Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Vai trò của hệ thống chính trị cấp cơ sở trong việc thực hiện chính sách dân tộc (nghiên cứu trường hợp xã Lóng Sập, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (852.29 KB, 108 trang )


1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN
VĂN



VÌ THỊ LAN PHƯƠNG



VAI TRÒ CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP CƠ
SỞ TRONG VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
(NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP XÃ LÓNG SẬP, HUYỆN
MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA)


LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ








Hà Nội-2013


2




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


VÌ THỊ LAN PHƯƠNG


VAI TRÒ CUẢ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP CƠ SỞ
TRONG VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC (NGHIÊN
CỨU TRƯỜNG HỢP XÃ LÓNG SẬP
HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA)


Chuyên ngành Dân tộc học
Mã số: 60 22 70

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Lê Ngọc Thắng




Hà Nội-2013


3
MỤC LỤC

Danh mục chữ cái viết tắt 5
Danh mục bảng 5
Mở đầu 6
1. Lý do chọn đề tài 6
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 8
3. Địa bàn, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 12
4. Mục đích nghiên cứu 13
5. Phƣơng pháp nghiên cứu 13
6. Đóng góp của luận văn 14
7. Bố cục của luận văn 14
Chương 1: Tổng quan về hệ thống chính trị cấp cơ sở và địa bàn
nghiên cứu 15
1.1. Một số vấn đề về hệ thống chính trị cấp cơ sở 15
1.1.1. Các khái niệm cơ bản 15
1.1.2. Một số vẫn đề về hệ thống chính trị cấp cơ sở 19
1.2. Tổng quan địa bàn nghiên cứu 27
1.2.1. Điều kiện tự nhiên 27
1.2.2. Tình hình kinh tế - xã hội 29
Tiểu kết chương 1 33
Chương 2: Vai trò của hệ thống chính trị cấp cơ sở xã Lóng Sập trong
việc thực hiện chính sách dân tộc ………………………………….35
2.1. Hệ thống chính trị cơ sở xã Lóng Sập 35
2.1.1. Tổ chức bộ máy 35
2.1.2. Thực trạng đội ngũ cán bộ, viên chức trong hệ thống chính trị cấp
cơ sở xã Lóng Sập 39
2.2. Vai trò của hệ thống chính trị cơ sở xã Lóng Sập trong việc thực
hiện chính sách dân tộc ở địa phương 43
2.2.1 Vai trò của Đảng ủy xã Lóng Sập trong việc thực hiện chính sách
dân tộc 44
2.2.2 Vai trò của Hội đồng nhân dân trong việc thực hiện chính sách dân

tộc 46

4
2.2.3. Vai trò của Ủy ban nhân dân xã Lóng Sập trong việc thực hiện
chính sách dân tộc 48
2.2.4. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các Tổ chức đoàn thể, các hội
trong việc thực hiện chính sách dân tộc 54
2.3. Kết quả của việc thực hiện chính sách dân tộc trên địa bàn xã –
Thước đo vai trò của hệ thống chính trị cơ sở 59
2.3.1. Kết quả của việc thực hiện Chƣơng trình 135-2 trên địa bàn xã . 59
2.3.2. Những đổi thay trong việc thực hiện chính sách dân tộc tại xã Lóng
Sập 62
2.3.3. Đánh giá chung về hiệu quả của việc thực hiện các chính sách dân
tộc trong thời gian qua trên địa bàn xã, cụ thể là với Chƣơng trình 135-2 67
Tiểu kết chương 2 72
Chương 3: Một số đánh giá và giải pháp nâng cao vai trò của hệ
thống chính trị cơ sở trong việc triển khai thực hiện chính sách dân tộc
75
3.1. Một số đánh giá về hệ thống chính trị xã Lóng Sập 75
3.1.1. Một số đánh giá về đội ngũ cán bộ xã Lóng Sập. 75
3.1.2. Một số đánh giá về vai trò của hệ thống chính trị xã Lóng Sập trong
việc triển khai thực hiện chính sách dân tộc 79
3.2. Một số giải pháp củng cố và nâng cao vai trò của HTCT cấp cơ sở
trong việc thực hiện chính sách dân tộc 89
3.2.1. Nhóm giải pháp nâng cao nhận thức 89
3.2.2. Nhóm giải pháp về đổi mới tổ chức, củng cố bộ máy và cơ chế hoạt
động 90
3.2.3. Nhóm giải pháp đào tạo, bồi dƣỡng, sử dụng, tạo nguồn cán bộ,
công chức cấp cơ sở 94
3.2.4. Nhóm giải pháp về chính sách đối với hoạt động của bộ máy và cán

bộ 96
Tiểu kết chương 3 97
Kết luận 100
Thƣ mục tài liệu tham khảo 103

5
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BCĐ:
BGSCĐ:
BQL:
BTV:
Chƣơng trình 135-1:
Chƣơng trình 135-2:
Đ/C:
ĐBKK:
GSCĐ:
HĐND:
HTCT:
HTCT Cơ sở:
MTTQ:
UBND:
Ban chỉ đạo
Ban Giám sát cộng đồng
Ban Quản lý
Ban Thƣờng vụ
Chƣơng trình 135 giai đoạn I
Chƣơng trình 135 giai đoạn II
Đồng chí
Đặc biệt khó khăn
Giám sát cộng đồng

Hội đồng nhân dân
Hệ thống chính trị
Hệ thống chính trị cơ sở
Mặt trận tổ quốc
Ủy ban nhân dân
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1:
Thống kê độ tuổi của cán bộ, công chức xã Lóng Sập
Bảng 2.2:
Thành phần dân tộc trong đội ngũ cán bộ, công chức xã Lóng Sập
Bảng 2.3:
Trình độ học vấn của cán bộ, công chức xã Lóng Sập
Bảng 2.4:
Trình độ lý luận chính trị của cán bộ, công chức xã Lóng Sập
Bảng 2.5:
Trình độ chuyên môn của cán bộ, công chức xã Lóng Sập
Bảng 2.6:
Trình độ QLNN của cán bộ, công chức xã Lóng Sập

6
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đất nƣớc Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc (54 dân tộc), các dân tộc có
truyền thống cố kết gắn bó với nhau trong suốt quá trình lịch sử dựng nƣớc và giữ
nƣớc. Do vậy, dù trong thời đại nào thì vấn đề công tác dân tộc và chính sách dân
tộc cũng luôn đƣợc các nhà nƣớc rất chú trọng. Chính sách dân tộc của Đảng
Cộng sản Việt Nam luôn tuân theo ba nguyên tắc cơ bản: Bình đẳng, đoàn kết, tôn
trọng giữa các dân tộc. Tại Đại hội XI, Đảng ta tiếp tục khẳng định “Các dân tộc
trong cộng đồng dân tộc Việt Nam: Bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau
cùng phát triển”. Nhƣ vậy, thực hiện đại đoàn kết dân tộc là vấn đề rất quan trọng,

mang tính chất sống còn đối với sự tồn vong của đất nƣớc ta.
Từ khi thành lập, Đảng và Nhà nƣớc ta đã đặt vấn đề dân tộc và đoàn kết
dân tộc là nhiệm vụ trọng tâm, có tính chiến lƣợc và là một bộ phận của cách
mạng nƣớc ta, Nha dân tộc thiểu số ra đời vào ngày 9/9/1946 đã phần nào minh
chứng cho tầm quan trọng của công tác dân tộc ở nƣớc ta. Trải qua những bƣớc
tiến thăng trầm của lịch sử, ở mỗi thời kỳ khác nhau, tùy thuộc vào đặc điểm, tình
hình cụ thể của đất nƣớc mà Đảng và Nhà nƣớc luôn có sự điều chỉnh, thay đổi
các chính sách dân tộc cho phù hợp, góp phần đƣa đất nƣớc ngày một phát triển.
Bƣớc vào thời kỳ hội nhập và đổi mới, Đảng và Nhà nƣớc ta đã coi công tác dân
tộc là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của đất nƣớc, nhằm tạo ra sự phát triển
tƣơng đối đồng đều giữa các vùng, miền, giữa các dân tộc. Các chính sách dân tộc
do Đảng và Nhà nƣớc đề ra và thực hiện trong hơn 20 năm qua đã đạt đƣợc nhiều
thành tựu đáng tự hào, đời sống của đồng bào miền núi trên tất cả các lĩnh vực đã
đƣợc nâng lên đáng kể và ổn định hơn rất nhiều so với trƣớc đây. Song, nhìn
chung hiệu quả của các chính sách này thƣờng chƣa đạt đƣợc kết quả nhƣ mục
đích ban đầu đã đề ra.

7
Có rất nhiều yếu tố ảnh hƣởng đến hiệu quả của việc thực hiện các chính
sách ở vùng miền núi, là địa bàn cƣ trú chính của đồng bào các dân tộc, một trong
những yếu đó chính là vai trò của hệ thống chính trị cấp cơ sở trong việc thực hiện
các chủ trƣơng, chính sách dân tộc của Đảng, của Nhà nƣớc. Nhìn chung, hệ thống
chính trị cấp cơ sở đã phát huy đƣợc vai trò tích cực của mình trong việc thực hiện
và đƣa các chủ trƣơng, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc vào trong đời sống nhân
dân. Tuy nhiên, ở một số nơi thì hệ thống chính trị cấp cơ sở vẫn chƣa thực sự
phát huy đƣợc hết vai trò của mình, dẫn đến hiệu quả của việc thực hiện các chính
sách chƣa cao, gây lãng phí của cải của Nhà nƣớc.
Hệ thống chính trị cấp cơ sở chính là cấp thấp nhất trong hệ thống chính trị
Việt Nam, song nó lại có vai trò rất quan trọng, quyết định tới sự thành bại của
việc thực hiện các chủ trƣơng, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc nói chung và

chính sách dân tộc nói riêng. Vì đây chính là cơ quan gần dân nhất, là chiếc cầu
trực tiếp nối giữa Nhà nƣớc với quần chúng nhân dân. Do vậy, việc nghiên cứu,
đánh giá đúng vai trò, vị trí, ảnh hƣởng của hệ thống chính trị cấp cơ sở trong việc
thực hiện chính sách dân tộc nói riêng và các chính sách của Đảng và Nhà nƣớc
nói chung là một việc làm hết sức quan trọng và cần thiết.
Xuất phát từ nhận thức trên, tôi đã chọn vấn đề “Vai trò của hệ thống
chính trị cấp cơ sở trong việc thực hiện chính sách dân tộc (nghiên cứu trường
hợp xã Lóng Sập huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La )” làm đề tài cho luận văn của mình.
Trong điều kiện cho phép, chúng tôi chỉ xin đi sâu vào khảo sát, nghiên cứu về vai trò
của hệ thống chính trị cấp cơ sở trong việc thực hiện Chƣơng trình 135 giai đoạn 2 trên
địa bàn xã (Chƣơng trình 135-2). Chƣơng trình 135-2 là một chƣơng trình đầu tƣ khá
toàn diện trên các phƣơng diện cơ sở hạ tầng, kinh tế, văn hóa – giáo dục – xã hội
nhằm tạo ra sự phát triển bền vững ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn
(đây cũng chính là lý do chúng tôi lựa chọn Chƣơng trình 135-2 cho nghiên cứu của
mình).

8
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong thời gian gần đây, vấn đề về việc nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ
thống chính trị cấp cơ sở là một vấn đề thu hút đƣợc sự quan tâm nghiên cứu của
nhiều nhà khoa học thuộc các ngành, lĩnh vực khác nhau nhƣ triết học, lịch sử, dân
tộc học…
PGS.TS Phạm Hảo và TS Trƣơng Minh Dục đã đồng chủ biên cuốn sách
“Một số vấn đề về xây dựng hệ thống chính trị ở Tây Nguyên”. Cuốn sách gồm 26
bài viết, đã tập trung nghiên cứu những nhân tố ảnh hƣởng đến quá trình xây dựng
hệ thống chính trị ở Tây Nguyên, đánh giá tổng quát thực trạng và đề xuất các giải
pháp đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị các tỉnh Tây Nguyên. Nhìn chung
các nghiên cứu đƣợc thực hiện ở quy mô cấp tỉnh, cho nên việc đánh giá về hệ
thống cấp cơ sở vẫn còn mang tính chất lý luận, chung chung. Tầm quan trọng,
hay vai trò của hệ thống chính trị cấp cơ sở chƣa đƣợc đề cập đến nhiều và chƣa

đƣợc phân tích rõ.
Trong cuốn sách: “Hệ thống chính trị nước ta trong thời kỳ đổi mới” của
GS.VS Nguyễn Duy Quý chủ biên đã trình bày một cách hệ thống các vấn đề liên
quan đến hệ thống chính trị ở nƣớc ta, từ các khái niệm liên quan đến các đặc
điểm của hệ thống chính trị ở Việt Nam đến thực trạng của hệ thống chính trị nƣớc
ta từ năm 1986 đến nay (thành tựu, hạn chế, nguyên nhân), cuối cùng là đƣa ra các
dự đoán về xu thế vận động của hệ thống chính trị và các giải pháp hoàn thiện hệ
thống chính trị trong tình hình mới ở nƣớc ta. Cuốn sách mới chỉ giới thiệu, đánh
giá một cách chung nhất về toàn bộ hệ thống chính trị chứ không đi sâu vào
nghiên cứu cụ thể ở một cấp nào…
TS. Vũ Hoàng Công có cuốn sách: “Hệ thống chính trị cơ sở đặc điểm, xu
hướng và giải pháp”. Cuốn sách đã nêu lên những vấn đề lý luận rất cơ bản của hệ
thống chính trị Việt Nam nói chung và của hệ thống chính trị cơ sở nói riêng. Từ
đó rút ra những đặc điểm, những vấn đề còn tồn tại và kiến nghị những phƣơng

9
thức cơ bản trong việc củng cố, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính
trị cấp cơ sở.
Tỉnh ủy Hà Nam phối hợp với Tạp chí Cộng sản đã tổ chức hội thảo khoa
học “Xây dựng hệ thống chính trị và đội ngũ cán bộ ở cơ sở” và xuất bản cuốn
sách cùng tên. Cuốn sách là tập hợp các bài viết của các tác giả trên nhiều lĩnh vực
có liên quan đến hệ thống chính trị cơ sở. Cuốn sách giúp cho ngƣời đọc có cái
nhìn khá toàn diện về thực trạng của hệ thống chính trị cơ sở, cũng nhƣ các
phƣơng thức nhằm nâng cao chất lƣợng của đội ngũ cán bộ cơ sở.
Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn về dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam
(1999) của TS Nguyễn Quốc Phẩm và GS.TS Trịnh Quốc Tuấn. Đây là một công
trình nghiên cứu tổng thể, khái quát về vấn đề dân tộc, quan hệ dân tộc, nội dung
chính sách dân tộc ở Việt Nam.
Chính sách và pháp luật của Đảng, Nhà nước về dân tộc (2000) do Hội
đồng Dân tộc Quốc hội phối hợp với Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc xuất bản là

cuốn sách hệ thống lại các văn bản liên quan đến chính sách dân tộc, những bài
viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và một số văn bản về hoạt động
của Hội đồng Dân tộc. Cuốn sách là cơ sở giúp cho việc nghiên cứu về quan hệ
dân tộc, chính sách dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc.
Các dân tộc thiểu số Việt Nam thế kỷ XX (2001) là một công trình lớn gồm
các bài viết của các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nƣớc, các nhà khoa học ở Trung ƣơng
và địa phƣơng do Ủy ban Dân tộc chủ trì. Có thể tìm thấy ở đây thực trạng của
việc thực hiện chính sách dân tộc cũng nhƣ sự tham gia của đồng bào các dân tộc
thiểu số vào việc thực hiện các chính sách dân tộc trên từng lĩnh vực hoặc ở từng
địa phƣơng cụ thể trong mỗi bài viết.
Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách liên quan đến mối quan hệ dân
tộc hiện nay (2001) của tập thể tác giả biên soạn, do GS. TS Phan Hữu Dật chủ
biên. Cuốn sách đã phân tích và đƣa ra nhận thức mới về khái niệm dân tộc; trình

10
bày quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân
tộc, chính sách dân tộc. Cuốn sách cũng phác họa bức tranh tổng thể phức tạp về
xung đột dân tộc đang diễn ra trên thế giới, từ đó đi vào vấn đề quan hệ dân tộc và
chính sách dân tộc ở Việt Nam.
Hai tác giả Phan Hữu Dật, Lâm Bá Nam có cuốn sách viết về vấn đề: Chính
sách dân tộc của các chính quyền nhà nước phong kiến Việt Nam (X - XIX). Cuốn
sách đã phác họa các chính sách nhằm giữ vững sự ổn định biên giới lãnh thổ của
các triều đại phong kiến. Cuốn sách góp phần giúp cho các cơ quan chức năng, các
nhà hoạch định và thực thi chính sách dân tộc cũng nhƣ là tài liệu tham khảo hữu
ích cho các nhà khoa học nghiên cứu về chính sách dân tộc.
Vấn đề dân tộc và định hướng xây dựng chính sách dân tộc trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa (2002), cuốn sách là kết quả hội thảo vấn đề dân
tộc và định hƣớng xây dựng chính sách dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nƣớc tổ chức tháng 11 năm 2001 của Viện nghiên cứu Chính sách
dân tộc và miền núi. Các bài viết trong sách đã trình bày những vấn đề lý luận, nhận

thức về dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nƣớc ta; thực trạng của công
tác dân tộc và những định hƣớng xây dựng chính sách dân tộc nhằm ổn định, cải thiện
và nâng cao đời sống của đồng bào.
Góp phần nghiên cứu dân tộc học Việt Nam (2004) của GS.TS Phan Hữu
Dật bao gồm các bài viết của GS đã công bố trên sách, báo, tạp chí, kỷ yếu, hội
thảo khoa học trong 5 năm (1998 - 2003). Cuốn sách tập trung vào một số vấn đề:
Tổng quan về dân tộc học, dân tộc học Việt Nam, dân tộc học và chính sách dân
tộc của Đảng và Nhà nƣớc ta trong đó tác giả đã phân tích khá hệ thống, toàn diện
về các nguyên tắc cơ bản của chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nƣớc ta.
Cuốn sách 60 năm công tác dân tộc thực tiễn và bài học kinh nghiệm (2006)
do Viện Dân tộc và Hội đồng Khoa học của Ủy ban Dân tộc là kết quả của Hội
thảo khoa học: 60 năm công tác dân tộc - thực tiễn và bài học kinh nghiệm. Cuốn

11
sách đã đề cập đến những vấn đề: Sự hình thành và phát triển của cơ quan công
tác dân tộc, quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nƣớc qua các thời kỳ
cách mạng, công tác dân tộc - thành tựu, tồn tại và bài học kinh nghiệm, công tác
dân tộc ở các địa phƣơng - thực tiễn và bài học kinh nghiệm. Cuốn sách là sự tổng
hợp khá đầy đủ các lĩnh vực liên quan đến công tác dân tộc và việc thực hiện chính
sách dân tộc của Đảng, Nhà nƣớc cũng nhƣ của các địa phƣơng.
TS Thào Xuân Sùng trong công trình “Đảng bộ và nhân dân các tỉnh Tây
Bắc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng” đã nêu lên những thành tựu trên các
mặt kinh tế, văn hóa, chính trị, giáo dục, an ninh quốc phòng. Đồng thời tác giả
cũng nêu lên những hạn chế, nguyên nhân và giải pháp cơ bản.
Tham gia vào việc góp phần thúc đẩy phát triển hòa nhập cho các nhóm dân
tộc thiểu số vùng cao không chỉ có các cơ quan, tổ chức trong nƣớc mà còn có cả
các tổ chức nƣớc ngoài. Ủy ban Dân tộc và Miền núi đã phối hợp với Chƣơng
trình phát triển Liên hiệp quốc, Tổ chức tình nguyện Liên hiệp quốc tiến hành
Chƣơng trình Ngƣời dân vùng cao (Highland Peoples Programme - viết tắt là
HPP) thực hiện từ năm 1995 đến 2001… Cuốn sách tập hợp các công trình nghiên

cứu của các nhà khoa học về các lĩnh vực: Chính sách về dân tộc và phát triển
nông thôn miền núi; Văn hóa, môi trƣờng và phát triển, trong đó đặt ra những vấn
đề liên quan đến thực trạng, mối quan hệ của văn hóa tộc ngƣời, của môi trƣờng
thiên nhiên với sự phát triển trong bối cảnh xã hội hiện đại; Kiến thức bản địa và
giới trong phát triển; Bài học kinh nghiệm từ một số chƣơng trình dự án. Có thể
nói cuốn sách đã phản ánh khá đầy đủ các lĩnh vực có liên quan đến việc tác động
của các chƣơng trình dự án, các chính sách phát triển tới ngƣời dân vùng cao. Tuy
nhiên, cuốn sách chƣa đề cập đến vai trò của chính quyền địa phƣơng trong việc
thực hiện các chính sách trong khuôn khổ của chƣơng trình.
Ngoài ra cũng có một số bài viết của các tác giả đăng trên các báo, tạp chí
nhƣ: “Xây dựng, củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở vùng dân tộc thiểu số và miền

12
núi trong giai đoạn hiện nay” của tác giả Đặng Quang Tiến in trong tạp chí Cộng
sản số 20, năm 2004, “Tây Bắc đổi mới, nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở
cơ sở xã, phường, thị trấn” của Ngô Minh Tuấn in trong tạp chí Xây dựng Đảng
(số 8, năm 2004), hay bài “Nâng cao năng lực lãnh đạo sức chiến đấu của tổ chức
cơ sở Đảng gắn với xây dựng, củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở” của tác giả Trần
Đình Hoan in trong tạp chí Xây dựng Đảng (số 7, năm 2004).
Mặc dù có khá nhiều công trình, bài viết nghiên cứu liên quan đến đề tài hệ
thống chính trị cơ sở, song chƣa có công trình khoa học nào trực tiếp nghiên cứu
về vai trò của hệ thống chính trị cơ sở trong việc thực hiện chính sách dân tộc của
Đảng và Nhà nƣớc, cũng nhƣ mối liên hệ biện chứng giữa hiệu quả của các chính
sách dân tộc với sự vững mạnh của hệ thống chính trị cơ sở.
3. Địa bàn và đối tượng nghiên cứu
Trong quá trình tiến hành nghiên cứu nhân học, thì việc lựa chọn địa bàn và
đối tƣợng có ý nghĩa hết sức quan trọng. Trong quá trình lựa chọn địa bàn và tộc
ngƣời, chúng tôi đã dựa trên một số tiêu chí nhƣ sau:
* Địa bàn: Là nơi thuộc diện áp dụng các chính sách dân tộc của Đảng và Nhà
nƣớc. Có tính đa dạng về tộc ngƣời (nhằm nghiên cứu các vấn đề xã hội nhƣ quan

hệ tộc ngƣời, vai trò của yếu tố tộc ngƣời trong việc thực hiện các chủ trƣơng,
chính sách của Đảng và Nhà nƣớc)…Với các tiêu chí về địa bàn nghiên cứu nhƣ
trên, chúng tôi lựa chọn trƣờng hợp xã Lóng Sập huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La
làm địa bàn nghiên cứu cho luận văn của mình.
* Đối tượng nghiên cứu
- Cách thức tổ chức thực hiện chính sách dân tộc trong hệ thống chính trị cơ
sở: Đảng ủy, Ủy ban nhân dân, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Cựu chiến binh…
xã để thấy đƣợc mức độ của các tổ chức, đoàn hội tham gia vào quá trình triển khai
thực hiện chính sách dân tộc ở cơ sở.

13
- Trƣởng bản, Bí thƣ Chi bộ bản, ngƣời dân các bản để thấy đƣợc quan
điểm của họ khi đánh giá về chất lƣợng của các công trình để thấy đƣợc vai trò
của các hệ thống chính trị cơ sở. Về thành phần cƣ dân: có sự đa dạng cả về giới
tính, nghề nghiệp, tài sản, trình độ học vấn.
4. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu chính của luận văn nhằm làm rõ các vấn đề:
- Vị thế, tác động và ảnh hƣởng của hệ thống chính trị cấp cơ sở đến việc
thực hiện chính sách dân tộc ở địa phƣơng.
- Mối quan hệ biện chứng giữa hệ thống chính trị cơ sở với việc thực hiện
chính sách dân tộc ở địa phƣơng.
- Các biện pháp nhằm củng cố và nâng cao vai trò của hệ thống chính trị
cấp cơ sở nhằm đạt đƣợc hiệu quả cao trong việc thực hiện chính sách dân tộc.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn áp dụng phƣơng pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để
nhìn nhận, phân tích đánh giá các vấn đề một cách khoa học và khách quan. Đây
cũng là cơ sở phƣơng pháp luận để vận dụng các phƣơng pháp cụ thể trong quá
trình nghiên cứu đề tài.
5.2. Phương pháp cụ thể:

Luận văn áp dụng các phƣơng pháp nghiên cứu Điền dã dân tộc học điều tra
xã hội học…để thu thập tài liệu; các phƣơng pháp thông kê, so sánh, phân tích, hệ
thống hóa…trong xử lý thông tin trong nghiên cứu và trình bày kết quả nghiên
cứu.
5.3. Nguồn tài liệu
- Kế thừa nguồn tài liệu là các sách, báo đề cập đến hệ thống chính trị cấp
cơ sở, việc thực hiện chính sách dân tộc từ Trung ƣơng đến các địa phƣơng, đã
đƣợc xuất bản đƣợc lƣu trong Thƣ viện Quốc Gia, thƣ viện Trƣờng Cán bộ Dân

14
tộc, thƣ viện Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Trung tâm lƣu trữ Viện
Dân tộc - Ủy ban Dân tộc…
- Thu thập các báo cáo, đề án, kế hoạch, đề cƣơng nghiên cứu của các cơ
quan, tổ chức có liên quan; các báo cáo, thông tƣ hƣớng dẫn, cẩm nang thực
hiện….liên quan đến Chƣơng trình 135 giai đoạn 2 (2006 - 2010).
- Tài liệu điền dã và điều tra xã hội học tại địa bàn nghiên cứu - nguồn tài
liệu chính.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn làm rõ vai trò của từng cơ quan, đơn vị, các tổ chức đoàn thể
chính trị - xã hội ở địa phƣơng mà cụ thể ở đây là xã Lóng Sập trong việc triển
khai thực hiện chính sách dân tộc, cụ thể là Chƣơng trình 135 giai đoạn 2 trên địa
bàn xã.
Luận văn cũng sẽ nêu lên những yếu tố ảnh hƣởng đến việc triển khai thực
hiện chính sách dân tộc ở cơ sở, từ đó đề xuất những biện pháp để cải thiện, phát
huy vai trò của hệ thống chính trị cơ sở trong việc thực hiện chính sách dân tộc nói
riêng và các chính sách của Đảng và Nhà nƣớc nói chung trên địa bàn xã.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn đƣợc cấu trúc
thành ba chƣơng:
Chƣơng 1. Tổng quan về hệ thống chính trị cấp cơ sở và địa bàn nghiên cứu.

Chƣơng 2. Vai trò của hệ thống chính trị cấp cơ sở xã Lóng Sập trong việc
thực hiện chính sách dân tộc.
Chƣơng 3. Một số đánh giá và giải pháp nhằm nâng cao vai trò của hệ thống
chính trị cấp cơ sở trong việc thực hiện chính sách dân tộc.

15
CHƢƠNG 1:
TỔNG QUAN VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP CƠ SỞ
VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU

1.1. Một số vấn đề về hệ thống chính trị cấp cơ sở
1.1.1. Các khái niệm cơ bản
a) Khái niệm vai trò
Theo Từ điển bách khoa thì vai trò đồng thời cũng đƣợc hiểu nhƣ là vai trò
xã hội là: Phạm trù dùng để diễn đạt sự tƣơng tác xã hội, sự thực hiện chức năng
của mỗi cá nhân trong tập đoàn, hay của cá nhân và tập đoàn trong toàn bộ xã hội.
Xã hội phƣơng Tây có nhiều định nghĩa khác nhau về vai trò xã hội nhƣng đều
trùng nhau ở chỗ cho vai trò xã hội là hàng loạt những hành động, hành vi của cá
nhân tƣơng ứng với địa vị của cá nhân trong tập đoàn; đó là mặt động của địa vị
xã hội [6, tr.777].
Còn trong Từ điển tiếng Việt thì khái niệm vai trò đƣợc trình bày là: Tác
dụng, chức năng trong sự hoạt động, sự phát triển của cái gì đó. Vai trò của ngƣời
quản lí. Giữ một vai trò quyết định [55, tr.1095].
b) Khái niệm hệ thống chính trị
Hệ thống chính trị là khái niệm dùng để chỉ cơ cấu, các tổ chức chính trị
trong xã hội đƣợc tổ chức trong một hệ thống và nó có vai trò quyết định đến toàn
bộ hoạt động của bộ máy chính trị nhất định. Mỗi quốc gia tùy điều kiện cụ thể mà
có hình thức tổ chức hệ thống chính trị không giống nhau.
Theo Từ điển bách khoa thì Hệ thống chính trị là: Tổng thể những tổ chức
thực hiện quyền lực chính trị đƣợc xã hội chính thức thừa nhận. Hệ thống chính trị

tƣ sản hiện đại thể hiện nền dân chủ tƣ sản, bao gồm: nhà nƣớc tiêu biểu cho
quyền lực công, với các cơ quan lập pháp (nghị viện), cơ quan hành pháp, cơ quan
tƣ pháp; các chính đảng; các tổ chức nghề nghiệp, tổ chức chính trị - xã hội, cùng

16
tham gia hoạt động chính trị (tranh cử, tham gia chính quyền, biểu tình, vận động
quần chúng….). Đặc trƣng của hệ thống chính trị tƣ sản theo chế độ đại nghị hay
chế độ tổng thống, là chế độ nhiều đảng do giai cấp tƣ sản và chính đảng của nó
lãnh đạo; là chế độ tam quyền phân lập.
Hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thể hiện bản chất của nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa, theo cơ chế: Đảng lãnh đạo, Nhân dân làm chủ, Nhà nƣớc quản lý.
Đảng Cộng sản, với tƣ cách là đội tiên phong của giai cấp công nhân và đại biểu
cho lợi ích của nhân dân lao động và của toàn dân tộc, có sứ mạng lãnh đạo nhân
dân toàn bộ xã hội thông qua nhà nƣớc và các đoàn thể nhân dân, bộ máy nhà
nƣớc, có chức năng quản lí mọi mặt đời sống xã hội của các đoàn thể nhân dân có
chức năng tập hợp các giai cấp, tầng lớp xã hội tham gia việc quản lí nhà nƣớc,
quản lí xã hội [5, tr. 254 - 255].
Theo đó, Hệ thống chính trị ở nƣớc ta là một chỉnh thể các tổ chức chính
trị quan hệ với nhau nhằm thực hiện quyền lực của nhân dân. Mỗi thành viên của
hệ thống chính trị đều có vị trí, vai trò nhất định trong đời sống chính trị của đất
nƣớc. Hệ thống chính trị nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao gồm:
Đảng Cộng sản Việt Nam; Nhà nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên gồm: Đoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh, Hội Nông
dân…
c) Khái niệm hệ thống chính trị cấp cơ sở
Hệ thống chính trị ở cơ sở (xã, phƣờng, thị trấn) bao gồm: Đảng bộ cơ sở
(chi bộ - ở những nơi chƣa đủ điều kiện thành lập Đảng bộ), chính quyền cơ sở
(Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân xã, phƣờng, thị trấn), Ủy ban Mặt trận tổ
quốc, Đoàn Thanh niên, Hội Cựu chiến binh, Hội Nông dân, Hội Phụ nữ…Hệ

thống chính trị cơ sở là một bộ phận, một cấp độ cấu thành hệ thống chính trị,
đƣợc tổ chức và hoạt động ở cơ sở [59, tr. 544].

17

d) Khái niệm về vai trò của hệ thống chính trị
Từ các vấn đề lý luận và thực tiễn, chúng ta có thể quan niệm về vai trò của
hệ thống chính trị nhƣ sau: Vai trò của hệ thống chính trị là quá trình các tổ chức
trong hệ thống chính trị từ Trung ƣơng đến địa phƣơng hoạt động và phối hợp với
nhau trong quá trình thực hiện chức năng, có vị trí và ý nghĩa quan trọng trong tác
động đến các đối tƣợng xã hội và có ý nghĩa quyết định trong định hƣớng và tổ
chức thực hiện các mục tiêu mà cƣơng lĩnh, kế hoạch, nhiệm vụ chính trị của
Đảng, Nhà nƣớc đề ra (theo PGS.TS Lê Ngọc Thắng).
đ) Khái niệm về vai trò của hệ thống chính trị cơ sở
Cũng từ các vấn đề lý luận và thực tiễn, chúng ta có thể quan niệm về vai
trò của hệ thống chính trị cơ sở nhƣ sau: Vai trò của hệ thống chính trị cơ sở là
quá trình các tổ chức Đảng, Chính quyền, Đoàn thể ở xã, phƣờng, thị trấn hoạt
động và phối hợp với nhau trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ nhất
định tác động trực tiếp đến ngƣời dân trên địa bàn, các đối tƣợng xã hội liên quan
khác mà hoạt động đó có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả trong tổ chức thực hiện
các mục tiêu, nhiệm vụ chính trị của Đảng, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội…
của Nhà nƣớc đề ra ở địa phƣơng (theo PGS.TS Lê Ngọc Thắng).
e) Khái niệm chính sách
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam thì Chính sách nói chung là những chuẩn
tắc cụ thể để thực hiện đƣờng lối, nhiệm vụ; chính sách đƣợc thực hiện trong một
thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất, nội dung và
phƣơng hƣớng của chính sách tùy thuộc vào tính chất của đƣờng lối, nhiệm vụ
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội…Muốn định ra chính sách đúng phải căn cứ vào
tình hình thực tiễn trong từng lĩnh vực từng giai đoạn, phải vừa giữ vững mục tiêu,
phƣơng hƣớng đƣợc xác định trong đƣờng lối, nhiệm vụ chung, vừa linh hoạt vận

dụng vào hoàn cảnh và điều kiện cụ thể [4, tr.475].
f) Khái niệm về chính sách dân tộc

18
Chính sách dân tộc là loại chính sách đối với lĩnh vực, đối tƣợng đặc thù
của giai cấp cầm quyền trong điều kiện của các quốc gia đa dân tộc. Chính sách
dân tộc từ trƣớc đến nay có một số ý kiến cho rằng, theo nghĩa chung nhất: “chính
sách dân tộc là tập hợp những quan điểm, đƣờng lối, chính sách và những giải
pháp thực hiện của nhà nƣớc, tác động trực tiếp đến các dân tộc và mối quan hệ
dân tộc đang tồn tại” (UBDT và MN - tài liệu đã dẫn tr 97-98). Chính sách dân tộc
đƣợc đề cập đến trên hai phƣơng diện: quốc gia (theo định nghĩa trên) và quốc tế.
Trên bình diện quốc tế, chính sách dân tộc thể hiện quan điểm, thái độ của nhà
nƣớc đối với các dân tộc và quốc gia dân tộc khác trên thế giới…Do vậy Chính
sách dân tộc còn đƣợc hiểu là: “tổng hợp những quan điểm, đƣờng lối, chính sách
của Đảng và Nhà nƣớc đƣợc đề ra, tác động trực tiếp đến các dân tộc và quan hệ
dân tộc. Chính sách dân tộc mang bản chất giai cấp của nhà nƣớc trong phạm vi
đối nội và đối ngoại” [47, tr.42].
Từ những phân tích trên đây, chúng ta có thể nhận thấy: Chính sách dân tộc
là sách lƣợc và kế hoạch cụ thể của Đảng và Nhà nƣớc ta về các lĩnh vực chính trị,
kinh tế, xã hội, văn hóa…tác động đến các dân tộc và mối quan hệ giữa các dân
tộc, tƣơng ứng với từng giai đoạn cách mạng; dựa trên nguyên tắc bình đẳng, đoàn
kết, tƣơng trợ giúp nhau cùng phát triển của chủ nghĩa Mác - Lênin và tƣ tƣởng
Hồ Chí Minh đã đề ra; nhằm rút ngắn khoảng cách phát triển giữa các dân tộc, xây
dựng một nƣớc Việt Nam phát triển, dân giàu nƣớc mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ văn minh [4, tr.44].
g) Khái niệm tổ chức thực hiện chính sách dân tộc: Tổ chức thực hiện chính
sách dân tộc là quá trình hoạt động theo sự phân công và phối hợp của các cơ quan
quản lý nhà nƣớc, các cơ quan đơn vị có liên quan trong hệ thống chính trị, của
các đối tƣợng hƣởng thụ chính sách nhằm làm cho các mục tiêu và nội dung chính
sách thành hiện thực trong đời sống của các dân tộc [59, tr.268].


19
Trên đây là những khái niệm cơ bản đƣợc tác giả sử dụng chính trong luận văn
của mình. Việc làm rõ nội hàm của các khái niệm trên giúp cho tác giả cũng nhƣ ngƣời
đọc có cơ sở về “khung” ý nghĩa để phân tích, đánh giá các vấn đề liên quan.
1.1.2. Một số vẫn đề về hệ thống chính trị cấp cơ sở
a) Hệ thống chính trị cấp cơ sở nước ta hiện nay
Trong hệ thống chính trị cơ sở (HTCT cơ sở) Tổ chức Đảng - Đảng bộ hay
Chi bộ cơ sở - là hạt nhân chính trị, trực tiếp thực hiện vai trò lãnh đạo toàn bộ hệ
thống chính trị (HTCT) và lãnh đạo mọi mặt đời sống xã hội ở cơ sở. Vai trò lãnh
đạo của tổ chức Đảng đƣợc thực hiện bằng việc ra các Nghị quyết, Chỉ thị định
hƣớng làm cơ sở cho chính quyền triển khai các hoạt động quản lý, điều hành trên
phạm vi địa bàn; bằng hoạt động của các đảng viên trong bộ máy chính quyền và
các tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở; giới thiệu đảng viên ƣu tú tham gia giữ các
chức vụ chủ chốt trong chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở; bằng
công tác tuyên truyền, vận động; sự gƣơng mẫu của đảng viên; bằng công tác
kiểm tra, giám sát việc thực hiện các Nghị quyết, chỉ thị của Đảng, luật pháp của
Nhà nƣớc đối với cán bộ và đảng viên.
Chính quyền là trụ cột của HTCT cấp cơ sở, có vai trò quản lý, điều hành
toàn bộ các hoạt động kinh tế - xã hội trên phạm vi địa bàn theo Hiến pháp và
pháp luật. Trong chính quyền cơ sở, hội đồng nhân dân (HĐND) là cơ quan quyền
lực nhà nƣớc ở cơ sở, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân
dân trên địa bàn, thay mặt nhân dân quyết định những vấn đề quan trọng trên địa
bàn theo quy định của pháp luật. Ủy ban nhân dân (UBND) là cơ quan chấp hành
của HĐND, cơ quan hành chính nhà nƣớc ở cơ sở. UBND thực hiện những nhiệm
vụ theo nghị quyết của HĐND, những nhiệm vụ do cơ quan hành chính nhà nƣớc
cấp trên ủy quyền và chỉ đạo tổ chức thực hiện, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện
các nhiệm vụ tự quản của địa phƣơng.

20

Các tổ chức chính trị - xã hội có chức năng tuyên truyền, vận động quần
chúng nhân dân ở cơ sở thực hiện đƣờng lối, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nƣớc và các chủ trƣơng của chính cơ sở; củng cố, tăng cƣờng khối đại đoàn
kết toàn dân, thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở, chăm lo lợi ích và bênh vực
quyền lợi chính đáng của các đoàn viên, hội viên; đồng thời thực hiện chức năng
giám sát đối với hoạt động của chính quyền, của cán bộ, công chức, đảng viên ở
cơ sở và tham gia một số công việc quản lý xã hội ở cơ sở và từng thôn bản.
Ngoài ra, ở cấp cơ sở hiện nay, nhất là ở những vùng nông thôn, vùng dân
tộc thiểu số còn rất nhiều tổ chức, hội đoàn do nhân dân tự nguyện lập ra, hoạt
động theo phƣơng thức tự quản và tuân thủ pháp luật, thỏa mãn nhu cầu giao tiếp,
liên kết cộng đồng, góp phần phát triển sự đoàn kết, đồng thuận trong xã hội.
Những tổ chức này tuy không phải là bộ phận hợp thành HTCT cơ sở nhƣng có
mối quan hệ mật thiết với hệ thống.
b) Đặc điểm của hệ thống chính trị cấp cơ sở nước ta hiện nay:
Hệ thống chính trị ở nƣớc ta hiện nay bao gồm các cấp: Trung ƣơng và địa
phƣơng. Cấp địa phƣơng gồm tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng - Huyện,
quận, thị xã, thành phố - Xã, phƣờng, thị trấn (cấp cơ sở). Theo Nghị quyết Trung
ƣơng 5, cấp cơ sở ở đây là xã, phƣờng, thị trấn. Cấp cơ sở là cấp “chân rết” trong
hệ thống chính quyền hiện nay ở nƣớc ta: Trung ƣơng - Tỉnh - Huyện - Xã/
phƣờng/ thị trấn.
Cấp cơ sở là cấp thấp nhất trong hệ thống tổ chức Nhà nƣớc song lại có một
vị trí rất quan trọng trong sự tồn tại và vận hành của toàn bộ hệ thống chính trị.
Theo quan niệm chung hiện nay, cơ sở không phải là cấp tham mƣu, hoạch
định, tƣ vấn chủ trƣơng chính sách, đƣờng lối phát triển kinh tế - xã hội mà là cấp
chấp hành, triển khai đƣờng lối, chủ trƣơng chính sách, chƣơng trình, dự án…tại
chính địa bàn của mình quản lý. Đây là cầu nối trực tiếp giữa các chủ trƣơng,
chính sách của Đảng và Nhà nƣớc với mọi ngƣời dân nói chung và đồng bào dân

21
tộc thiểu số nói riêng. Là một bộ phận cấu thành HTCT nƣớc Việt Nam XHCN, do

vậy HTCT cấp cơ sở cũng mang những đặc điểm chung của toàn bộ hệ thống. Tuy
nhiên, ngoài những đặc điểm chung, HTCT cấp cơ sở ở nƣớc ta còn có những đặc
điểm riêng sau đây:
Một là: HTCT cấp cơ sở là cấp cuối cùng trong HTCT Việt Nam, là cấp gần
dân nhất, sát dân nhất. Hệ thống quản lý hành chính nƣớc ta, theo điều 118 Hiến
pháp 1992 (sửa đổi năm 2002), đƣợc phân ra thành 4 cấp: cấp Trung ƣơng; cấp
tỉnh (gồm các tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ƣơng); cấp huyện (gồm các
huyện, quận, thị xã và thành phố thuộc tỉnh); cấp xã (gồm các xã, phƣờng và thị
trấn). Nhƣ vậy, cấp xã - cấp cơ sở là cấp cuối cùng, gần dân nhất.
Là cấp cuối cùng nên HTCT cấp cơ sở có một vai trò hết sức quan trọng
trong HTCT nƣớc ta, đúng nhƣ Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cấp xã về
mặt hành chính là cấp gần dân nhất, là nền tảng của hành chính, cấp xã làm đƣợc
mọi việc thì mọi việc đều xong xuôi” [31, tr.371-372]. HTCT cấp cơ sở là cấp gần
dân nhất, do dân trực tiếp bầu và tổ chức nên. Do vậy, đây cũng là cấp có lợi thế
và khả năng nhất để giảm thiểu tệ quan liêu, hành chính, mệnh lệnh và hạn chế
xuống mức thấp nhất tệ nạn tham ô, tham nhũng, cửa quyền của đội ngũ cán bộ,
công chức do dân thƣờng xuyên kiểm tra, giám sát.
Hai là: HTCT cấp cơ sở có bộ máy đơn giản nhất và có đội ngũ biến động
nhất hiện nay.Tổ chức bộ máy của HTCT cấp cơ sở đơn giản hơn so với HTCT
cấp trên, với biên chế hƣởng lƣơng từ ngân sách ít nhất. Trong Luật Bầu cử đại
biểu HĐND năm 2003 và Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 đã quy định
HĐND xã tối đa không quá 35 ngƣời và không có các ban nhƣ HĐND cấp tỉnh,
huyện. UBND cấp xã cũng chỉ có từ 3 đến 5 thành viên. Số lƣợng thành viên Ban
Chấp hành Đảng bộ (hay chi bộ) và số lƣợng các tổ chức chính trị - xã hội ở cấp
xã cũng ít hơn nhiều so với cấp tỉnh, huyện. Tổng số cán bộ chuyên trách và công
chức trong HTCT cấp cơ sở theo quy định không quá 25 ngƣời/xã, phƣờng, thị

22
trấn (Khoản 1 Điều 4 Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của Chính
phủ về chức danh, số lƣợng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức

ở xã, phƣờng, thị trấn và những ngƣời hoạt động không chuyên trách ở cấp xã).
Cán bộ chủ chốt ở cơ sở (cán bộ chuyên trách) là những ngƣời đƣợc bầu cử
theo nhiệm kỳ nên thƣờng xuyên biến động, lại không đƣợc ổn định trong suốt
nhiệm kỳ do Đại hội Đảng bộ cấp cơ sở giữa nhiệm kỳ dẫn đến sự thay đổi cán bộ
cơ sở khoảng 30% - 40%, thậm chí là 50% [43, tr. 69].
Ba là: HTCT cấp cơ sở là “phương tiện” cơ bản nhất để thực thi quyền
làm chủ của nhân dân. HTCT cấp cơ sở là cấp có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với
nhân dân, cho nên nó vừa là phƣơng tiện cơ bản nhất để nhân dân thực hiện quyền
làm chủ, vừa là yếu tố đóng vai trò quyết định quá trình thực thi dân chủ, điều đó thể
hiện: HTCT cấp cơ sở là cấp trực tiếp tổ chức thực hiện Quy chế Dân chủ cơ sở.
Quy chế Dân chủ ở cơ sở ra đời là nhằm đảm bảo và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Tuy nhiên,
nhân dân muốn thực hiện đƣợc quyền làm chủ của mình trên các lĩnh vực này ở
trong thực tiễn cuộc sống phải thông qua HTCT cấp cơ sở.
HTCT cấp cơ sở là hệ thống quyền lực của nhân dân ở cơ sở, buộc HTCT
cấp cơ sở phải triển khai, phải cụ thể hóa, chi tiết hóa công việc dựa trên phƣơng
châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. HTCT cấp cơ sở là nơi trực tiếp
giải quyết những vƣớng mắc của nhân dân, thông qua đó, củng cố niềm tin của
nhân dân đối với Đảng và Nhà nƣớc. Từ đó, khơi dậy và phát huy ý thức dân chủ
của nhân dân - nhân tố quan trọng để hiện thực hóa nền dân chủ XHCN.
Bốn là: HTCT cấp cơ sở chịu tác động, ảnh hưởng nhiều nhất từ các thiết
chế xã hội cổ truyền cũng như phương thức tự quản của cộng đồng dân cư, nhất
là ở vùng nông thôn, vùng dân tộc thiểu số. Đây là nét đặc thù của HTCT cấp cơ
sở do đặc điểm dân tộc và truyền thống lịch sử nƣớc ta. Cấp cơ sở, đặc biệt là ở
những vùng nông thôn và vùng dân tộc thiểu số hiện nay, các thiết chế xã hội cổ

23
truyền (tự quản thông qua hoạt động của bộ máy quản lý làng, bản: đối với làng
Việt là hƣơng ƣớc, đối với đồng bào dân tộc thiểu số thì thông qua các luật tục,
phong tục, tập quán…với sự lãnh đạo của chủ làng, già làng, trƣởng bản…) vẫn

còn có những ảnh hƣởng và tác động nhất định đến đời sống của cộng đồng dân
cƣ nói chung, đến tổ chức và hoạt động của HTCT cấp cơ sở nói riêng.
Vấn đề đặt ra là trong việc xây dựng đời sống mới ở cộng đồng, trong việc
đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của HTCT cấp cơ sở làm sao phát huy
đƣợc những giá trị tích cực của các thiết chế này, đồng thời hạn chế mặt tiêu cực
của nó. Ở trình độ dân trí hiện nay, đặc biệt là ở những vùng sâu, vùng xa, vùng
đồng bào dân tộc thiểu số thì sự kết hợp hài hòa giữa các thiết chế quản lý chính
thống cùng với nó là hệ thống pháp luật của Nhà nƣớc với các thiết chế quản lý
phi chính thống (các thiết chế xã hội cổ truyền) cùng với nó là hệ thống các luật lệ,
phong tục tập quán của đồng bào (không mâu thuẫn với pháp luật hiện hành) là
giải pháp hữu hiệu nhất, đó là sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại.
Năm là: HTCT cấp cơ sở chịu sự tác động trực tiếp của các yếu tố tự nhiên,
địa lý, dân số, dân tộc, kinh tế, văn hóa, xã hội, phong tục, tập quán,…của từng
vùng miền khác nhau. Thời gian qua, trong quá trình đổi mới, kiện toàn HTCT cơ
sở dƣờng nhƣ chúng ta, ở cả cấp Trung ƣơng lẫn địa phƣơng, còn tình trạng cào
bằng, rập khuôn giữa các loại hình cơ sở khác nhau, chƣa chú ý đúng mức đến
tính đặc thù của từng loại hình cơ sở xã, phƣờng, thị trấn. Trong thực tế, cùng là
cấp cơ sở nhƣng cấp cơ sở ở vùng đồng bằng khác với vùng miền núi, trung du, ở
nông thôn khác với thành thị, miền Bắc khác với miền Nam…Cấp cơ sở ở từng nơi
lại khác nhau về diện tích, dân số, thành phần dân cƣ, tôn giáo, văn hóa, kinh tế, xã
hội, về mức độ đô thị hóa, trình độ dân trí…
Từ những sự khác nhau này, đặt ra yêu cầu khách quan phải xây dựng mô
hình tổ chức, đổi mới nội dung và phƣơng thức hoạt động của HTCT cấp cơ sở
cho phù hợp với từng loại hình cơ sở ở nƣớc ta. Trên cơ sở đó, Chính phủ đã ban

24
hành Nghị định số 159/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 về phân loại đơn vị hành
chính xã, phƣờng, thị trấn. Theo đó, dựa vào các tiêu chí về dân số, diện tích và
các yếu tố đặc thù khác (vùng, miền, dân tộc, tôn giáo…), Chính phủ chia làm ba
loại đơn vị hành chính: loại 1, loại 2 và loại 3, làm cơ sở bƣớc đầu cho việc đề ra

các chính sách phát triển kinh tế - xã hội; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà
nƣớc của chính quyền cơ sở; xác định số lƣợng cán bộ công chức cho phù hợp với
từng loại đơn vị cơ sở xã, phƣờng, thị trấn. Hy vọng, với những cách thức nhƣ vậy
sẽ góp phần làm cho quá trình đổi mới và nâng cao chất lƣợng HTCT cấp cơ sở ở
nƣớc ta trong thời gian tới đạt kết quả tốt.
c) Vai trò của hệ thống chính trị cấp cơ sở ở nước ta hiện nay
Trải qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và xây
dựng Chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nƣớc, HTCT cấp cơ sở đã tỏ rõ vai trò
quan trọng của mình, đặc biệt là trong việc huy động sức ngƣời, sức của phục vụ
cho cuộc đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nƣớc và tiến lên
Chủ nghĩa xã hội.
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, vai trò đặc biệt quan trọng của HTCT cấp cơ
sở lại đƣợc tiếp tục khẳng định, thể hiện rõ trên các lĩnh vực và nội dung sau đây:
Thứ nhất: HTCT cấp cơ sở là cấp trực tiếp tuyên truyền, giáo dục, vận
động, tổ chức nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương, Nghị quyết của Đảng;
chính sách, pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ cấp trên giao. HTCT cấp cơ sở
có chức năng, nhiệm vụ thông tin, tuyên truyền đƣờng lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nƣớc đến từng hộ gia đình và công dân trên địa bàn; giúp mọi
tổ chức, cá nhân hiểu, nắm bắt kịp thời và tuân thủ, chấp hành theo đƣờng lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc.
HTCT cấp cơ sở còn có chức năng, nhiệm vụ tổ chức các phong trào của
quần chúng ngay trên địa bàn để triển khai thực hiện chính sách của Đảng và pháp
luật của Nhà nƣớc, nhằm đƣa chính sách, pháp luật vào cuộc sống. Nhƣ vậy, mọi

25
đƣờng lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc có đi vào cuộc sống hay
không đều tùy thuộc vào việc HTCT cấp cơ sở, đặc biệt là đội ngũ cán bộ tổ chức
triển khai thực hiện có chu đáo, cụ thể, có tập hợp đƣợc lực lƣợng quần chúng,
phát huy đƣợc nhiệt tình và sáng kiến của quần chúng hay không.
Thứ hai: HTCT cấp cơ sở là cấp trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực

hiện việc phát triển kinh tế - xã hội, phát huy mọi nguồn lực, giải quyết công ăn
việc làm, nâng cao đời sống nhân dân.
HTCT cấp cơ sở chỉ chứng tỏ đƣợc tác dụng và hiệu quả của mình nếu tập
hợp đƣợc sức dân trong cộng đồng để phát triển sản xuất, giúp dân làm kinh tế để
mau chóng xóa đói, giảm nghèo, tăng giàu, đem lại lợi ích thiết thực no ấm, giữ
gìn đƣợc trật tự trị an và sự bình yên trên địa bàn. Đó chính là an sinh và an ninh
cho dân chúng.
Thứ ba: HTCT cấp cơ sở tổ chức, quản lý cuộc sống của cộng đồng dân cư;
trực tiếp giải quyết các mối quan hệ trong nội bộ nhân dân và mối quan hệ giữa
dân với Đảng và Nhà nước, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân.
Hiện nay, đất nƣớc ta đang trong giai đoạn mở cửa, hội nhập phát triển kinh
tế quốc tế nên ở các địa phƣơng, vùng, miền nảy sinh và tồn tại không ít các vấn
đề phức tạp, bức xúc cần phải giải quyết; các mâu thuẫn đan xen trong mối quan
hệ giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với cộng đồng, giữa cộng đồng này với
cộng đồng kia, giữa công dân với Nhà nƣớc HTCT cấp cơ sở là cấp đối diện trực
tiếp và với chức năng, nhiệm vụ của mình cũng sẽ là cấp đầu tiên trực tiếp giải
quyết các vấn đề đó. Thông qua việc giải quyết tốt các vấn đề trên ngay từ cơ sở,
sẽ góp phần củng cố mối quan hệ vững chắc giữa quần chúng nhân dân với Đảng,
với chính quyền, tăng cƣờng khối đại đoàn kết toàn dân, tạo lập sự ổn định vững
chắc để thúc đẩy sự nghiệp phát triển, đổi mới ở cơ sở và toàn xã hội.
Thứ tư: HTCT cấp cơ sở phản ảnh, kiến nghị cấp trên giải quyết những
nguyện vọng chính đáng của nhân dân và những yêu cầu bức xúc của địa phương.

×