Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Ý nghĩa và vai trò của lưu chuyển tiền tệ trong các doanh nghiệp việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.18 KB, 25 trang )

Jtề <ềJữU
thiết phải lập BCLCTT trong các doanh nghiệp Việt Nam. Nghiên cứu gồm ba
phần:
Những
trước xu hướng hội nhập toàn cầu nền kinh tế thế
I- Nội năm
dunggần
của đây,
BCLCTT
giới và những yêu cầu của kinh tế thị trường, Việt Nam đang cố gắng vươn lên
trong mọi
Hội nhập
kinh tế nói
chung
và hội nghiệp
nhập vềViệt
dịchNam.
vụ kế toán,
II- lĩnh
Yêu vực.
cầu phải
lập BCLCTT
trong
các doanh
kiểm toán nói riêng là xu thế tất yếu, là yêu cầu khách quan trong bối cảnh phát
triển kinh tế hiện nay. Việt Nam không thể đứng ngoài xu thế này.

Trong xu thế hội nhập ấy, kể toán là một công cụ quan trọng của hệ công
cụ quản lý kinh tế nói chung và quản lý doanh nghiệp nói riêng. Hệ thống công
cụ quan trọng bậc nhất này cũng phải được đổi mới cho phù hợp. Chế độ kết
toán được ban hành theo quyết định 1141TC/QĐ/CĐKT ngày 1.11.1995 cho tới


nay về cơ bản là phù hợp với cơ chể quản lý mới. Tuy nhiên, hệ thống kế toán
này vẫn còn nhiều tồn tại, các nguyên tắc và chuẩn mực kế toán chưa được quy
định rõ ràng. Do đó, yêu cầu cấp bách đặt ra cho chế độ kế toán Việt Nam hiện
nay là phải điều chỉnh một mặt phù hợp với cơ chế kinh tế trong nước, mặt
khác
I. NỘI DUNG CỦA BCLCTT
ngày càng phải tiến gần tới các chuẩn mực kế toán quốc tế.
1. Giới thiệu về BCLCTT

Chuẩn mực về kế toán số 7 (IAS7) (Báo cáo lưu chuyển tiền tệ) là một
BCLCTT
cáo
tài chính
phảnđối
ánhvới
cáccác
khoản
thunghiệp
và chitrong
tiền
trong những
báo là
cáomột
tài báo
chính
không
thể thiếu
doanh
trongkinh
kỳ của

doanh
nghiệp
từngviệc
hoạtlập
động
kinh doanh,

nền
tế thị
trường.
Tuytheo
nhiên,
BCLCTT
chưa hoạt
đượcđộng
quy đầu
địnhtubắt
hoạt động
buộc
trongtàihệchính.
thống kế toán Việt Nam. Cùng với quá trình hoàn thiện dần hệ
thống kế toán cho phù họp với các thông lệ kế toán chung trên thế giới, chúng
ta cũng quan tâm nhiều hơn đến báo cáo tài chính quan trọng này. Tuy nhiên
Mục đích của BCLCTT nhằm trình bày cho nguời sử dụng biết luồng
trong thực tế có rất ít doanh nghiệp quan tâm đến nó hoặc do sự khó lập hay
tiền
chưa nhận thức được tầm quan trọng của nó trong hệ thống báo cáo tài chính
của doanh nghiệp đuợc sinh ra bằng cách nào và doanh nghiệp đã sử dụng
nói chung và cụ thể là trong công tác quản lý doanh nghiệp. Vì vậy, trong
chúng ra sao trong kỳ báo cáo. Mặt khác, đây cũng là công cụ hữu ích trong

chuyên đề cuối khoá của mình em đã mạnh dạn chọn đề tài: “ý nghĩa và vai trò
21


Có 2 phương pháp để lập BCLCTT: phương pháp trực tiếp và phương
pháp gián tiếp. Mỗi phương pháp đều có những căn cứ, nguyên tắc, ưu điểm,
nhược điểm riêng. Doanh nghiệp trình bày BCLCTT tuỳ theo cách thức nào
cho
phù hợp với đặc điểm kinh doanh của mình. Điều này sẽ cung cấp các thông tin
cho phép những người sử dụng đánh giá được ảnh hưởng của các nội dung
trong

Tuy nhiên, dù sử dụng phương pháp nào BCLCTT cũng phải đảm bảo 3
nội dung sau:

_ Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động kinh doanh

_ Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động đầu tư

_ Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động tài chính
Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động kinh doanh:

Các luồng tiền từ hoạt động kinh doanh chủ yếu bắt nguồn từ các hoạt
động sinh lời cơ bản của doanh nghiệp. Bởi vậy, nhìn chung luồng tiền này là
kết quả của các giao dịch và sự kiện có tham gia vào việc xác định lãi hoặc lỗ
ròng. Các luồng từ các hoạt động kinh doanh thường có: tiền nhận được từ việc
bán hàng hay cung cấp dịch vụ; tiền nhận được từ bản quyền, phí, hoa hồng và

3



Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động kinh doanh phản ánh toàn bộ dòng tiền
thu vào và chi ra liền trực tiếp đến các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp có thể sử dụng một trong hai phương pháp:

Phương pháp gián tiếp: dựa trên sự phù hợp giữa lợi nhuận ròng với các
dòng tiền mặt khác của hoạt động kinh doanh. Bắt đầu từ lợi nhuận ròng, các
thay đổi trong kỳ về hàng tồn kho và các khoản phải thu, phải trả từ hoạt động
kinh doanh và các khoản mục không bằng tiền như khấu hao, dự phòng, thuế
dời lại, lãi hay lỗ, khoản thực hiện do chuyến đổi ngoại tệ,lợi nhuận chưa phân
phối của các công ty liên kết, các khoản lợi tức cổ phần... kế tiếp đó là những
tác động của điều chỉnh khoản bằng tiền mặt đối với lợi nhuận ròng được tính
toán đến.

Phương pháp trực tiếp: trình bày tổng các khoản tiền thu và tổng các
khoản tiền chi. Dòng tiền mặt của hoạt động kinh doanh thể hiện sự khác nhau
giữa các khoản thu, chi tiền mặt như là các khoản thu từ bán hàng, lợi tức nhận
được và các khoản chi thanh toán lương, chi phí hàng hoá dịch vụ mua vào, lãi
tiền vay và thuế. Phương pháp trực tiếp cung cấp các thông tin có thể hữu dụng
trong việc dự đoán các luồng tiền trong tương lai và các thông tin này không có
được từ phương pháp gián tiếp. Trong bài viết của TS. Đoàn Xuân Tiến - Giảng
viên trường Đại học Tài chính kế toán Hà Nội về "chuẩn mực Kiểm toán số 7

việc vận dụng vào Việt Nam", chuyên mục nghiên cứu trao đổi của tạp chí Kế
toán có đưa ra hướng dẫn thêm về phương pháp lập BCLCTT.

_ Lập bằng cách điều chỉnh doanh thu, sự biến động của các khoản phải
thu, giá vốn hàng bán, sự biến động của các khoản phải trả, hàng tồn kho và các
khoản phải trả là tiền... dể xác định luồng tiền vào ra. Cách lập này còn khá mới


4


_ Lập thep cách dựa vào các ghi chép chi tiết của kế toán thu, chu tiền
mặt và tiền gửi ngân hàng. Cách này cũng tất khó thực hiện.

Nhìn chung các doanh nghiệp Việt Nam được khuyến khích sử dụng
phương pháp trực tiếp cho việc báo các các luồng tiền từ hoạt động kinh doanh.
Vì các khoản mục trong báo cáo theo phương pháp trực tiếp được lập một cách
chi tiết rõ ràng hơn so với báo cáo theo phương pháp gián tiếp, và nó phù hợp
với mọi loại hình, quy 1Ĩ1Ô và hình thức kinh doanh của các doanh nghiệp Việt
Nam.
Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động đầu tư:

Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động đầu tư phản ánh toàn bộ dòng tiền thu
vào và chi ra liên quan trực tiếp đến hoạt động đầu tư của doanh nghiệp. Hoạt
động đầu tư bao gồm hai phần:

_ Đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật cho bản thân doanh nghiệp như hoạt
động xây dựng cơ bản, mua sắm tài sản cố định.

_ Đầu tư vào các đơn vị khác dưới hình thức góp vốn kinh doanh, đầu tư
chứng khoán, cho vay không phân biệt đầu tư ngắn hạn hay dài hạn.

Tương ứng với các hoạt động đầu tư, dòng tiền lưu chuyển phản ánh từ
hoạt động đầu tư gồm các khoản:

_ Các khoản chi trả tiền mua nhà xưởng, máy móc, thiết bị, tài sản vô
hình, các tài sản dài hạn khác liên quan đến các chi phí tăng đã được vốn hoá và


5


_ Tiền trả cho các hợp đồng trong tương lai, tiền thu từ các hoạt động
trong tương lai, các hợp đồng có kỳ hạn...
Lưu chuyến tiền tệ từ các hoạt động tài chính

Nếu việc tách biệt các luồng tiền phát sinh từ các hoạt động đầu tư thể
hiện phạm vi mà các chi phí đã được thực hiện cho các nguồn dự định sẽ tạo ra
lợi nhuận và các luồng tiền trong tương lai, thì việc tách biệt các luồng tiền từ
các hoạt động tài chính sẽ rất hữu dụng trong việc dự đoán các khoản mà những
người cung cấp vốn cho doanh nghiệp đòi hỏi trong các luồng tiền tương lai.
Các luồng tiền phát sinh từ các hoạt động tài chính bao gồm: tiền ròng thu được
từ việc phát hành cổ phiếu hay các công cụ về vốn khác; tiền trả cho các chủ sở
hữu để mua hay thanh toán các cổ phiếu của doanh nghiệp; tiền ròng thu được
từ việc phát hành trái phiếu, nợ, thương phiếu, tĩnh phiếu, thế chấp và các
khoản
vay ngắn hạn hay dài hạn khác; tiền trả cho các khoản đã vay...

Doanh nghiệp lập báo cáo riêng biệt các loại chính của tổng số tiền thu
và tổng số tiền chi phát sinh từ các hoạt động đầu tư, tài chinh. Trong doanh
nghiệp, ngoài các hoạt động chính phát sinh từ hoạt động kinh doanh, đầu tư
hay tài chính, đôi khi các luồng tiền phát sinh liên quan đến các khoản mục bất
thường, hay những trường hợp được xem là đặc biệt như các luồng tiền có
nguồn gốc từ ngoại tệ, các vấn để phát sinh từ lãi vay và cổ tức, vấn đề góp vốn
vào các xí nghiệp và các hoạt động mua bán cổ phần giữa các xí nghiệp, các cơ
sở kinh doanh khác.

Các luồng tiền liên quan đến các khoản mục này được thuyết trình riêng
biệt với các khoản mục phát sinh từ các hoạt động kinh doanh, hoạt động đầu tư

hay hoạt động tài chính trong BCLCTT nhằm giúp cho người sử dụng có thể
hiểu được bản chất và ảnh hưởng của chúng tới luồng tiền của các doanh
nghiệp
6


giúp cho người sử dụng báo cáo tài chính đánh giá được dễ dàng tình hình tài
chính tiền tệ của doanh nghiệp, cũng như đáp ứng mục đích cần quan tâm. Ví
dụ thông tin về tổng số các luồng tiền phát sinh từ việc đầu tư để gia tăng khả
năng, phương tiện sản xuất kinh doanh; đầu tư đê duy trì khả năng, phương tiện
sản xuất kinh doanh... sẽ giúp cho những người sử dụng báo cáo biết được là
doanh nghiệp đã có chính sách đầu tư để duy trì hoặc gia tăng sản xuất kinh
doanh có phù hợp hay không. Từ đó biết rõ hơn mối quan hệ giữa các luồng
tiền
tổng thê trong doanh nghiệp và các luồng tiền của từng thành phần cấu thành
trong doanh nghiệp. Nội dung được trình bày theo các biểu mẫu của chuẩn mực
kế toán IAS7:
BCLCTT THEO PHƯƠNG PHÁP TRựC TIÊP:
I. Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động sản xuất kinh doanh (A-B)

A. Tổng thu = (l)+(2)+(3)

1. Tiền thu từ việc bán hàng

2. Tiền thu từ các khoản nợ phải thu
3. Tiền thu từ các khoản khác

B. Tổng chi =( 1 )+(2)+(3)+(4)+(5)

1 ,Tiền đã trả cho người bán


7


A. Tổng số tiền thu vào từ các hoạt động đầu tư (=(l)+(2)+(3))

1. Tiền thu hồi các khoản đầu tư vào đơn vị khác
2. Tiền thu từ lãi các khoản đầu từ vào đơn vị khác (lợi tức, cổ tức

V.V..)

3. Tiền thu do bán TSCĐ

B. Tổng số tiền chi ra từ các hoạt động đầu tư (=( l)+(2)+(3))

1 .Tiền đầu tư vào các đơn vị khác

2. Tiền mua TSCĐ

3.
III.

Tiền chi cho hoạt động thanh lý nhượng bán TSCĐ
Lưu chuyến tiền thuần từ hoạt động tài chính (A-B)

A. Tổng số tiền thu từ hoạt động tài chính (=(l)+(2)+(3))

8



BCLCTT THEO PHƯƠNG PHÁP GIÁN TIÊP
Luồng tiền từ hoạt động kinh doanh

I.

A. Lợi nhuận trước thuế
B. Điều

chỉnh

cho:
c. Cộng các khoản
1. Chênh lệch giữa số dư cuối kỳ lớn hơn số dư đầu kỳ của các tài khoản

phản ánh dự phòng

2. Khấu hao TSCĐ
3. Lỗ do bán TSCĐ
4. Lỗ do đầu tư vào đơn vị khác
5. Lỗ do đánh giá lại tài sản và chuyển đổi tiền

tệ
c. Trừ các khoản
1. Chênh lệch giữa số dư cuối kỳ nhỏ hơn số dư đầu kỳ của các tài khoản

phản ánh dự phòng

2. Thu lãi tiền gửi
3. Lãi do bán TSCĐ


9


1. Chênh lệch giữa số dư cuối kỳ nhỏ hơn đầu kỳ của các khoản phải

thu

2. Chênh lệch giữa số dư cuối kỳ nhỏ hơn đầu kỳ của hàng tồn kho
3. Chênh lệch giữa số dư cuối kỳ lớn hơn đầu kỳ của các khoản phải trả
4. Tiền thu từ các khoản khác

F. Trừ (-)

1. Chênh lệch giữa số dư cuối kỳ lớn hơn đầu kỳ của các khoản phải thu

2. Chênh lệch giữa số dư cuối kỳ lớn hơn đầu kỳ của hàng tồn kho
3. Chênh lệch giữa số dư cuối kỳ nhỏ hơn đầu kỳ của các khoản phải trả
4. Tiền chi từ các khoản khác

G. Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động sản xuất kinh doanh (=D+E+F)
II. Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động đầu tư (A-B)

A. Tổng số tiền thu vào từ hoạt động đầu tư (=(l)+(2)+(3))

10


A. Tổng số tiền thu từ hoạt động tài chính

1. Tiền thu do đi vay


2. Tiền thu do các chủ sở hữu đóng góp

3. Tiền thu từ lãi tiền gửi, thu từ việc phát hành cổ phiếu, thu từ các

khoản vay dài hạn

B. Tổng số tiền chi từ hoạt động tài chính (=( l)+(2)+(3))

1. Tiền đã trả nợ vay

2. Tiền lãi đã trả cho các nhà đầu tư vào doanh nghiệp

3. Trả nợ thuê tài chính...

IV. Lưu chuyển tiền thuần trong kỳ (=(I)+(II)+(III))

11


BCLCTT được lập ra là để phản ánh việc hình thành và sử dụng lượng
tiền trong doanh nghiệp. Vì vậy BCLCTT phải được sử dụng trước hết như một
công cụ để phân tích vốn bằng tiền.

Vốn bằng tiền là một bộ phận tài sản rất quan trọng của doanh nghiệp.
Nó tham gia vào hầu hết các hoạt động của doanh nghiệp. Trong quá trình sản
xuất kinh doanh, vốn bằng tiền được sử dụng để đáp ứng nhu cầu về thanh toán
các khoản nợ của doanh nghiệp hoặc mua sắm vật tư, hàng hoá vừa là kết quả
của việc mua bán hoặc thu hồi các khoản nợ. Qua phân tích tình hình sử dụng
vốn bằng tiền, chúng ta có thể biết được chất lượng hoạt động của doanh

nghiệp. Và để tìm hiểu tình hình sử dụng vốn bằng tiền trong kỳ chúng ta có thể
đánh giá tình hình thanh toán với người bán, thanh toán với người mua, thanh
toán với ngân sách, tìm hiểu các khoản nợ quá hạn... Việc đánh giá các khoản
mục liên quan đến các dòng tiền mặt sẽ giúp cho việc phân tích những gì đã xảy
ra liên quan đến tình hình sử dụng vốn tiền mặt trong kỳ. BCLCTT sẽ cung cấp
cho ta những thông tin đầy đủ về vấn đề này.

Một cách tổng quát, sự vận động của tiền mặt bao gồm hai mặt: tăng và
giảm hay nói cách khác là thu và chi. BCLCTT cung cấp những con số phản
ánh sự vận động của tiền. Thông tin cơ bản nhất mà chúng ta thu được từ
BCLCTT là lượng tiền tăng và giảm trong kỳ. Nhưng điều quan trọng hơn là
thông qua việc phân tích mối quan hệ giữa các con số, người quản lý biết được
những nguyên nhân, những biến động làm ảnh hưởng đến tình hình tăng, giảm
vốn tiền mặt đó. Thực tế thì sự tăng giảm tiền mặt của doanh nghiệp có thể do
nhiều nguyên nhân khác nhau. Chẳng hạn như tiền mặt tăng có thế là kết quả
của việc tiêu thụ sản phẩm hay việc thu được các khoản nợ hoặc cũng có thể là
từ việc bán các tài sản cố định... Tương tự như vậy, tiền mặt giảm trong kỳ có
thể là do chi mua hàng, chi mua sắm các tài sản cố định hay trang trải các
khoản nợ... Mặt khác, việc phân chia luồng tiền trên BCLCTT theo từng lĩnh

12


Đối với bất cứ doanh nghiệp nào thì việc phân tích chính xác về sự hình
thành và sử dụng vốn bằng tiền cũng rất quan trọng. Người quản lý cần phải
nắm được luồng tiền vào, ra của doanh nghiệp đã hợp lý hay chưa để có sự điều
chỉnh kịp thời, phù hợp. Thực tế, để phục vụ cho việc phân tích, người ta
thường
thiết lập các tỷ số tiền mặt dựa trên mối quan hệ giữa các bộ phận, các khoản
mục của bản báo cáo. Chẳng hạn, chúng ta có thể thiết lập các tỷ số sau:


_ Nhóm tỷ số tiền mặt thể hiện mức đóng góp của từng dòng thu trong
tổng các dòng thu tiền mặt trong kỳ. Như đã nói ở trên, tiền mặt có thể thu được
từ 3 nguồn: từ hoạt động kinh doanh, hoạt động đầu tư và hoạt động tài chính.
Tỷ số tiền mặt được tính bằng luồng tiền thu được từ mỗi loại hình hoạt động
trên tổng luồng tiền thu được trong kỳ. Khi trình bày các tỷ số này qua các năm
chúng ta có thể nhận biết được sự thay đổi của vốn tiền mặt được tạo ra. Nếu
các khoản mục tạo ra tiền chủ yếu là do các hoạt động kinh doanh đem lại,
chẳng hạn như từ lợi nhuận ròng hay giảm các khoản phải thu thì đó là dấu hiệu
của một cơ chế quản lý tốt và người quản lý có thể an tâm về việc sử dụng vốn
tiền mặt trong kỳ đó. Khi đó tài sản của doanh nghiệp được tài trợ chính từ kết
quả hoạt đông sản xuất kinh doanh-chức năng chính của doanh nghiệp. Còn
nếu tiền mặt được tạo ra chủ yếu từ các hoạt động khác như từ việc bán chứng
khoán đầu tư, vay mượn, từ việc phát hành trái phiếu... thì người quản lý có thể
nhận được dấu hiệu không bình thường về tình hình vốn tiền mặt nói riêng và
tình hình hoạt động nói chung của doanh nghiệp. Điều đó có nghĩa là việc sử
dụng vốn tiền mặt trong kỳ chủ yếu dựa vào bên ngoài, những nguồn mang

_ Nhóm tỷ số tiền mặt liên quan đến việc thanh toán các khoản nợ. Mục
đích của việc lập nhóm tỷ số tiền mặt này là để biết trong tổng số tiền mặt thu
được trong kỳ doanh nghiệp đã thanh toán các khoản nợ là bao nhiêu, tỷ số này
có thể lớn hơn hoặc bé hơn 1. Nếu lớn hơn 1 thì có nghĩa là doanh nghiệp mở
rộng sử dụng các khoản nợ trong cơ cấu nguồn vốn của mình. Còn nếu bé hơn 1
13


nghiệp mà đánh giá chiều hướng nào là tiêu cực hay tích cực. Chẳng han, nếu
xét về giác độ tự chủ trong kinh doanh thì giá trị bé hơn 1 sẽ có lợi hơn còn xét
về giác độ chiếm dụng vốn thì tình hình lại ngược lại.


_ Nhóm tỷ số tiền mặt phản ánh việc chi tiền mặt mua sắm TSCĐ từ vốn
bằng tiền. Tỷ số này cao hay thấp là tốt tuỳ thuộc vào từng loại hình doanh
nghiệp. Chẳng hạn, nếu là doanh nghiệp thì tỷ số này cao sẽ không tốt vì TSCĐ
có tốc độ chu chuyển vốn chậm mà lợi nhuận của doanh nghiệp thương mại tỷ
lệ thuận với vòng quay của vốn. Vì vậy, tốt hơn là doanh nghiệp dùng tiền vào
mua sắm hàng hoá và tăng cường các biện pháp thúc đẩy nhanh việc tiêu thụ
hàng hoá...

Một vài loại tỷ số nói trên đóng vai trò quan trọng trong việc phân tích
vốn bằng tiền nói riêng và trong hệ thống tài chính nói chung. Ngoài ra, chúng
ta có thể lập những tỷ số rất hữu ích khác như tỷ số phản ánh dòng thu tiền mặt
từ khấu hao, tỷ số liên quan đến việc chi trả cổ tức bằng tiền mặt... Các tỷ số
này kết hợp với các thông tin từ các bảng báo cáo tài chính khác sẽ giúp cho
người quản lý có cái nhìn sâu sắc và toàn diện hơn về tình hình hoạt động của
doanh nghiệp.

Như vây, BCLCTT thực sự là một công cụ phân tích tài chính hữu ích.

cung cấp những thông tin quan trọng cho những người quan tâm đến tình hình
tài chính của doanh nghiệp. Trong điều kiện hiện nay, người quan tâm đến tình
hình tài chính của doanh nghiệp rất đa dạng. Đó không chỉ là người quản lý
doanh nghiệp, các cơ quan quản lý chức năng mà còn là những nhà đầu tư, các
nhà cung cấp tín dụng, công nhân viên, các kiểm toán viên độc lập... BCLCTT
có thể giúp họ có được những quyết định đúng đắn, hợp lý nhất.
b) BCLCTT - cơ sở ra quyết định của những người sử dụng báo cáo.
14


nghiệp, công nhân viên của doanh nghiệp, kiểm toán viên độc lập... Do vậy,
việc so sánh báo cáo giữa các doanh nghiệp là rất quan trọng trong việc đưa ra

quyết định đối với các đối tượng sử dụng báo cáo của doanh nghiệp.

_ Đối với người quản lý của doanh nghiệp, BCLCTT cung cấp những
thông tin quan trọng về việc hình thành và sử dụng lượng tiền trong kỳ báo cáo,
những nguy cơ cũng như triển vọng về mặt tài chính của doanh nghiệp. Trên cơ
sở đó, người quản lý doanh nghiệp phân tích, đánh giá những tồn tại và phát
hiện khả năng tiềm tàng để có các quyết định quản trị tài chính doanh nghiệp
đúng đắn và có hiệu qủa nhất. Ngoài ra, người quản lý có thể sử dụng BCLCTT
để thông báo cho các nhà đầu tư, các chủ nợ, các cơ quan nhà nước, công nhân
viên... biết được tình hình tài chính của doanh nghiệp mình, qua đó thuyết phục
các đối tượng có liên quan có các quyết định hợp lý tạo điều kiện thuận lợi cho
doanh nghiệp trong tương lai.

_ Đối với các cơ quan quản lý chức năng của nhà nước, BCLCTT cung
cấp thông tin cần thiết giúp cho việc thực hiện chức năng quản lý vỹ mô của
nhà nước đối với nền kinh tế. Chẳng hạn, nhà nước dựa vào BCLCTT để có
những chính sách phù hợp đối với từng doanh nghiệp hoặc từng khu vực kinh
tế
như các chương trình tài trợ hay cấp vốn... Ngoài ra, nó còn là nguồn số liệu
quan trọng để cơ quan thống kê tính toán các chỉ tiêu tổng hợp từng ngành,
từng
địa phương cũng như cả nước, giúp cho các cơ quan tài chính nhà nước thực
hiện việc kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất đối với hoạt động của doanh nghiệp.

_ Đối với các nhà đầu tư hiện tại và tương lai, như các đối tác tham gia
liên doanh, các cổ đông thì dựa vào BCLCTT của doanh nghiệp để đánh giá
khả
15



_ Đối với công nhân viên của doanh nghiệp, BCLCTT là cơ sở để họ
đánh giá tính hợp lý của các khoản thu nhập mà họ được hưởng.

_ Đối với các kiểm toán viên độc lâp, BCLCTT nằm trong hệ thống các
báo cáo kế toán của doanh nghiệp là đối tượng kiểm toán của họ.

Như vậy, BCLCTT là một yếu tố quan trọng đối với những người sử
dụng
thông tin vì nó cung cấp những thông tin quan trọng về tình hình và khả năng
tài chính của doanh nghiệp, từ đó mà có được những quyết định đúng đắn.
Ngoài ra, việc so sánh BCLCTT giữa các doanh nghiệp cũng giúp họ có những
nhận xét xác đáng về tình hình hoạt động của các doanh nghiệp để đưa ra các
quyết định hợp lý đối với từng doanh nghiệp.
2. Thực trạng việc lập BCLCTT hiện nay ở Việt Nam

BCLCTT với chức năng cung cấp thông tin về các vấn đề liên quan đến
các luồng tiền vào, ra trong doanh nghiệp, tình hình tài trợ đầu tư bằng tiền của
doanh nghiệp trong từng thời kỳ đã trở thành một trong các báo cáo quan trọng
đối với các công ty nước ngoài. Tiền và các khoản có thể chuyển hoá ngay
thành tiền có liên quan đến khả năng thanh toán của doanh nghiệp và nhiều
hoạt động khác: Nếu lượng tiền mặt trong doanh nghiệp quá lớn sẽ làm vốn
doanh nghiệp bị tồn đọng không thúc đẩy quá trình quay vòng vốn làm cho
hoạt
động sản xuất kinh doanh bị trì trệ thì việc duy trì lượng tiền tồn quá nhỏ sẽ làm
doanh nghiệp bị hạn chế trong thanh toán và không nắm được các cơ hội đầu tư
trong điều kiện cạnh tranh. Bởi vậy, dành cho tình hình vốn bằng tiền của
doanh
nghiệp một sự quan tâm nhất định là điều cần thiết. Hiện nay, một số công ty
lớn của Việt Nam đã nhận thức được tầm quan trọng của BCLCTT nhưng do
16



rõ sự quan tâm này là chưa đúng mức vì bảng cân đối kế toán chỉ cung cấp
những thông tin từ các khoản mục về lượng tiền và một số tỷ suất về khả năng
thanh toán mà không cho biết các luồng tiền vào ra từ hoạt động nào, do đâu
mà có. Nhìn vào BCLCTT, các nhà quản trị có thể thấy được những chi tiết bất
họp lý và những hoạt động mang lại hiệu quả lớn cho doanh nghiệp.

Có thể thấy, BCLCTT không có nhiều ý nghĩa trong việc cung cấp
thông tin về sản xuất kinh doanh nhưng lại mang lại những chỉ dẫn rất cần thiết
cho các hoạt động liên quan đến vốn tiền tệ trong tương lai. Nói cách khác,
BCLCTT là sự nhìn nhận lại những hoạt động cũ đế hướng tới hoạt động tương
lai một cách hiệu quả. Việt Nam mới bước vào nền kinh tế thị trường, sự sinh
sau đẻ muộn này bên cạnh việc đem lại cho chúng ta một số thuận lợi, tránh
được các thất bại và rút được nhiều kinh nghiệm từ các nước đàn anh nhưng
cũng không tránh khỏi sự non kém trong công tác quản lý và phân tích kinh
doanh mà BCLCTT là một ví dụ.

Trong những năm tới, với sự phát triển không ngừng về kinh tế, với tính
chất ngày càng khốc liệt của cạnh tranh và xu hướng gia tăng của đầu tư nước
ngoài, chắc chắn các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải hoàn thiện hoạt động
quản lý và phân tích tài chính của mình ngày càng gần hơn với chuẩn mực của
Thế giới; và để ra được các quyết định đúng đẵn thì việc lập BCLCTT là không
thể thiếu.

Như vậy trong nên kinh tế thị trường phát triển ở trình độ cao, các mối
quan hệ và các hoạt động kinh tế trở nên phức tạp, việc lập BCLCTT để phân
tích tình hình tài chính của doanh nghiệp mang lại những hiệu quả rất lớn cho
các hoạt động tương lai. Với tác dụng to lớn của BCLCTT, một câu hỏi đặt ra là
tại soa các doanh nghiệp Việt Nam phần lớn đều không lập BCLCTT? Có rất

nhiều lý do có thể đưa ra để giải thích cho câu hỏi này. Có thể là chưa thoả
đáng nhưng nó cũng góp phần để từ đó đưa ra một số phương hướng nhằm đưa
17


Việt Nam hoà nhập vói thế giới về chế độ tài chính và các hoạt động hợp tác về

Ở tầm vĩ mô, có thể nói tới nguyên nhân mang tính chất chi phối, đó là
sự
non trẻ của nền kinh tế thị trường ỏ' Việt Nam. Bước vào nền kinh tế thị trường,
các doanh nghiệp Việt Nam có rất ít kinh nghiệm hoạt động trong môi trường
mới. Tính thụ động, thiếu nhạy bén do ảnh hưởng của điều kiện cũ cộng với
việc không đưa việc lập BCLCTT thành việc làm có tính chất bắt buộc đã trở
thành nguyên nhân tất yếu của việc không thấy rõ lợi ích do BCLCTT mang lại.
Và như vậy, một mặt các doanh nghiệp Việt Nam không tìm thấy mối lợi của
việc lập BCLCTT, mặt khác, BCLCTT đòi hỏi trình độ nhân viên cao; có thể
thấy, dựa trên sự nhìn nhận của các doanh nghiệp Việt Nam, phải thuê thêm
nhân viên để lập một bảng báo cáo không cần thiết là việc bất hợp lý. Vì thế,
việc không lập BCLCTT ở phẩn lớn các doanh nghiệp Việt Nam là điều dễ
hiểu.
Trên thực tế, với những hiều biết còn nhiều hạn chế về nền kinh tế thị trường và
sự thiếu kinh nghiệm trong hoạt động kinh tế, các nhà quản trị Việt Nam chỉ ra
những quyết đinh dựa trên các báo cáo cơ bản bắt buộc và tiến hành chỉ đạo
một cách cảm tính mà ít tiến hành phân tích tình hình tài chính. Phần lớn cách
quản lý của họ là xác định các kế hoạch dựa vào các chỉ tiêu đạt được năm cũ.
Cách quản lý này rõ ràng không năng động và kém hiệu quả do các kế hoạch
được xác định không thế thay đổi linh hoạt khi có những cơ hội thị trường hay
có những điều kiện biến đổi.

Một nguyên nhân khác dẫn đến sự không cần thiết lập BCLCTT là các

doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là khu vực kinh tế Nhà nước ít kêu gọi vốn
đầu tư từ bên ngoài. Thêm vào đó, các doanh nghiệp không gặp phải khó khăn
nào từ việc không lập BCLCTT khi vay ngân hàng hay thực hiện các nghiệp vụ
liên quan đến việc thanh toán hoặc các nghiệp vụ liên quan đến luồng tiền vào,

18


Với nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan khác nhau, BCLCTT, một
công cụ phân tích tài chính, một bản cung cấp thông tin quan trọng giúp người
sử dụng phân tích, đánh gí khả năng tài chính của doanh nghiệp trong hiện tại
cũng như tương lai để có những quyết định phù hợp đã chưa được phổ biến ở
các doanh nghiệp Việt Nam. Với kinh nghiệm dày dạn của mình, các công ty ở
nước ngoài hoặc công ty nước ngoài ở Việt Nam đã nhận thấy rõ tầm quan
trọng của việc phân tích báo cáo này trong việc ra quyết định tài chính. Đây
thực sự là một thiệt thòi cũng là điểm yếu cần khắc phục của các doanh nghiệp
Việt Nam. Trong tương lai, với sự lớn mạnh dần của các hãng kinh doanh về
kinh nghiệm, khả năng cạnh tranh, BCLCTT chắc chắn sẽ chứng minh được sự
cần thiết của nó và nó sẽ trỏ’ thành công cụ không thể thiếu của các công ty
muốn thành công dù Bộ Tài chính bắt buộc hay không bắt buộc. Đó cũng chính
là biểu hiện dần hội nhập của chế độ kinh tế Việt Nam vào chuẩn mực kinh tế
thế giới trong tương lai.
3. Sụ cần thiết phải lập BCLCTT trong quá trình hội nhập

a) Lập BCLCTT sẽ cung cấp được các thông tin về các luồng tiền vào và

ra,

tỷ


trọng của các luồng tiền trong các hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt
động
đầu tư và hoạt động tài chính.

BCLCTT là một trong những báo cáo tài chinhứ không thể thiếu được
đối
với các doanh nghiệp trong những nước có nền kịnh tế thị trường nhằm cung
cấp cho người sử dụng thông tin của doanh nghiệp. Nếu BCĐKT cho biết
những
nguồn lực tài sản và nguồn gốc của những tài sản đó và BCKQKD cho biết thu
nhập và chi phí phát sinh để tính được kết qủa lãi, lỗ trong một kỳ thì BCLCTT
19


các khoản tương đương tiền như ta đã biết được trong tổng hợp và chia thành 3
nhóm: lưu chuyển tiền từ hoạt động sản xuất kinh doanh, từ hoạt động đầu tư

từ hoạt động tài chính. Những con số trên BCLCTT sẽ giúp cho người sử dụng
thông tin kế toán của doanh nghiệp có quyết định đúng đắn, từ đó mà nâng cao
khả năng thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài, đặc biệt là vốn đầu tư nước ngoài
trong trường hợp doanh nghiệp có lợi thế về khả năng tài chính hoặc kịp thời có
chính sách điều chỉnh nếu tình hình tài chính của doanh nghiệp không được như
mong muốn.

b) Đối với các doanh nghiệp đã sử dụng vốn đầu tư nước ngoài thì lập

BCLCTT
là yếu tố cần thiết để phù hợp với quy định của đối tác.

Như chúng ta đã biết, Việt Nam là nước đang trong quá trình phát triển

và hội nhập với nền kinh tế thế giới. Mặc dù cùng với quá trình hoàn thiện dần
hệ thống kế toán, ở Việt Nam hiện nay BCLCTT đang ngày càng được coi
trọng
trong hệ thống các báo cáo kế toán, nhưng ở những nước có nền kinh tế phát
triển thì từ lâu BCLCTT đã là một trong bốn báo cáo tài chính bắt buộc đối với
mọi doanh nghiệp. Do vậy, trong khi họp tác, liên doanh, liên kết với mước
ngoài thì các doanh nghiệp phải tuân theo sự thoả thuận của hai bên trong đó
hầu hết các chủ đầu tư nước ngoài đều đòi hỏi doanh nghiệp phải lập BCLCTT
nhằm phù hợp với quy định của nước họ đồng thời có thể cung cấp đầy đủ
thông tin về tình hình tài chính của doanh nghiệp cho tất cả những cổ đông đã
góp vốn đầu ra vào doanh nghiệp.

c) Nếu thiếu BCLCTT thì chưa đánh giá được thực trạng khả năng tài

chính

của
20


của một quá trình được tích luỹ trong suốt một kỳ báo cáo. Vì vậy, các tỷ số
tiền mặt phản ánh tương đối đầy đủ những gì đã xảy ra ảnh hưởng đến tài
khoản
"tiền mặt' trong một kỳ phân tích. Ngoài ra, phân tích tình hình sử dụng vốn
bằng tiền còn là một bộ phận của phân tích tình hình tài chính của doanh
nghiệp.

Như vậy có thể thấy là những thông tin từ BCLCTT và những thông tin

những báo


cáo tài chính khác giúp người sử dụng phân tích, đánh giá khả năng tạo ra các
luồng tiền trong tương lai, sự biến động tài sản thuần của doanh nghiệp, khả
năng chi trả lãi cổ phần, khả năng thanh toán các khoản nợ cũng như tình hình
lưu chuyển tiền củav kỳ tiếp theo. Trên cơ sở đó, dự đoán được nhu cầu và khả
năng tài chính của doanh nghiệp.

d) Lập BCLCTT giúp rút ngắn thời gian hội nhập giữa kế toán Việt Nam

với

hệ

thống kế toán quốc tế.

So với thế giới thì kế toán Việt Nam vẫn là một hệ thống còn rất non trẻ.
Do vậy, Việt Nam đang trong quá trình hội nhập với thế giới thì càng cần phải
thúc đầy quá trình này diễn ra một các mạnh mẽ. BCLCTT có thể được coi là
một trong những công cụ làm cầu nối trung gian cho sự hoà nhập này. Hiện
nay, không chỉ các nước có nền kinh tế phát triển mà ngay cả các nước trong
khu vực cũng đã có quy đinh bắt buộc về việc lập BCLCTT trong hệ thống báo
cáo kế toán. Do đó, lập BCLCTT là một hình thức phù hợp để Việt Nam rút

21


Qua phân tích trên chúng ta thấy rằng BCLCTT là một trong các báo cáo
tài chính không thể thiếu được đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường. Do đó để thực sự hội nhập với quốc tế các doanh nghiệp Việt Nam phải
nhanh chóng tìm ra phương hướng hợp lý để đưa BCLCTT vào trong hoạt động

kinh doanh của mình. Với thực trạng của nền kinh tế Việt Nam hiện nay việc sử
dụng BCLCTT có nhiều thuận lợi và cũng gặp không ít khó khăn.

Khó khăn chủ yếu của việc áp dụng BCLCTT vào doanh nghiệp Việt
Nam là do hệ thống các qui định, các chuẩn mực về kế toán ở Việt Nam chưa
được hoàn thiện. Mặc dù, chúng ta đã tiếp thu được nhiều kinh nghiệm quý giá
từ nền kinh tế thị trường ở các nước phát triển, nhưng do còn quá non trẻ nên hệ
thống luật của Việt Nam còn nhiều thiếu sót, đặc biệt là về kế toán và tài chính.

Ngoài ra chúng ta còn gặp những trở ngại về chuyên môn. Trình độ
nhân viên kế toán ở Việt Nam còn thấp. Nguyên nhân chủ yếu là do việc đào
tạo tràn lan không đảm bảo chất lượng dẫn tới một bộ phận nhân viên kế toán
không đáp ứng được nhu cầu hiện nay của công việc. Mặt khác nước ta lại chịu
hậu quả nặng nề của nền kinh tế chỉ huy tồn tại hàng chục năm, do đó tác
phong làm việc của nhân viên kế toán nói riêng và người lao động nói chung
vẫn còn trì trệ.

Hơn nữa, hiện nay việc áp dụng máy tính hoá vào công tác ở Việt
Nam cũng không phải dễ dàng. Trong khi trên thế giới việc áp dụng máy tính
trong kế toán đã trở nên phổ biến và có nhiều ứng dụng rộng rãi. Việt Nam một
mặt không đủ điều kiện vật chất, mặt khác lại không đủ các điều kiện năng lực
để đưa kế toán máy áp dụng rộng rãi, điều này càng làm tăng khoảng cách giữa
kế toán Việt Nam với kế toán quốc tế, do đó mà làm chậm quá trình hội nhập
của kế toán Việt Nam. Đây cũng là một cản trở dẫn tới BCLCTT chưa phải là
một báo cáo tài chính bắt buộc ở Việt Nam.
22


quốc tế thì chúng ta phải hoàn thiện hệ thống các nguyên tắc, thông lệ và chuẩn
mực của nền kinh tế nói chung và của kế toán nói riêng. Đây là điều kiện rất

thuận lợi cho việc áp dụng BCLCTT vào trong hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp. Thêm vào đó, xu hướng toàn cầu hoá sẽ thúc đẩy sự liên doanh
liên kết giữa các công ty nước ngoài và các doanh nghiệp Việt Nam diễn ra
mạnh mẽ. Vì vậy, việc sử dụng BCLCTT như là một công cụ chủ yếu đế phân
tích các luồng tiền từ các hoạt động kinh doanh, đầu tư và tài chính là vấn đề đã
trở nên cấp bách và cần thiết. Thông qua đó chúng ta có thể chủ động trong việc
huy động cũng như phân phối tiền tệ.

Thêm vào đó, trong những năm gần đây, Việt Nam đã thi hành nhiều
chính sách đẩy nhanh quá trình hội nhập tạo môi trường thuận lợi cho kế toán
Việt Nam tiến gần tới các chuẩn mực kế toán quốc tế.

Xem xét những thuận lợi và khó khăn trên, thiết nghĩ để đưa
Thứ nhất, chúng ta phải coi việc lập BCLCTT là một yêu cầu bắt
buộc, ở Việt Nam, theo quy định BCLCTT cũng là một báo cáo tài chính phải
lập. Tuy nhiên, quy định này không phải là quy định bắt buộc ở tất cả các
doanh nghiệp Việt Nam. Hiện nay việc lập BCLCTT mới chỉ quy định bắt buộc
phải lập ở các công ty cổ phần, công ty chứng khoán. Do đó, trong quá trình
hoàn thiện dần hệ thống kế toán ở Việt Nam, chúng ta phải đưa ra quy định bắt
buộc phải lập BCLCTT ở tất cả các doanh nghiệp Việt Nam.

Thứ hai, phải nâng cao trình độ chuyên môn kế toán nói chung và
của nhân viên kế toán nói riêng. Gốc rễ của vấn đề là ở khâu đào tạo nhân viên
kế toán. Nhà nước cần đưa ra các chính sách đào tạo thích hợp, đồng thời thông
qua các cơ quan chức năng phải thường xuyên kiểm tra chất lượng đào tạo. Bên
cạnh đó, chúng ta cần chú trọng tới việc nâng cao nghiệp vụ cho nhân viên kế
23


kế toán có kinh nghiệm, năng lực, trình độ, hiểu biết, sáng tạo biết tiếp thu

những cái mới sẽ là những nguời đua kế toán Việt Nam hội nhập với quốc tế.

Thứ ba, chúng ta cần tạo môi trường thuận lợi cho kế toán Việt Nam
phát triển. Nhà nước ta cần đưa ra những chính sách phù hợp, rút ngắn khoang
cách giữa Việt Nam với thế giới không chỉ trong lĩnh vực kế toán mà trong mọi
lĩnh vực. Những chính sách đồng bộ, đổi mới, chẳng hạn như trong lĩnh vực
đầu

24


ờíấrmiẬẰ'

9

Việc đưa BCLCTT trở thành một báo cáo tài chính bắt buộc phải lập
trong các doanh nghiệp Việt Nam là một vấn đề rất cần thiết nhưng cũng rất
khó khăn. Hơn nữa, việc soạn thảo và ban hành các chuẩn mực kế toán nói
chung là cả một quá trình nghiên cứu và hoàn thiện dần từng bước, không thể
đòi hỏi đồng bộ và hoàn hảo ngay được. Chính vì thế chúng ta không thể cầu
toàn, cũng không thế đòi hỏi phải giải quyết triệt để mọi vấn đề ngay lần ban
hành đầu tiên được, mà phải qua nhiều lần hoàn thiện mới có thể đáp ứng được
những nhu cầu đó. Mặt khác, các chuẩn mực ban hành ra cũng phải đảm bảo
tĩnh phù hợp và đi vào được cuộc sống thực tiễn ở từng giai đoạn và từng thời
kỳ nhất định.

Với đề tài: "ý nghĩa của BCLCTT và sự cần thiết phải lập BCLCTT
trong
các doanh nghiệp Việt Nam" đã góp phần làm rõ được:
_ Những vấn đề lý luận cơ bản về BCLCTT.


_ Trình bày và phân tích được phần nào về thực trạng việc lập BCLCTT

Việt Nam hiện nay từ đó chỉ ra một số vấn đề còn tồn tại và đưa ra một số giải
pháp.

25


26


×