LUẬN VĂN:
Kiện toàn hệ thống chính trị cấp cơ sở
tỉnh viêng chăn, nước cộng hòa dân chủ
nhân dân Lào hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lịch sử xã hội loài người cho thấy, từ khi xã hội phân chia thành giai cấp, có
Đảng cầm quyền, bất cứ Đảng nào cầm quyền cũng đều phải xây dựng hệ thống chính
trị để thực hiện quyền lực chính trị của mình.
Hệ thống chính trị Xã hội chủ nghĩa là một hệ thống các tổ chức chính trị - xã hội
trụ cột của nền chính trị xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Thông qua hệ
thống chính trị, nhân dân lao động thực thi quyền lực của mình trong xã hội. Nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa là một nền dân chủ thực sự cho quần chúng lao động rộng rãi, thực
hiện quyền bầu cử phổ thông, trực tiếp, bình đẳng. Tất cả mọi công dân không phân biệt
giới tính, giai cấp, dân tộc, tôn giáo đều được quyền tham gia bình đẳng vào đời sống
chính trị, vào quản lý nhà nước. Cơ sở kinh tế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là sở
hữu xã hội về tư liệu sản xuất.
Hệ thống chính trị Tư bản chủ nghĩa khác so với hệ thống chính trị Xã hội chủ
nghĩa ở chỗ, trong xã hội tư bản, quyền lực chỉ thuộc về một nhóm người, nền dân chủ
thực chất là một hình thức thống trị giai cấp. Giai cấp tư sản quan tâm đến dân chủ như
một thủ đoạn thống trị chính trị của mình, đề ra hiến pháp, lập ra nghị viện và những cơ
quan đại diện khác thực hành quyền bầu cử phổ thông và những nguyên tắc tự do chính
trị một cách hình thức dưới áp lực của quần chúng nhân dân. Thực chất, đó là một nền
dân chủ cắt xén, làm tê liệt quyền làm chủ của nhân dân lao động và làm cho quần
chúng nhân dân không thể tham gia vào đời sống chính trị. Cơ sở kinh tế của nền dân
chủ tư bản chủ nghĩa là sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất, bóc lột lao động làm thuê và
chiếm đoạt giá trị thặng dư.
Hiện nay, trên bình diện thế giới, hệ thống xã hội chủ nghĩa không còn tồn tại
sau chính biến và sự thay đổi thể chế chính trị ở Liên Xô (cũ) và Đông Âu. Sự thất bại
của Chủ nghĩa xã hội ở Liên xô và các nước Đông Âu cho thấy những khiếm khuyết,
yếu kém tồn tại trong lòng các nước ấy, chứ không có nghĩa là lý thuyết về chủ nghĩa xã
hội của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin hoàn toàn phá sản. Sự tồn tại một cách đầy tự
tin và vững mạnh của một số nước Xã hội chủ nghĩa như Trung Quốc, Việt Nam, Lào,
Triều Tiên, Cu Ba trong bối cảnh thế giới đầy thách thức hiện nay là một minh chứng
cho sức sống của lý thuyết vĩ đại đó.
Tuy nhiên, các nước xã hội chủ nghĩa hiện nay như Trung Quốc, Việt Nam, Lào
đang phải nỗ lực vượt qua những hạn chế, khiếm khuyết, thậm chí cả những sai lầm đã
từng mắc phải để chứng minh cho tính hợp lý, tính tất yếu của sự lựa chọn chủ nghĩa xã
hội trong logic lịch sử - tự nhiên của tiến trình phát triển loài người, đúng như dự báo
của V.Lênin, sớm muộn, trước sau thì các dân tộc đều sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.
Trong bối cảnh chính trị - xã hội phức tạp trên thế giới hiện nay, các nước xã hội
chủ nghĩa cũng cần tiến hành đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị. Thực chất của
việc đổi mới hệ thống chính trị là thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa để cho nhân dân
thấy mình thực sự làm chủ. Việc cải cách hệ thống chính trị luôn là một đòi hỏi cấp thiết
để đảm bảo cho những cải cách kinh tế thành công. Tuy nhiên, cải cách chính trị là một
lĩnh vực phức tạp, nhạy cảm nên cần phải có những bước đi thận trọng và phù hợp với
cải cách kinh tế, nếu để xảy ra sai lầm thì hậu quả sẽ khôn lường.
Riêng nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào, hệ thống chính trị nói chung và hệ
thống chính trị cấp cơ sở tỉnh Viêng Chăn nói riêng đang ngày một được củng cố, hoàn
thiện từng bước để thực thi nền dân chủ nhân dân, đảm bảo quyền lực thuộc về nhân
dân, nhằm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa.
Sau hơn 34 năm xây dựng Chủ nghĩa xã hội, hệ thống chính trị nước Cộng hoà
dân chủ nhân dân Lào, dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân cách mạng và Nhà nước
Lào đã có khả năng dẫn dắt dân tộc Lào vượt qua những thách thức, khó khăn dành
được nhiều thành tựu to lớn.
Đi đôi với những thành quả thu được, hệ thống chính trị của nước Cộng hoà dân
chủ nhân dân Lào vẫn còn nhiều khiếm khuyết. So với yêu cầu thực tiễn, năng lực và
hiệu quả lãnh đạo của đảng, hiệu quả quản lý và điều hành của nhà nước, hiệu quả hoạt
động của các đoàn thể chính trị-xã hội như Mặt trận xây dựng Tổ quốc, Đoàn thanh
niên, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh và các tổ chức chính trị - xã hội cấp cơ sở chưa
tiến kịp với đòi hỏi của tình hình thực tiễn. Đội ngũ cán bộ thiếu tri thức vẫn chưa khắc
phục được tình trạng "công chức hoá". Nghiêm trọng hơn, một bộ phận cán bộ trong hệ
thống chính trị cấp cơ sở thoái hoá về phẩm chất đạo đức cách mạng, lối sống, mất
niềm tin vào chế độ, vào con đường xã hội chủ nghĩa. Thêm nữa, nhận thức của người
dân về dân chủ, về quyền dân chủ còn hạn chế do thói quen, tập quán phép, do tâm lý
tiểu nông và sự ràng buộc bởi lệ làng-bản…
Những yếu kém trên đây đã dẫn đến tình trạng vi phạm quyền làm chủ thực sự
của nhân dân, làm mất lòng tin của nhân dân vào chính quyền, vào đảng, nhà nước
Chính vì vậy, việc nghiên cứu thực trạng hệ thống chính trị cấp cơ sở tỉnh Viêng
Chăn, chỉ ra những khiếm khuyết, đề xuất những giải pháp khắc phục để từng bước đổi
mới, kiện toàn hệ thống chính trị cấp cơ sở (tỉnh) là một vấn đề hết sức quan trọng, thiết
thực, đáp ứng yêu cầu cấp bách cả về lý luận và thực tiễn đối với sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Lào hiện nay.
Với những lý do trên, tôi chọn đề tài " Kiện toàn hệ thống chính trị cấp cơ sở tỉnh
Viêng Chăn, nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào hiện nay " làm đề tài luận văn thạc sĩ
triết học - chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học - của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về chủ nghĩa xã hội và con đường xây dựng
chủ nghĩa xã hội được trình bày tập trung trong các tác phẩm: Những nguyên lý của chủ
nghĩa Cộng sản, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (C.Mác và Ph.Ăngghen), Tư bản, Phê
phán cương lĩnh Gôta (C.Mác), Chống Đuy-Rinh (Ph, Ăngghen), Sự phát triển của chủ
nghĩa xã hội từ không tưởng đến khoa học, Vấn đề nông dân ở Pháp và Đức, Nguồn gốc
của gia đình của chế độ tư hữu và của Nhà nước (Ph. Ăngghen), Nhà nước và Cách
mạng, Nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xô Viết, Làm gì? Chủ nghĩa xã hội và tôn
giáo, Hai sách lược của Đảng xã hội - dân chủ trong cuộc cách mạng dân chủ, Những
nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xô viết, Kinh tế và chính trị trong thời kỳ chuyên
chính vô sản (V.I.Lênin)... Trong các tập chuyên khảo này, các ông đã trình bày khái
niệm về cái gọi là chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa tư bản, những đặc trưng của các xã hội ấy
và chứng minh tính tất yếu của xu thế phát triển xã hội loài người là sự thay thế xã hội
tư bản chủ nghĩa bằng xã hội xã hội chủ nghĩa. Chúng ta cũng có thể tìm thấy những
cương lĩnh cải tạo đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, bài học về sự lãnh đạo của
Đảng - nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, bài học
về đại đoàn kết dân tộc, quốc tế, bài học về thái độ đối với nông dân, bài học về dân chủ
hoá đời sống xã hội trong các tác phẩm ấy.
Tuy nhiên, các tác giả kinh điển không hề đề ra một con đường cụ thể, bất di bất
dịch để xây dựng chủ nghĩa xã hội mà mọi người, mọi dân tộc phải nhất nhất tuân theo
ở mọi nơi, mọi lúc. Do vậy, lý thuyết xây dựng chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác Lênin đã được các nhà lãnh đạo cách mạng như Hồ Chí Minh (Việt Nam), Đặng Tiểu
Bình, Mao Trạch Đông (Trung Quốc), Kay Son Phom Vi Han (Lào) vận dụng một cách
linh hoạt, phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện của dân tộc mình. Trong các tác phẩm của
mình, các ông đã bổ sung những cơ sở lịch sử cho lý thuyết của Mác - Lênin bằng kinh
nghiệm học Đông phương.
Một số các luận văn, luận án cũng đã đi vào tìm hiểu về vai trò và vị trí của hệ
thống chính trị cấp cơ sở trong việc thực hiện quyền dân chủ như: Nghiên cứu về vai trò
của giai cấp công nhân trong chế độ dân chủ nhân dân tiến tới mục tiêu xây dựng
XHCN ở Lào (Vẻn Thong Luông Vi Lay – luận án tiến sĩ, Hà Nội 2005); Đảng nhân
dân cách mạng Lào lãnh đạo hệ thống chính trị trong sự nghiệp đổi mới hiện nay ( Vi
Súc Phôn Phi Thắc - luận án Tiến sĩ triết học, Học viện CT-HC Quốc gia Hồ Chí Minh);
Đổi mới giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị các xã
các tỉnh khu vực Nam bộ (Lê Hanh Thông – luận án tiến sĩ, Hà Nội 2003); Vai trò của
Nhà nước đối với việc thực hiện quyền dân chủ của nhân dân ở Việt Nam hiện nay
(Trần Thị Băng Thanh – luận án tiến sĩ, Hà Nội 2002); Hệ thống chính trị vùng dân tộc
thiểu số người Chăm (Nguyễn Đức Ngọc – Luận văn thạc sĩ, Hà nội năm 2003); Kiện
toàn hệ thống chính trị ở xã nhằm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân vùng đồng
bằng sông Hồng hiện nay (Nguyễn Dương Hùng – luận án tiến sĩ, Hà Nội 2008) ... Tuy
nhiên, trong các luận án, luận văn này, các tác giả chưa đi sâu nghiên cứu về vai trò của
hệ thống chính trị cấp cơ sở trong việc phát huy tinh thần dân chủ của nhân dân, về
những yếu kém của hệ thống chính trị cấp cơ sở, từ đó đề ra một số những kiến nghị,
giải pháp cho việc củng cố, kiện toàn hệ thống chính trị cấp cơ sở Lào hiện nay.
Để tham khảo những kinh nghiệm của Việt Nam trong cách giải quyết các vấn đề
về cải cách hệ thống chính trị, luận văn đã từng tham khảo và tìm đọc các công trình
khoa học nghiên cứu liên quan đến đề tài trên của các nhà khoa học Việt Nam như: Hệ
thống chính trị cơ sở nông thôn ở nước ta hiện nay (Hoàng Chí Bảo, nhà xuất bản chính
trị quốc gia Hà Nội 2004); Hệ thống chính trị cơ sở. Thực trạng và một số giải pháp đổi
mới (Bộ Nội vụ nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội 2004); Góp bàn về hệ thống
chính trị cơ sở vùng dân tộc Khơ-me đồng bằng sông Cửu Long (Trịnh Quốc Tuấn Tạp chí lịch sử Đảng số 8/2003); Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh-nền
tảng tư tưởng của chúng ta; Đổi mới hệ thống chính trị vùng miền núi phái Bắc
(Nguyễn Quốc Phẩm, nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội 2004), Chủ nghĩa MácLênin về bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa và sự vận dụng (Nguyễn Văn Oánh - tạp
chí lịch sử Đảng 2007); Về dân chủ Tư sản và dân chủ XHCN; Tư tưởng của Lênin về
phát triển từ dân chủ tư sản đến dân chủ xã hội chủ nghĩa (Đỗ Thị Thạch – Thông tin
Chủ nghĩa xã hội lý luận và thực tiễn số 6/2005, tạp chí lý luận chính trị số 4/2007); Một
số vấn đề chính trị, xã hội từ quá trình phát triển của chủ nghĩa xã hội hiện thực
(Nguyễn An Ninh - thông tin Chủ nghĩa xã hội lý luận và thực tiễn Hà Nội 2006) ...
Nhiều bài báo, bài viết trong các tập chuyên khảo về vấn đề con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam, tính tất yếu và cần thiết của sự cải cách hệ thống chính trị
cũng được tác giả luận văn tham khảo như Chủ nghĩa xã hội từ lý luận đến thực tiễn,
những bài học kinh nghiệm (Lê Hữu Tầng, nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội
2003), Chủ nghĩa Mác-Lênin và công cuộc đổi mới ở Việt Nam (Đặng Hữu Toàn, nhà
xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội 2002), Văn kiện Đại hội X của Đảng cộng sản Việt
Nam những vấn đề lý luận và thực tiễn (Phạm Văn Đức và Đặng Hữu Toàn đồng chủ
biên, nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội 2008), Những vấn đề lý luận đặt ra từ các
văn kiện Đại hội IX của Đảng (Nguyễn Trọng Chuẩn chủ biên, nhà xuất bản chính trị
quốc gia Hà Nội 2002), Toàn cầu hoá trong bối cảnh châu A - Thái bình dương, một số
vấn đề triết học (Phạm văn Đức chủ biên, nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội 2007)...
Song, những vấn đề mà các nhà khoa học Việt Nam đề cập đến trong các tác
phẩm trên chủ yếu là kinh nghiệm cho riêng Việt Nam, chưa có công trình nào đi sâu
tìm hiểu về thực trạng của hệ thống chính trị ở Lào và hệ thống chính trị cấp cơ sở ở
tỉnh Viêng Chăn. Chúng tôi chỉ có thể tham khảo những công trình trên và tìm ra những
nét tương đồng, so sánh với nước Cộng hoà dân chủ nhân Lào mà thôi.
Nói chung, vấn đề xây dựng và củng cố hệ thống chính trị cấp cơ sở ở Nước
Cộng Hoà dân chủ nhân dân Lào nói chung và tỉnh Viêng Chăn nói riêng chưa được
nghiên cứu một cách hệ thống, khoa học, nghiêm túc. Trong luận văn này, chúng tôi hy
vọng sẽ đóng góp những ý kiến nhỏ bé của mình trong việc tìm ra những giải pháp cho
việc củng cố và phát huy hệ thống chính trị cấp cơ sở ở nước Cộng hoà dân chủ nhân
dân Lào hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ
Mục đích của luận văn: trên cơ sở làm rõ thực trạng hệ thống chính trị cấp cơ sở
tỉnh Viêng Chăn, luận văn góp phần tìm giải pháp kiện toàn hệ thống chính trị cấp cơ sở
tỉnh Viêng Chăn.
Để thực hiện mục đích trên, luận văn cần phải giải quyết các nhiệm vụ sau:
Làm rõ khái niệm và vai trò của hệ thống chính trị cấp cơ sở tỉnh Viêng Chăn.
- Phân tích tình hình, đặc điểm, thực trạng tổ chức và hoạt động hệ thống chính
trị cấp cơ sở tỉnh Viêng Chăn.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm kiện toàn hệ thống chính trị cấp cơ sở tỉnh
Viêng Chăn, nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào hiện nay
4. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu hệ thống chính trị cấp cơ sở tỉnh Viêng Chăn
nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào trong trong giai đoạn hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và Đảng Nhân dân cách mạng Lào về hệ thống chính trị
Luận văn thực hiện và sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp
thống kê - so sánh, kết hợp nghiên cứu thực tế lịch sử với nghiên cứu văn bản.
6. ý nghĩa của luận văn
Góp phần phân tích và đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của hệ thống
chính trị cấp cơ sở tỉnh Viêng Chăn.
Góp phần nâng cao nhận thức về vai trò và chức năng của cấp cơ sở tỉnh Viêng
Chăn.
Đề xuất một số giải pháp kiện toàn hệ thống chính trị cấp cơ sở tỉnh Viêng Chăn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công
tác nghiên cứu và giảng dạy chính trị học, tài liệu tham khảo cho hoạt động thực tiễn
của các cơ quan, những người đang tham gia công tác trong hệ thống chính trị cấp cơ sở
tỉnh Viêng Chăn nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn kết cấu
gồm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
Hệ thống chính trị cấp cơ sở tỉnh Viêng Chăn
nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào
1.1. Một số nhận thức chung về Hệ thống chính trị
1.1.1.Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về hệ thống chính trị
Trong quá trình hoạt động chính trị của mình các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác - Lênin không dùng thuật ngữ "Hệ thống chính trị" theo cách hiểu hiện nay của
chúng ta, C.Mác và Ph.Ăngghen thường dùng các thuật ngữ: hình thức chính trị, thiết
chế chính trị, thể chế xã hội và chính trị, cơ cấu chính trị, cơ cấu chính quyền, thể chế
nhà nước, ... V.I. Lênin dùng khái niệm "hệ thống chuyên chính vô sản", khái niệm này
của V.I. Lênin là khái niệm có khá nhiều nội dung liên quan đến khái niệm Hệ thống
chính trị của chúng ta hiện nay.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về hệ thống chính trị mang ý nghĩa là
phương pháp luận nghiên cứu về hệ thống chính trị, với những luận điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, Nhà nước là nhân tố chủ yếu của hệ thống chính trị.
Theo C.Mác: chế độ chính trị là nhà nước, nhà nước là nhân tố quan trọng nhất
của hệ thống chính trị. Và C.Mác, Ph.Ăngghen đã nêu ra ba nhân tố quyết định sự ra đời
của nhà nước:
Một: do sự thay đổi trong phân công lao động cùng với sự phát triển kinh tế - xã
hội đến một trình độ nào đó cần phải có một tầng lớp người tách khỏi lao động trực tiếp
sản xuất vật chất để chăm lo công việc chung của xã hội. Tầng lớp người này, sau trở
thành độc lập tương đối đối với xã hội và có lợi ích riêng khác với các thành viên khác
của xã hội. Nhà nước xuất hiện như là quyền lực công cộng chịu trách nhiệm giữ gìn
trật tự xã hội theo những quy tắc, luật lệ nhất định mà mọi thành viên của xã hội đều
phải tuân theo.
Hai: Sự xuất hiện của giai cấp và mâu thuẫn giai cấp đòi hỏi cần phải có một cơ
quan dường như đứng trên các giai cấp, kìm giữ cuộc đấu tranh giữa các giai cấp, khiến
cho các giai cấp không đi đến chỗ tiêu diệt lẫn nhau và tiêu diệt luôn cả xã hội. Nhà
nước xuất hiện như là một "lực lượng thứ ba" với tư cách là trọng tài của xã hội.
Ba: Là sự thống trị về chính trị. Giai cấp thống trị về kinh tế tất yếu trở thành
giai cấp thống trị cả về chính trị, với ưu thế về kinh tế và để giữ vững ưu thế đó, giai cấp
thống trị có thể và cần phải nắm lấy bộ máy nhà nước làm công cụ thống trị xã hội,
trước hết là để duy trì giai cấp bóc lột dưới quyền thống trị của mình. Lúc này, nhà nước
xuất hiện như là một công cụ áp bức giai cấp.
Ba nhân tố cơ bản trên là điều kiện cần và đủ để nhà nước ra đời. Về bản chất, sự
ra đời của nhà nước là kết quả tất yếu của sự phân chia xã hội thành giai cấp, nhà nước
như là cơ quan thống trị của giai cấp bóc lột. Nhà nước là kết quả của một cuộc cách
mạng chính trị lật đổ chế độ cũ đã lỗi thời để lập nên chế độ mới tiến bộ hơn
Ra đời từ xã hội dân sự, đến lượt nó, nhà nước lại dùng pháp luật để điều chỉnh
mọi quan hệ xã hội công dân và do đó làm cho chính trị thâm nhập vào trong tất cả mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội, nhà nước tác động tích cực trở lại cơ sở kinh tế bằng
những chế độ, chính sách, pháp luật và toàn bộ hoạt động quản lý, điều hành của nó.
Vấn đề bản chất, vai trò và chức năng của nhà nước, theo C.Mác: "giai cấp vô
sản không thể tự động bị áp bức và bị bóc lột dưới chế độ tư bản chủ nghĩa nếu không
"thay thế xã hội tư sản cũ bằng một tổ chức liên hiệp, tổ chức này sẽ loại bỏ các giai cấp
và sự đối kháng giai cấp" [32, tr.257].
C.Mác và Ph.Ăngghen coi chức năng bạo lực là chức năng thuộc về bản chất
của nhà nước, theo nhu cầu của giai cấp thống trị. Ngoài ra, nhà nước còn có chức
năng quyền lực công cộng, quản lý kinh tế - xã hội, tổ chức đời sống chính trị, kinh
tế, văn hoá, và chức năng điều chỉnh các quan hệ lợi ích.
Theo các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác, chế độ chính trị tư sản được xây dựng
trên cơ sở chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa và nhằm bảo vệ chế độ đó. Các quyền tự do
cá nhân cũng dựa trên nguyên tắc này và được coi là quyền con người và quyền công
dân.
Nguyên tắc trên bảo đảm sự thống trị của giai cấp tư sản, nguyên tắc dân chủ tư
sản, về thực chất, là nền chuyên chính tư sản. Chế độ chính trị tư sản được biểu hiện
dưới những hình thức đặc thù khác nhau trong mỗi thời kỳ khác nhau, ở mỗi nước khác
nhau, đó là các hình thức chế độ quân chủ lập hiến, chế độ Tổng thống, chế độ đại
nghị… Trong đó, chế độ cộng hoà đại nghị được C.Mác và Ph.Ăngghen gọi là hình thức
thích hợp nhất của chế độ chính trị tư sản.
C.Mác và Ph.Ăngghen dự đoán về sự phát triển, lịch sử xã hội loài người, theo đó,
"Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách
mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia, thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị,
và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng
của giai cấp vô sản" [36, tr.47].
Đối với mô hình hệ thống chính trị vô sản, C.Mác và Ph.Ăngghen chưa có điều
kiện đi sâu nghiên cứu, các ông chỉ căn cứ vào khuynh hướng phát triển và quy luật vận
động của xã hội tư sản, từ đó hướng tới dự đoán một số nét như sau:
- Chủ nghĩa tư bản nhất định diệt vong, chủ nghĩa xã hội nhất định sẽ thay thế
chủ nghĩa tư bản.
- Giai cấp vô sản do địa vị kinh tế - xã hội của nó là giai cấp có sự mệnh lịch sử
làm cách mạng lật đổ chủ nghĩa tư bản và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Cách mạng thành công, giai cấp vô sản phải thiết lập nền chuyên chính vô sản
và sử dụng quyền lực chính trị ấy để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
- Hệ thống chính trị vô sản phải bảo đảm quyền thống trị của giai cấp vô sản, mà
đại diện tiêu biểu là đảng của nó.
- Hệ thống chính trị đó phải lấy nhà nước chuyên chính vô sản làm nòng cốt, bảo
đảm quyền làm chủ thực sự của nhân dân. Đó là nhà nước kiểu mới khác về bản chất
với nhà nước kiểu cũ, là nhà nước của tuyệt đại đa số nhân dân chống lại thiểu số bóc
lột, là nhà nước thật sự dân chủ. Là hình thức quản lý của nhân dân, do nhân dân.
- Hệ thống chính trị được xây dựng trên cơ sở khối liên minh rộng rãi của giai
cấp công nhân với đông đảo quần chúng nhân dân với một nhà nước đại biểu cho lợi ích
của đa số tầng lớp trong xã hội.
- Hệ thống chính trị phải tạo điều kiện cho sự giải phóng giai cấp công nhân và
nhân dân lao động về mặt kinh tế, theo C. Mác tư tưởng nhất quán và xuyên suốt toàn
bộ học thuyết chính trị của ông là chuyên chính vô sản, hệ thống chính trị vô sản, về
thực chất là hệ thống chuyên chính vô sản được thể hiện bằng nhà nước chuyên chính
vô sản, C. Mác chỉ ra rằng
- "Bất cứ một chế độ chính trị nào xét về thực chất cũng là nền chuyên chính của
một giai cấp". Chuyên chính vô sản chủ yếu không phải bạo lực không đồng nhất với
bạo lực, mà là sự lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với nhà nước và toàn xã hội, đó là
việc giai cấp công nhân giành lấy dân chủ, và đưa nhân dân lao động lên nắm chính
quyền, làm cho nhân dân lao động thực sự làm chủ nhà nước, làm chủ xã hội.
- Nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản là cải tạo và xây dựng xã hội về mọi
mặt, trước hết là xây dựng về kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất cho sự giải phóng hoàn
toàn xã hội thoát khỏi chế độ áp bức bóc lột.
- Chuyên chính vô sản là sự liên minh rộng rãi của giai cấp công nhân với
toàn thể các tầng lớp và giai cấp lao động trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chế độ
mới. Để xây dựng xã hội mới giai cấp vô sản sử dụng công cụ của mình là nhà nước
chuyên chính vô sản, nhà nước chuyên chính vô sản là trung tâm của hệ thống chính
trị vô sản, là nhà nước có thể có nhiều hình thức phù hợp với điều kiện dân tộc, điều
kiện cụ thể hoàn cảnh đối nội, đối ngoại và trình độ phát triển của từng dân tộc và cả
những truyền thống lịch sử của dân tộc.
Lênin đã tổng kết, khái quát và phát triển sáng tạo lý luận mácxít về cách mạng
xã hội chủ nghĩa và nhà nước chuyên chính vô sản, để hướng phong trào cộng sản quốc
tế đi đúng mục tiêu cao cả của nó, có ý nghĩa chính trị thực tiễn, làm cho quần chúng
thấy rõ những việc họ sẽ phải làm trong một tương lai gần đây để "tự giải phóng khỏi
ách tư bản" [23, tr.5].
Theo Lênin, định nghĩa khoa học về chuyên chính là chính quyền không bị bất
cứ pháp luật nào, quy tắc nào hạn chế cả. Nhà nước chuyên chính vô sản là nhà nước
của giai cấp vô sản, đại diện cho quyền lợi của một giai cấp thống nhất với quyền lợi
của toàn thể những người lao động, nên quyền lực của nhà nước được mở rộng bao
nhiêu thì xã hội càng tiến bộ bấy nhiêu. Chuyên chính vô sản là sự lãnh đạo của giai cấp
vô sản đối với toàn thể những người lao động nhằm xây dựng một xã hội mới, một xã
hội mà quyền lợi của mọi người lao động đều không có sự mâu thuẫn với nhau.
Lênin viết: “Chuyên chính vô sản không phải chỉ là bạo lực đối với bọn bóc lột,
và cũng không phải chủ yếu là bạo lực, cơ sở kinh tế của bạo lực cách mạng đó, cái bảo
đảm sức sống và thắng lợi của nó chính là việc giai cấp vô sản đưa ra được và thực hiện
được kiểu tổ chức lao động xã hội cao hơn so với chủ nghĩa tư bản.
Đây là thực chất của vấn đề, đây là nguồn sức mạnh, là điều bảo đảm cho thắng
lợi hoàn toàn và tất nhiên của chủ nghĩa cộng sản" [26, tr.16].
Thứ hai, về Đảng vô sản và sự lãnh đạo của Đảng
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, đảng Cộng sản là "bộ phận kiên quyết nhất", là bộ
phận cổ vũ tất cả những bộ phận khác của giai cấp vô sản, là bộ phận tiên tiến ưu tú
nhất, là đôi tiên phong của giai cấp công nhân. Chỉ có đảng cộng sản là đảng duy nhất
có tinh thần cách mạng triệt để, luôn đi đầu trong cuộc đấu tranh lao động vào cuộc đấu
tranh gian khổ chống lại giai cấp tư sản.
Đảng phải là một tổ chức chính trị có trình độ lý luận cao, có khả năng vạch ra
cương lĩnh, chiến lược, sách lược đúng đắn để dẫn dắt giai cấp, không chủ quan duy ý
chí, tả khuynh, hữu khuynh, cơ hội hoặc xét lại trong hoạt động, tức là phải "hiểu rõ
những điều kiện tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản"[32, tr.615].
Đảng hoạt động và đấu tranh không phải để giành những đặc quyền và độc
quyền giai cấp, những đặc lợi cho bản thân, mà là để bảo vệ lợi ích của quần chúng lao
động "để giành lấy những quyền lợi và nghĩa vụ bình đẳng và để xoá bỏ mọi sự thống
trị giai cấp" [35, tr.24].
Trong nội bộ Đảng, phải lấy "chân lý, chính nghĩa và đạo đức là cơ sở cho những
quan hệ của họ đối với nhau và đối với tất cả mọi người, không phân biệt màu da, tín
ngưỡng hoặc dân tộc"[35, tr.25].
C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định sự cần thiết phải có đảng và sự lãnh đạo của
Đảng vô sản trong hệ thống chính trị vô sản, hai ông chăm lo xây dựng nên một cộng
đồng vô sản chân chính, thống nhất, có lý luận khoa học đúng đắn, có tổ chức chặt chẽ,
tôi luyện trong phong trào của quần chúng và được quần chúng tin cậy, để đảng có thể
xác lập được quyền thống trị của mình, quyền thống trị của giai cấp công nhân, tức là
"sự thống trị giai cấp".
Trong điều kiện cầm quyền, đảng phải có đội ngũ cán bộ, đảng viên có tri thức
khoa học. Đảng có thể kết nạp đảng viên trong cá tầng lớp khác, với điều kiện người
này từ bỏ lập trường quan điểm và lợi ích của giai cấp cũ của mình, đứng hẳn trên lập
trường quan điểm vô sản.
Theo Lênin, trong điều kiện cầm quyền thì đảng cộng sản lãnh đạo, bằng cương
lĩnh chính trị, đường lối chiến lược, sách lược đúng đắn của mình. Lênin viết: "Nhiệm
vụ thứ nhất của bất cứ một chính đảng nào có trọng trách đối với thời đại là thuyết phục
cho đa số nhân dân thấy được sự đúng đắn của cương lĩnh và sách lược của mình" [24,
tr.208].
Thứ ba, các tổ chức đoàn thể nhân dân
Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin luôn quan tâm đến vấn đề xây dựng
các đoàn thể nhân dân đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong các đoàn thể công nhân có
tầm quan trọng nhất với tính cách là "những trung tâm tổ chức đối với giai cấp công
nhân", với tư cách là một lực lượng có tổ chức để tiêu diệt chế độ lao động làm thuê và
chính quyền của tư bản.
Tổ chức liên minh giữa giai cấp vô sản với các giai cấp, tầng lớp khác cũng được
C.Mác và Ph.Ăngghen hết sức chú ý. C.Mác cho rằng: liên minh công nông, nông dân
và các tầng lớp lao động khác là tuyệt đối cần thiết.
Đến Lênin, trong hệ thống chuyên chính vô sản, vai trò và nhiệm vụ của công
đoàn được Lênin coi trọng, theo Lênin, trong điều kiện giai cấp công nhân đã trở
thành giai cấp cầm quyền thì công đoàn có vai trò hết sức quan trọng trong toàn bộ
quá trình thực hiện chuyên chính vô sản. Công đoàn tập hợp trong hàng ngũ tổ chức
của mình toàn thể công nhân công nghiệp. Công đoàn chính là một tổ chức của giai
cấp đang cầm quyền, đang thống trị. Tuy nhiên, công đoàn không phải là một tổ chức
cưỡng bức, mà với tư cách là tổ chức tham gia chính quyền nhà nước nhằm giáo dục,
thu hút, huấn luyện, mối quan hệ giữa công đoàn và đảng Cộng sản, nhà nước, theo
Lênin, công đoàn phải là người công tác gần nhất, cần thiết nhất của chính quyền nhà
nước, tức là Đảng Cộng sản lãnh đạo toàn bộ sự hoạt động chính trị và kinh tế của nó
[28, tr.423].
Lênin còn đề cập cụ thể về vai trò của các tổ chức quần chúng nh ư thanh
niên, phụ nữ... theo Lênin: "Không thể thu hút được quần chúng tham gia sinh
hoạt chính trị nếu không lôi cuốn phụ nữ tham gia chính trị" [27, tr.38-39].
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Hệ thống chính trị
Hồ Chí Minh là nhà hoạt động cách mạng thực tiễn, song tư tưởng của
Người về hệ thống chính trị và việc xây dựng hệ thống chính trị là một trong những
tư tưởng toàn diện và sâu sắc. Và Hồ Chí Minh coi việc xây dựng hệ thống chính
trị sẽ quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về
hệ thống chính trị được thể hiện trên những vấn đề sau:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Theo Hồ Chí Minh: "Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung
thành của nhân dân".
Sao bao nhiêu năm làm cách mạng, Đảng ta mới giành được chính quyền, mới
trở thành Đảng cầm quyền, Đảng cầm quyền làm cho chính quyền và mọi quyền lực
thật sự thuộc về nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định "Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích
đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân, công việc đổi mới, xây dựng là trách
nhiệm của dân, sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân, chính quyền từ
xã đến chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ
chức nên. Nói tóm lại quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân" [40, tr.698]. Một xã hội
lành mạnh, một xã hội thật sự dân chủ là xã hội mà mọi quyền lực phải thuộc về nhân
dân,
Về phương thức lãnh đạo của Đảng, đối với Hồ Chí Minh, lãnh đạo đúng là "phải
quyết định mọi vấn đề một cách đúng. Mà muốn thế thì nhất định phải so sánh kinh
nghiệm của dân chúng, vì dân chúng chính là những người chịu đựng cái kết quả của sự
lãnh đạo" [42, tr.572].
Đảng lãnh đạo nhân dân thực hiện sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chủ
nghĩa xã hội cũng là từ lực lượng của nhân dân. Vì lợi ích, sự sung sướng và hạnh phúc
của nhân dân. Sự nghiệp của Đảng và nhân dân là thống nhất, Đảng cũng không có lợi
ích nào khác là lợi ích của giai cấp dân tộc và nhân dân. Vì vậy, xử lý đúng đắn nhất
mối quan hệ giữa Đảng và dân vừa là sự bảo đảm nâng cao chất lượng và hiệu quả lãnh
đạo của Đảng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì
dân.
Theo Hồ Chí Minh, phải xây dựng một nhà nước độc lập, tự chủ, dân chủ, cộng
hoà, một nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân như:
Sau cách mạng tháng Tám thành công, Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa ra
đời, Việt Nam thành một nước tự do, độc lập, Hồ Chí Minh khẳng định: "Nước Việt
Nam là một nước dân chủ cộng hoà, tất cả quyền bình đẳng trong nước là của toàn thể
nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu, nghèo, giai cấp, tôn giáo"
[52, tr.8].
Dưới sự lãnh đạo của Người, nhà nước Việt Nam thời bấy giờ, ngày càng được
củng cố và hoàn thiện về các mặt: lập pháp, hành pháp và tư pháp, thật sự là công cụ
quyền lực của nhân dân, đại diện cho ý chí, lợi ích và nguyện vọng của toàn dân tộc,
trên nguyên tắc, đảm bảo quyền lực nhà nước là thống nhất, nhằm thực hiện mục tiêu
dân tộc độc lập dân quyền tự do dân sinh hạnh phúc.
Khi nói đến nhà nước phải nói đến quyền lực nhà nước thuộc về ai? Và quyền
lực bắt nguồn từ đâu. Nói đến nhà nước của dân, có nghĩa là, nhà nước mà quyền lực
bắt nguồn từ dân, là bộ máy thừa hành ý chí của dân và điều quan trọng là nhân viên
nhà nước không còn là "cha mẹ" dân như trong nhà nước quân chủ, mà là công bộc, đầy
tớ của nhân dân, thừa hành ý chí của dân và chịu trách nhiệm trước dân về mọi hành vi,
xử sự của mình và do dân cử ra. Hồ Chí Minh viết: "Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao
nhất là dân, vì dân là chủ" [41, tr.515]; "chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là
người chủ [39, tr.499]; "chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của chính phủ từ toàn
quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để giành việc chung cho dân,
chứ không phải để dè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật"
[39, tr.56]. Và Hồ Chí Minh nhấn mạnh "Bao nhiêu quyền hạn đều của dân" [40,
tr.698].
Nhà nước của dân là nhà nước được lập nên bằng con đường bầu cử, nhân viên
nhà nước thực thi thừa hành quyền hạn thông qua sự uỷ thác của nhân dân. Theo Hồ
Chí Minh, quyền của nhân dân không chỉ thể hiện ở quyền bầu cử Quốc hội, Hội đồng
nhân dân các cấp, giám sát hoạt động của các đại biểu mà cơ chế dân chủ này còn nhằm
làm cho Quốc hội được trong sạch, giữ được phẩm chất, năng lực hoạt động.
Người dân thông qua cơ chế dân chủ thực thi quyền làm chủ nhà nước nhưng
đồng thời nhân dân phải có nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ nhà nước, làm cho nhà nước
ngày càng hoàn thiện, trong sạch, vững mạnh.
Xây dựng một nhà nước do dân, vì dân, đối với Hồ Chí Minh, mang ý nghĩa to
lớn ở chỗ: có lực lượng dân chúng, việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng được,
không có dân thì làm việc gì cũng không xong.
Hồ Chí Minh cũng rất coi trọng việc phải xây dựng một nhà nước pháp quyền,
tôn trọng Hiến pháp, tuân thủ pháp luật là nghĩa vụ thiêng liêng, vô cùng cao quý của
mọi công dân và trên hết là của cán bộ, đảng viên. Hồ Chí Minh đòi hỏi đảng viên, cán
bộ, những người giữ trách nhiệm cao phải nêu gương, Người nghiêm khắc phê phán
những đảng viên
Cậy thế mình là người của Đảng, phớt lờ cả kỷ luật và cả cấp trên trong
các đoàn thể nhân dân hoặc cơ quan chính phủ. Những đồng chí mắc bệnh ấy
không hiểu rằng mỗi đảng viên cần phải làm kiểu mẫu phục tùng kỷ luật,
chẳng những kỷ luật của Đảng mà cả kỷ luật của các đoàn thể nhân dân và
của cơ quan chính quyền cách mạng [39, tr.176].
Nhằm nâng cao hiệu quả của việc thực hiện pháp luật, Hồ Chí Minh cho rằng
"Trong một nước thưởng phạt phải nghiêm minh thì nhân dân mới yên ổn" [39, tr.163],
“nếu không thưởng thì không có khuyến khích, nếu không phạt thì không giữ vững kỷ luật.
Thưởng phạt nghiêm minh là cần thiết” [42, tr.466], "...phải thưởng phạt cho công minh
chớ vì ưa ai mà thưởng, ghét ai mà phạt" [40, tr.480].
Tư tưởng của Hồ Chí Minh trong lĩnh vực xây dựng nhà nước và pháp luật có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam hiện nay.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Mặt trận và khối đại đoàn kết toàn dân
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, Mặt trận nhằm đoàn kết giai cấp
công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ tri thức, đoàn kết những người và gia đình có
công với nước, đoàn kết các tôn giáo, các dân tộc, cộng đồng người Việt Nam ở
nước ngoài, các tầng lớp khác trong xã hội. Bằng nhiều hình thức và biện pháp khác
nhau, tuỳ từng giai đoạn lịch sử cụ thể, Mặt trận có những biện pháp thích hợp tập
hợp các tầng lớp nhân dân xung quanh Đảng để vượt qua những khó khăn thử thách
hoàn thành các mục tiêu cách mạng đề ra. Hồ Chí Minh đã sáng tạo trong việc lập ra
các tổ chức thích hợp của mặt trận để đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân, các nhân sĩ,
trí thức, những người có đạo thuộc các tôn giáo khác nhau, những người thuộc các
dân tộc khác nhau đều chung lòng yêu nước, yêu đồng bào vì sự nghiệp chung mà
đoàn kết.
Hồ Chí Minh cho rằng, Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân phải thu
phục được đại bộ phận giai cấp mình, để giai cấp ấy lãnh đạo được quần chúng, Đảng
phải tổ chức, lãnh đạo các đoàn thể nhân dân. Đảng phải vận động quần chúng nhân dân
cùng với mình giải phóng nhân dân thoát khỏi ách áp bức bóc lột, thoát khỏi nghèo đói.
Muốn làm được điều đó Đảng phải làm cho dân chúng giác ngộ, tự thấy khả năng to lớn
của mình, biết đoàn kết một lòng tạo nên sức mạnh đấu tranh chiến thắng mọi kẻ thù,
Đảng phải đoàn kết không bè phái, phải nâng cao trình độ lực lượng, khả năng hoạt
động thực tiễn, phải thật trong sạch, vững mạnh, chỉ như vậy dân mới tin, đi theo Đảng,
đoàn kết xung quanh Đảng. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Nếu không có dân thì chính phủ
không đủ lực lượng. Nếu không có chính phủ thì nhân dân không ai dẫn đường. Cho
nên Chính phủ và nhân dân phải đồng tâm nhất trí, ra sức tổ chức công tác mở mang
kinh tế. Thực hành đời sống mới. Và để thực hiện tốt nhiệm vụ cách mạng, Nhà nước
phải phát huy quyền dân chủ của nhân dân, bảo đảm quyền dân sinh của toàn dân để
phát huy tính tích cực sáng tạo của nhân dân, làm cho mọi người đều tham gia quản lý
nhà nước. Phải thực sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân xây dựng Nhà nước của
dân do dân, vì dân. Mọi cơ quan Nhà nước phải dựa vào dân, liên hệ chặt chẽ với nhân
dân. Lắng nghe ý kiến của dân, hướng về phục vụ nhân dân.
Đoàn kết dân tộc là cơ sở cho đoàn kết quốc tế, đoàn kết quốc tế là sâu sắc, rộng
rãi thêm đoàn kết dân tộc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ là tư tưởng dân chủ xã hội chủ nghĩa, mang
bản chất giai cấp công nhân, thể hiện sự vận dụng nhuần nhuyễn và sáng tạo lý luận
mácxít về dân chủ.
Hồ Chí Minh khẳng định: Xây dựng chế độ dân chủ không chỉ là xây dựng cơ sở
kinh tế, chính trị pháp luật của chế độ đó mà còn là xây dựng đạo đức, môi trường văn
hoá, đạo đức trong sạch, lành mạnh. Đó là cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân là
một căn bệnh nguy hiểm, một thứ giặc nội xâm, nó đẻ ra mọi thứ bệnh tật khác, làm
thoái hoá tổ chức và làm hư hỏng cán bộ, làm tổn hại đến lợi ích nhân dân và xã hội,
làm suy giảm nhiệt tình, lòng tin của dân đối với Đảng và Nhà nước.
1.2. Hệ thống chính trị cấp cơ sở tỉnh Viêng Chăn nước Cộng hoà dân chủ
nhân dân Lào
1.2.1. Cơ cấu tổ chức của hệ thống chính trị tỉnh Viêng Chăn
Hệ thống chính trị nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào là chế độ dân chủ nhân
dân theo hướng đi lên chủ nghĩa xã hội. Cơ cấu hệ thống chính trị nước Cộng hoà dân
chủ nhân dân Lào bao gồm: Đảng nhân dân cách mạng Lào, Nhà nước cộng hoà dân
chủ nhân dân Lào, các tổ chức chính trị – xã hội (Mặt trận và các đoàn thể nhân dân),
hoạt động theo một cơ chế nhất định nhằm từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, bảo đảm mọi quyền lực thuộc về nhân dân và thực hiện mục tiêu nước mạnh, dân
giàu, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Việc phân chia địa giới hành chính và
chia cấp quản lý nhà nước như sau: Về địa giới hành chính, được phân chia thành bốn
cấp: Trung ương, Tỉnh, Huyện, Làng. Việc quản lý của Nhà nước được phân chia thành
hai cấp: Cấp Trung ương (quản lý chung), cấp Cơ sở (Quản lý địa giới hành chính
tương đương Tỉnh, Huyện, Làng).
Đảng nhân dân cách mạng Lào:
Đảng nhân dân cách mạng Lào, là bộ phận tham mưu về đường lối chính trị, là
đội tiên phong có tổ chức của giai cấp công nhân Lào, đại diện các lợi ích của tổ chức
và nhân dân lao động yêu nước và tiên tiến, là hạt nhân trong hệ thống chính trị của chế
độ dân chủ nhân dân.
Đảng nhân dân cách mạng Lào luôn kiên trì lập trường chủ nghĩa Mác - Lênin và
phát huy bản chất giai cấp công nhân, tính tiên phong và tính cách mạng, phát huy vai
trò lãnh đạo của Đảng, chống chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng đa nguyên chính trị, đa đảng
đối lập, tư tưởng cơ hội, kiểu cách quan liêu và các tiêu cực khác.
Đảng nhân dân cách mạng Lào là những người ưu tú trong tầng lớp giai cấp công
nhân, nông dân, trí thức cách mạng và được thử thách qua phong trào thực tiễn cách
mạng, tự nguyện, tự giác, kiên cường, chịu hy sinh vì đất nước vì nhân dân. Đảng
nhân dân cách mạng Lào lãnh đạo nhân dân các bộ tộc Lào tiến hành thành công sự
nghiệp cách mạng giải phóng đất nước, xoá bỏ chế độ phong kiến và chế độ thực
dân, thành lập Nhà nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào. Và xây dựng đất nước
theo con đường xã hội chủ nghĩa. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đời sống nhân dân
càng ngày càng được củng cố, quyền làm chủ của nhân dân các bộ tộc đã được mở
rộng, sự đoàn kết, thống nhất toàn dân đã được củng cố, vị thế đất nước được nâng
cao trên trường quốc tế. Đảng đã lãnh đạo toàn dân tiến hành sự nghiệp đổi mới, tiếp
tục xây dựng và phát triển chế độ dân chủ nhân dân nhằm xây dựng đất nước Lào
hoà bình, độc lập, dân chủ, thống nhất thịnh vượng theo lý tưởng Cộng sản.
Nhà nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào
Theo hiến pháp của nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào, Nhà nước Cộng hoà
Dân chủ Nhân dân Lào là nhà nước dân chủ, tất cả quyền lực là của dân, do dân và vì
lợi ích của nhân dân các bộ tộc, lấy liên minh công - nông -trí thức làm nòng cốt. Quyền
làm chủ đất nước của nhân dân các bộ tộc được thực hiện và đảm bảo bằng hoạt động
của chế độ chính trị do có Đảng nhân dân cách mạng Lào lãnh đạo.
Nhà nước trong hệ thống chính trị là cơ quan quyền lực, thể hiện và thi hành
quyền lực của nhân dân để bảo vệ nhân dân. Nhân dân phải là người xây dựng cơ quan
đại diện quyền lực và lợi ích của mình - cơ quan đó là Quốc Hội. Nhân dân sử dụng
quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp.
Các tổ chức chính trị – xã hội:
Các tổ chức chính trị – xã hội như Mặt trận, Công đoàn, Đoàn thanh niên, Hội
phụ nữ, Hội Cựu chiến binh và các tổ chức xã hội khác. Các tổ chức xã hội là nơi tập
trung sự đoàn kết và huy động các tầng lớp của các bộ tộc vào tham gia trong sự nghiệp
giữ gìn, bảo vệ xây dựng đất nước, phát huy quyền làm chủ nhà nước, bảo vệ quyền và
lợi ích của các thành viên trong cơ quan tổ chức của mình.
Các tổ chức chính trị – xã hội tập hợp, thu hút quần chúng vào việc sản xuất,
giáo dục, văn hoá, đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cho Đảng và Nhà nước, đấu
tranh chống tham nhũng trong Đảng… các tổ chức này tạo nên cơ sở chính trị – xã hội
của Nhà nước và góp phần tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng nhân dân cách mạng
Lào.
Các tổ chức chính trị – xã hội của quần chúng hoạt động theo nguyên tắc tự
nguyện, tự quản, tuỳ theo những đặc điểm khác nhau về giới, lứa tuổi, nghề nghiệp.
Cơ cấu tổ chức của hệ thống chính trị cấp cơ sở từ Tỉnh, Huyện, Làng của nước
Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào là một mô hình thu nhỏ của toàn hệ thống chính trị
trung ương. Do vậy, hệ thống chính trị cấp cơ sở tỉnh Viêng Chăn cũng bao gồm: Bộ
máy chính quyền Nhà nước; Đảng; Các tổ chức đoàn thể nhân dân (Hội phụ nữ, Thanh
niên, Hội Cựu chiến binh, Hội nông dân, Mặt trận xây dựng tổ quốc…)
1.2.2. Vai trò, chức năng của hệ thống chính trị cấp cơ sở tỉnh Viêng Chăn
Trong sự liên kết và cấu thành chính thể thống nhất với hệ thống chính trị nói
chung, hệ thống chính trị cấp cơ sở Tỉnh Viêng Chăn giữ một vị trò rất quan trọng,
nó là cơ quan quyền lực cao nhất của cấp cơ sở, có chức năng thay thế hệ thống
chính trị cấp trung ương lãnh đạo và quản lý xã hội bằng pháp luật. Do đó, hệ
thống chính trị cấp trung ương muốn vững mạnh thì những hệ thống cấp cơ sở - với
tư cách là những trụ cột - cũng phải vững mạnh.
Hệ thống chính trị cấp cơ sở - với yêu cầu - phải là các tổ chức với tính cách là đội
ngũ tiên phong của nhân dân, là những người con ưu tú của nhân dân các bộ tộc Lào, có
tri thức và tinh thần cách mạng, khí phách lãnh đạo.
Hệ thống chính trị cấp cơ sở – với vai trò và nhiệm vụ - đảm đương trách nhiệm là
người cầm lái, chèo chống con thuyền kinh tế của tỉnh, hướng dẫn, chỉ đạo bà con sản
xuất, kinh doanh, xây dựng đời sống văn hoá, giữ vững trật tự và an ninh chính trị…
Hệ thống chính trị cấp cơ sở là bước trung gian, khâu quan trọng đưa đường lối,
chủ trương của Đảng và Nhà nước vào thực tiễn đời sống xã hội.
Hệ thống chính trị cấp cơ sở cũng là nơi để người dân thực thi và thể hiện quyền
dân chủ của mình trong việc tham gia quản lý và điều hành nhà nước…
Nói chung, hệ thống chính trị tỉnh Viêng Chăn nước Cộng hoà Dân chủ Nhân
dân Lào phải đảm đương những vai trò cụ thể như sau:
Một là, đảm bảo thực hiện quyền làm chủ của nhân dân trên lĩnh vực chính trị.
Nhân dân được tự do phát biểu ý kiến của mình góp phần xây dựng đất nước, đóng góp
ý kiến vào các văn kiện quan trọng của Đảng, Nhà nước. Có quyền yêu cầu bãi miễn
cán bộ có sai phạm, được chất vấn các đại biểu do mình bầu ra, được khiếu nại, tố cáo
với các cơ quan có thẩm quyền về những vấn đề vi phạm đến quyền lợi, nghĩa vụ công
dân, quyền làm chủ của nhân dân trên lĩnh vực chính trị. Người dân thực hiện quyền
dân chủ của mình trên lĩnh vực chính trị bằng việc có quyền ứng cử, cử đại diện của
mình vào bộ máy chính quyền và tham gia quản lý nhà nước.
Hai là, đảm bảo thực hiện quyền làm chủ của nhân dân trên lĩnh vực kinh tế.
Người dân có quyền được biết, được thông tin đầy đủ về đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng, của nhà nước, của chính quyền địa phương đối với vấn đề kinh tế, đặc
biệt là các vấn đề trực tiếp liên quan đến lợi ích kinh tế của họ như các chủ trương
đường lối phát triển kinh tế của tỉnh, quy hoạch sử dụng đất đai, các khoản thuế,
phương án chuyển đổi cơ cấu kinh tế, phát triển ngành nghề, định hướng sản xuất kinh
doanh...
Thứ ba, đảm bảo thực hiện quyền làm chủ của nhân dân trên lĩnh vực văn hoá xã hội. Đảm bảo quyền công dân, quyền con người, khắc phục những sự khác biệt giữa
các tầng lớp trong xã hội, giữa các vùng dân cư, giải phóng con người khỏi những quan
hệ xã hội bất bình đẳng, xây dựng đời sống văn hoá tinh thần lành mạnh, củng cố tình
đoàn kết các bộ tộc Lào, giáo dục truyền thống văn hoá, đạo đức. Nâng cao ý thức cho
nhân dân trong việc ngăn chặn sự xuống cấp về đạo đức, lối sống và các tệ nạn xã hội.
Xây dựng các cơ sở y tế, giáo dục, nhà văn hoá, nhà tình nghĩa, nghĩa trang liệt sĩ…
Bốn là, thúc đẩy quá trình dân chủ hoá để đảm bảo thực hành dân chủ cho giai
cấp công nhân và nhân dân lao động
Theo Lênin: chế độ dân chủ có nghĩa là chính thức thừa nhận quyền bình đẳng
giữa những người công dân, thừa nhận mọi người được quyền ngang nhau trong việc
quản lý nhà nước [25, tr.123]. Để xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, giai cấp
công nhân và nhân dân lao động phải bắt đầu bằng việc giành lấy quyền lực chính
trị, phải trở thành chủ thể của quyền lực và sử dụng quyền lực đó vì mục đích của
bản thân giai cấp mình. Đó cũng chính là tiền đề chính trị cần thiết để nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa có thể ra đời.
Hệ thống chính trị tỉnh Viêng Chăn là chế độ dân chủ nhân dân, trong hệ thống
đó, người lao động thực hành quyền làm chủ của mình trên tất cả mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế, nhân dân là chủ thể sở hữu, làm chủ tư liệu sản
xuất và chủ thể tiêu dùng những sản phẩm do chính mình làm ra.
Năm là, đảm bảo thực hiện chuyên chính với các thế lực chống lại hệ thống
chính trị (nền dân chủ xã hội chủ nghĩa) của tỉnh Viêng Chăn
Hệ thống chính trị của tỉnh Viêng Chăn là bộ phận cốt lõi của nó là hệ thống
chuyên chính vố sản, đó là cơ chế thực hiện đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân,
trong hệ thống đó là kết quả hoạt động tự giác của quần chúng nhân dân thông qua đội
tiên phong của giai cấp công nhân, với tư cách là điều kiện duy nhất đảm bảo vai trò
lãnh đạo của Đảng nhân dân cách mạng Lào tỉnh Viêng Chăn.
Đảng uỷ các cấp của tỉnh Viêng Chăn đã mang lại cho phong trào quần chúng
tỉnh tự giác trong quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa thông qua công tác
tuyên truyền, giáo dục của mình. Hệ thống chính trị của tỉnh Viêng Chăn chuyên chính
vố sản là một tất yếu khách quan trong tiến trình xác lập và củng cố dân chủ xã hội chủ
nghĩa và con đường phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội trong khi mở rộng dân chủ với
mọi tầng lớp nhân dân phải đảm bảo các bọn giai cấp bóc lột vẫn còn, chúng chống lại
sự nghiệp xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, mưu toàn phục hội dân chủ tư sản,
vi phạm những giá trị dân chủ chân chính của nhân dân, gây nguy hại cho tiến trình phát
triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Chính sự chống đối đó của bọn bóc lột kiến giai cấp cống nhân và nhân dân lao
động phải tiến hành cưỡng bức đối với chúng, trấn áp chúng bằng bạo lực. Theo Lênin
"dấu hiệu tất yếu, điều kiện bắt buộc của chuyên chính là trấn áp bằng bạo lực những kẻ
bóc lột với tính cách là một giai cấp" [25, tr.323] liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ
đó, chuyên chính của tỉnh Viêng Chăn đóng vai trò thiết chế bảo đảm sự lãnh đạo của
Đảng đối với giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đảm bảo việc tổ chức các hình
thức hoạt động theo con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, được định hướng vào việc hình
thành một nền dân chủ càng cao, hoàn thiện đẩy đủ hơn.
1.2.3. Đặc điểm hoạt động của hệ thống chính trị tỉnh Viêng Chăn
Thứ nhất, hệ thống chính trị của tỉnh Viêng Chăn, là hệ thống chính trị dân chủ
của giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động, theo hướng đi lên chủ nghĩa xã
hội, mang mầu sắc dân tộc Lào, phù hợp với tình hình trong nước, khu vực và xu thế
của thời đại. Trong hệ thống chính trị tỉnh Viêng Chăn, bản chất giai cấp công nhân,
tính dân tộc, tính nhân dân là thống nhất hữu cơ, được quán triệt, cụ thể hoá, thể chế hoá
và thực hành trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, được tổ chức và hoạt động theo
đường lối của Đảng nhân dân cách mạng Lào.
Thứ hai, trong hệ thống chính trị tỉnh Viêng Chăn, Đảng nhân dân cách mạng
Lào là hạt nhân lãnh đạo toàn diện thông qua các đảng viên là cán bộ lãnh đạo trong các
cơ quan nhà nước và các đoàn thể các cấp Tỉnh, Huyện, Làng. Đảng định ra cương lĩnh,
chiến lược, đường lối chung (đối nội và đối ngoại), trên cơ sở đó Nhà nước thể chế hoá,
cụ thể hoá thành chủ trương, chính sách và tổ chức thực hiện. Đảng quản lý công tác tổ
chức, cán bộ chủ chốt trong bộ máy nhà nước và đoàn thể trên tinh thần bàn bạc dân
chủ. Đảng lập ra các tổ chức Đảng trong các cơ quan nhà nước, các đơn vị vũ
trang...v.v.
Nhà nước và các đoàn thể có chức năng xã hội riêng, có hệ thống bộ máy và các
công cụ để tổ chức và quản lý xã hội, nhà nước hoạt động dưới hình thức bộ máy quyền
lực thuộc về nhân dân, vì dân, do dân, Nhà nước và các đoàn thể của tỉnh Viêng Chăn
phải có các hình thức tổ chức và phương thức thích hợp, thuận tiện nhất để thu thập ý
kiến, sáng kiến, nguyện vọng của nhân dân, để nhân dân tham gia trực tiếp vào các công
việc quản lý đất nước và cộng đồng, giám sát hoạt động của các cơ quan và nhân viên
nhà nước, góp ý xây dựng Đảng và các đoàn thể. Định kỳ, các cơ quan nhà nước và
đoàn thể phải báo cáo công khai trước nhân dân về kết quả công việc, thuận lợi và khó
khăn, thành tựu và khuyết điểm. Nhân dân có quyền theo dõi các phiên họp của Quốc
hội, Hội đồng nhân dân, chất vấn các đại biểu và các đại biểu phải trả lời nghiêm túc, có
quyền kiểm tra và bãi miễn những đại biểu không còn xứng đáng là người đại diện cho
họ.
Thứ ba, trong hệ thống chính trị tỉnh Viêng Chăn, quyền lực Nhà nước là thống
nhất, không phân chia, cắt khúc hay đối chọi nhau mà có sự phân công và phối hợp giữa
các cơ quan nhà nước theo quy định của hiến pháp và pháp luật trong việc thực hiện
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
Tỉnh Viêng Chăn được phép ra các văn bản, thực hiện các nghị quyết, nghị lệnh của
chính phủ, các cơ quan nhà nước của tỉnh quản lý và sử dụng hợp lý các nguồn lực và
chăm lo đời sống của nhân dân trên địa bàn hành chính lãnh thổ.