Tải bản đầy đủ (.pdf) (136 trang)

Vai trò của hệ thống chính trị cấp cơ sở trong xây dựng nông thôn mới ở Hưng Yên hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.5 MB, 136 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN








TRỊNH HỒNG THẮM





VAI TRÒ CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
CẤP CƠ SỞ TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
Ở HƢNG YÊN HIỆN NAY






LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học












Hà Nội - 2014





ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN







TRỊNH HỒNG THẮM







VAI TRÒ CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
CẤP CƠ SỞ TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
Ở HƢNG YÊN HIỆN NAY




LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số: 60.22.03.08




Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Quốc Phẩm




Hà Nội - 2014

1
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn khoa học của PGS.TS Nguyễn Quốc Phẩm. Các số liệu, tài liệu
tham khảo trong luận văn đều trung thực và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày tháng năm 2014

Tác giả luận văn




Trịnh Hồng Thắm














2
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 3
1. Tính cấp thiết của đề tài 3
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 6
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 14
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 14
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 15
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 15
7. Kết cấu của luận văn 15

Chƣơng 1: HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP CƠ SỞ VỚI XÂY DỰNG NÔNG
THÔN MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 16
1.1 Hệ thống chính trị cấp cơ sở 16
1.2 Xây dựng nông thôn mới 23
1.3 Vai trò của hệ thống chính trị cấp cơ sở với xây dựng nông thôn mới ở
Việt Nam 29
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
CẤP CƠ SỞ TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở TỈNH HƢNG YÊN 46
2.1 Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội, văn hóa của tỉnh Hưng Yên 46
2.2 Hệ thống chính trị cấp cơ sở đối với việc xây dựng nông thôn mới ở
Hưng Yên hiện nay 53
2.3 Thành tựu và hạn chế của việc phát huy vai trò của hệ thống chính trị
cấp cơ sở trong xây dựng nông thôn mới ở Hưng Yên 69
Chƣơng 3: MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP
CHỦ YẾU PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP CƠ
SỞ TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở HƢNG YÊN HIỆN NAY83
3.1 Một số quan điểm chỉ đạo phát huy vai trò của hệ thống chính trị cấp
cơ sở trong xây dựng nông thôn mới ở Hưng Yên 83
3.2 Một số giải pháp chủ yếu phát huy vai trò của hệ thống chính trị cấp cơ
sở trong xây dựng nông thôn mới ở Hưng Yên 86
KẾT LUẬN 110
TÀI LIỆU THAM KHẢO 112
PHỤ LỤC

3
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược quan trọng
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, là nền tảng bảo đảm phát triển kinh tế bền vững, ổn định chính trị, an

ninh quốc phòng, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn vừa nhằm phát huy vai trò chiến
lược của kinh tế nông nghiệp và đội quân chủ lực nông dân mới đối với xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, làm nền tảng vững chắc cho xây dựng chủ nghĩa
xã hội, vừa nhằm nâng cao đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần và xây
dựng người nông dân mới - người nông dân xã hội chủ nghĩa. Qua đó, nâng
cao hơn nữa vị thế của giai cấp nông dân trong công cuộc đổi mới đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của nông nghiệp, nông dân,
nông thôn đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội đất nước, Đảng và Nhà
nước ta đã thường xuyên quan tâm, chăm lo đến vấn đề này. Điều đó được
thể hiện thông qua các chỉ thị, nghị quyết của Đảng đối với vấn đề nông
nghiệp, nông dân, nông thôn mà tiêu biểu là Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày
05/8/2008 tại Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương khóa X về nông
nghiệp, nông dân, nông thôn với mục tiêu: Xây dựng nông thôn mới có kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại, cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức
sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ,
đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân
tộc; dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính
trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường.
Sau hơn 25 năm thực hiện đường lối đổi mới, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, đất nước ta đã và đang đạt được những thành tựu to lớn trên tất cả

4
các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội trong đó nổi lên vấn đề rất
quan trọng là xử lý mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị.
Đổi mới hệ thống chính trị là một nội dung quan trọng của đổi mới chính trị
nhằm thực hiện và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, tạo động lực cho đổi
mới và phát triển kinh tế - xã hội, góp phần giữ vững ổn định chính trị ở
nước ta. Đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay phải đặc biệt chú

trọng tới việc đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã,
phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã), theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 5 khóa IX.
Trong hệ thống quản lý 4 cấp ở nước ta, cấp xã là cấp cơ sở, là địa bàn
nông thôn có vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng, gắn liền nông nghiệp,
nông thôn với nông dân. Trong quá trình đổi mới vừa qua, nông thôn và hệ
thống chính trị ở nông thôn đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đồng
thời cũng phát sinh nhiều vấn đề phức tạp. Nông thôn Hưng Yên cũng nằm
trong tình hình chung đó.
Toàn tỉnh Hưng Yên hiện có 161 xã, phường, thị trấn; trong đó có 145
xã, 9 thị trấn, 7 phường. Trong 161 Đảng bộ xã, phường, thị trấn có 1.767 chi
bộ trực thuộc, với 45.304 đảng viên (trong tổng số 57.398 đảng viên toàn
tỉnh). Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn của tỉnh Hưng Yên trong thời gian
qua đang tiếp tục được kiện toàn và đổi mới, đóng vai trò quan trọng trong
việc triển khai, tổ chức thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới trên
địa bàn tỉnh. Các tổ chức trong hệ thống chính trị cơ sở thường xuyên được
củng cố, kiện toàn và hàng năm đều được đánh giá về chất lượng hoạt động.
Thực hiện các nghị quyết của Trung ương, nghị quyết của Tỉnh ủy
Hưng Yên đối với hoạt động của hệ thống chính trị, đặc biệt là Chương
trình số 07-CTr/TU ngày 20/4/2007 của Tỉnh ủy Hưng Yên về xây dựng tổ
chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh, tăng cường hiệu lực quản lý của

5
chính quyền, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị
- xã hội, nâng cao chất lượng đảng viên giai đoạn 2006 - 2010, hệ thống
chính trị cơ sở trên địa bàn tỉnh tiếp tục được củng cố, tăng cường, đã góp
phần quan trọng vào việc lãnh đạo, tổ chức thực hiện thắng lợi các mục tiêu
Nghị quyết Đại hội XVI Đảng bộ tỉnh.
Tuy nhiên, chất lượng của hệ thống chính trị đó vẫn còn nhiều hạn
chế, bất cập, cụ thể là: Tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị còn nhiều bất

cập, hiệu quả hoạt động còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội trong quá trình xây dựng nông thôn mới; sự
phân công và phối hợp giữa các cơ quan chức năng: Đảng, chính quyền,
các tổ chức chính trị - xã hội chưa cụ thể, chưa rõ ràng, minh bạch; công
tác tổ chức cán bộ tiến hành còn chậm, chưa kiên quyết. Năng lực và trình
độ của cán bộ cơ sở, nhất là cơ sở nông thôn còn thấp. Tình trạng quan liêu,
tham nhũng, mất đoàn kết nội bộ vẫn còn xảy ra ở một số nơi. Một bộ phận
cán bộ cơ sở thoái hóa, biến chất vừa vi phạm quyền làm chủ của nhân dân
vừa tham ô, tham nhũng làm mất lòng tin trong nhân dân.
Những hạn chế, yếu kém trên của hệ thống chính trị đã và đang tác
động không nhỏ đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh nói
chung và quá trình xây dựng nông thôn mới nói riêng. Ở Hưng Yên, việc
phát huy vai trò của hệ thống chính trị cấp cơ sở trong xây dựng nông thôn
mới đã được xác định. Tuy nhiên, thành quả của việc phát huy vai trò đó còn
rất hạn chế: việc xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của hệ thống chính trị nói
chung và của từng thành viên của hệ thống đó đối với công cuộc xây dựng
nông thôn mới chưa thật rõ ràng, minh bạch, tình trạng lúng túng, bị động
của hệ thống chính trị trước những nội dung, yêu cầu của xây dựng nông
thôn mới; tính chủ động, sáng tạo của các bộ phận thành viên của hệ thống
trong việc tham gia trực tiếp xây dựng nông thôn mới còn hạn chế; trình độ,

6
năng lực của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở chưa hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu
của phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương nói chung, yêu cầu, đòi hỏi của
công cuộc xây dựng nông thôn mới trên địa bàn nói riêng.
Điều này đặt ra yêu cầu khách quan cho việc nhận thức đúng đắn vai
trò của hệ thống chính trị cấp cơ sở trong việc xây dựng nông thôn mới.
Đồng thời có những quan điểm, giải pháp phù hợp để đổi mới và nâng cao
chất lượng của hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn Hưng Yên nhằm phát
huy những thế mạnh của tỉnh, hạn chế những yếu kém, giữ vững ổn định

chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống cho nhân dân ở cơ
sở. Xây dựng nông thôn mới và hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn là
những vấn đề quan trọng, bức xúc hiện nay. Nó đòi hỏi chúng ta phải
nghiên cứu một cách nghiêm túc cả trên lĩnh vực lý luận và thực tiễn để
giải quyết kịp thời những khó khăn ở chính cơ sở.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn vấn đề “Vai trò của hệ thống
chính trị cấp cơ sở trong xây dựng nông thôn mới ở Hưng Yên hiện nay”
làm đề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hệ thống chính trị cấp cơ sở có vai trò rất quan trọng trong việc tổ
chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước. Việc phát huy tốt vai trò của hệ thống chính trị không
những tạo điều kiện phát triển kinh tế nhanh, bền vững mà còn góp phần
dân chủ hóa đời sống xã hội và xây dựng nông thôn mới - vấn đề có ý
nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Do tầm quan trọng, cũng như tính chất thời sự của công tác xây dựng nông
thôn mới và việc phát huy vai trò của hệ thống chính trị cấp cơ sở trong
phát triển kinh tế - xã hội, nên đã có rất nhiều công trình nghiên cứu và giới

7
thiệu về vấn đề này. Có thể khái quát một số công trình nghiên cứu tiêu
biểu sau đây:
Nhóm các công trình nghiên cứu về hệ thống chính trị cấp cơ sở:
Luận án PTS Triết học về “Đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị ở
nông thôn ngoại thành Hà Nội (xã) trong giai đoạn hiện nay” của tác giả
Lưu Minh Trị, Hà Nội, 1993. Đây là công trình của một cán bộ lãnh đạo
thành phố Hà Nội đã đi sâu bàn về kiện toàn hệ thống chính trị nông thôn
ngoại thành Hà Nội.
Đề tài “Hệ thống chính trị cấp cơ sở và dân chủ hóa đời sống xã hội
nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số các tỉnh miền núi phía Bắc nước

ta”, của PGS.TS Nguyễn Quốc Phẩm, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm
2000. Đề tài khoa học cấp Bộ này đã đi sâu nghiên cứu làm rõ những thành
tựu, hạn chế của hệ thống chính trị các vùng nông thôn miền núi, vùng dân
tộc thiểu số.
Đề tài cấp Bộ năm 2000 - 2001 “Vai trò của các Đoàn thể nhân dân
trong việc đảm bảo dân chủ ở cơ sở (xã) hiện nay”, Viện Khoa học chính
trị, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh do TS khoa học Phan Xuân
Sơn làm chủ nhiệm đề tài. Công trình này đã phân tích khá đầy đủ vai trò
của các tổ chức đoàn thể nhân dân trong việc bảo đảm dân chủ ở cơ sở.
Đề tài “Khảo sát tình hình thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở tại các
tỉnh phía Bắc Việt Nam 2001 - 2002” của phân viện Hà Nội, Học viện
chính trị quốc gia Hồ Chí Minh do PGS.TS Nguyễn Cúc làm chủ nhiệm.
Đề tài này đã khảo sát, phân tích về tình hình thực hiện quy chế dân chủ ở
cơ sở tại các tỉnh phía Bắc nước ta.
Đề tài “Hệ thống chính trị cơ sở - đặc điểm, xu hướng và giải pháp”
của TS Vũ Hoàng Công, Nxb Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội,
năm 2002. Công trình này đã phân tích một cách khoa học - thực tiễn về

8
đặc điểm của hệ thống chính trị cấp cơ sở đồng thời dự báo xu hướng vận
động của hệ thống đó. Từ đó đề xuất nhiều giải pháp giá trị để phát huy vai
trò của hệ thống chính trị cấp cơ sở ở nước ta.
Đề tài “Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn nước ta hiện nay”, của
GS.TS Hoàng Chí Bảo, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, năm 2005. Công
trình này đã đi sâu phân tích thực trạng của hệ thống chính trị ở cơ sở nông
thôn, từ đó đề ra những quan điểm và giải pháp nhằm tiếp tục đổi mới và
nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn.
Trong các công trình nghiên cứu trên, các tác giả đã đi vào tìm hiểu
những khía cạnh khác nhau của hệ thống chính trị ở cơ sở, phân tích, lý giải
về yêu cầu và cách thức tổ chức, hoạt động để đổi mới hệ thống chính trị,

thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở.
Nhóm các công trình nghiên cứu về nông nghiệp, nông thôn, nông
dân, về xây dựng nông thôn mới:
Công trình “Nông nghiệp nông thôn trong sự nghiệp đổi mới hiện
nay”, của Trung tâm thông tin - tư liệu, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội, năm 1993. Công trình là tập hợp những bài viết của các cán
bộ, giảng viên Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh về một số vấn đề
nông nghiệp, nông thôn Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
Công trình “Biến đổi cơ cấu ruộng đất và kinh tế nông nghiệp ở vùng
châu thổ sông Hồng trong thời kỳ đổi mới (qua khảo sát một số làng xã)”,
của PGS.TS Nguyễn Văn Khánh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm
2001. Công trình này đã đi sâu nghiên cứu những biến đổi của nông thôn
châu thổ sông Hồng nhìn từ góc độ ruộng đất và kinh tế nông nghiệp. Đồng
thời, phân tích những tác động của chính sách đổi mới về nông nghiệp đối
với tình hình kinh tế - xã hội ở một số làng xã vùng đồng bằng châu thổ
sông Hồng.

9
Công trình “Những quy định pháp luật và công tác văn hóa xã hội ở
cơ sở và xây dựng nông thôn mới”, của Luật gia Bùi Văn Thấm (sưu tầm và
giới thiệu), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2003. Công trình nghiên
cứu này chủ yếu đề cập và giới thiệu các quy định của Nhà nước về công
tác văn hóa xã hội và quy định về nông thôn mới, về việc xây dựng nông
thôn mới ở miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa.
Công trình “Phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam”
(tuyển tập), của TS Nguyễn Hữu Tiến, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, năm
2008. Cuốn sách là tập hợp các công trình nghiên cứu của tác giả trên các
lĩnh vực kinh tế - xã hội ở nông thôn.
Công trình “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam hôm nay và
mai sau”, của TS Đặng Kim Sơn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm

2008. Công trình này đã nêu bật thực trạng các vấn đề về nông nghiệp,
nông dân, nông thôn hiện nay, những thành tựu cũng như những khó khăn,
vướng mắc còn tồn tại. Xuất phát từ thực tiễn đó, tác giả đã đề xuất những
định hướng và kiến nghị chính sách nhằm đưa nông nghiệp, nông dân,
nông thôn ngày càng phát triển.
Công trình “Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với phát triển
nông nghiệp Việt Nam”, do TS Nguyễn Từ làm chủ biên, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, năm 2008. Công trình này không chỉ đề cập đến những
vấn đề khái quát về hội nhập kinh tế quốc tế, các hiệp định thương mại khu
vực và toàn cầu liên quan đến nông nghiệp nói chung và đến ngành nông
nghiệp Việt Nam nói riêng, những ảnh hưởng của hội nhập kinh tế quốc tế
đến phát triển nông nghiệp Việt Nam trong thời gian qua, mà còn nêu lên
quan điểm và những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nền nông nghiệp
nước ta trong thời gian tới.

10
Ngoài các công trình nghiên cứu tiêu biểu trên, vấn đề nông nghiệp,
nông thôn, nông dân và vấn đề xây dựng nông thôn mới còn là tiêu điểm
trong nhiều tạp chí như tạp chí Nông thôn mới, tạp chí Xây dựng Đảng, tạp
chí Nghiên cứu lý luận… với nhiều bài viết như:
Bài viết của tác giả Thanh An đăng trên tạp chí Nông thôn mới số 278
(kỳ 1, tháng 9/2010) với nhan đề “Gỡ thế cho “tam nông” phát triển là cơ
hội để nông dân làm giàu”. Bài viết đã đề cập đến các ý kiến khác nhau
trong việc tạo hướng đi mới cho nông nghiệp, nông dân.
Bài viết của tác giả Hải Sơn đăng trên tạp chí Nông thôn mới số 279 (kỳ
2, tháng 9/2010) với nhan đề “Thi đua xây dựng nông thôn mới việc lớn phải
làm đến cùng”. Bài viết đã đề cập đến vai trò, tầm quan trọng của việc xây
dựng nông thôn mới đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
Bài viết của tác giả Nguyễn Văn Đắc đăng trên tạp chí Nông thôn mới
số 290 (kỳ 1, tháng 3/2011) với nhan đề: “Kiện toàn Ban chỉ đạo xây dựng

nông thôn mới từ Trung ương đến cơ sở”. Trong bài viết này, tác giả chủ
yếu đề cập đến việc củng cố, kiện toàn ban chỉ đạo xây dựng nông thôn
mới từ Trung ương đến cơ sở nhằm nâng cao hiệu quả của công tác xây
dựng nông thôn mới ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Bài viết của tác giả Lương Thủy đăng trên tạp chí Nông thôn mới số 299
(kỳ 2, tháng 7/2011) với nhan đề: “Tập trung 4 vấn đề lớn xây dựng nông thôn
mới”. Trong bài viết này, tác giả đã đề cập đến 4 vấn đề lớn trong công tác xây
dựng nông thôn mới gồm công tác khuyến nông; vệ sinh an toàn thực phẩm; Hội
nông dân tham gia xây dựng nông thôn mới; về phát triển kinh tế hợp tác xã.
Bài viết của tác giả Nguyễn Tất Đạt đăng trên tạp chí Nông thôn mới
số 326 (kỳ 1, tháng 9/2012) với nhan đề: “Dân chủ cơ sở gắn với xây dựng
nông thôn mới”. Trong bài viết này, tác giả chủ yếu bàn về việc thực hiện
pháp lệnh dân chủ ở cơ sở, đồng thời đưa ra một số khuyến nghị trong việc

11
thực hiện dân chủ, khẳng định việc thực hiện dân chủ ở cơ sở sẽ góp phần
quan trọng trong việc xây dựng nông thôn mới.
Bài viết của tác giả Hồng Chương đăng trên tạp chí Xây dựng Đảng số
3/2011 với nhan đề: “Vai trò lãnh đạo của Đảng bộ xã trong việc quy
hoạch xây dựng nông thôn mới ở Thái Bình”. Trong bài viết này, tác giả đã
đi sâu phân tích vai trò của Đảng bộ xã trên địa bàn tỉnh Thái Bình trong
việc quy hoạch xây dựng nông thôn mới…
Những vấn đề xoay quanh nông nghiệp, nông thôn, nông dân và ổn
định chính trị - xã hội ở nông thôn góp phần xây dựng nông thôn mới cũng
là đề tài thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều tác giả luận văn.
Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu sau:
Luận văn Thạc sĩ Chính trị học về “Đảm bảo an ninh nông thôn vùng
Đồng bằng sông Hồng trước yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa” của
tác giả Đặng Thị Thanh Hoa, Hà Nội, năm 2009. Công trình nghiên cứu
này đã tập trung phân tích thực trạng an ninh nông thôn và công tác đảm

bảo an ninh nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng trước yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Từ đó đưa ra một số quan điểm, giải pháp và kiến
nghị để đảm bảo an ninh nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng trước yêu
cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Luận văn Thạc sĩ Chính trị học về “Điểm nóng khiếu kiện liên quan
đến đất đai ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa” của tác giả Phạm Xuân Nguyên, Hà Nội, năm 2009. Công
trình nghiên cứu này đã đưa ra một số nhận thức về “điểm nóng”, giải
quyết “điểm nóng” khiếu kiện liên quan đến đất đai ở nông thôn. Trên cơ
sở đó phân tích thực trạng, cách giải quyết “điểm nóng” khiếu kiện liên
quan đến đất đai ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ và đưa ra một số giải pháp
chủ yếu để giải quyết “điểm nóng” ở đồng bằng Bắc Bộ.

12
Luận văn Thạc sĩ Triết học về: “Vai trò của nông dân Bạc Liêu trong
xây dựng nông thôn mới hiện nay” của tác giả Diệp Kiều Trang, Hà Nội,
năm 2011. Công trình nghiên cứu này đã đi sâu phân tích thực trạng, từ đó
làm rõ vai trò của người nông dân trong xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Bạc
Liêu. Qua đó, đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy hơn nữa vai
trò của người nông dân trong xây dựng nông thôn mới.
Luận văn Thạc sĩ Chính trị học về “Kiện toàn hệ thống chính trị cấp
xã nhằm tăng cường ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn đồng bằng sông
Hồng thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa” của tác giả Trương Thị
Phương Hiền, Hà Nội, năm 2012. Công trình nghiên cứu này chủ yếu bàn
về thực trạng của hệ thống chính trị cấp xã và một số giải pháp kiện toàn
nhằm tăng cường ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn vùng đồng bằng
sông Hồng trước thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trong những công trình nghiên cứu trên, các tác giả đã đề cập đến một
số vấn đề cơ bản của nông nghiệp, nông thôn, nông dân trong sự nghiệp đổi
mới ở nước ta hiện nay. Đồng thời khẳng định vai trò, tầm quan trọng của

vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân trong chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội của Đảng và Nhà nước nói chung, trong việc xây dựng nông
thôn mới nói riêng.
Ngoài ra, còn rất nhiều công trình nghiên cứu và bài viết khác về hệ
thống chính trị cấp cơ sở, về vấn đề xây dựng nông thôn mới ở nước ta hiện
nay. Các công trình nghiên cứu mặc dù đã đề cập đến nhiều khía cạnh khác
nhau của hệ thống chính trị cấp cơ sở, vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông
thôn và vấn đề xây dựng nông thôn mới ở nước ta hiện nay, tuy nhiên, việc
nghiên cứu vai trò của hệ thống chính trị cơ sở ở từng địa phương vẫn còn
rất khiêm tốn. Đặc biệt, chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách

13
có hệ thống vai trò của hệ thống chính trị cấp cơ sở đối với việc xây dựng
nông thôn mới ở Hưng Yên.
Từ khi tái lập tỉnh đến nay, Hưng Yên có nhiều tiềm năng để phát triển
nhưng cũng không ít khó khăn, thách thức. Để phát huy thế mạnh của tỉnh
trong giai đoạn hiện nay cần có nhiều giải pháp đồng bộ, trong đó phải đặc
biệt chú ý đến những giải pháp đổi mới hệ thống chính trị ở cơ sở nông
thôn, nhằm phát huy vai trò định hướng của hệ thống đó đối với quá trình
phát triển của Hưng Yên hiện nay. Mặc dù trong thời gian qua, Tỉnh ủy và
Ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên đã có nhiều cố gắng để nghiên cứu, triển
khai việc đổi mới và nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị, thực hiện
quy chế dân chủ ở cơ sở và xây dựng nông thôn mới như:
Kế hoạch số 91/KH-UBND, ngày 29/10/2010 của Ủy ban nhân dân
tỉnh Hưng Yên thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông
thôn mới tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2010 - 2020 (29/10/2010); Nghị quyết
số 02-NQ-TU, ngày 10/5/2011 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa
XVII về Chương trình xây dựng nông thôn mới tỉnh Hưng Yên giai đoạn
2011 - 2020, định hướng 2030 (10/5/2011); Hướng dẫn tạm thời số 67/HD-
LN: NN-XD-TNMT ngày 04/7/2011 của Liên ngành Nông nghiệp và phát

triển nông thôn - Xây dựng - Tài nguyên và môi trường, hướng dẫn công
tác lập quy hoạch và đề cương Đồ án quy hoạch xây dựng nông thôn mới
cấp xã (04/7/2011); Chương trình xây dựng hệ thống chính trị cơ sở xã,
phường, thị trấn trong sạch vững mạnh, giai đoạn 2011 - 2015 (05/7/2011);
Hướng dẫn số 74/HD-NN ngày 25/7/2011 của Sở nông nghiệp và phát triển
nông thôn về thành lập Ban chỉ đạo, Ban quản lý xây dựng nông thôn mới
xã, Ban phát triển thôn và Ban giám sát xây dựng thôn (25/7/2011); Chỉ thị
về việc phát động phong trào thi đua “Cả nước chung sức xây dựng nông

14
thôn mới” (26/9/2011); Nghị quyết của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa
XVII về chương trình phát triển nông nghiệp hàng hóa hiệu quả cao tỉnh
Hưng Yên giai đoạn 2011 - 2015, định hướng đến năm 2030
(25/10/2011)… Song vẫn chưa có một văn bản hay một công trình nào đi
sâu nghiên cứu vai trò của hệ thống chính trị cấp cơ sở đối với việc xây
dựng nông thôn mới ở Hưng Yên, từ đó tìm ra những giải pháp thiết thực
nhằm đẩy mạnh phong trào này trên địa bàn tỉnh. Điều đó thúc đẩy tác giả
mạnh dạn chọn vấn đề trên làm đề tài nghiên cứu và viết luận văn thạc sĩ,
chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích: Trên cơ sở thực trạng vai trò của hệ thống chính trị cấp cơ
sở trong xây dựng nông thôn mới ở Hưng Yên, đề xuất một số giải pháp
nhằm phát huy vai trò của hệ thống đó, đáp ứng yêu cầu xây dựng nông
thôn mới ở địa phương trong giai đoạn hiện nay.
Nhiệm vụ:
- Làm rõ những vấn đề lý luận chung về hệ thống chính trị cấp cơ sở
với xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam hiện nay.
- Phân tích thực trạng việc thực hiện vai trò của hệ thống chính trị cấp
cơ sở trong xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Hưng Yên.
- Đề xuất một số quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao vai trò của hệ

thống chính trị cấp cơ sở trong việc xây dựng nông thôn mới ở Hưng Yên
hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Luận văn được triển khai nghiên cứu trên cơ sở quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về hệ thống chính trị. Đồng thời, luận văn cũng

15
kế thừa những kết quả của các công trình nghiên cứu trước về hệ thống
chính trị cấp cơ sở và vai trò của hệ thống chính trị cấp cơ sở đối với việc
xây dựng nông thôn mới.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu lôgic - lịch sử, phân tích - tổng hợp, so sánh, khảo sát thực tiễn
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Vai trò của hệ thống chính trị cấp cơ sở trong
xây dựng nông thôn mới ở Hưng Yên.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu, khảo sát vai trò
của hệ thống chính trị cấp cơ sở ở Hưng Yên đối với việc xây dựng nông
thôn mới từ năm 1997 đến nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần làm rõ những khía cạnh lý luận về
vai trò của hệ thống chính trị trong xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam
hiện nay.
Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu
tham khảo cho việc học tập, nghiên cứu và giảng dạy những vấn đề liên
quan đến hệ thống chính trị cấp cơ sở. Đồng thời có thể làm tài liệu để
tuyên truyền đối với công tác xây dựng nông thôn mới ở các địa phương,
trong đó có những giải pháp phát huy vai trò của hệ thống chính trị cấp cơ
sở trong xây dựng nông thôn mới.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn gồm 3 chương và 8 tiết.



16
Chƣơng 1
HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP CƠ SỞ VỚI
XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1 Hệ thống chính trị cấp cơ sở
Hiện nay ở nước ta, trong hệ thống chính trị bốn cấp, cấp cơ sở là cấp
xã, phường, thị trấn. Đây là quan niệm phù hợp với tình hình thực tế của
Việt Nam.
Theo Từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản Khoa học xã hội xuất bản
năm 1988 thì cấp cơ sở là đơn vị cấp dưới cùng, nơi trực tiếp thực hiện các
hoạt động như sản xuất, công tác của một hệ thống tổ chức, trong quan hệ
với các bộ phận lãnh đạo cấp trên.
Các văn bản của Đảng, Nhà nước có nội dung liên quan đều xác định
cấp cơ sở là cấp xã, phường, thị trấn. Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành
Trung ương Đảng lần thứ 5 khóa IX ghi: “Các cấp cơ sở xã, phường, thị
trấn là nơi tuyệt đại bộ phận nhân dân cư trú, sinh sống. Hệ thống chính trị
cơ sở có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân
thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng
cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của dân, huy động
mọi khả năng phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng
dân cư” [20, tr.1].
Theo điều 118 Hiến pháp năm 1992 nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, đơn vị hành chính nước ta được chia thành bốn cấp: cấp trung
ương; cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; cấp huyện, quận, thị xã,
thành phố trực thuộc tỉnh; cấp xã, phường, thị trấn. Cấp xã, phường, thị trấn

là cấp cuối cùng, gần dân nhất nên được gọi là cấp cơ sở.
Tại Hội thảo khoa học - thực tiễn “Xây dựng hệ thống chính trị và đội
ngũ cán bộ cơ sở” do Bộ biên tập tạp chí Cộng sản phối hợp với tỉnh ủy Hà

17
Nam tổ chức vào ngày 19/6/2002, các nhà lý luận và quản lý đều cơ bản
thống nhất quan niệm về hệ thống chính trị cơ sở.
PGS.TS Trần Quang Nhiếp cho rằng: cơ sở xã, phường, thị trấn là nơi
tuyệt đại bộ phận nhân dân cư trú, sinh sống và diễn ra mọi mặt hoạt động
của đời sống xã hội một cách sinh động. Hệ thống chính trị cơ sở có vai trò
rất quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối
của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước… Theo PGS.TS Nguyễn
Chí Mỳ, hệ thống chính trị cơ sở là cấp độ cuối cùng trong cấu trúc hệ
thống chính trị đất nước. Hệ thống chính trị cơ sở là cầu nối trực tiếp đưa
nghị quyết của Đảng vào cuộc sống, là nơi cung cấp cơ sở thực tiễn sát hợp
nhất. Còn PGS.TS Nguyễn Hữu Khiển thì khẳng định cấp xã, phường, thị
trấn là một khâu quan trọng trong hệ thống chính trị ở nước ta. Do đó, cán
bộ cơ sở là cán bộ của bộ máy Đảng, Nhà nước, làm việc ở địa phương.
Như vậy, từ những quan niệm và thực tế nêu trên có thể thấy: hệ thống
chính trị cấp cơ sở ở nông thôn nước ta là một thể thống nhất, bao gồm ba
tổ chức: tổ chức Đảng cơ sở (các Đảng bộ, chi bộ cơ sở), Chính quyền (Hội
đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân), Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính
trị - xã hội (hay gọi cách khác là các đoàn thể nhân dân bao gồm: Đoàn
thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội
nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam ). Mỗi tổ chức có vai
trò, chức năng riêng và có quan hệ mật thiết với nhau, cùng tồn tại và hoạt
động trên một địa bàn lãnh thổ - dân cư nhất định, đó là đơn vị hành chính
cơ sở. Trong đó:
Tổ chức cơ sở Đảng của Đảng Cộng sản Việt Nam (chi bộ cơ sở, Đảng
bộ cơ sở) là nền tảng của Đảng ở các địa phương, là hạt nhân lãnh đạo hệ

thống chính trị cấp cơ sở, nơi giáo dục, rèn luyện đảng viên và phát triển

18
Đảng, là đơn vị chiến đấu cơ bản của Đảng và là chỗ dựa đáng tin cậy của
quần chúng nhân dân ở cơ sở. Tổ chức cơ sở Đảng có các nhiệm vụ:
Thứ nhất, chấp hành đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước; đề ra chủ trương, nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ, chi bộ và lãnh
đạo thực hiện có hiệu quả.
Thứ hai, xây dựng Đảng bộ, chi bộ trong sạch vững mạnh về chính trị,
tư tưởng và tổ chức; thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; nâng cao
chất lượng sinh hoạt Đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình, giữ gìn kỷ
luật và tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên giáo dục,
rèn luyện và quản lý cán bộ, đảng viên, nâng cao phẩm chất đạo đức cách
mạng, tính chiến đấu, trình độ kiến thức, năng lực công tác; làm công tác
phát triển đảng viên.
Thứ ba, lãnh đạo xây dựng chính quyền, các tổ chức kinh tế, hành
chính, sự nghiệp, quốc phòng, an ninh và các đoàn thể chính trị - xã hội
trong sạch, vững mạnh; chấp hành đúng pháp luật và phát huy quyền làm
chủ của nhân dân.
Thứ tư, liên hệ mật thiết với nhân dân, chăm lo đời sống vật chất, tinh
thần và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân; lãnh đạo nhân dân tham
gia xây dựng và thực hiện đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước.
Để thực hiện các nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng, các tổ chức Đảng ở
cơ sở giới thiệu các đảng viên ứng cử vào Hội đồng nhân dân, tham gia
chính quyền cơ sở, tham gia các cương vị lãnh đạo các đoàn thể chính trị
- xã hội…
Chính quyền cấp cơ sở ở nông thôn bao gồm Hội đồng nhân dân,
Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn, được bầu ra theo Hiến pháp và
pháp luật.


19
Đối với Hội đồng nhân dân
Chương IX, Hiến pháp năm 1992 quy định: Hội đồng nhân dân là cơ
quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và
quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách
nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. Căn cứ
vào Hiến pháp, pháp luật, văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, Hội đồng
nhân dân ra nghị quyết về các biện pháp bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh
Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; về phát triển kinh tế - xã hội và ngân
sách; về quốc phòng, an ninh ở địa phương; về biện pháp ổn định và nâng
cao đời sống của nhân dân, hoàn thành mọi nhiệm vụ cấp trên giao cho,
làm tròn nghĩa vụ đối với cả nước.
Đối với Ủy ban nhân dân
Theo điều 123 Hiến pháp năm 1992 quy định: Ủy ban nhân dân do
Hội đồng nhân dân bầu, là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ
quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm chấp hành Hiến
pháp, luật, các văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết
của Hội đồng nhân dân. Ủy ban nhân dân chịu trách nhiệm chấp hành Hiến
pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của
Hội đồng nhân dân cùng cấp nhằm đảm bảo thực hiện các chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, cũng như đảm bảo thực hiện các
biện pháp nhằm phát triển kinh tế - xã hội, củng cố an ninh quốc phòng và
thực hiện các chính sách khác trên địa bàn.
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở có vai trò đoàn
kết nhân dân, chăm lo lợi ích của các thành viên, thực hiện dân chủ và đổi mới
xã hội, thực thi quyền, nghĩa vụ công dân, giữ mối liên hệ giữa Đảng, Nhà
nước với nhân dân. Mặt khác, đây cũng là lực lượng đi đầu trong tuyên truyền
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, là trung tâm hòa


20
giải các mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân và có vai trò quan trọng trong việc
thực thi quy chế dân chủ ở cơ sở, lựa chọn các đại biểu của nhân dân ở cơ sở;
đồng thời, là lực lượng nòng cốt, đi đầu trong các phong trào vận động quần
chúng tham gia bảo vệ trật tự, an ninh, xây dựng nếp sống văn hóa, bảo vệ
môi trường, phát triển kinh tế - xã hội ở các địa phương.
Tuy chức năng, nhiệm vụ, cách tổ chức và phương thức hoạt động
khác nhau, nhưng mục tiêu chung của các thành viên trong hệ thống chính
trị cấp cơ sở là cùng hướng tới sự phát triển kinh tế - xã hội ở cơ sở, chăm
lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa phương, góp phần thực
hiện mục tiêu của đất nước là thực hiện dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng và văn minh.
Từ những nghiên cứu về hệ thống chính trị cấp cơ sở, chúng tôi hoàn
toàn tán thành cách định nghĩa khái quát về hệ thống chính trị cấp cơ sở của
Viện khoa học tổ chức Nhà nước của Bộ nội vụ: “Hệ thống chính trị cơ sở là
toàn bộ các thiết chế chính trị như tổ chức Đảng, chính quyền, các đoàn thể
nhân dân được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc nhất định và
gắn bó hữu cơ với nhau nhằm thực hiện sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý
của Nhà nước và phát huy quyền dân chủ của nhân dân ở cơ sở” [7, tr.10].
So với hệ thống chính trị nói chung, hệ thống chính trị cấp cơ sở ở
nước ta có một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, hệ thống chính trị cấp cơ sở là cấp thấp nhất trong hệ thống
chính trị ở Việt Nam và có bộ máy đơn giản nhất. Đây là đặc điểm xét theo
khía cạnh thứ bậc có tính pháp lý của hệ thống chính trị. Hiện nay, các tổ
chức Đảng, chính quyền và các đoàn thể đều phát triển xuống thôn, bản, ấp.
Ở đó có đội ngũ trưởng thôn, trưởng bản, trưởng ấp trực tiếp quản lý công
việc trên địa bàn của mình. Song đây không phải là một cấp độc lập về

21
hành chính có ngân sách, con dấu và tư cách pháp nhân riêng. Do vậy, cấp

xã vẫn là cấp thấp nhất trong hệ thống chính quyền nói riêng và hệ thống
chính trị nói chung ở Việt Nam.
Thứ hai, hệ thống chính trị cấp cơ sở là cấp gần dân nhất, có quan hệ
chặt chẽ với nhân dân. Cán bộ cơ sở trực tiếp sống, công tác, sinh hoạt trên
địa bàn, hàng ngày tiếp xúc với nhân dân nên có thể hiểu được đầy đủ nhất
mọi tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. Vì vậy, cán bộ cơ sở được coi là
cầu nối giữa dân với Đảng.
Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 5, khóa IX đã
nêu rõ: “Trong thời gian qua, hệ thống chính trị cơ sở ở nước ta được thiết
lập rộng rãi trên khắp các địa phương trên cả nước, từ thành thị đến nông
thôn, miền núi, biên giới, hải đảo…” [20, tr.1]. Trên toàn quốc có 8.930 xã,
563 thị trấn và 1018 phường [10, tr.319]. Như vậy có thể nói, hệ thống
chính trị ở nước ta được thiết lập trải rộng trên khắp các vùng miền của đất
nước. Do vậy, đông đảo đội ngũ cán bộ cơ sở là những người gần dân, gắn
bó với dân, nắm được tâm tư, nguyện vọng của dân.
Thứ ba, hệ thống chính trị cấp cơ sở là cấp trực tiếp truyền tải và tổ
chức thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước. Mọi chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước muốn
được thực hiện, trước hết phải đến được với dân, dân có hiểu mới thực hiện
đúng. Và để các chủ trương, chính sách đó đến được với dân phải thông
qua các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị cơ sở, vì đây là cấp gần
dân nhất, trải khắp trên tất cả các địa bàn. Cấp cơ sở cũng là cấp có điều
kiện trực tiếp tổ chức, hướng dẫn nhân dân cùng thực hiện các chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

22
Thứ tư, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị cấp cơ sở phụ thuộc
rất lớn vào cá nhân người lãnh đạo. Đây là đặc điểm xét trên hiệu quả hoạt
động của hệ thống chính trị. Khác với các cấp trên, ở cấp xã mức độ phụ
thuộc của tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể vào cá nhân người lãnh đạo

lớn hơn rất nhiều và có thể nói, phụ thuộc một cách quyết định vào cá nhân
người lãnh đạo. Bởi lẽ, người dân ở nông thôn, trong phạm vi làng xã
thường thụ động hơn. Các đoàn viên, hội viên của các đoàn thể, vì nhiều lý
do, thường không chủ động đề xuất ý kiến với tổ chức mà phải chờ đợi sự
chỉ đạo, gợi mở, tác động của lãnh đạo. Mặt khác, trong tổ chức bộ máy
của Đảng, chính quyền, đoàn thể hầu như không có người tham mưu,
không có người giúp sức. Do đó, người lãnh đạo phải trực tiếp, sát sao đối
với công việc của địa phương, cơ sở.
Thứ năm, hệ thống chính trị cấp cơ sở là cấp có bộ máy tổ chức tương
đối gọn, nhẹ, đội ngũ cán bộ thường ít được đào tạo cơ bản. Cán bộ cơ sở
do dân bầu ra, thực hiện nhiệm vụ trong nhiệm kỳ nhất định, hết nhiệm kỳ
cán bộ cơ sở có thể được thay thế. Tuy vậy, đội ngũ cán bộ này lại thực
hiện nhiệm vụ quản lý toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội
ở cơ sở. Đó là lãnh đạo việc phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, chính trị, đảm
bảo an ninh - quốc phòng ở địa phương; thực hiện chức năng quản lý nhà nước
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội ở cơ sở theo pháp luật; vận động
nhân dân thực hiện tốt các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, hăng hái tham gia các phong trào của địa phương.
Tuy phần đông đội ngũ cán bộ cơ sở còn chưa được đào tạo cơ bản
song hệ thống chính trị cấp cơ sở lại có vai trò quan trọng trong tổ chức
quần chúng thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh
- quốc phòng. Từ những chủ trương, chính sách chung của Đảng, Nhà

23
nước, tùy thuộc vào điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của địa phương, cán
bộ cơ sở xây dựng kế hoạch cụ thể, tổ chức lực lượng và vận động quần
chúng trên địa bàn cùng tham gia thực hiện. Trong quá trình thực hiện các
chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, khi có những bất cập trong
thực tế thì cấp cơ sở cũng là cấp phát hiện đầu tiên để kiến nghị với Đảng,
Nhà nước khắc phục kịp thời.

1.2 Xây dựng nông thôn mới
1.2.1 Nông thôn và những đặc trưng của nông thôn mới
Nông thôn là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành
phố, thị xã, thị trấn được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là Ủy ban nhân
dân xã. Ở Việt Nam, nông thôn gắn liền với địa danh làng, xã, nơi tụ cư
chủ yếu của nông dân, lấy nông nghiệp làm nghề chính. Hiện nay, ở nước
ta nông thôn là địa bàn sinh sống, lao động của gần 70% dân số. Việc giải
quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn và xây dựng nông thôn mới
chính là áp dụng lý luận phát triển nông thôn bền vững vào điều kiện cụ thể
của Việt Nam. Theo đó, nâng cao chất lượng sống cả về vật chất và tinh
thần của nông dân và dân cư nông thôn nói chung, vừa là mục tiêu vừa là
động lực của sự nghiệp phát triển nông thôn. Nội dung của phát triển nông thôn
bao gồm 4 quá trình: 1- công nghiệp hóa, hiện đại hóa; 2- đô thị hóa; 3- kiểm
soát dân số; 4- bảo vệ môi trường sinh thái tự nhiên và nhân văn theo những
tiêu chuẩn của nền văn minh nhân loại và truyền thống văn hóa Việt Nam.
Thực hiện 4 quá trình này, tỉ lệ dân số và sức lao động nông nghiệp trong tổng
dân số và lực lượng lao động xã hội phải giảm tương ứng với tỉ lệ GDP nông
nghiệp trong GDP của nền kinh tế. Do đó, phát triển nông thôn bền vững đã
bao hàm việc phát triển nông nghiệp, nông thôn, nông dân.
Xây dựng nông thôn mới là vấn đề thời sự trong Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng. Văn kiện đã khẳng định: “Phát triển

×