Tiểu luận CNMT
I. Ô Nhiễm Không khí:
1. Vài nét về ô nhiễm Không khí:
Không khí là một hỗn hợp gồm các loại khí chủ yếu là N
2
, O
2
, CO
2
. ngòai ra còn
có một số khí hiếm như néon, héli, métan, kripton,... Ở điều kiện bình thường của độ ẩm
tuyệt đối, hơi nước chiếm gần 1 - 4p.100 thể tích không khí. Ở gần mặt đất, không khí
còn có các phần tử rắn khác nữa (chẳng hạn như từ núi lửa hoặc từ kết quả họat động
của con người). Các thành phần từ bào tử, phấn hoa của cây cối không liệt vào những
chất nhiễm bẩn vì chúng là thành phần của thiên nhiên, thường gặp trong không khí.
Nhiễm bẩn không khí là kết quả của sự thải vào không khí những khí, hơi, giọt và phần
tử lạ hoặc của sự chứa đựng trong đó một lượng quá lớn các thành phần bình thường
chẳng hạn CO
2
và các phần tử rắn lơ lững do đốt các lọai nhiên liệu.
Ô nhiễm không khí chính là khi không khí có mặt một chất lạ hoặc có một sự
biến đổi quan trọng trong thành phần không khí gây tác động có hại hoặc gây ra một sự
khó chịu (sự tỏa mùi khó chịu, sự giảm tầm nhìn xa do bụi). Mặt khác sự tích lũy hay
phân tán của các chất ô nhiễm trong không khí phụ thuộc trước hết vào các điều kiện
khí tượng.
Việc phân lọai, xác định tính năng của hoạt động dẫn đến nhiễm bẩn không khí
dựa vào quan điểm chung cho rằng nhiễm bẩn không khí là kết quả họat động của con
người. Ở các nước Tây Âu từ sau thế kỷ thứ 14, có tình trạng nhiễm bẩn không khí do
sử dụng than đá làm nguồn năng lượng nhiệt. Nhiễm bẩn không khí từ lò đốt trong nhà
chắc là hình thức gây nhiễm bẩn sớm nhất, mặc dù khả năng gây tác động có hại bên
trong nhà thường mang tính cá biệt. Việc thay than bằng sản phẩm dầu khí ở nhiều nước
trên thế giới đã làm giảm bớt ô nhiễm do khói than gây ra.
Tuy nhiên việc sử dụng sản phẩm dầu khí vẫn còn quá nhiều, nhất là do các động cơ
đốt trong. Hiện nay, đây là nguyên nhân chủ yếu gây nhiễm bẩn không khí. Các động cơ
đốt trong xả ra không khí carbon oxyd, chì, nitơ oxyt và nhiều hydrocarbua khí. Nồng
độ cục bộ của các chất nầy rất cao, nhất là ở trung tâm thành phố có giao thông sầm uất.
Trong điều kiện thông gió tự nhiên không đủ và cường độ bức xạ cao sẽ gây ra phản
ứng phức tạp giữa nito oxyd và hydrocarbua tạo nên nito peoxy axinitrat và nhiều chất
đặc biệt được gọi chung là “các oxyt quang hóa học”.
Tiểu luận CNMT
2. Ảnh Hưởng Của Ô Nhiễm Không Khí:
2.1. Tác động của ô nhiễm không khí tới thời tiết, khí hậu và các quá trình xảy ra
trong khí quyển
Cùng với việc môi trường không khí ngày càng bị ô nhiễm đã dẫn đến khả năng
hấp thụ bức xạ Mặt Trời của khí quyển tăng lên thì "hiệu ứng nhà kính" do khí thải CO2
càng trở nên rõ rệt mà hậu quả chung là khiến nhiệt độ trung bình của trái đất tăng lên.
Đó là vấn đề "ấm lên toàn cầu" được các nhà môi trường học đề cập nhiều trong thời
gian gần đây. Ngoài ra các hạt vật chất như bụi khói tăng lên sẽ làm giảm lượng bức xạ
mặt trời đi đến mặt đất. Vì vậy, gây nên "hiệu ứng làm lạnh" khí hậu thế giới, cuối cùng
tạo ra một kỷ nguyên băng giá. Hiện nay người ta chưa biết hiệu ứng nào sẽ thắng thế,
tuy nhiên sự tác động qua lại của chúng sẽ gây ra sự bất ổn về thời tiết trong qui mô
toàn cầu.
Nguồn và các loại hình của một số khí nhà kính quan trọng nhất
- Carbon dioxit (CO
2
): được tạo ra do đốt nhiên liệu hoá thạch (dầu, than và khí
đốt thiên nhiên), bốc cháy của các khí tự nhiên, thay đổi cách sử dụng đất (phá rừng, đốt
và mở đất làm nông nghiệp) và sản xuất xi măng.
- Mêtan (CH
4
): do san lấp các vùng đất ngập nước, đầm lầy, từ gia súc, khai thác
mỏ than, cấy lúa nước, rò rỉ các ống dẫn khí đốt thiên nhiên, đốt sinh khối. 1 phân tử
mêtan giữ nhiệt gấp 20 - 30 lần 1 phân tử CO
2
. Trong thời gian tới, đây sẽ trở thành khí
nhà kính quan trọng nhất.
- Chlorofluorocarbons (CFCs): là những sản phẩm công nghiệp được chế ra từ
những năm 1930. Chúng được dùng trong tủ lạnh, điều hòa nhiệt độ của ô tô, các
dung môi, các chất phun hạt mịn, các chất cách ly. Đây là khí nhà kính mạnh nhất.
Khi ở trong khí quyển, 1 phân tử CFC có khả năng giữ nhiệt gấp 20.000 so với 1
phân tử CO
2
. Ở tầng bình lưu CFCs hủy hoại tầng ozôn.
- Điôxit nitơ (NO
2
): được tạo ra do đốt than và củi và hoạt động của các vi khuẩn
đất. Đây là loại khí bền vững, có thể đạt tới tầng bình lưu và cũng hủy hoại tầng ozôn.
- Ôzôn (O
3
): là một dạng không bền vững của oxy. Chúng được tạo ra do quá
trình quang hóa trong khí quyển khi oxit nitơ phản ứng với các chất hữu cơ. Ở tầng
thấp, ozôn là một khí nhà kính, ở tầng cao của khí quyển, ozôn lại hấp thụ phần lớn các
tia tử ngoại của mặt trời.
Tiểu luận CNMT
Một vấn đề khác của ô nhiễm khí quyển là "sự mỏng đi của tầng ozon". Trái đất
được che chở bởi một tầng ozon (ở độ cao 25 - 30 km) trong tầng bình lưu (độ cao 11-
65 km), nó ngăn chặn các tia cực tím từ mặt trời, các tia này có thể gây ra những tác hại
xấu cho sinh vật và con người trên mặt đất như đục thuỷ tinh thể, ung thư da. Theo báo
cáo của Liên Hiệp Quốc (1991), sự giảm sút 1% tầng ozôn trong khí quyển đã làm
lượng tia cực tím chiếu xuống trái đất tăng lên 2%, điều đó làm cho số trường hợp bị
ung thư tăng lên 5 đến 7%, cụ thể bao gồm 300.000 trường hợp. Sự làm giảm sút mật độ
tầng ozôn còn làm biến đổi tính chất của chuỗi thức ăn và làm giảm năng suất nông
nghiệp và năng suất vực nước. Quả vậy, nếu chiếu tia tử ngoại liều cao vào ngô, hay lúa,
năng suất thu hoạch lúa, ngô sẽ giảm sút về chất lượng và số lượng. Sự giảm sút tầng
ozôn còn gây ra sự thay đổi về khí hậu bởi lẽ sự gia tăng của tia tử ngoại góp phần tăng
cường hiệu ứng nhà kính.
Những nghiên cứu khẳng định rằng, nhân tố chính làm giảm sút tầng ozôn là chất
CFCs và trong chừng mực nào đấy là các chất khí như nitơ oxit và mêtan.Việc sử dụng
nhiều các chất CFC (Cloro - Fluro - Cacbon, các chất dùng trong kỹ nghệ lạnh, trong
công nghệ rửa mạch in điện tử hay trong các bình xịt nước hoa,..) trong những năm gần
đây đã để lại sự tích luỹ chúng trong tầng bình lưu khí quyển. Các chất CFC làm huỷ
hoại tầng ozon (O
3
), làm suy giảm nồng độ, độ dày tầng ozon. Quan sát cho thấy sự suy
giảm xảy ra mạnh ở trên hai cực, tạo ra các "lỗ hổng ozon".
Mưa acid là tác nhân ô nhiễm thứ cấp, cũng là vấn đề quan trọng trong ô nhiễm
không khí. Nước mưa bình thường chỉ mang tính acid nhẹ, không có tác hại gì. Tuy
nhiên, các khí thải như SO
2
, NO
2
do con người thải vào khí quyển hoà tan với hơi nước
trong không khí tạo thành các hạt acid sulfuric (H
2
SO
4
), acid nitric (HNO
3
). Khi trời
mưa, các hạt acid này tan lẫn vào nước mưa, làm độ pH của nước mưa giảm. Nếu nước
mưa có độ acid dưới 5,6 được gọi là mưa acid. Mưa acid ảnh hưởng xấu tới các thuỷ
vực. Phần lớn các hồ nước ở Bắc Âu bị acid hóa. Riêng ở Canada có tới 4.000 hồ nước
bị acid hóa. Các dòng chảy do mưa acid đổ vào ao, hồ sẽ làm độ pH của ao, hồ giảm
nhanh chóng, các sinh vật trong ao, hồ, suy yếu hoặc chết hoàn toàn. Hồ, ao trở thành
các thuỷ vực chết. Mưa acid ảnh hưởng xấu tới đất do nước mưa ngấm xuống đất làm
tăng độ chua của đất, làm suy thoái đất, cây cối kém phát triển. Lá cây gặp mưa acid sẽ
bị "cháy" lấm chấm, mầm sẽ chết khô, khả năng quang hợp của cây giảm, cho năng suất
thấp. Những tác hại do mưa acid gây ra cho nhiều nước ở Châu Âu, Bắc Mỹ. Hàng triệu
Tiểu luận CNMT
ha rừng bị ảnh hưởng của mưa acid. Mưa acid còn phá huỷ các vật liệu làm bằng kim
loại, làm giảm tuổi thọ của các công trình xây dựng, các tượng đài, các di tích lịch sử và
văn hoá như cố cung ở Bắc Kinh, Kim tự tháp ở Ai Cập, lăng Taj Mahal ở Ấn Độ,...
những di tích đó được làm bằng đá quí rất cứng và chịu được mưa gió hàng nghìn năm,
nhưng mấy năm gần đây người ta thấy xuất hiện những vết đen lồi lõm lấm chấm như
mặt tấm gỗ mọt và bị bào mòn với tốc độ nhanh chóng. Tượng đá khổng lồ nhân sư
Sphinx (Ai Cập) tồn tại hơn 5.000 năm qua nhưng hiện nay bị "lên sởi" xuất hiện các
vết đen lấm tấm do các hạt axit đang gặm nhấm.
2.2. Ảnh hưởng của ô nhiễm không khí tới sức khoẻ con người
Hiện nay tốc độ công nghiệp hóa, đô thị hóa diễn ra với tốc độ nhanh chóng cùng
với nó là hiện tượng ô nhiễm không khí tại các đô thị và khu công nghiệp ngày càng gia
tăng. Các nguồn ô nhiễm không khí không những gây ra ô nhiễm không khí trong khu
vực đô thị và khu công nghiệp, mà còn khuyếch tán đi xa, gây ô nhiễm không khí vùng
xung quanh.
Phần lớn các chất ô nhiễm đều gây tác hại đối với sức khoẻ con người, với hai cơ
quan chính của con người là mắt và đường hô hấp. Ảnh hưởng cấp tính có thể gây ra tử
vong. Ảnh hưởng mãn tính gây ra bệnh ung thư phổi.
+ Khí Cacbon oxit (cacbon monoxit - CO) là một loại khí không màu, không mùi,
không vị. Con người đề kháng với khí CO rất khó khăn. Nó phát sinh từ sự thiêu đốt các
vật liệu tổng hợp có chứa cacbon, và chiếm tỷ lệ lớn nhất trong ô nhiễm môi trường
không khí. Nồng độ CO cao trong không khí có thể ảnh hưởng đến sự vận chuyển
oxygen trong máu, do CO thay thế O2, liên kết với hemoglobin trong máu.
+ Khí SO
2
: Do quá trình tác dụng của quang hoá học hay một xúc tác nào đó mà
khí SO
2
dễ dàng bị oxi hoá và biến thành SO
3
trong khí quyển. SO
3
tác dụng với hơi
nước trong môi trường không khí ẩm ướt và biến thành axit sulfuric hay là muối sulfat.
SO
2
và H
2
SO
4
đều có ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ của con người và động vật. Ở nồng
độ thấp đã gây ra sự kích thích đối với bộ máy hô hấp của con người và động vật, ở
mức nồng độ cao sẽ gây ra biến đổi bệnh lý đối với bộ máy hô hấp và có thể gây tử
vong.
+ Khí NOx (nitơ oxit) là khí có màu hơi hồng, mùi của nó có thể phát hiện thấy
khi nồng độ của nó vào khoảng 0,12 ppm. Khi trời có mưa, nước mưa sẽ rửa không khí
Tiểu luận CNMT
bị ô nhiễm khí NO2 và hình thành mưa axit. Nitơ oxit (NO) với nồng độ thường có
trong không khí nó không gây ra tác hại với sức khoẻ của con người, chỉ nguy hại khi
nó bị oxi hoá thành NO
2
. Con người tiếp xúc lâu với không khí có nồng độ khí NO
2
khoảng 0,06 ppm đã gây trầm trọng thêm các bệnh về phổi, mắt và nếu nồng độ cao có
thể gây ung thư. Vì vậy có thể nói rằng không khí ở các vùng đô thị bị nhiễm bẩn khí
NO
2
sẽ gây tác hại đối với sức khoẻ của con người.
Cho đến nay, toàn thế giới đều đã biết về thảm họa Bhopal (Ấn Độ) - sự cố công
nghiệp lớn nhất trong lịch sử nhân loại từ trước tới nay. Đó là vụ rò rỉ khí MIC (khí
methyl - iso- cyanate) ở nhà máy sản xuất thuốc trừ sâu của tập đoàn Union Cabede
(Mỹ) tại Bhopal. Khí MIC là một loại khí độc, nó tác dụng với nước rất nhanh, đi sâu
vào đường hô hấp của con người sẽ làm cho phổi bị phù thủng. Theo tin chính thức, có
2500 người bị thiệt mạng và rất nhiều người khác mắc phải các bệnh mãn tính. Trong
khi đó, theo báo cáo không chính thức của địa phương cho biết, tổng số thiệt hại cao
hơn rất nhiều với khoảng 5.000 đến 15.000 trường hợp tử vong, 2 triệu người bị nhiễm
độc, trong đó có nhiều người bị đui mù. Cứ 3 em bé mới sinh, mà mẹ của chúng có thai
vào thời gian xảy ra thảm hoạ trên thì chỉ có 1 em sống được. Rất nhiều trẻ em ở Bhopal
sinh ra sau vụ rò rỉ hóa chất trên bị tật bẩm sinh về cơ thể.
3.3. Tác hại của ô nhiễm không khí lên thực bì, hệ sinh thái và các công trình xây
dựng
Nồng độ SO
2
trong không khí chỉ độ 0,03 ppm đã gây ảnh hưởng đến sinh trưởng
của rau quả. Ở nồng độ cao thì trong một thời gian ngắn đã làm rụng lá và gây chết đối
với thực vật. Ở nồng độ thấp nhưng với thời gian kéo dài một số ngày sẽ làm lá vàng úa
và rụng. Khí SO
2
đặc biệt có hại đối với lúa mạch và cây bông. Các cây thuộc họ thông
cũng rất nhạy cảm với khí SO
2
. Nhiều loài hoa và cây ăn quả kể cả cam quýt, đặc biệt
nhạy cảm đối với Cl
2
trong nhiều trường hợp ngay cả nồng độ tương đối thấp.
Khí SO
2
cũng gây nguy hại đối với vật liệu xây dựng và đồ dùng chính vì sự
biến đổi thành axit sulfuric (mưa axit) có phản ứng mạnh. Chúng làm hư hỏng, làm thay
đổi tính năng vật lý, làm thay đổi màu sắc vật liệu xây dựng như đá vôi, đá hoa, đá cẩm
thạch, đá phiến và vữa xây, cũng như phá hoại các tác phẩm điêu khắc, tượng đài. Sắt
thép và các kim loại khác ở trong môi trường khí ẩm, nóng bị ô nhiễm khí SO
2
thì bị
han gỉ rất nhanh.
Tiểu luận CNMT
Các nghiên cứu khoa học cho biết các loại khí NOx có tác dụng làm phai màu
thuốc nhuộm vải, làm hư hỏng vải bông và ni lông, giảm rỉ kim loại và sản sinh ra các
phân tử nitrat.
3. Các Nguồn gây ô nhiễm:
Có rất nhiều nguồn gây ô nhiễm không khí. Có thể chia ra thành nguồn tự nhiên và
nguồn nhân tạo.
3.1. Nguồn tự nhiên:
• Núi lửa: Núi lửa phun ra những nham thạch nóng và nhiều khói bụi giàu sunfua,
mêtan và những loại khí khác. Không khí chứa bụi lan toả đi rất xa vì nó được phun lên
rất cao.
• Cháy rừng: Các đám cháy rừng và đồng cỏ bởi các quá trình tự nhiên xảy ra do
sấm chớp, cọ sát giữa thảm thực vật khô như tre, cỏ. Các đám cháy này thường lan
truyền rộng, phát thải nhiều bụi và khí.
• Bão bụi gây nên do gió mạnh và bão, mưa bào mòn đất sa mạc, đất trồng và gió
thổi tung lên thành bụi. Nước biển bốc hơi và cùng với sóng biển tung bọt mang theo
bụi muối lan truyền vào không khí.
• Các quá trình phân huỷ, thối rữa xác động, thực vật tự nhiên cũng phát thải nhiều
chất khí, các phản ứng hoá học giữa những khí tự nhiên hình thành các khí sunfua, nitrit,
các loại muối v.v... Các loại bụi, khí này đều gây ô nhiễm không khí.
3.2. Nguồn nhân tạo:
Nguồn gây ô nhiễm nhân tạo rất đa dạng, nhưng chủ yếu là do hoạt động công
nghiệp, đốt cháy nhiên liệu hoá thạch và hoạt động của các phương tiện giao thông.
Nguồn ô nhiễm công nghiệp do hai quá trình sản xuất gây ra:
• Quá trình đốt nhiên liệu thải ra rất nhiều khí độc đi qua các ống khói của các nhà
máy vào không khí.
• Do bốc hơi, rò rỉ, thất thoát trên dây chuyền sản xuất sản phẩm và trên các đường
ống dẫn tải. Nguồn thải của quá trình sản xuất này cũng có thể được hút và thổi ra ngoài
bằng hệ thống thông gió.
• Các ngành công nghiệp chủ yếu gây ô nhiễm không khí bao gồm: nhiệt điện; vật
liệu xây dựng; hoá chất và phân bón; dệt và giấy; luyện kim; thực phẩm; Các xí nghiệp
Tiểu luận CNMT
cơ khí; Các nhà máy thuộc ngành công nghiệp nhẹ; Giao thông vận tải; bên cạnh đó
phải kể đến sinh hoạt của con người.
4. Biện pháp phòng chống ô nhiễm không khí
Để đảm bảo sự trong sạch cho không khí trong thành phố, cần áp dụng các biện
pháp tổng hợp sau đây:
4.1. Biện pháp kỹ thuật
- Các loại máy móc và dây chuyền công nghệ lạc hậu, gây nhiều ô nhiễm, cần được thay
thế bằng các dây chuyền công nghệ, máy móc hiện đại, ít gây ô nhiễm hơn.
- Các loại máy móc chạy bằng than đá, dầu mazut phải được thay thế bằng chạy điện để
ngăn chặn ô nhiễm không khí bởi mồ hóng (muội than) và SO
2
Cần sử dụng rộng rãi điện năng trong vận tải ô tô thiết kê hoặc thay thế loại động
cơ đốt trong đốt cháy hoàn toàn nhiên liệu, chạy bằng các loại xăng cao cấp để thải ít
nhất các chất gây ô nhiễm không khí....Ưu tiên các phương tiện giao thông công cộng và
hạn chế xe tư nhân .Với vận tải bằng đường săt, cần điện khí hóa ngành này đồng thời
cần phải chuyển các xưởng sửa chữa ra khỏi thành phố.
4.2. Biện pháp quy hoạch
- Không được xây dựng các nhà máy nhiệt điện lớn trong thành phố (nếu xây mới); và
phải chuyển nó ra khỏi thành phố.
Do các nhà máy này trong quá trình sản xuất làm không khí bảo hòa hơi nước, và làm
thay đổi tiểu khí hậu dẫn tới độ ẩm không khí cao, giảm giờ nắng trong ngày, số ngày
mưa và số ngày sương mù tăng, và do sự đốt cháy không hoàn toàn của nhiên liệu đã
làm tăng mức độ nhiễm bẩn của không khí thành phố.
- Chỉ giữ lại trong thành phố các xí nghiệp trực tiếp phục vụ các nhu cầu sinh hoạt của
nhân đân, nhưng cần thay thế những máy cũ bằng máy mới, thay đổi qui trình công
nghệ với các kỹ thuật hiện đại , nhờ đó giảm chu vi vùng bảo bệ vệ sinh.
- Để giảm mức độ ô nhiễm không khí do khí xả của ô tô, cần phải thực hiên các vấn đề
về an toàn giao thông(trong thành phố phải có những bãi đỗ xe công cộng, xây dựng các
cầu vượt, tạo ra nhiều đường một chiều, phải xây dựng cầu vượt hoặc đường ngầm cho
khách bộ hành qua lại ở các ngã tư....
Tiểu luận CNMT
-Sau cùng là tạo ra các diện tích xanh rộng lớn trong thành phố (gồm cả diện tích
cây xanhvà diện diện tích mặt nước), lục hóa các vùng bảo vệ, các quảng trường; thiết
lập các dải cây xanh nối liền các khu vực khác nhau của thành phố với các rừng, công
viên, tăng diện tích cây xanh cho mỗi đẩu người lên trên 50 m
2
. Bên cạnh đó, cần phải
qui định những biện pháp nghiêm ngặt kiểm tra trước hết đối với các xí nghiệp công
nghiệp mới, đồng thời áp dụng chocả các xí nghiệp cũ.
4.3. Biện pháp Y tế-Giáo dục
- Cần tăng cường mạnh mẽ công tác tuyên truyền giáo dục dưới mọi hình thức về
vấn đề phòng chống ô nhiễm
- Cần tiến hành các cuộc nghiên cứu sâu sắc hơn, không chỉ giới hạn trong vấn đề
kỹ thuật mà còn là ảnh hưởng của các nhân tố làm không khí bị ô nhiễm tác hại lên sức
khỏe và bệnh tật, lên môi trường sinh thái như thế nào. Đề xuất được các chiến lược
trước mắt và lâu dài phòng chống ô nhiễm không khí cho một khu công nghiệp hay cho
cả một vùng lãnh thổ.
II. Ô nhiễm Do Bức xạ:
1. Hiện trạng bức xạ môi trường ở Việt nam
Các nguồn bức xạ ion hóa bắt đầu được sử dụng ở Việt nam từ năm 1923 trước tiên
là để chữa bệnh ung thư ở Viện Radium Đông Dương nay là bệnh viện K. Trong suốt 80
năm qua, ngành y tế vẫn liên tục sử dụng và sử dụng ngày càng nhiều đồng vị phóng xạ
để chữa bệnh u bướu và chẩn đoán một số bệnh. Từ năm 1958, các phương pháp hạt
nhân bắt đầu được sử dụng không những cho ngành y tế mà trong cả một số lĩnh vực
khác, trước hết là phục vụ việc thăm dò khoáng sản ở miền Bắc.
Năm 1963 lò phản ứng hạt nhân đầu tiên với công suất 250 kW ở Đà Lạt được
khánh thành và đi vào hoạt động. Tại Viện Vật lý ở Nghĩa Đô, Hà Nội đã đưa vào sử
dụng máy phát nơtron 14 MeV năm 1974 và máy gia tốc electron Micrỏton MT-17 năm
1982. Sau khi đất nước thống nhất, năm 1976 ngành hạt nhân nước ta chính thức tập
hợp lại với sự ra đời của Viện Nghiên cứu Năng lượng Nguyên tử Quốc gia. Năm 2001,
tại Viện K, lần đầu tiên ở nước ta bắt đầu sử dụng chùm lượng tử phát ra từ máy gia tốc
electron để chữa bênh u bướu.
Kể từ khi các nguồn bức xạ ion hóa bắt đầu được sử dụng ở Việt nam tới nay, số
nguồn bức xạ ion hóa được đưa vào ứng dụng đã tăng lên nhiều. Phạm vi ứng dụng
Tiểu luận CNMT
cũng được mở rộng hơn nhiều so với trước đây. Ngày nay các nguồn bức xạ không chỉ
được dùng để chữa trị ung thư như lúc ban đầu mà còn được sử dụng rộng rãi trong y tế,
trong công nghiệp giấy, xi măng, thăm dò tài nguyên khoáng sản… và cả trong công
nghiệp thực phẩm như các nhà máy bia, nước giải khát, đồ hộp, xử lý bức xạ nhắm tăng
cường chất lượng và bảo quản thực phẩm.
2. Ảnh hưởng của tia phóng xạ và chất phóng xạ đối với cơ thể.
Tia phóng xạ khi chiếu từ bên ngoài vào bề mặt cơ thể thì được gọi là tia tác dụng
ngoại chiếu. Chất phóng xạ xâm nhập vào cơ thể (qua đường thở, đường tiêu hóa), tới
tận máu, tận xương, tận các tổ chức của cơ thể đồng thời gây tác dụng chiếu xạ thì tác
dụng này gọi là tác dụng nội chiếu (bị chiếu xạ từ bên trong).
Chiếu xạ từ bên ngoài hay từ bên trong đều có thể gây nguy hiểm cho cơ thể, nhưng
chiếu xạ từ bên trong gây nguy hiểm hơn vì thời gian bị chiếu xạ lâu hơn, diện chiếu xạ
rộng hơn, cách đào thải chất phóng xạ ra ngoài cơ thể cũng có những khó khăn nhất
định. Về mặt lâm sàng khi chiếu tia phóng xạ hoặc bị nhiễm chất phóng xạ quá liều cơ
thể có những biểu hiện sau đây:
+Ảnh hưởng sớm – nhiễm phóng xạ cấp tính.
Bệnh nhiễm phóng xạ cấp tính có thể xẩy ra rất sớm sau vài giờ hoặc vài ngày, khi
cơ thể bị nhiễm xạ toàn thân trong một lúc với liều lượng phóng xạ trên 300Rem. Trong
bệnh phóng xạ cấp tính có các triệu chứng sau:
- Hiện tượng rối loạn chức phận của hệ thần kinh trung ương, đặc biệt là ở vỏ não: nhức
đầu, chóng mặt, nôn mửa, dễ hồi hộp, cáu kỉnh, khó ngủ, chán ăn, cảm giác mệt mỏi.
-Da bị bỏng hoặc bị tấy đỏ ở chỗ tia phóng xạ chiếu qua.
-Cơ quan tạo máu bị tổn thương nặng nề, các tế bào máu ở ngoại vi và ở tủy xương bị
giảm, đặc biệt là ở dòng bạch cầu và tiểu cầu, hồng cầu cũng giảm nhưng muộn hơn, kết
quả là bệnh nhân bị thiếu máu nặng, giảm khả năng chống đỡ các bệnh nhiễm trùng,
chảy máu kéo dài.
- Gầy, sút cân dần dần, có thể chết trong tình trạng suy nhược toàn bộ cơ thể, hoặc bệnh
nhiễm trùng nặng.
Trong bệnh phóng xạ, còn có những rối loạn chuyển hóa chất về nhiều mặt. Bệnh
phóng xạ cấp tính chỉ gặp trong những vụ nổ vũ khí hạt nhân, những tai nạn bất ngờ ở
các lò phản ứng nguyên tử, rất hiếm gặp trong điều kiện sản xuất, nghiên cứu thông
thường.
Tiểu luận CNMT
+Ảnh hưởng muộn - nhiễm phóng xạ mãn tính.
Trong bệnh phóng xạ mãn tính, các triệu chứng bệnh xuất hiện muộn, nhiều khi lâu
tới hàng năm, hàng chục năm kể từ lúc bị chiếu tia phóng xạ hoặc nhiễm chất phóng xạ.
Bệnh xảy ra khi cơ thể bị nhiễm một lúc với liều phóng xạ khoảng trên dưới 200Rem
hoặc nhiễm những liều lượng nhỏ tia hoặc chất phóng xạ nhưng trong một khoảng thời
gian dài.
Triệu chứng sớm nhất trong bệnh nhiễm phóng xạ mãn tính là hội chứng suy nhược
thần kinh, suy nhược cơ thể, tiếp đó là hiện tượng rối loạn chức phận cơ quan tạo máu,
rối loạn chuyển hóa chất đường, lipit, protit, muối khoáng, cuối cùng là sự thoái hóa,
suy sụp chức phận ở toàn bộ các cơ quan và hệ thống. Bệnh nhân bị nhiễm xạ mãn tính
có thể có hiện tượng đục nhân mắt, ung thư da, ung thư xương,...
Bệnh phóng xạ có xảy ra hay không, bệnh nặng hay nhẹ còn phụ thuộc vào các yếu
tố sau:
-Tổng liều chiếu xạ và liều chiếu xạ mỗi lần.
Tổng liều càng lớn tác hại càng mạnh. Nhiễm 300Rem, bệnh nhẹ có thể chữa được.
Nhiễm 600Rem, bệnh nặng chắc chắn chết. Cùng một tổng liều, nếu được chiếu phân
tán thành nhiều liều nhỏ thì tác hại sẽ ít hơn là bị chiếu gộp cả một lần.
-Diện tích cơ thể bị tia phóng xạ chiếu càng rộng càng nguy hiểm, bị chiếu toàn thân
nguy hiểm hơn khi bị chiếu ở một bộ phận. Vùng bị chiếu gây ra những tác hại nặng nề
nhất là vùng đầu, vùng bụng.
-Các tế bào trẻ như tế bào ung thư, tế bào của tổ chức thai nhi có tính mẫn cảm với tia
phóng xạ cao hơn các tế bào già trưởng thành.
-Tình trạng cơ thể mệt mỏi, đói, nhiễm độc, nhiễm trùng làm tăng thêm tính nhạy cảm
của cơ thể đối với tác dụng của tia phóng xạ.
-Bản chất vật lý của tia phóng xạ và đặc tính hóa lý của chất phóng xạ.
Tia X và nơtroo gây iôn hóa mạnh hơn tia γ. Chất phóng xạ Na
24
tác dụng đến tòan
thân nhưng thời gian tác dụng ngắn, chất I
131
tập trung ở tuyến giáp, chất Sr
40
tích lũy ở
xương,...
Biết rõ đặc tính và tác hại của các loại tia phóng xạ và chất phóng xạ chúng ta có
thể đề ra được những biện pháp phòng chống tốt nhất để ngăn ngừa những ảnh hưởng
của chúng đối với cơ thể.
Và sau đây là SƠ ĐỒ MINH HỌA QUÁ TRÌNH DIỄN BIẾN DO ẢNH HƯỞNG CỦA
BỨC XẠ ION HÓA