Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Giải pháp và đánh giá chung về các nghiệp vụ ngân hàng thương mại hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.37 KB, 26 trang )

Lời mở đầu
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, ngành ngân hàng ngày càng tở rõ vị
trí quan trọng hàng đầu của mình đối với sự phát triển của đất nuớc. Thực tế
những năm qua, trong sự đối mói của bộ mặt đất nuóc hoạt động của hệ thống
ngân hàng nói chung và Ngân hàng thuong mại nói riêng đuợc coi không
chỉsách
là nhóm 9
Danh
điều kiện mà còn là động lực đảm bảo thắng lợi cho công cuộc đối mới. Đế đạt
đuợc điều đó là do có sự đóng góp một phần không nhỏ của kế toán ngân hàng và
kế toán ngân hàng ngày càng trở nên quan trọng và cần thiết, tổ chức tốt công tác
kế toán ngân hàng là đòn bẩy không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động của hệ
thống ngân hàng, tạo ra một hệ thống ngân hàng hoạt động tốt, có hiệu quả nhờ đó
thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Nhưng để tồn tại và phát triển thì ngân hàng phải
luông có các nghiệp vụ riêng . Mà mỗi nghiệp vụ riêng lại ảnh hưởng trực tiếp tới
hoạt động của ngân hàng. Vì vậy việc biết và nhận biết rõ nội dung vai trò của
từng nghiệp vụ ngân hàng là một điều không thể thiếu đổi với các nhân viên và
các nhà quản lí ở ngân hàng. Nhận biết sự cần thiết của đề tài; “ khái quát về các
nghiệp vụ ngân hàng thưong mại hiện nay”
Mục đích của đề tài là: Dưa ra các khái niệm cơ bản nhất về các nghiệp vụ ngân
hàng và thực tế vận dụng các nghiệp vụ trong một số ngân hàng thưong mại ở
nước ta hiện nay.
Nội dung của đề tài gồm III phần:
-

Phần I: Khái quát chung về ngân hàng thưong mại và nghiệp vụ ngân hàng
thương mại.

-

Phần II: Thực trạng chung về các nghiệp vụ ngân hàng tại một sổ ngân


hàng thươnng mại tại Việt Nam hiện nay.

-

Phần III: Giải pháp và Đánh giá chung về các nghiệp vụ ngân hàng thương
mại hiện nay.

Phạm vi đề tài nghiên cúu là nghiệp vụ các ngân hàng thương mại tại Việt Nam từ
năm 2007 tới nay. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, bài viết đưa ra một sổ ý kiến
nhằm phát triến hoạt động này tại ngân hàng.
Do thời gian có hạn nên trong bài có thể có nhiều thiếu sót mong cô và các bạn
có thế giúp đỡ đóng góp ý kiến của mình đế chúng em có thế hoàn thiện hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn.


MỤC LỤC


Phần I: Khái quát về ngân hàng thương mại và các nghiệp vụ
của ngân hàng thương mại
I. Ngân Hàng Thương Mai là gì?
Ngân hàng Thương Mại là loại hình Tổ chức Tín Dụng được thực hiện toàn bộ
hoạt động Ngân Hàng (hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ Ngân Hàng với nội
dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng sổ tiền gửi này đế cấp tín dụng và
cung ứng các dịch vụ thanh toán) và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan
và mục tiêu lợi nhuận.
ỊL Mô hình hoat đông cua NHTM?
Theo tính chất hoạt động
- Ngân Hàng chuyên môn hóa: chuyên kinh doanh trong một hoặc một số lĩnh
vục nhất định hoặc trong phạm vi một hoặc một số địa bàn nhất định

- Ngân Hàng đa năng: là loại hình ngân hàng đa dạng, hoạt động trên nhiều
lĩnh vực, không giới hạn về phạm vi, địa bàn hoạt động, thực hiện đa dạng nhiều
nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng.
Theo quy mô và khối lượng giao dịch:
- Ngân Hàng bán lẻ: là loại hình ngân hàng có quan hệ với đối tượng khách
hàng vừa và nhỏ như cá nhân, hộ gia đình, các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Ngân Hàng bán buôn: là loại hình ngân hàng có quan hệ giao dịch chủ yếu
với các khách hàng lớn, bao gồm các công ty lớn, các tập đoàn đa quốc gia, chính
phủ các nước...
III. Đánh giá hoat đông cùa NHTM:
Bảng tổng kết Tài Sản (Balance Sheet), hay Bảng cân đối Ke toán của NHTM
là một báo cáo tài chính tổng hợp, được trình bày dưới dạng cân đối, phản ánh
tống quát tình hình sử dụng vốn hoạt động của NHTM tại một thời điếm nhất định.
Bảng tổng kết Tài Sản được kết cấu thành hai phần: Tài sản Có (Assets) và
Tài sản Nợ (Liabilities).
- Tài sản Nợ gôm những khoản là nguồn vôn hoạt động của NHTM, do dân
chúng gửi vào NHTM hay NHTM đi vay các đối tượng trong nền kinh tế như


Ngân hàng Trung ương, các Ngân hàng trung gian hay tố chức kinh tế khác, nước
ngoài, các doanh nghiệp...
Ngoài ra, các khoản vốn tụ' có hay vốn cố phần, lợi nhuận trước thuế hay tài
sản ròng cũng được xem là yếu tố cấu thành của Tài sản Nợ
- Tài sản Có phản ánh những khoản mục sử dụng vốn của NHTM, hay những
khoản NHTM cho thị trường vay.Vì mục tiêu của NHTM là cho vay để kiếm lời,
nên Tài sản Có hay các khoản mà NHTM cho thij trường vay còn được gọi là
khoản đầu tư của ngân hàng.
Các nghiêp vu cơ bán của NHTM:
Nghiêp vu Tài sàn Có: phản ánh quá trình sử dụng vốn vào các mục đích nhằm
đảm bảo an toàn cũng như tìm kiếm lợi nhuận của các NHTM, bao gồm:

- Nghiệp vụ ngân quỹ
- Nghiệp vụ cho vay
- Nghiệp vụ đầu tư tài chính
- Nghiệp vụ khác
* Nghiêp vu Tài sán No’ và vốn tư cỏ của NHTM: phản ánh quá trình hình
thành vốn cho hoạt động kinh doanh của NHTM bao gồm các nghiệp vụ sau:
- Nghiệp vụ tiền gửi
- Nghiệp vụ phát hành các giấy tờ có giá
- Nghiệp vụ đi vay
- Nghiệp cụ huy động vốn khác.
- Vốn tự có
* Nghiêp vu ngoài Báng tống kết tài sán: môi giới mua bán những công cụ
tài chính đã tạo ra thu nhậpnhờ các khoản lệ phí và chuyển nhượng những khoản
vay; bán các khoản cho vay; thực hiện kinh doanh hối đoái nhân danh một khách
hàng, phục vụ chứng khoán hỗ trợ vay thế chấp bằng cách thu tiền gổc và tiền lãi
rồi tất toán, bảo đảm các chứng khoán vay nợ, ví dụ các hồi phiếu được ngân hàng
chấp nhận và cung cấp các mức tín dụng hỗ trợ

Phần II: Thực trạng chung về các nghiệp vụ ngân hàng tại
một số ngân hàng thươnng mại tại Việt Nam hiện nay.


A. THỰC TRẠNG CHUNG CỦA NGÂN HÀNG HIỆN NAY
. Ngành ngân hàng trong năm 2008
Ngành ngân hàng trong năm 2008 đã trãi qua nhiều biến động khó khăn.
a. Lạm phát: Đầu năm phải đối mặt với lạm phát tăng cao (theo tính tóan so bộ
lạm phát năm nay của Việt Nam là 24%) do đó việc thắt chăt tiền tẽ đã gây khó
khăn không nhỏ cho ngân hàng. Thứ nhất: họ phải tăng lãi suất vay vì thế cho
nên
phải tăng lãi suất cho vay. Lãi suất cho vay quá cao khiến càng ít doanh nghiệp

vay vốn, làm cản trở đến việc kinh doanh của ngân hàng. Thứ hai: Do lãi suất
cao
nên khả năng hoàn trả của các con nợ bị giảm sút, việc thu hồi nợ khó khăn hơn,
các khoản nợ xấu gia tăng, làm tăng khả năng rủi ro của các ngân hàng. Thứ ba:
Do lý do thứ hai nên các ngân hàng trở nên dè dặt trong việc cho vay vốn, tiền
không đuợc mang ra sử dụng lưu thông trở thành những khoản tiền vô ích, làm
tăng chí phí cho ngân hàng.
b. Con bão tài chính Mỹ: Gần cuối năm, ngành tài chính ngân hàng phải đón
nhận tin cơn bão tài chính ở Mỹ. Nhưng có lẽ nó có ít tác động đến ngành ngân
hàng Việt Nam mà nhiều khi còn là tin tốt. Tin tốt là vì: Khi nhìn thấy sự khủng
hoảng của ngành ngân hàng tại Mỹ, các ngân hàng Việt Nam sẽ suy xét và nhìn
nhận lại cách làm ăn của mình. Họ sẽ thận trọng hơn với các khoản cho vay của
mình; họ sẽ tìm cách giảm rủi ro trong quá trình cho vay; họ sẽ đề phòng và
miễn
dịch với các dự án đầu tư hay cho vay mà ở đó các khoản nợ xấu, khó đòi là
cao;
họ sẽ tập trung vào các khoản mục sinh lợi tốt, khả năng hoàn vốn cao và có sự
phát triển trong tương lai.
c. Cạnh tranh giữa các ngân hàng: Đầu tiên là sự cạnh tranh các ngân hàng
trong nước và các ngân hàng nước ngoài. Càng ngày càng có nhiều ngân hàng
nước ngoài vào Việt Nam. Lợi thế của họ là có nhiều vốn, có tiềm lực tài chính

quản lý. HSBC là ngân hàng nước ngoài tích cực nhất hiện nay. HSBC vừa
được
Ngân hàng Nhà nước chính thức cho phép thảnh lân ngân hảng con 100% vốn
nước ngoài tại Việt Nam. Việc thành lập ngân hàng con sẽ cho phép HSBC mở
rộng mạng lưới phân phối rộng hơn, tới các khách hàng hiện tại cũng như khách


hàng mới. HSBC trở thành ngân hàng nước ngoài đầu tiên tại Việt Nam sở hũư

20% cố phần tại một ngân hàng trong nước sau khi nâng cô phần sở hữu tại
Techcombank tù' 14,4% lên 20%. Điều này cho phép HSBC mở rộng sức ảnh
hưởng và gia tăng tầm hoạt động của mình. Sức ép cạnh tranh ngày càng gia tăng
đối với các ngân hàng nội.
Cạnh tranh vói ngân hàng trong nước: Điều này là hiến nhiên nhưng có xu thế
mới đó là việc hợp tác của các ngân hàng nội. Việc rõ ràng nhất là “liên minh
ATM”. Cầm thẻ ATM của ngân hàng Techcombank nhưng khi đến trạm rút tiền
của ngân hàng Vietcombank bạn vẫn có thể rút tiền được. Điều này làm gia tăng
tầm hoạt động, khả năng cạnh tranh, sức thu hút khách hàng hơn là những ngân
hàng không nằm trong liên minh.
Nhưng sự cạnh tranh dù là giữa nội - ngoại hay nội - nội vẫn là cần thiết. Vì như
thế các ngân hàng sẽ không ngừng cải thiện, không ngừng gia tăng chất lượng dịch
vụ, luôn luôn sáng tạo để làm thỏa mãn những đòi hỏi của đất nước, của người dân
và các doanh nghiệp.
d. Cạnh tranh vói thị trường chứng khoán: Càng ngày chứng khoán càng trở
nên lộ diện là đối thủ cạnh tranh trục tiếp với các ngân hàng về mặt huy động vốn
trong dân. Trước kia chưa có chứng khoán thì người dân sẽ gửi tiền nhàn rỗi của
mình vào các ngân hàng nhằm kiếm các khoản lợi tức. Nhưng nay, chứng khoán
đã làm giảm lượng huy động vốn nhàn rỗi của các ngân hàng. Những người dân có
tiền nhàn rỗi họ sẵn sàng lao vào đầu tư chứng khoán với hi vọng kiếm lời cao hơn
là gửi tiền vào ngân hàng (tuy có rủi ro cao hơn). Bên cạnh đó, các doanh ngiệp
ngoài kênh huy động vốn là vay mượn các ngân hàng họ còn có cách là phát hành
cố phiếu ra thị trường. Đấy cũng là một cách tốt đế huy động vốn.
Nói đến khó khăn thì cũng cần nhắc đến nhũng thành tựu hay dấu hiệu khả quan
mà ngành ngân hàng đã làm được trong năm nay.
Dấu hiệu khả quan:Trong năm nay, ngành ngân hàng phải chống chọi với lạm
phát và cơn bão khủng hoảng tín dụng của Mỹ nên chưa có nhũng bước phát triến


như mong muốn. Dấu hiệu khả quan có thế nhận thấy ngay là góp phần cùng với

ngân hàng trung ương hạn chế lạm phát một cách tích cực và hiệu quả.
Những điếm cần khắc phục:cần mở rộng hơn nữa các chi nhánh ngân hàng.
Hiện nay mới chỉ tập trung ở các thành phố lớn. Tầm hoạt động còn hẹp. Điếm cần
khắc phục ngay là hệ thống ATM. Còn quá ít các điếm rút tiền tự’ động, mỗi lần
rút là cả một sự chò' đợi. Ngày nay, việc trả lương cho công nhân viên qua hệ
thống ATM cho nên cần khắc phục chất lượng của hệ thống ATM, tránh sự chờ
đợi và hết tiền trong lúc chờ đợi rút tiền. Phải có liên mình ATM rộng rãi hơn nữa.
Có lẽ các ngân hàng trong nước cần hợp tác với nhau về vấn đề này nhiều hơn.
Cần có cơ chế quàn lý rủi rơ. Bài học từ tài chính Mỹ có lẽ bài học đắt giá cho
ngành ngân hàng. Lợi nhuận cao luôn đi kèm với rủi ro cao, bài học ngàn năm
muôn thuở. Ngày nay, ngân hàng cũng tham gia vào thị trường bất động sản,
chứng khoán và thị trường vàng. Quả thực đây là các thị trường có khả năng sinh
lợi cao và thật khó mà bỏ qua nhưng đấy cũng là điếm cần quan tâm. Có lẽ cần có
cơ chế quản lý hay giảm thiếu rủi ro. Các trường đại học về kinh tế chỉ mới có
môn học về quản lý rủi ro nhưng vẫn chưa có một chuyên ngành về quản lý, hạn
chế rủi ro. Có lẽ cũng cần suy xét về vấn đề này. Neu ngành ngân hàng và các
trường đại học tham gia cùng huấn luyện hay đào tạo sinh viên về quản lý và hạn
chế rủi ro thì là tốt nhất. Các sinh viên này sau khi ra trường có thể làm việc tại
ngân hàng nơi mà họ được chính các ngân hàng nay tham gia đào tạo.
2. Dự báo cho ngành ngân hàng trong năm 2009
Động thái đầu tiên mà ngân hàng sẽ làm là giảm lãi suất cho vay, nới lỏng tiền tệ.
Mà bằng chứng là các ngân hàng đang rục rịch giảm lãi suất khi lãi suất cơ bản
giảm còn 13%. Với động thái này các doanh nghiệp sẽ dễ dàng tiếp cận với vốn
vay ngân hàng. Nhung bên cạnh đó, các khoản vay sẽ được giám sát kỹ hơn do di
chứng và bài học tù’ khủng hoảng Mỹ đế lại.
Qua cơn bão tài chính Mỹ vừa qua và các chính sách thắt chặt tiền tệ của chính
phủ và ngân hàng trung ương làm các ngân hàng nhỏ điêu đứng và sang năm 2009
này các ngân hàng nhỏ, lẻ, yếu kém sẽ bị sáp nhập. Sự sáp nhập này có các điều
lợi sau:





Thứ nhất: Củng cố hệ thống ngân hàng trong nước.



Thứ hai: Việc quản lý vĩ mô của chính phủ qua các ngân hàng sẽ dễ dàng
hơn vì có ít các ngân hàng đế quản lý hơn.



Thứ ba: Tạo sức mạnh mới cho các ngân hàng sáp nhập, mở rộng về quy
mô và tầm hoạt động.

Các dịch vụ ngân hàng sẽ được củng cố, các ngân hàng sẽ chú trọng đến mảng bán
lẻ hơn. Trong số đó, các dịch vụ cho vay chứng khoán, mua vàng, hay mua bất
động sản sẽ được chú trọng và phát triển nhiều hơn. Bên cạnh đó sẽ có các dịch vụ
chăm sóc khách hàng cá nhân tốt hơn. Mảng bán lẽ này sang năm 2009 sẽ là mảng
đấu tranh quyết liệt nhất giữa các ngân hàng thương mại với nhau. Sẽ có hàng loạt
các dịch vụ mới được tung ra khi các mảng đầu tư lớn đang ẩn chứa nhiều rủi ro
cao.
Sang năm 2009 có thể các ngân hàng thương mại sẽ cùng ngân hàng trung ương
tham gia vào việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái. Hiện nay, đồng USD đang lên giá so
với đồng nội tệ (tức là 1 USD có thể đối lấy nhiều VND hơn trước) mà như thế sẽ
tác động đến xuất khẩu (1USD đối lấy nhiều VND hơn vì thế người ta sẽ muốn
xuất khẩu nhiều hơn để lấy ngoại tệ và khi quy đổi ra nội tệ để sử dụng thì sẽ có
lợi hơn). Lúc này sẽ có nhiều ngoại tệ hơn trong lưu thông và do đó tỷ giá hối đoái
sẽ giảm, lúc này cũng sẽ ảnh hưởng đến xuất khẩu. Vì vậy, ngân hàng trung ương
cùng với ngân hàng thương mại sẽ góp tay vào việc bình ốn tỷ giá hối đoái trên thị

trường. Lúc đầu sẽ có sự chênh vênh về tỷ giá hối đoái nhưng sau đó nó sẽ được
bình ổn dần. Đối với những người muốn đầu cơ đồng USD thì có lẽ đây là thời
điểm tốt.
Năm 2009 là năm dè chừng các khoản cho vay của ngân hàng. Các ngân hàng sẽ
không dễ dãi cho vay mà sẽ suy xét cẩn thận hơn. Chính điều này sẽ làm các ngân
hàng thêm vững, đầu tư sẽ không dàn trãi mà tập trung, do đó khả năng lợi nhuận
cũng khả quan, bên cạnh đó tránh nhũng rủi ro không cần thiết.
Năm 2009, giá xăng sẽ còn giảm nhẹ, sau đó thì bình ôn một thời gian dài. Đây là
thời điếm tốt đế các doanh nghiệp trong nước đầu tư phát triến. Khi nói đến đầu tư
thì người ta nghĩ ngay đến ngân hàng với các khoản vốn cho vay. Thời gian sắp tới


các ngân hàng sẽ bận rộn với việc xem xét các khoản cho vay của mình và lợi
nhuận sắp tới của ngân hàng sẽ được tăng cao. Có lẽ không rục rỡ nhung khả năng
thu hồi vốn sẽ cao và đồng tiền sẽ trở nên lỏng hơn.

B. NGIỆP VỤ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I.

Ngiệp vụ ngân quỹ

1. Khái niệm: Đây là nghiệp vụ phản ánh các khoản vốn của ngân hàng được
dùng vào với mục đích đảm bảo an toàn về khả năng thanh toán thường xuyên
và thực hiện quy định về dự trữ’ bắt buộc do Ngân Hàng Trung Ương đề
ra.Theo quy định của NHNN Việt Nam hiện nay thì tỷ lệ dự trữ bắt buộc là

10%.

2.


Các khoản mục trong nghiệp vụ ngân quỹ:

giữ một lượng tiền mặt dưới các dạng sau:
a/ Tiền mặt tại quỹ của ngân hàng( vault cash ): gồm tiền giấy và tiền kim
loại hiện có tại kho của ngân hàng. Nhu cầu dự trữ tiền mặt cao hay thấp tùy
thuộc theo quy mô hoạt đông của ngân hàng, tính thời vụ, cũng như nhu cầu rút
tiền mặt của khách hàng.
b/ Tiền gửi ở các ngân hàng khác: Nhiều các ngân hàng nhỏ gửi tiền ở các
ngân hàng lớn đế đối lấy nhiều dịch vụ khác nhau như thanh toán giữa các
ngân hàng, gia dịch ngoại tệ, giúp mua chúng khoán. Các ngân hàng cũng mở
tài khoả Với mục đích đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên, ngân hàng
luôn n tại các ngân hàng khác đế thực hiện các nghiệp vụ thanh toán, chuyến
tiền cho khách hàng.
c/ Tiền gủi tại các ngân hàng trung U’0’ng: Bao gồm tiền gửi dự trữ’ bắt buộc
theo quy định của NHTW và tiền gửi thanh toán đẻ phục vụ các hoạt động
thanh toán giữa các ngân hàng thong qua vai trò trung gian thanh toán của
NHTW.
Ngoài tiền mặt, ngân hàng còn giữ các chúng khoán ngắn hạn, có tính lỏng cao
đẻ có thế chuyến thành tiền mặt nhanh chóngkhi cần như tín phiếu, thương
phiếu...
Các bộ phận trên hình thành nên phàn dự trữ của ngân hàng thương mại. Mặc
dù dự trữ của ngân hàng thương mại không tạo nên lợi nhuận nhung nó đảm


bảo khả năng thanh toán và các nghĩa vụ tài chính khác cho ngân hàng. Vì thế
nó hạn chế rủi ro thanh khoản, nâng cao uy tín cho ngân hàng, tạo nền tảng
vũng chắc cho khả năng sinh lời của ngân hàng.
II.

Nghiệp vụ cho vay:


1. Khái niệm: cho vay là nghiệp vụ tạo khả năng sinh lời chính trong hoạt
động kinh doanh của các NHTM. Nghiệp vụ này bao gồm các khoản đầu tư sinh
lời của ngân hàng thông qua cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn đối với nền kinh
tế. Đây có thể nói là nghiệp vụ chính của các ngân hàng thương mại.
Trong thực tế các ngân hàng có rất nhiều hình thức cho vay khác nhau đế có
thể đáp ứng các nhu cầu vay của nhiều đối tượng trong xã hội như : phân theo thời
gian có vay ngắn hạn, vay trung hạn và vay dài hạn. Phân theo đối tượng ta có vay
tiêu dùng và vay cho sản xuất, hay các dịch vụ trả góp của ngân hàng cũng là một
hình thức cho vay của ngân hàng.
2. Hoạt động cho vay tiêu dùng ỏ’ Việt Nam
Do những lợi ích mà cho vay tiêu dùng mang lại, nhiều NHTM Việt Nam hiện nay
đã thực hiện hoạt động cho vay tiêu dùng. Các hình thức cho vay tiêu dùng rất
phong phú như cho vay mua nhà mới, sửa nhà, cho vay mua ô tô, du học, đồ dùng
gia đình và các sản phẩm khác. Các ngân hàng đã triển khai hoạt động cho vay
tiêu dùng gồm có các ngân hàng thương mại Nhà nước như Vietcombank, ngân
hàng công thương, ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam,
ngân hàng đầu tư Việt Nam. Bên cạnh đó, các ngân hàng cố phần cũng tham gia
rất tích cực vào thị trường mới mẻ này như ngân hàng thương mại cổ phần kỹ
thương Việt Nam, ngân hàng Á Châu (ACB), ngân hàng cổ phần quân
đội, ngân hàng Sài Gòn Thương Tín, Ngân hàng cố phần nhà Hà Nội...
3. Ngân hàng đồng loạt mỏ’ lại các sản phẩm tín dụng tiêu dùng, nhưng cửa
cho vay đã thực sự thoáng?
Trong thời gian gần đây nhiều ngân hàng thương mại cổ phần đồng loạt thông báo
chính thức mở cửa cho vay tiêu dùng, sau khi “nút thắt” lãi suất đã được Ngân
hàng Nhà nước gỡ. Những ghi nhận ban đầu cho thấy, có vẻ nghiệp vụ này đã
thoáng hơn ở các hạn mức tín dụng và lãi suất vay vốn.

Hạn mửc 500 triệu đồng



Trong năm 2007, năm tín dụng tiêu dùng bùng nô, thị trường ghi nhận những hạn
mức cho vay tín chấp cán bộ điều hành doanh nghiệp lên tới 200 - 300 triệu đồng.
Sau gần một năm bị siết chặt từ khó khăn thanh khoản trước đó và co chế lãi suất
trần về sau, trong sự trở lại trên diện rộng từ giữa tuần này, thị trường ghi nhận kỷ
lục về hạn mức cho vay tiêu dùng tín chấp tới 500 triệu đồng.
Kỷ lục trên có ở Ngân hàng Liên Việt (LienVietBank). Cụ thế, theo thông báo của
ngân hàng này, khách hàng là cán bộ, nhân viên của các tố chức, doanh nghiệp có
thể vay vốn mà không cần tài sản bảo đảm và không cần bảo lãnh trả thay của
công ty với hạn mức vay có thể lên đến 500 triệu đồng, thời hạn cho vay tối đa là
36 tháng.
Theo ông Nguyễn Đức Hưởng, Tổng giám đốc LienVietBank, “mặc dù tín chấp
tiêu dùng chứa đựng nhiều rủi ro (không có tài sản đảm bảo) nhưng nếu quy định
rõ ràng, cụ thể với quy trình quản lý chặt chẽ thì đây chính là thị trường đầy tiềm
năng đế các công ty tài chính và ngân hàng khai thác, đặc biệt là trong hoàn cảnh
các chính sách vĩ mô đang hướng tới việc đay mạnh phát trien kinh tế như hiện
nay”.
Ngoài ra, ông Hưởng cho biết thêm, đấy mạnh tín dụng tiêu dùng tham gia kích
cầu là một trong những mục tiêu lớn của LienVietBank trong năm 2009.
Đầu tuần này, một ngân hàng cổ phần lớn là Sacombank cũng khẳng định tiếp tục
đẩy mạnh hoạt động cho vay tiêu dùng, tham gia kích cầu tiêu dùng bên cạnh việc
triển khai chương trình hỗ trợ lãi suất cho doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất kinh
doanh.
Cùng thời điểm trên, Ngân hàng Thương mại cố phần Nhà Hà Nội (Habubank)
cho biết sẽ dành một gói 2.000 tỷ đồng đế hỗ trợ cho các khách hàng cá nhân vay
vốn tiêu dùng, cải thiện đời sống. Ngân hàng này còn áp dụng cơ chế tặng hợp
đồng bảo hiếm “đính kèm” với giá trị tối đa lên tới 800 triệu đồng...
Cửa đã thực sự thoáng?
Ngày 23/1, Ngân hàng Nhà nước có Thông tư số 01, hướng dẫn về lãi suất thoả
thuận của tố chức tín dụng đối với cho vay các nhu cầu vốn phục vụ đời sống, cho

vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng. Văn bản này chính
thức tạo điều kiện đế tín dụng tiêu dùng tìm hướng trở lại.


Với văn bản trên, các tổ chức tín dụng được thực hiện lãi suất thoả thuận đối với
cho vay các nhu cầu vốn phục vụ đời sống, được xác định giới hạn tín dụng liên
quan...
Ngay sau văn bản trên, tại một ngân hàng thương mại cố phần, một sổ nhân sự chủ
chốt đã được trả lại đúng vị trí đế mở lại nghiệp vụ cho vay tiêu dùng, sau một
thời gian bị điều chuyển do nghiệp vụ này bị đóng chặt.
Phó phòng Tín dụng ngân hàng trên cho biết, mặc dù Ngân hàng Nhà nước đã “bật
đèn xanh”, nhung việc triến khai cụ thế của ngân hàng mình vẫn đang dè chừng.
Trước hết, phải chò' đợi phản úng của các ngân hàng bạn, phải đánh giá lại thực tế
của nhu cầu thị trường, hoạch định cơ chế kiếm soát rủi ro, lãi suất và xây dựng
các hạn mức liên quan...
Theo đánh giá của ông, với sự trở lại này, nhiều ngân hàng sẽ thận trọng, đặc biệt
là trong định hướng tăng trưởng tín dụng, giám sát rủi ro và chính sách lãi suất
phù họp.
Tại LienVietBank, mức lãi suất cho vay loại này thấp nhất là 1%/tháng, ứng với
12%/năm; được cho là mức thấp nhất trên thị trường hiện nay.
Tại một số ngân hàng thương mại khác, mức thấp nhất được ghi nhận ở mức
13,8%/năm, cao nhất là 15%/năm; nhiều thành viên áp phổ biến quanh mốc
14%/năm.
Theo phân tích của cán bộ tín dụng trên, dù thời gian qua lãi suất cho vay đã liên
tục giảm, so với năm 2008 có vẻ đã xuống mức thấp và hấp dẫn đối với các nhu
cầu vay vốn. Tuy nhiên, người tiêu dùng đã thận trọng hơn trong cơ chế thực hiện
các mức lãi suất nói trên.
“Trong năm 2008, nhiều người phải vay loại này với lãi suất lên tới 2%/năm. Đó
là một mức cao. Cũng có thế vay được mức thấp hơn, nhung thực tế chưa chắc đã
có lợi, cũng như lãi suất 14% hay 15%/năm như hiện nay chưa hắn đã thoáng”,



ông này nhận định.
Cụ thể, trong thời gian qua, nhiều ngân hàng cho vay tiêu dùng với lãi suất “add on” (lãi suất tính trên tổng vốn gốc trong suốt thòi hạn vay). Theo đó, có vẻ mức
lãi suất thấp nhung người vay vẫn phải trả trên tống vốn vay ban đầu, dù dư nợ
thực tế đã giảm dần.
Hiện nay, trong sự trở lại nói trên, độ thoáng của các mức lãi suất 14% - 15% còn
phụ thuộc vào cơ chế của các sản phẩm. Với các sản phẩm tính theo cơ chế lãi suất
“add-on” nói trên, đó vẫn là một rào cản lớn.
Mặt khác, với biến động của lãi suất như đã từng diễn ra trong năm 2008, người
vay vốn trở nên thận trọng hơn với các kỳ điều chỉnh, bởi các khoản vay thường
có kỳ hạn từ 2 - 4 năm, trong khi tình hình lãi suất hiện nay không chắc sẽ tiếp tục
ốn định trong những năm.
II. Nghiệp vụ đầu tư tài chính
1. Khái niệm: Đầu tư tài chính là một hình thức đầu tư chủ yếu thông qua hình
thức,mua chứng khoán, trái phiếu hoặc thông qua công cụ tài chính khác. Nhà
đầu
tư tài chính thông thường chỉ nhắm vào mục đích mua và bán chứ ít làm tăng giá
trị thực của công ty mà họ đầu tư vào.
2. Thực trạng đầu tư tài chính:
Các ngân hàng thương mại thực hiện quá trình đầu tư bằng vốn của mình thông
qua các hoạt động hùn vốn, góp vốn, kinh doanh chứng khoán trên thị trường.
Trong nghiệp vụ này, ngân hàng sẽ dùng nguồn vốn của mình và nguồn vốn ốn
định khác đế đầu tư dưới các hình thức như :
• Hùn vốn, mua cố phần của các công ty, xí nghiệp; việc hùn vốn mua cố
phần chỉ được phép thực hiện bằng vốn tự’ có của ngân hàng.
• Mua trái phiếu Chính phủ, chính quyền điạ phương.
• Mua trái phiếu công ty...
Tất cả mọi hoạt động đầu tư vào chứng khoán đều nhằm đa dạng hóa thu
nhập nhưng mặc khác nhờ hoạt động đầu tư mà các rủi ro trong hoạt động ngân

hàng sẽ được phân tán. Ngoài ra, nếu đầu tư vào trái phiếu Chính phủ thì mức độ
rủi ro sẽ rất thấp. Vì vậy, các NHTM có xu hướng tập trung nguồn vốn nhàn rỗi
đầu tư vào trái phiếu chính phủ.


Các ngân hàng thương mại thành lập các công ty chứng khoán (CTCK),
công ty quản lý quỹ đầu tư,, một số ngân hàng còn phối hợp với các tập đoàn tài
chính kinh tế lớn hình thành công ty đầu tư tài chính, Việc đấy mạnh đầu tư tài
chính và hình thành các công ty chuyên đầu tư tài chính là điều kiện tốt đế các
ngân hàng tạo thêm lợi nhuận,
Chẳng hạn, song song với việc đầu tư qua CTCK trực thuộc SBS, Công ty quản lý
Quỹ VFM, Sacomreal..., ngày 25/7/2007, Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín
(Sacombank) đã phối hợp với Toàn Thịnh Phát và Công ty Thành Thành Công
chính thức ra mắt Công ty cổ phần Đầu tư Sài Gòn Thương Tín (Sacomlnvest),
với tổng vốn điều lệ ban đầu lên đến 300 tỷ đồng, trong đó tỷ lệ góp vốn của
Sacombank là 11%. Ông Đặng Văn Thành, Chủ tịch HĐQT Sacombank cho rằng,
việc thành lập Công ty nhằm đáp ứng một cách tốt nhất và trọn gói nhu cầu về tài
chính của tất cả các đối tượng khách hàng, từ doanh nghiệp đến các cá nhân. Đồng
thời, qua đó sẽ dần hình thành nền tảng cho một tập đoàn tài chính đa chức năng
trong tương lai của Sacombank. Không chỉ Sacombank, hiện DongA Bank,
ABBANK cũng đã cơ cấu danh mục bỏ vốn đầu tư. Trong kế hoạch tăng vốn lên
2.800 tỷ đồng 2007, DongA Bank sẽ sử dụng một phần cho việc hùn vốn để liên
doanh. Ông Trần Phương Bình, Tổng giám đốc DongA Bank cho biết, hiện hoạt
động liên doanh, liên kết và tài trợ đầu tư của Đông Á với các đơn vị kinh tế đang
có nhiều triển vọng. Hoạt động này sẽ giúp các đơn vị kinh tế có điều kiện thực
hiện những dự án đầu tư cần vốn lớn và trong thời gian dài. Do vậy, DongA Bank
dự kiến dành khoảng 5% tổng vốn điều lệ cho hoạt động trên.
Còn ABBANK có kế hoạch tăng vốn điều lệ lên 5.000 tỷ đồng trong năm nay để
triển khai các kế hoạch đầu tư tài chính, như mua lại cố phần của các doanh
nghiệp tiềm năng, đầu tư vào các dự án bất động sản triển vọng. Ông Lưu Đức

Khánh, Tống giám đốc ABBANK cho rằng, trước đây, với việc tăng vốn điều lệ,
các ngân hàng thường phải chịu áp lực lớn về cổ tức và đảm bảo lợi nhuận, nhưng
hiện nay, ngoài việc kinh doanh truyền thống, còn có nhiều kênh khác đế bỏ vốn
đầu tư. Vì vậy, họ không quá lo lắng khi thừa vốn và thiếu khách hàng đến vay.
Trao đổi với Đầu tư, ông Phạm Văn Thiệt, Tổng giám đốc Ngân hàng TMCP Xuất
nhập khẩu Việt Nam (Eximbank) cũng cho hay, đầu tư tài chính là hướng đầu tư


mang lại hiệu quả cao cho ngân hàng. Hiện Việt Nam chua có ngân hàng đầu tu',
nên các ngân hàng thương mại phải kiêm luôn việc đầu tu tài chính. Với
Eximbank, tông nguồn vốn dành cho việc đầu tu' tài chính trong năm 2007 lên đến
9.000 tỷ đồng (dựa trên tổng tài sản dự kiến đến hết năm 2007 đạt 30.000 tỷ
đồng). Trong đó, trái phiếu chiếm 70% và 30% còn lại đuợc Ngân hàng đầu tu vào
thị trường cổ phiếu.
Tuy nhiên cuộc khoảng hoảng tài chính năm 2008 đã ảnh hưởng tới sự đầu
tư tài chính của các cá nhân, tổ chức, cũng như các ngân hàng thương mại, lượng
đầu tư tài chính giảm, kinh doanh trên thị trường cố phiều cũng giảm. Cụ thế đầu
tư tài chinh, góp vôn đầu tư dài hạn của ngân hàng B1DV báo cáo trong ngày
31/12/08 đó là 2.753.072 triệu đồng, chứng khoán đầu tư 31394.906 triệu đồng.
Ngân hàng Phương Đông trong báo cáo cuối năm 2008 thì góp vốn và đầu tư dài
hạn là 203.088 triệu đồng, chứng khoán kinh doanh là 73.660 triệu đòng giảm
95,313 triệu đồng’
III.
Một số nghiệp vụ khác
Thực hiện trao đối ngoại tệ. Lịch sử cho thấy rằng một trong những dịch vụ ngân
hàng đầu tiên được thực hiện là trao đổi ngoại tệ - một nhà ngân hàng đứng ra
mua, bán một loại tiền này, chẳng hạn USD lấy một lại tiền khác, chẳng hạn Franc
hay Pesos và hưởng phí dịch vụ.
Chiết khấu thương phiếu và cho vay thương mại. Ngay ở thời kỳ đầu, các ngân
hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với các doanh nhân địa

phương những người bán các khoản nợ (khoản phải thu) của khách hàng cho ngân
hàng đế lấy tiền mặt.
Bảo quản vật có giá trị: Ngay từ thời Trung cố, các ngân hàng đã bắt đầu thực
hiện việc lưu giữ vàng và các vật có giá khác cho khách hàng trong kho bảo quản.
Một điều hấp hẫn là các giấy chứng nhận do ngân hàng ký phát cho khách hàng
(ghi nhận về các tài sản đang được lưu giữ) có thể được lưu hành như tiền - đó là
hình thức đầu tiên của séc và thẻ tín dụng. Ngày nay, nghiệp vụ bảo quản vật có
giá trị cho khách hàng thường do phòng “Bảo quản” của ngân hàng thực hiện.
Tài trợ các hoạt động của Chỉnh phủ. Trong thời kỳ Trung cố và vào những
năm đầu cách mạng Công nghiệp, khả năng huy động và cho vay với khối lượng
lớn của ngân hàng đã trở thành trọng tâm chú ý của các Chính phủ Âu - Mỹ.
Thông thường, ngân hàng đượccấp giấy phép thành lập với điều kiện là họ phải


mua trái phiếu Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tống lượng tiền gửi mà
ngân hàng huy động được.
Cung cấp các tài khoán giao dịch. Cuộc cách mạng công nghiệp ở Châu Âu và
Châu Mỹ đã đánh dấu sự ra đời những hoạt động và dịch vụ ngân hàng mới. Một
dịch vụ mới, quan trong nhất được phát triển trong thời kỳ này là tài khoản tiền
gửi giao dịch (demand deposit) - một tài khoản tiền gửi cho phép người gửi tiền
viết séc thanh toán cho việc mua hàng hóa và dịch vụ.
Cung cấp dịch vụ ủy thác. Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã thực hiện việc
quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính cho cá nhân và doanh nghiệp thương
mại. Theo đó ngân hàng sẽ thu phí trên cơ sở giá trị của tài sản hay quy mô họ
quản lý. Chức năng quản lý tài sản này được gọi là dịch vụ ủy thác (trust Service).
Tư vấn tài chính: Các ngân hàng từ lâu đã được khách hàng yêu cầu thực hiện
hoạt động tư vấn tài chính, đặc biệt là về tiết kiệm và đầu tư. Ngân hàng ngày nay
cung cấp nhiều dịch vụ tư vấn tài chính đa dạng, từ chuẩn bị về thuế và kế hoạch
tài chính cho các cá nhân đến tư nhân về các cơ hội thị trường trong nước và ngoài
nước cho các khách hàng kinh doanh của họ.

Quản lý tiền mặt. Qua nhiều năm, các ngân hàng đã phát hiện ra rằng một số dịch
vụ mà họ làm cho bản thân mình cũng có ích đối với các khách hàng. Một trong
những ví dụ nổi bật nhất là dịch vụ quản lý tiền mặt, trong đó ngân hàng đồng ý
quản lý việc thu và chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng
dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoản sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho đến
khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán.
Dịc vụ thuê mua thiết bị. Rất nhiều ngân hàng tích cực cho khách hàng kinh
doanh quyền lựa chọn mua các thiết bị, máy móc cần thiết thông qua hợp đồng
thuê mua, trong đó ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê.
Cho vay tài trợ dự án. Các ngân hàng ngày càng trở nên năng động trong việc tài
trợ cho chi phí xây dựng nhà máy mới đặc biệt là trong các ngành công nghệ cao.
Bản các dịch vụ bảo hiếm. Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã bán bảo hiếm tín
dụng cho khách hàng, điều đó bảo đảm việc hòan trả trong trường hợp khách hàng
vay vốn bị chết hay bị tàn phế
Cung cấp các kế hoạch hưu trí: Phòng ủy thác ngân hàng rất năng động trong
việc quản lý kế hoạch hưu trí mà hầu hết các doanh nghiệp lập cho người lao
động, đầu tư vốn và phát lương hưu cho những người đã nghỉ hưu hoặc tàn phế.


Cung cấp các dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán. Trên thị trường tài chính
hiện nay, nhiều ngân hàng đang phấn đấu đế trở thành một “bách hóa tài chính”
thực sự, cung cấp đủ các dịch vụ tài chính cho phép khách hàng thỏa mãn mọi nhu
cầu tại một địa điếm.
Cung cấp dịch vụ quỹ tương ho và trợ cấp. Do ngân hàng cung cấp các tài khoản
tiền gửi truyền thống với lãi suất quá thấp, nhiều khách hàng đã hướng tới việc sử
dụng cái gọi là sản phẩm đầu tư (investment Products) đặc biệt là các tài khoản
của quỹ tương hỗ và hợp đồng trợ cấp, những loại hình cung cấp triển vọng thu
nhập cao hơn tài khoản tiền gửi dài hạn cam kết thanh toán một khoản tiền mặt
hàng năm cho khách hàng bắt đầu từ một ngày nhất định trong tương lai ( chẳng
hạn ngày nghỉ hưu). Ngược lại, quỹ tương hồ bao gồm các chương trình đầu tư

được quản lý một cách chuyên nghiệp nhằm vào việc mua cổ phiếu, trái phiếu và
các chứng khoán phù hợp với mục tiêu của quỹ (ví dụ: Tối đa hóa thu nhập hay
đạt được sự tăng giá trị vốn).

c.

NGHIỆP VỤ TÀI SẢN NỢ VÀ VỐN TỤ CÓ CỦA NGÂN HÀNG
I. Thực trạng huy động vốn của các ngân hàng thương mại

1. Tống nguồn vốn huy động của các NHTM và tổ chức tín dụng toàn quốc trong
5 năm qua đạt tốc độ tăng khoảng 20% - 25%/năm, gấp hơn 3 lần tốc độ tăng
trưởng kinh tế. Cụ thể năm 2000 vốn huy động của hệ thống ngân hàng tăng
26,5% so với năm trước, năm 2001 tăng 25,53%, năm 2002 tăng 17,7%, năm 2003
tăng 24,94%, năm 2004 tăng 30,39%, năm 2005 tăng 18% và 6 tháng đầu năm
2006 tăng hơn 12%. Hệ thống NHTM quốc doanh chiếm trên 75% thị trường huy
động vốn đầu vào.
2. Trong giai đoạn 2001-2005, vốn đầu tư thông qua kênh hệ thống ngân hàng
vào nền kinh tế chiếm trung bình 20-22% tống vốn đầu tư toàn xã hội.
Trong thời gian qua, đế tiếp tục nâng cao năng lực hoạt động và khả năng cạnh
tranh, các ngân hàng thương mại cổ phần liên tục mở rộng quy mô, mạng lưới họat
động và tăng năng lực tài chính thông qua việc tăng vốn điều lệ
Theo bản báo cáo này theo quy định của Ngân hàng Nhà nước đang được các ngân
hàng thương mại công bố công khai trên phương tiện thông tin đại chúng.


Ngân hàng thương mại cố phần Phú Mĩ Xuyên thời điếm hết năm 2007, tống tiền
gửi và vay tố chức tín dụng khác lên tới 624 tỷ đồng, tăng mạnh so với 166 tỷ
đồng của năm 2006. Trong khi đó, vốn huy động tù’ khách hàng chỉ có 328,7 tỷ
đồng, tăng hơn 3 lần so với mức 109 tỷ đồng cuối năm 2006.
Như vậy trong cơ cấu nguồn vốn 952,7 tỷ đồng thì vốn huy động trên thị trường 2,

tức là trên thị trường liên ngân hàng chiếm tới 65,5%. Cũng tại thời điếm này, dư
nợ cho vay khách hàng là 1.266 tỷ đồng, tăng hơn 4 lần so với mức 392,9 tỷ đồng
cuối năm 2006.
Ngân hàng Thương mại cố phần Gia Định có quy mô rất khiêm tổn trong hệ
thống ngân hàng thương mại cổ phần, cũng tính đến hết năm 2007 tổng số tiền gửi
và tiền vay của tổ chức tín dụng khác là 840 tỷ đồng, gấp 5 lần mức 168 tỷ đồng
hết năm 2006; trong khi đó, tiền gửi và huy động từ khách hàng chỉ đạt 417 tỷ
đồng, tăng rất chậm so với mức 332 tỷ đồng năm trước.
Tính chung trong cơ cấu nguồn vốn huy động 1.257 tỷ đồng, thì vốn đi vay trên thị
trường liên ngân hàng chiếm tới 66,8%; trong khi dư nợ cho vay khách hàng là
1.049 tỷ đồng, tăng 2 lần so với năm 2006.
Nhìn vào cơ cấu nguồn vốn huy động
Một số ngân hàng thương mại cố phần khác mới chuyến từ nông thôn lên đô thị,
ngân hàng thương mại cố phần quy mô nhỏ cũng có tỷ trọng vốn đi vay trên thị
trường liên ngân hàng cao tương tự' như hai ngân hàng thương mại cố phần nói
trên.
Một ngân hàng khác thuộc nhóm quy mô khá, đó là Ngân hàng Thương mại cổ
phần Quốc tế, cũng tính đến hết năm 2007 có tống số tiền gửi và tiền vay các tố
chức tín dụng khác là 12.846,6 tỷ đồng, tăng hơn 4 lần so với mức 3.429,3 tỷ đồng
cuối năm 2006. vốn huy động tù' khách hàng là 17.686,7 tỷ đồng, tăng khoảng 1,7
lần so với mức 9.813,5 tỷ đồng cuối năm 2006.
Tương tự, trong cơ cấu nguồn vốn huy động là 27.500,2 tỷ đồng thì vốn huy động
trên thị trường liên ngân hàng chiếm 46,7%. về sử dụng vốn, riêng dư nợ cho vay


khách hàng là 16.611 tỷ đồng, tăng 1,7 lần so với mức 9.058,2 tỷ đồng. Tuy nhiên,
ngân hàng thương mại cố phần Quốc tế cũng có số dư tiền gửi tại các tố chức tín
dụng khác là 12.347 tỷ đồng, gấp gần 4 lần năm 2006.
Cũng thuộc nhóm có quy mô khá, Ngân hàng Thương mại cố phần Kỹ Thương
đến hết năm 2007 có tổng tiền gửi và tiền vay của tổ chức tín dụng khác là 8.458,9

tỷ đồng, tăng gần 1,7 lần so với mức 5.077,8 tỷ đồng cuối năm 2006. vốn huy
động từ tiền gửi của khách hàng là 24.476,6 tỷ đồng, tăng khoảng 2,5 lần so với
mức 9.566 tỷ đồng cuối năm 2006. Như vậy, trong tổng nguồn vốn huy động là
32.934,9 tỷ đồng, thì vốn huy động trên thị trường liên ngân hàng chiếm 25,7%.
Tuy nhiên, cũng tại thời điểm nói trên Ngân hàng Thương mại cổ phần Kỹ
Thương có số dư tiền gửi tại tổ chức tín dụng khác là 9.303,6 tỷ đồng, lớn hơn số
tiền huy động trên thị trường liên ngân hàng. Dư nợ cho vay đến hết năm 2007 là
20.486 tỷ đồng, tăng 2,4 lần so với mức 8.696 tỷ đồng cuối năm 2006.
Ngân hàng Thương mại cổ phần Nhà Hà Nội, đến hết năm 2007 có tổng số dư
tiền gửi và tiền vay tổ chức tín dụng khác là 10.805,5 tỷ đồng, gấp hơn 2 lần so
với mức 4.858 tỷ đồng cuối năm 2006. vốn huy động của khách hàng là 8.467 tỷ
đồng, tăng 1,7 lần so với mức 4.484,8 tỷ đồng cuối năm 2006.
Như vậy, trong tổng nguồn vốn huy động 15.290,3 tỷ đồng thì vốn huy động trên thị
trường liên ngân hàng chiếm tỷ trọng 70,7%. Tuy nhiên, Ngân hàng Thương mại cổ phần
Nhà Hà Nội cũng có sổ dư tiền gửi và cho vay tổ chức tín dụng khác là 10.894 tỷ đồng,
gấp 3 lần năm 2006. Tại thời điểm này, dư nợ cho vay khách hàng là 9.285,8 tỷ đồng,
tăng gấp 1,9 lần năm 2006.
II. NGIỆP VỤ TIỀN GỬI
1. Khái niệm: phản ánh các khoản tiền gửi từ các doang nghiệp vào ngân
hàng đế thanh toán hoặc với mục đích bảo quản tài sản mà từ đó NHTM có thế
huy động và được sử dụng vào kinh doanh.Ngoài ra NHTM còn huy động các
khoản tiền nhàn rỗi của cá nhân hay hộ gia đình được gửi vào ngân hàng với
mục đích lấy lãi suất, được gọi là các khoản tiền tiết kiệm


2. Thực trạng: Theo thống kê từ Ngân hàng Nhà nước (NHNN), mặt bằng lãi
suất huy động VND tháng 7 tăng từ 0,3-0,6%/năm. Hiện lãi suất huy động bình
quân của ngân hàng thương mại (NHTM) Nhà nước khoảng 8,24%/năm, của
NHTM cổ phần khoảng 8,62%/năm. Lãi suất cho vay giữ ốn định ở mức 8,5 10,5%/năm. Mức lãi suất cho vay sau khi được hỗ trợ lãi suất phổ biến ở mức
4,5-6%/năm.

Mặc dù lãi suất co bản được giữ nguyên, các ngân hàng vẫn điều chỉnh tăng lãi
suất huy động để đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng vừa nhằm cạnh tranh
với các ngân hàng khác. Tổng số dư tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức tín
dụng tháng 7-2009 ước tăng 2,75% so với cuối tháng trước và tăng 20,92% so với
cuối năm trước. Trong đó, số dư tiền gửi VND tăng 3,17% so với cuối tháng
trước. Tín dụng đầu tư cho nền kinh tế ước tăng 2,15% so với cuối tháng trước.
Cũng có ngân hàng đủ vốn cho vay nhung không nằm ngoài cuộc “chạy đua”, bởi
việc thu hút tiền gửi là một biện pháp góp phần ổn định nguồn vốn.
Nguồn vốn của ngân hàng chủ yếu là tù' tiền gửi kỳ hạn ngắn, nhu cầu về vốn
trung và dài hạn lại đang tăng cao. Phát hành các loại giấy tờ có giá của ngân hàng
nhằm thu hút vốn dài hạn cũng khó thực hiện. Trong khi đó, khách hàng cũng
mạnh tay rút tiền gửi tại ngân hàng đế đầu tư vào các kênh có sức hấp dẫn hơn như
vàng, chứng khoán. Do đó nếu không tăng lãi suất và khuyến mại thì khó có thể
huy động được nguồn vốn trung và dài hạn.
3. Tỷ trọng thấp khó gọi vốn
Ngân hàng Liên Việt (LienVietBank) cũng có quyết định phát hành chứng chỉ tiền
gửi trung và dài hạn với lãi suất vượt trội so với các sản phẩm huy động thông
thường, cao nhất lên đến 10,05%/năm.
Có thế xem đó là những phản ứng bước đầu của các ngân hàng sau khi Ngân hàng
Nhà nước giảm mạnh tỷ lệ sử dụng tối đa vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn;
rộng hơn, đó cũng là một trong những phương án góp phần giải quyết khó khăn
trong huy động vốn trung và dài hạn kéo dài thời gian qua.
Theo tìm hiếu của VnEconomy trong tuần này, tại nhiều ngân hàng tỷ trọng vốn
trung và dài hạn hiện chỉ chiếm khoảng 15% - 30%, còn lại là vốn ngắn hạn chiếm


tù' 70% - 85%. Đây là một tỷ trọng hạn chế khi gánh nặng cung vốn trung và dài
hạn cho nền kinh tế vẫn đang dồn ở vai trò của hệ thống ngân hàng thương mại.
Theo giải thích của đại diện Ngân hàng Ngoài quốc doanh (VPBank), một nguyên
nhân khiến việc huy động vốn trung và dài hạn từ các tổ chức, cá nhân khó khăn là

do bị tác động nhiều bởi lãi suất. “Diễn biến lãi suất huy động trên thị trường rất
phức tạp và có xu hướng tăng cao, đặc biệt là những tháng cuối năm. Tâm lý
người gửi tiền không muốn gửi kỳ hạn dài do lo ngại lãi suất ngắn hạn tăng tạo ra
rủi ro lãi suất”, đại diện này nói.
Trả lời VnEconomy, phía Ngân hàng Quân đội (MB) cũng cho rằng lãi suất là một
yếu tố tạo những tác động bất lợi theo những diễn biến trên thực tế.
Cụ thể, MB phân tích: “Hiện nay khách hàng vẫn tập trung lựa chọn các kỳ hạn
ngắn do những biến động lãi suất trong năm 2008 và những thông tin thường
xuyên trên các phương tiện thông tin đại chúng về sự thiếu ổn định lãi suất VND
và liên tục các ngân hàng tăng lãi suất, khuyến mại tạo cho khách hàng có tâm lý
gửi kỳ hạn ngắn để chờ đợi mức lãi suất cao hơn trong tương lai. Mặt khác tâm lý
sợ lạm phát quay trở lại làm người dân ít gửi những kỳ hạn dài cũng gây khó cho
hoạt động huy động vốn trung và dài hạn”.
“Ngoài ra, hiện nay các thị trường khác như bất động sản, chứng khoán đang dần
hồi phục và có “sóng” nên đang hấp dẫn các nhà đầu tư vào đó thay vì gửi tiết
kiệm, hoặc gửi tiết kiệm với kỳ hạn ngắn đế có thế rút ra đầu tư vào các thị trường
khác khi có cơ hội”, MB phân tích them.
III.
NGIỆP VỤ PHÁT HÀNH GIẤY TỜ CÓ GIÁ
1. Khái niệm: NHTM sử dụng nghiệp vụ này đế thu hút các khoản vốn có
tính thời hạn dài, nhằm đảm bảo khả năng đầu tư các khoản vốn dài hạn của ngân
hàng vào nền kinh tế; giúp tăng cường tính ốn định vốn trong hoạt động kinh
doanh.


Theo định hướng Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo ở quyết định trên, kế hoạch phát
hành trái phiếu bằng ngoại tệ trên thị trường nội địa đang được Bộ Tài chính và
Ngân hàng Nhà nước phối hợp xây dựng.
Điếm đáng chú ý là đối tượng phát hành có cả các cá nhân, thay vì chỉ các tổ chức
tham gia như với trái phiếu Chính phủ bằng VND hiện nay.

Liên quan đến kế hoạch trên, hiện có một số nhận định trái chiều về khả năng tác
động đối với lãi suất USD trên thị trường.
Một số chuyên gia cho rằng việc phát hành trái phiếu Chính phủ bằng ngoại tệ khó
có thể “kích” lãi suất USD tăng lên, do độ tín nhiệm cao hon trái phiếu do chính
quyền địa phương hay doanh nghiệp phát hành. Theo đó, lãi suất trái phiếu Chính
phủ có thể thấp hơn lãi suất huy động của các ngân hàng thương mại và không làm
thay đối mặt bằng lãi suất huy động USD.
Trong khi đó, ý kiến ngược chiều lại cho rằng khi Chính phủ phát hành trái phiếu
bằng VND có lợi suất khoảng 7%, bằng lãi suất cơ bản và khó thành công do lợi
suất thấp, việc “chuyến hướng” sang huy động bằng USD là một hướng mới.
Tuy nhiên, nếu lợi suất thấp hơn 3% như mặt bằng lãi suất huy động USD ở kỳ
hạn 12 tháng phố biến hiện nay, liệu có hấp dẫn và thành công? Neu cao hơn 3%,
điều này sẽ tác động đến lãi suất huy động trên thị trường.
Ngoài ra, các khả năng tác động còn tùy thuộc vào kế hoạch và cách thức triến
khai cụ thế của Bộ Tài chính trên thực tế.
IV. NGHIỆP VỤ ĐI VAY VÀ NGIỆP vụ HUY ĐỘNG VỐN KHÁC
1. Khái niệm:
Ngiệp vụ đi vay:
NHTM tạo vốn bằng việc vay các tổ chức tín dụng trên thị trường tiền tệ và vay
Ngân hàng Trung Ương dưới các hình thức tái chiết khấu hay vay có đảm bảo,


nhằm tạo sự cân đối trong điều hành vốn của bản thân NHTM khi họ không tự cân
đối được trên cơ sở khai thác tại chỗ.
Nghiệp vụ huy động vốn khác
: NHTM nhận làm đại lý hay uỷ thác vốn cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài
nước; sử dụng vốn nhàn rỗi trên tài khoản của khách hàng để đưa vào hoạt động
kinh doanh.
V. VỐN TỤ CÓ CỦA NGÂN HÀNG
về mặt kinh tế, vốn tự có là vốn riêng của ngân hàng do các chủ sở hữu đóng góp

và nó còn được tạo ra trong qúa trình kinh doanh dưới dạng lợi nhuận giữ lại.
về mặt quản lý, theo các cơ quan quản lý ngân hàng, vốn tự có của ngân hàng
được chia làm hai loại:
-

Vốn tự có cơ bản bao gồm vốn điều lệ (vốn ngân sách cấp, vốn cố phần thường,
vốn cổ phần ưu đãi vĩnh viễn), quỹ dự trữ, dự phòng, lợi nhuận không chia và
các
khoản khác (các tài sản nợ khác theo qui định của ngân hàng nhà nước).

-

Vốn tự có bố sung bao gồm vốn cố phần uu đãi có thời hạn, tín phiếu vốn, trái
phiếu chuyến đối. Theo quy định của các cơ quan quản lý ngân hàng, thì vốn tự

bố sung không được vượt qúa 50% vốn tự có cơ bản (Mỹ và Pháp).

Ớ VN, theo Luật các tố chức tín dụng, vốn tự có bao gồm phần giá trị thực có của
vốn điều lệ, các quỹ dự trữ và một số tài sản nợ khác của tố chức tín dụng theo quy
định của Ngân hàng Nhà nước.
Các nguồn vốn tự có khác của ngân hàng:
Tin phiếu : Tín phiếu là một loại "trái phiếu ngắn hạn" do ngân hàng nhà
nước(NHNN) phát hành, khác nhau về thời gian có giá trị tối đa là 364 ngày. Theo
qui định, tín phiếu có thời hạn dưới 12 tháng, còn thời hạn của trái phiếu là trên 12
tháng.


về nguyên tắc, tín phiếu do các ngân hàng thương mại tụ’ nguyện mua, trên cơ sở
tính toán nguồn vốn của mình và có thời hạn dưới 12 tháng. Trường hợp cần thiết,
ngân hàng thương mại có thế bán lại tín phiếu cho NHNN đế lấy tiền về. Tuy

nhiên, trong một số trường hợp cần thiết NHNN "bắt buộc" các ngân hàng thương
mại... phải mua một lượng tín phiếu đế điều chỉnh chính sách tiền tệ, như tháng
02/2008 vừa qua
VD: Trong năm 2009 mặc dù gặp nhiều khó khăn về huy động vốn trong bổi cảnh
thị trường vẫn khan hiếm tiền đồng, nhưng các ngân hàng đến thời điểm này đã
sẵn sàng cho đợt mua 20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc của Ngân hàng Nhà nước
(NHNN) vào ngày 17/3.
Theo ông Phạm Văn Thiệt, Tống giám đốc Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu
Việt Nam (Eximbank), kết thúc tháng 2/2008, tổng vốn huy động của Eximbank
tăng cao hơn 1.924 tỷ đồng so với tháng trước, đạt 24.822 tỷ đồng. Tuy vậy, với
chỉ tiêu được giao là 500 tỷ đồng để mua tín phiếu của NHNN, nhất là trong bối
cảnh cung tiền đồng khan hiếm thì áp lực cho việc huy động vốn để đáp ứng yêu
cầu trên là không nhỏ.
Còn tổng giám đốc một ngân hàng quy mô nhở tại Hà Nội cho rằng, với chỉ tiêu
được giao mua tín phiếu là 200 tỷ đồng, nhưng trong tình hình hiện nay, đế có
được nguồn vốn trên quả thực rất khó khăn. Tuy đã chuẩn bị đủ 200 tỷ đồng đế
mua tín phiếu bắt buộc của NHNN, nhưng vị tổng giám đốc trên cho rằng, so với
lãi suất huy động vốn của ngân hàng hiện nay đều đụng trần cho phép 12%/năm
thì lãi suất tín phiếu ở mức 7,8%/năm là quá thấp. Mặt khác, NHNN còn yêu cầu
các ngân hàng không được sử dụng loại tín phiếu này trong giao dịch tái cấp vốn
cũng là một hạn chế. Theo vị tổng giám đốc trên, cung - cầu tiền đồng căng thẳng
đang ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các ngân hàng, vốn huy động
được, các ngân hàng không dám cho vay vì sợ không thu hồi kịp, nếu NHNN có
thêm giải pháp đột xuất về hạn chế tiền đồng, kiềm ché lạm phát. Trong khi đó,
các ngân hàng vẫn phải trả lãi cao cho khách hàng gửi tiết kiệm.
So với trước đây, vốn trên thị trường liên ngân hàng hiện nay chỉ mang tính ngắn
hạn. Các ngân hàng dù thiếu vốn cũng khó có thể vay mượn trên thị trường này


một cách dễ dàng như trước. Hiện lãi suất qua đêm trên thị trường liên ngân hàng,

với thời gian vay trong vòng 1 tuần, được áp dụng ở mức tương đổi mềm, khoảng
7 - 8%/năm; nhung với kỳ hạn tù’ 1 tháng trở lên, lãi suất vẫn ở mức khá cao, lên
đến 15 - 17%/năm so với lãi suất huy động đầu vào 12%/năm. Tuy nhiên, khó
khăn đối với các ngân hàng quy mô vừa và nhỏ hiện nay là lãi suất huy động tiết
kiệm của khối ngân hàng quốc doanh cũng điều chỉnh lên mức trần cho phép
12%/năm.
Tổng giám đốc Ngân hàng TMCP Việt Á (VietA Bank), ông Phạm Duy Hưng cho
biết, với chỉ tiêu được giao mua 150 tỷ đồng tín phiếu NHNN bắt buộc, đến nay
VietA Bank đã hoàn tất. Trước khi Công điện 02/CĐ-NHNN về việc khống chế lãi
suất huy động không quá 12%/năm phát ra, VietA Bank là một trong những ngân
hàng điều chỉnh lãi suất lên mức khá cao, đạt 13,96%/năm (kỳ hạn 3 tháng). Với
mức lãi suất hấp dẫn này, VietA Bank đã nhanh chóng hút được nguồn vốn lớn
sau 3 ngày điều chỉnh, bình quân hút về khoảng 450 tỷ đồng/ngày. Tuy nhiên, sau
đó, VietA Bank phải nhanh chóng điều chỉnh giảm đế đáp ứng kịp thời yêu cầu
của NHNN. Hiện lãi suất huy động của VietA Bank được áp dụng ở mức
12%/năm.
Đen thời điểm này, các ngân hàng đã sẵn sàng chuẩn bị cho đợt mua 20.300 tỷ
đồng tín phiếu bắt buộc của NHNN. Tuy nhiên, theo các ngân hàng, áp lực cung cầu tiền đồng vẫn rất căng thẳng, trong khi cung ngoại tệ tiếp tục chảy vào các
ngân hàng buộc họ phải từ chối mua vì thiếu tiền đồng.
Trong cuộc họp với các ngân hàng TMCP mới đây, NHNN - Chi nhánh TP. HCM
cho biết, đã có kiến nghị lên NHNN về việc tăng thêm lãi suất tín phiếu và giãn
thời gian thực hiện, nhằm giảm bớt áp lực và khó khăn cho các ngân hàng trong
việc chuẩn bị vốn mua tín phiếu. Tuy nhiên, qua trao đổi với ĐTCK, ông Hồ Hữu
Hạnh, Giám đốc NHNN - Chi nhánh TP. HCM cho biết, đến thời điểm này NHNN
vẫn chưa có ý kiến chính thức. Theo ông Hạnh, khó có thể giãn thời gian thực hiện
việc mua 20.300 tỷ đồng tín phiếu bát buộc, vì đó là giải pháp tích cực để kiềm
chế tốc độ gia tăng của lạm phát.



×