sẹo từ mẫu lá cây Kiwi nuôi
cấy in vitro sau 4 tuần nuôi cấy
Nồng độ Tỷ lệ mẫu Khốilượng
2,4tạo sẹo(%) tươi (g/bình)
D(mg/l)

Khốilượng
khô( g/bình)

Hình thái mô sẹo


CÂY KIWI

17

0

0


0.21c

0.019c

Mô sẹo không hình
thành
Mô sẹo màu trắng
đục, cứng

0.2

100a

0.58b

0.049b

0.4

100a

0.67b

0.054b

Mô sẹo màu trắng
đục, cứng

0.6


100a

0.80b

0.055b

Mô sẹo màu trắng
xanh, hơi mềm

0.8

100a

0.99a

0.067a

1.0

100a

0.53b

0.049b

Mô sẹo màu xanh
trong, xốp, mọng
nước
Mô sẹo màu trắng,

cứng

Ngo hìhình thái của các mô sẹo được tạo thành ở các nồng độ cũng có sự khác
biệt khá rõ rệt . Mô sẹo hình thành ở nồng độ 0,2; 0,4 và 1,0 mg/l 2,4-D có màu
trắng đục, cứng. Mô sẹo hình thành ở nồng độ 0,6 mg/l 2,4-D thì có màu xanh
nhạt, trong, mềm. Trong khi đó, các mô sẹo thu được ở nồng độ 0,8 mg/l 2,4-D
có màu xanh trong, mềm, xốp, rất thích hợp để làm nguyên liệu cho nuôi cấy
lỏng lắc Hình thái này của mô sẹo còn được duy trì tới khoảng 12 ngày nuôi
cấy tiếp theo.
Từ những kết quả thu được ở trên, ta thấy môi trường MS có bổ sung 0,8
mg/l 2,4-D sau 4 tuần nuôi cấy là thích hợp để tạo mô sẹo từ mẫu lá cây Kiwi
in vitro, vì vậy chúng tôi sử dụng môi trường này cho thí nghiệm tiếp theo.Ảnh
hưởng của cách đặt mẫu lá lên khả năng tạo mô sẹo. Sau 4 tuần nuôi cấy, các
mẫu đặt úp và ngửa đều cho tỷ lệ tạo mô sẹo đạt 100% (bảng 2). Tuy nhiên, các
mẫu cấy lá đặt úp cho khối lượng tươivà khối lượng khô của mô sẹo hình thành
cao hơn so với các mẫu cấy được đặt ngửa. Sau 12 ngày nuôi cấy, các mẫu lá
bắt đầu khởi tạo mô sẹo. Đối với mẫu cấy đặt úp, các mô sẹo được tạo thành từ
gân chính của lá đến các gân phụ rồi dần tới phần còn lại của vết cắt ở lá. Đối
với mẫu cấy đặt ngửa, quá trình khởi tạo mô sẹo cũng giống với mẫu lá đặt úp,


CÂY KIWI

18

tuy nhiên, đồng thời với quá trình cảm ứng tạo mô sẹo là sự uốn cong của mẫu
lá. Hiện tượng này xảy ra có thể là do tính hữu cực của mẫu cấy. Bề mặt trên
của lá gồm những tế bào thịt lá có dạng hình bầu dục, xếp thẳng đứng sát nhau
với chức năng chính là tổng hợp các chất hữu cơ. Trong khi đó, bề mặt dưới
gồm các tế bào thịt lá có dạng hình tròn, sắp xếp lộn xộn không sát. nhau, tạo

thành nhiều khoang chứa khí với chức năng chính là chứa và trao đổi khí. Việc
đặt úp lá trên bề mặt môi trường tạo điều kiện cho sự hấp thu và chuyển hóa
các chất dinh dưỡng ở bề mặt trên và sự vận chuyển nước thông qua lực mao
dẫn. Đồng thời bề mặt dưới của lá được tiếp xúc trực tiếp với không khí trong
bình nuôi cấy, tạo điều kiện cho quá trình trao đổi khí và thúc đẩy sự vận
chuyển chất dinh dưỡng. Khi đặt ngửa, lá sẽ có chiều hướng phát triển theo
hướng có lợi nhất cho sự hấp thụ và vận chuyển các chất dinh dưỡng bằng cách
hướng bề mặt trên của lá xuống môi trường, điều này gây ra sự bẻ cong của
mẫu lá.Như vậy, các mẫu cấy lá non được nuôi cấy đặt úp trên bề mặt môi
trường cho lượng mô sẹo tạo thành cao hơn so với các mẫu cấy được đặt ngửa
bề mặt lá
Bảng 2. Ảnh hưởng của cách đặt mẫu lá lên khả năng tạo mô sẹo sau 4
tuần nuôi cấy
Cách đặt
mẫu

Tỷ lệ mẫu hình Khối lượng tươi Khối lượng khô Hình thái mô sẹo
thành sẹo (%)
(g/bình)
(g/bình)

Ngửa
úp

100
100

0,82
0.99


0.055
0.067

Trắng, mọng nước
Trắng, mọng nước

Ảnh hưởng của 2,4-D lên khả năng sinh trưởng và phát triển của tế bào
mô sẹo trong quá trình nuôi cấy lỏng lắc:
Sau 21 ngày nuôi cấy, khả năng sinh trưởng của tế bào ở công thức có bổ
sung 0,6 mg/l 2,4-D cao hơn hẳn so với các công thức khác.
Khi tăng nồng độ của 2,4-D lên từ 0,2 đến 0,6 mg/l, mật độ tế bào, khối lượng
tươi, khối lượng khô sinh khối tế bào thu được cũng tăng dần và các tế bào tồn
tại đa số ở dạng cụm tế bào (5-10 tế bào). Điều này có thể giải thích là do tế
bào tăng sinh quá nhanh trong khi tốc độ tách rời các tế bào do chuyển động lắc
của môi trường không theo kịp sự tăng sinh của tế bào dẫn đến tế bào kết tụ
thành từng cụm ngày càng nhiều. Tuy nhiên, khi nồng độ 2,4-D vượt quá 0,6
mg/l, sự sinh trưởng, phát triển của tế bào lại giảm xuống. Hình thái của các tế


CÂY KIWI

19

bào giữa các công thức là giống nhau. Tế bào đa số có hình cầu, một số ít có
hình bầu dục. Kích thước của các tế bào giữa các công thức cũng tương đồng
nhau. Do đó, nồng độ 2,4-D thích hợp nhất cho nuôi cấy lỏng lắc tế bào kiwi là
0,6 mg/l.
Ảnh hưởng của pH lên khả năng sinh trưởng và phát triển của tế bào mô
sẹo trong quá trình nuôi cấy lỏng lắc:
Độ pH ảnh hưởng đến sự di chuyển của các ion, sự hấp thụ chất dinh

dưỡng giữa mô tế bào thực vật với môi trường. Dougall (1980) đã thông qua
các tài liệu liên quan đến sự thay đổi pH in vitro và tác giả cho rằng, sự thay
đổi này. là do sự hấp thụ amoni và nitrate từ môi trường nuôi cấy. Dougall đã
chứng minh rằng pH banđầu của môi trường có thể ảnh hưởng đến pH môi
trường sau khi cấy do ảnh hưởng đến tốc độ hấp thụ nitrate và amoni. Khi tế
bào thực vật hấp thu amoni, một ion H+được giải phóng làm cho pH môi
trường giảm xuống. Sự thay đổi pH của môi trường lỏng và môi trường rắn là
khác nhau. Trong nghiên cứu của Skirvin et al.(1986), môi trường MS rắn và
MS lỏng có pH ở 5,7 thì sau khi hấp 1 tuần, pH có giá trị lần lượt là 4,6 và 4,4.
Sau 6 tuần, pH giảm xuống là 4,4 đối với môi trường rắn và 4,1 đối với môi
trường lỏng. Như vậy, sau khi hấp, giá trị pH thay đổi nhiều hơn trong môi
trường lỏng, môi trường trở nên axit hơn. Vì vậy, pH tối ưu cho mô tế bào thực
vật trên môi trường lỏng và rắn không giống nhau.
Kết quả thu được sau 21 ngày nuôi cấy cho thấy, khi tăng pH môi trường
từ 4,9 đến 6,1,mật độ tế bào, khối lượng tươi và khối lượng khô sinh khối tế
bào thu được tăng dần. Sự thay đổi pH cũng có khả năng gây ra sự xâm nhập tự
do của ion H+vào thành tế bào, tạo ra pH tối ưu cho hoạt động của enzyme nới
lỏng thành tế bào. Ion H+trong môi trường sẽ xâm nhập vào thành tế bào, hoạt
hóa enzymephân hủy các polysacarit liên kết giữa các sợi cellulose làm cho
chúng lỏng lẻo và tạo điều kiện cho thành tế bào giãn dưới tác dụng của áp suất
thẩm thấu của không bào trung tâm, kích thích sự sinh trưởng của tế bào. Khi
pH môi trường cao hơn 6,1, mật độ tế bào, khối lượng tươi và khối lượng khô
của sinh khối tế bào giảm xuống. Điều này là do pH môi trường quá thấp hoặc
quá cao làm giảm khả năng hấp thụ chất dinh dưỡng của tế bào từ môi trường,
dẫn tới tế bào tăng sinh chậm. Như vậy, pH môi trường thích hợp nhất cho nuôi
cấy lỏng lắc của tế bào kiwi là 6,1
Ảnh hưởng của nồng độ đường lên khả năng sinh trưởng và phát triển của
tế bào mô sẹo trong quá trình nuôi cấy lỏng lắc
Huyền phù tế bào hình thành từ mô sẹo có chứa các tế bào đơn và cụm tế bào
nhỏ riêng lẻ trong môi trường lỏng lắc. Khả năng sinh tổng hợp của các tế bào



CÂY KIWI

20

đơn và cụm tế bào nhỏ này có thể kém hơn so với các tế bào trong khối mô sẹo,
chúng cũng yếu hơn về mặt cơ học, dễ chết hay bị vỡ, do đó nhu cầu dinh
dưỡng của huyền phù tế bào khác so với nhu cầu dinh dưỡng của mô sẹo trong
cùng một dòng. Vì vậy, một môi trường giàu nguồn năng lượng (đường) sẽ
giúp tế bào phân chia và tăng trưởng tốt hơn. Đặc biệt, trong pha tăng trưởng
tuyến tính, tế bào thực vật sẽ tổng hợp vách tế bào và tinh bột từ các nguồn
đường có sẵn trong môi trường. Kết quả thu được cho thấy, khi tăng nồng độ
sucrose từ 20 đến 60 g/l, mật độ tế bào, khối lượng tươi và khối lượng khô sinh
khối của tế bào thu được tăng dần. Khi nồng độ đường vượt quá 60 g/l, mật độ
tế bào, khối lượng khô, khối lượng tươi sinh khối giảm. Sự phân chia và tách
rời các tế bào diễn ra trong quá trình nuôi cấy lỏng lắc mô sẹo cây Kiwi rất cần
nguồn đường để tổng hợp các vật liệu mới cho vách tế bào và tích lũy tinh bột.
Tuy nhiên, nồng độ đường quá cao có khả năng làm giảm hay thay đổi cân
bằng các chất điều hòa tăng trưởng nội sinh trong cây. Mặc dù các tế bào đơn
và cụm tế bào nhỏ chưa phải là cơ thể hoàn chỉnh song cũng chịu ảnh hưởng
lớn bởi nồng độ đường quá cao. Nồng độ đường sucrose 60 g/l là thích hợp
nhất cho sự phân chia và tăng trưởng của tế bào. Nếu nồng độ đường thấp hơn
sẽ không đủ cung cấp nguồn hydratcarbon cho sự phân chia và tổng hợp vách
tế bào. Mặt khác, ngoài vai trò làm nguồn hydratcarbon, đường còn là một nhân
tố gây nên áp suất thẩm thấu. Do đó, nồng độ sucrose cao hơn 60 g/l gây nên
một áp suất thẩm thấu bất lợi cho sự tăng trưởng của tế bào huyền phù cây
Kiwi, vì thế lượng tế bào huyền phù thu được kém hơn so với nồng độ 60 g/l.
Như vậy, nồng độ đường sucrose thích hợp nhất cho nuôi cấy lỏng lắc tế bào là
60 g/l.

Bảng 3: Ảnh hưởng của các nồng độ đường khác nhau lên mật độ tế bào
(N), khối lượng tươi (FW) và khối lượng khô (DW) của sinh khối tế bào trong
môi trường MS lỏng lắc sau 21 ngày nuôi cấy.
Mật độ tế 105
bào
Khối lượng 0.042
tươi
Khối lượng 0.022
khô

160

220

251

336

60

45

0.067

0.101

0.147

0.245


0.074

0.052

0.043

0.052

0.086

0.171

0.041

0.029


CÂY KIWI

21

Ảnh hưởng của thể tích môi trường lên khả năng sinh trưởng và phát triển
của tế bào mô sẹo trong quá trình nuôi cấy lỏng lắc
Sau 21 ngày nuôi cấy, sự tăng trưởng của tế bào trong môi trường lỏng lắc được
xác định qua hệ số nhân của khối lượng tế bào mô sẹo được thể hiện ở bảng 4.
Kết quả cho thấy, càng tăng thể tích môi trường nuôi cấy thì khối lượng tươi
sinh khối tế bào thu được càng tăng. Điều này có thể giải thích là do khi tăng
thể tích môi trường, mật độ tế bào giảm dần, môi trường cung cấp đầy đủ hơn
chất dinh dưỡng cho sự sinh trưởng và phát triển của tế bào, đồng thời khi tăng
thể tích môi trường, sản phẩm tiết ra từ quá trình trao đổi chất của tế bào tích

lũy trong môi trường giảm, do đó, sự ức chế quá trình sinh trưởng và phát triển
của tế bào gây ra bởi các chất này cũng giảm dần, tốc độ phân chia của tế bào
tăng lên, vì vậy, khối lượng tươi sinh khối tế bào thu được ngày càng tăng.
Hệ số nhân của sinh khối tế bào đạt cao nhất khi tăng thể tích môi trường nuôi
cấy từ 10 ml lên 20 ml (2,65 lần ở môi trường có thể tích 10 ml tăng lên 4,78 ở
môi trường có thể tích 20 ml). Khi tăng thể tích môi trường từ 20 ml lên40 ml,
khối lượng tươi sinh khối tế bào vẫn tiếp tục tăng nhưng tốc độ tăng chậm hơn
nhiều so với khi tăng thể tích trong khoảng từ 10 ml lên 20 ml (chênh lệch về
hệ số nhân giữa thể tích 10 ml và thể tích 20 ml là 2,13; chênh lệch về số nhân
giữa thể tích 20 ml và thể tích 30 ml là 0,73; chênh lệch về hệ số nhân giữa thể
tích 30 ml và thể tích 40 ml là 0,39). Mặt khác, nếu càng tăng thể tích môi
trường thì càng tiêu tốn nhiều hơn về chi phí môi trường nuôi cấy, đồng thời
khả năng bị tạp nhiễm vi sinh vật của môi trường càng cao do trong quá trình
lắc, môi trường dễ bị dính lên miệng bình. Vì vậy, để tiết kiệm chi phí cho môi
trường nuôi cấy và giảm khả năng tạp nhiễm vi sinh vật, nên chọn môi trường
có thể tích là 20 ml cho nuôi cấy 0,8 g mô sẹo trong bình nuôi có thể tích là 250
ml. Tóm lại, với bình nuôi có thể tích 250 ml, thì thể tích môi trường tối ưu cho
0,8 g mô sẹo sinh trưởng và phát triển trong môi trường lỏng lắc là 20 ml.
Xác định đường cong sinh trưởng của tế bào nuôi cấy in vitro:
Trong thí nghiệm này, mô sẹo cây Kiwi được cấy sang môi trường có bổ sung
0,6 mg/l 2,4-D, 60 g/l sucrose, pH môi trường được điều chỉnh về 6,1 và thể
tích môi trường trong bình là 20 ml . Sau 28 ngày nuôi cấy, đường cong sinh
trưởng của tế bào được thể hiện ở bảng 4. Trong quá trình phát triển trong môi
trường lỏng, tế bào đơn của thực vật thường trải qua bốn giai đoạn: thích nghi,
tăng trưởng, cân bằng và suy tàn. Bảng 4 cho thấy, ở 4 ngày nuôi cấy đầu tiên,
tế bào đang trong giai đoạn thích nghi. Tế bào mô sẹo cây Kiwi khi chuyển từ
môi trường rắn sang môi trường lỏng sẽ chịu một số xáo trộn nhất định, vì vậy,


CÂY KIWI


22

cần thời gian để thích nghi với môi trường như điều kiện nuôi cấy, áp suất thẩm
thấu, chất điều hòa sinh trưởng…

Khối lượng tươi
Khối lượng khô
Mật độ tế bào

0.028
0.017
24

0.032
0.02
44

0.084
0.043
148

0.242
0.171
342

0.213
0.132
320


0.14
0.077
217

0.102
0.072
102

Bảng bảng 4: Sự sinh trưởng và phát triển của sinh khối tế bào cây Kiwi trong
môi trường MS lỏng sau các khoảng thời gian nuôi cấy khác nhau [N: Mật độ
tế bào (tế bào/µl), FW: Khối lượng tươi sinh khối (g/ml), DW: Khối lượng khô
sinh khối (g/ml)]
Từ ngày nuôi cấy thứ 8 tới ngày nuôi cấy thứ 16, tế bào bước vào giai
đoạn tăng trưởng. Dưới tác dụng của auxin, tế bào phân chia mạnh, mật độ của
tế bào ngày càng tăng, cao nhất là vào ngày thứ 16 (342 tế bào/µl) . Trong 4
ngày tiếp theo, tế bào bước vào giai đoạn cân bằng, số tế bào sinh ra và chết đi
bằng nhau. Sau ngày nuôi cấy thứ 20, số lượng tế bào bắt đầu giảm. Điều đó có
thể giải thích là do chất dinh dưỡng trong tế bào bắt đầu cạn kiệt dần, đồng thời
các chất thải tích lũy trong môi trường ngày càng nhiều ức chế sự sinh trưởng
và phát triển của tế bào. Quan sát dưới kính hiển vi cũng cho thấy các tế bào
đang ở trong các giai đoạn phân chia khác nhau. Huyền phù tế bào được duy trì
bằng cách cấy chuyền vào đầu pha ổn định, thời điểm này sức tăng trưởng của
huyền phù tế bào là mạnh nhất. Như vậy, dựa vào đường cong sinh trưởng của
tế bào, chúng tôi nhận thấy rằng thời điểm cấy chuyền thích hợp nhất của tế
bào cây Kiwilà vào ngày nuôi cấy thứ 16. Các tế bào đơn thu được trong nuôi
cấy lỏng lắc được rải lên trên môi trường thạch là môi trường MS không bổ
sung các chất điều hòa tăng trưởng nhằm quan sát sự tái sinh của tế bào đơn.
Sau 30 ngày và sau 60 ngày nuôi cấy, các tế bào đơn tiếp tục phát triển và hình
thành những khối mô sẹo.
 Kết luận:

Từ các kết quả thu được ở trên cho thấy,môi trường MS có bổ sung 30 g/l
sucrose, 8 g/l agar và 0,8 mg/l 2,4-D với mẫu lá đặt úp là thích hợp nhất cho sự
hình thành mô sẹo từ mẫu lá cây Kiwi in vitro. Môi trường MS lỏng có bổ sung


CÂY KIWI

23

0,6 mg/l 2,4-D, 60 g/l sucrose với pH được điều chỉnh về 6,1 là môi trường tối
ưu nhất cho sự sinh trưởng và phát triển của tế bào mô sẹo trong quá trình nuôi
cấy lỏng lắc. Thể tích môi trường lỏng 20 ml (đối với bình nuôi có thể tích 250
ml) và cứ sau mỗi 16 ngày thì cấy chuyền là tối ưu nhất cho nuôi cấy 0,8 g mô
sẹo cây Kiwi để thu huyền phù tế bào.
III.4.

Kỹ thuật trồng:

1. Đặc điểm cây trồng:
Kiwi thuộc nhóm quả berry. Cây kiwi sinh trưởng tốt trong ở vùng cận
nhiệt đới, ôn đới với khoảng vĩ độ xấp xỉ từ 25 - 45 độ. Cây đòi hỏi những vùng
có lượng mưa từ 800 - 1200mm/ năm. Thời gian phát triển của cây ít nhất là 7
hoặc 8 tháng (khoảng 220 ngày). Cây kiwi là thực vật thân bò nên cần dựng
giàn cho cây phát triển, rụng lá vào mùa đông để vào chế độ tỉnh trạng. Nhìn từ
xa, cây kiwi rất khó phân biệt với cây nho đỏ. Lá non màu đỏ, khi già trở nên
xanh đậm và có lông tơ trên bề mặt.

Cây kiwi cần dựng giàn cho nó phát triển.
Cây kiwi cần có hoa đực và hoa cái để thụ phấn. Khi trồng cần xét đến tỉ lệ
giữa cây đực và cái, tỉ lệ trồng từ 1:8 đến 1:5. Với tỉ lệ cây đực/cây cái là 1:5



CÂY KIWI

24

thì năng suất thụ phấn tăng lên. Thời gian ra hoa của kiwi từ tháng 5 đến tháng
6, kích thước hoa của kiwi là 1/2 inch, hoa màu trắng hoặc màu vàng kem.

2. Kiwi Việt Nam
Kiwi là một giống cây xứ mát, ôn đới hay bán nhiệt đới. Thường rụng lá
( tính ra thời gian ở Việt Nam thì tầm mùa tết), yêu cầu lạnh khoảng 600-800 giờ
(dưới 45 độ F, 7 độ C) để ra hoa, đậu trái đẹp. Do đó, ở Việt Nam chỉ có thể ở
những vùng núi cao miền Bắc, như vùng núi Hoàng Liên Sơn, vùng núi cao
Trường Sơn, Ngọc Linh, Chư Yang Sin, Vọng Phu- Mẹ Bồng Con- Khánh Hòa,
vùng Đà Lạt- Tuyên Đức. Tuy nhiên, hiện nay giống kiwi ít yêu cầu lạnh cũng
đã phát triển, vì vậy, cũng có thể hi vọng loại kiwi này phát triển ở những khu
vực khác như vùng đồi núi Bạch Mã, Bà Nà, Đơn Dương, ngay cả Thất Sơn của
Miền Nam nữa
3. Cải thiện cách trồng
Điều kiện khí hậu lí tưởng để trồng kiwi là khi có nắng nhẹ, mưa nhỏ và
hơi se lạnh vào mùa đông. Trong điều kiện như vậy đất sẽ được bồi thêm dinh
dưỡng từ khí trời, với độ PH giao động từ 5 đến 6,8.
Thời gian trồng kiwi kéo dài trong 240 ngày trong năm. Ở New Zealand mùa
vụ trồng kiwi bắt đầu từ tháng 6, các nhà vườn bắt đầu mùa vụ bằng việc tỉa
dây kiwi. Qua mùa đông (từ tháng 6 đến tháng 8), cây kiwi mọc lá trở lại.


CÂY KIWI


25

Những nụ hoa đầu tiên xuất hiện vào khoảng tháng 9, đây cũng là thời điểm bắt
đầu mùa xuân tại New Zealand. Hoa kiwi được thụ phấn hoàn toàn nhờ ong
mật được nuôi xung quanh các vườn kiwi.
Kiwi là loại thân leo, do đó phải làm giàn, cột leo, tượng dậu leo… tại Việt
Nam nay đã phát triển trồng kiwi bằng trụ betong.
Kiwi là cây xứ mát, cây cần rụng lá sau đó mới ra hoa đậu trái. Khu vực
nào mà kiwi không rụng lá vào mùa lạnh thì cầu phải áp dụng phương pháp
khiển hoa. Tuy nhiên, cần qui định rx thời gian thích hợp để thực hiện phương
pháp này nhằm đạt hiệu suất trồng trọt cao nhất.
Điều đặc biệt quan trọng nhất của kiwi khi trồng trọt, là càn phải nắm rõ,
kiwi là cây biệt chu, có nghĩa là cây đực và cây cái hoàn toàn khác nhau, không
cùng một gốc, một cây. Cho nên, muốn kiwi cho trái cần phải trồng xen kẻ cây
đực và cây cái với nhau để các cây cái được cây đực thụ phấn. Nhân giống
bằng hột thì kiwi cho cây khác cây mẹ, và cây kiwi khi phát sinh từ hột thường
cho nhiều cây cái hơn cây đực. tuy nhiên, vì lợi nhuận cũng như giảm tối đa
khoảng cách thời gian cho trái thì khi trồng kiwi nên lựa chọn các cây giâm
cành, vì thực tế cho thấy, cây phát sinh từ hột thì tầm 6 năm mới có trái trong
khi cây giâm cành thì 3 năm đã bắt đầu cho quả.
Khoảng cách trồng là mỗi hàng cách nhau 6-7m và trên hàng cây cách
nhau 4-5m. Trên hàng chẵn thì trồng toàn cây cái, còn hàng lẻ thì cứ 4 cây phải
có 1 cây đực, như vậy đủ thụ phấn ở cây cái và ra trái ở cây cái. Khi cây con đã
trồng được 1-2 năm rồi, cần xén tỉa để thành cây nhiều thân hay độc một thân.
Ngoài ra, còn phải tỉa cành hằng năm để điều ha tăng trưởng và ra hoa, đậu
nhiều trái. Tỉa cành chỉ để lại 2-4 mầm ở mỗi cành. Trung bình 4 thân leo kiwi
phải sản xuất 200-400kg trái kích thước thương mại mỗi năm. Những trái nhỏ,
méo mó, không đạt yêu cầu, thì cần được tỉa bỏ khi phát hiện để dành không
gian phát triển cho những trái đạt yêu cầu.
Ở những vùng khí hậu Địa Trung Hải như Ý, Mỹ, kiwi cần nhiều nước

cho nhiều trái. Mỗi cây cần 0.5kg phân N ( đạm) mỗi năm, nhưng muốn có
năng suất cao, cần bón thêm một ít phân lan, phân potassium ( kali) hay phân vi
lượng dưới thể chelat. Những vùng đã trồng kiwi lâu năm, sẽ bị nhiều sâu bọ
phá hại, như sâu cuốn lá, các loại rệp dính, nhện đỏ có chấm, … phải áp dụng
phương pháp hội nhập trừ sau.
Kiwi là một cây trái thích hợp phát triển tiêu điền vì cần nhiều nhân công chăm
sóc, thu hoạch,… Quy trình trồng Kiwi trong một năm được tóm gọn như sau:
III.5.

Chu kỳ sản xuất:


×