Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Lợi tức và rủi ro trong đầu tư chứng khoán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (290.52 KB, 60 trang )

MỤC LỤC
ooOoo
DANH SÁCH NHÓM...........................................................................2
Mục lục
.......................................................................................................
3
Lời nói đầu....................................................................
........................................................................................4
Chương 2: LỢI TỨC VÀ RỦI RO TRONG ĐẦU TƯ
CHỨNG KHOÁN
2.1 MỨC SINH LỜI...................................................
........................................................................................
........................................................................................4
2.1.1 Mức sinh lời tính bằng giá trị tuyệt đối.......
4
2.1.2 Tỷ lệ lợi tức năm..............................................
.....................................................................................................5
2.1.3 Mức sinh lời trong một khoảng thời gian. . .
.....................................................................................................7
2.1.3.1 Tổng mức sinh lời nhiều năm.................
.....................................................................................................7
2.1.3.2 Tổng mức sinh lời lũy kế theo từng năm
.....................................................................................................7
2.1.4 Mức sinh lời bình quân số học......................
.....................................................................................................8
2.1.5 Tỷ lệ sinh lời nội bộ (IRR)..............................
.....................................................................................................8


Chương 2: Lợi tức và rủi ro trong đầu tư chứng khoán


2.2 RỦI RO TRONG ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN
.....................................................................................................9
2.2.1 Khái niệm
...............................................................................................................
9
2.2.2 Các loại rủi ro trong đầu tư chứng khoán
...............................................................................................................
9
2.2.2.1 Rủi ro hệ thống
............................................................................................................
9
2.2.2.2 Rủi ro không hệ thống....................................................
2.2.3 Xác định mức bù rủi ro..........................................................
2.2.3.1 Rủi ro chứng khoán bằng rủi ro thị trưòng ..................
2.2.3.2 Rủi ro chứng khoán khác rủi ro thị trưòng ..................
2.3 ĐÁNH GIÁ RỦI RO VÀ MỨC SINH LỜI KỲ VỌNG
................................................................................................................
2.3.1 Đánh giá rủi ro đầu tư cổ phiếu............................................
2.3.2 Phân tích độ nhạy ..................................................................
2.3.3 Phương sai và độ lệch chuẩn ................................................
2.3.4 Hệ số bê ta (β)..........................................................................
2.3.5 Thước đo rủi ro.......................................................................
Tài liệu tham khảo:............................................................................

Chương 2
LỢI TỨC VÀ RỦI RO TRONG ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN

2



Chương 2: Lợi tức và rủi ro trong đầu tư chứng khoán

Đầu tư chứng khoán là chỉ việc bỏ vốn tiền tệ ra mua các
chứng khoán để kiếm lời.Việc kiếm lời trong đầu tư chứng
khoán có thể là từ thu nhập cổ tức, trái tức nhưng cũng có
thể là từ chênh lệch giá do kinh doanh chứng khoán đem
lại.Mục tiêu của đầu tư chứng khoán là nhằm kiếm lời từ
nguồn thu nhập nói trên, nhưng an toàn về vốn trong đầu tư
chứng khoán là vấn đề quan trọng.
Mục tiêu đầu tư chứng khoán có đạt được như ý muốn
trong chính sách đầu tư hay không hoàn toàn phụ thuộc vào
rủi ro trong các đầu tư. Đối với các chủ đầu tư, rủi ro là nhân
tố khách quan vượt ra ngoài tầm quản lý và khống chế của
họ.Tác động của rủi ro đến mục tiêu đầu tư hoàn toàn phụ
thuộc vào môi trường đầu tư. Do đó, đầu tư chứng khoán
phải là hành động có cân nhắc, có phân tích khoa học đến
môi trường đầu tư, đến rủi ro có thể xảy ra trong thời gian
đầu tư.
2.1 MỨC SINH LỜI
2.1.1 Mức sinh lời tính bằng giá trị tuyệt đối
Giả sử, công ty Z có vài triệu cổ phiếu đang lưu hành và
bạn đang là cổ đông. Số cổ phiếu bạn mua là vào đầu năm,
bây giờ là cuối năm và bạn muốn tính mức sinh lời của
chứng khoán đầu tư.Đối với các khoản đầu tư chứng khoán
mức sinh lời nhà đầu tư nhận được từ hai nguồn:

3


Chương 2: Lợi tức và rủi ro trong đầu tư chứng khoán


Cổ tức hoặc trái tức được trả hằng năm do nắm giữ cổ
phiếu hay trái phiếu.Do đó là cổ đông của công ty Z nên khi
công ty làm ăn có lãi, bạn sẽ được chia một phần lợi nhuận
gọi là cổ tức.
Khi nhà đầu tư bán chứng khoán, mức chênh lệch giữa
giá bán và giá mua gọi là lợi hay lỗ vốn.[3, trang 35]
Ví dụ: Nếu bạn mua 100 cổ phiếu vào đầu năm với giá
37.000 đồng một cổ phiếu thì tổng giá trị khoản đầu tư của
bạn là:
37.000 x 100 = 3.700.000 đồng
Giả sử, trong năm công ty trả cổ tức cho mỗi cổ phiếu là
1.850 đồng, bạn sẽ nhận được tổng cổ tức là
1.850 x 100 = 185.000 đồng
Cuối cùng, giả sử cuối năm thị trường cổ phiếu công ty
Z là 40.000 đồng, thì bạn sẽ có mức vốn gốc tăng là:
(40.000 – 37.000) x 100 = 300.000 đồng
Như vậy:
Tổng mức sinh lời = cổ tức (trái tức) + Mức lãi,(lỗ) vốn
Trong ví dụ này ta có:
Tổng mức sinh lời = 185.000 + 300.000 = 485.000 đồng
Như vậy, nếu bạn bán cổ phiếu vào cuối năm thì tổng số
tiền bạn nhận được sẽ là

4


Chương 2: Lợi tức và rủi ro trong đầu tư chứng khoán

Tổng số tiền nhận được = khoản đầu tư ban đầu + Tổng mức

sinh lời
= 3.700.000 + 485.000
= 4.185.000 đồng
Kiểm tra lại, bạn sẽ thấy nó đúng bằng số tiền nhận được
khi bán cổ phiếu với cổ tức:
(40.000 x 100) + 185.000 = 4.185.000 đồng
2.1.2 Tỷ lệ lợi tức năm
Chúng ta có thể xác định mức sinh lời theo tỷ lệ phần
trăm vì nó tiện lợi hơn nhiều so với cách tính bằng số tuyệt
đối, bởi vì số phần trăm có thể áp dụng bất kỳ số tiền đầu tư
nào.Câu hỏi mà chúng ta muốn trả lời là ta sẽ thu được bao
nhiêu trên mỗi đồng đầu tư?[3, trang 37]
Gọi P0 là giá cổ phiếu đầu năm, P1 là giá cổ phiếu cuối
năm. D1 là cổ tức trả trong năm. Mức sinh lời tính theo phần
trăm sẽ là:
R=

 ( P1 − P0 ) + D1 


P0



Trong đó:
D1
P0

: Tỷ lệ cổ tức


( P1 − P0 )
P0

: Tỷ suất sinh lãi vốn

5


Chương 2: Lợi tức và rủi ro trong đầu tư chứng khoán

R: Tỷ lệ lợi tức
Theo ví dụ trên, tỷ lệ cổ tức sẽ là:
1.850
37.000

= 0.05 = 5 %

Tỷ suất lãi vốn là sự thay đổi giá cổ phiếu chia cho giá
ban đầu.
Tỷ suất lãi vốn :

40.000 − 37.000
= 0,081 = 8,1%
37.000

Tổng hợp cả 2 kết quả ta sẽ có tổng mức sinh lời khi đầu
tư vào cổ phiếu của công ty Z trong 1 năm.
R = 5% + 8,1% = 13,1%
Ví dụ khác: Giả sử, một nhà đầu tư mua 1 cổ phiếu vào
thời điểm đầu năm với giá 60.000 VNĐ. Trong năm, công ty

đã trả cổ tức cho mỗi cổ phiếu 3.000 VNĐ thì tỷ lệ cổ tức
của cổ phiếu này bằng bao nhiêu? mức lãi vốn bằng bao
nhiêu? và tổng mức sinh lời trong năm bằng bao nhiêu?
Ta có:
R=

3.000 30.000 − 60.000
+
60.000
60.000

= 0.05 + 0.5 = 0.55
= 5% + 50% = 55%
Như vậy tỷ lệ cổ tức, mức lãi vốn và tổng mức sinh lời
tương ứng nếu tính theo phần trăm sẽ là 5%, 50% và 55%.
2.1.3 Mức sinh lời trong một khoảng thời gian
6


Chương 2: Lợi tức và rủi ro trong đầu tư chứng khoán

2.1.3.1 Tổng mức sinh lời nhiều năm
Giả sử, toàn bộ cổ tức lại được tái đầu tư và cũng thu
được một mức sinh lời của khoản vốn gốc, ta gọi khoảng
thời gian đầu tư là t năm thì tổng mức sinh lời là:[3, trang
38]
Rt năm = (1 + R1) x (1 + R2) x …x (1+Rt) – 1
Ví dụ: Nếu mức sinh lời là 11% ; -5% và 9% trong
khoảng thời gian 3 năm là:
R3 năm = (1+R1) x (1+R2) x (1+R3) – 1

= (1+0,11) x (1-0,05) x (1+0,09) -1 = 15%
Tổng mức sinh lời 15% là bao gồm cả mức sinh lời
từ việc tái đầu tư cổ tức của năm thứ nhất và tái đầu tư của
năm thứ 2 trong năm cuối.
2.1.3.2 Mức sinh lời lũy kế theo từng năm
Rhàng năm = t (1 + R1 ) x(1 + R2 ).....(1 + Rt ) - 1
Với ví dụ trên, mức sinh lời lũy kế bình quân hàng
năm sẽ bằng:
Rhàng năm = 3 ( 1 + 0 ,11 ) ×( 1 − 0 ,05 ) × ...×( 1 + 0 ,09 ) − 1
= 4 ,8%

Ví dụ: $1 đầu tư vào cuối năm 1925 và đến 1981
nhận được $133,6; nếu cổ tức được tái đầu tư thì R trong 56
năm sẽ là:
7


Chương 2: Lợi tức và rủi ro trong đầu tư chứng khoán
133,6
1+R= 1

R= 133,6 - 1 = 132,6 = 1326%
Nếu ta chỉ tính cho 1 năm thì mức sinh lời bình quân
sẽ là:
R= 56 1 +132,6 - 1= 9,1%
2.1.4 Mức sinh lời bình quân số học
Để diễn tả mức sinh lời bình quân đơn giản hàng năm, ta
có công thức sau:
( R1 + R2 + ... + Rt )
R=

t
Trong đó
R:

Mức sinh lời bình quân năm

R1, R2, R3: Mức sinh lời từng năm trong khoảng thời
gian t năm
Ví dụ: Mức sinh lời đối với cổ phiếu thường từ năm
2001 đến năm 2004 tương ứng là 0,1162; 0,3749; 0,4361 và
-0,0840, mức sinh lời bình quân đơn giản hàng năm là:
R=

0,1162 + 0,3749 + 0,4361 − 0,084
4

= 0,2180

2.1.5 Tỷ lệ sinh lời nội bộ (IRR)
Tại mức lãi suất này làm cân bằng giữa tổng chi cho đầu
tư và các khoản thu nhập trong tương lai.[3, trang 40]

8


Chương 2: Lợi tức và rủi ro trong đầu tư chứng khoán

Ví dụ: vốn đầu tư năm đầu (Năm 0) là 1 tỷ VNĐ, toàn
bộ các dòng (tiền thu hồi về trong vòng 4 năm sau đó và
được thể hiện bằng bảng sau:

Năm
1
2
Dòng tiền thu
-0,1 -0,5
được

3

4

-0,8 1,0

Vậy tỷ lệ nội hoàn được xác định như sau :
1=

− 0,11
(1 + IRR )

− o,5

0,8

1

+ (1 + IRR ) 2 + (1 + IRR ) 3 + (1 + IRR ) 4

Vậy IRR = 4,17%
2.2 RỦI RO TRONG ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN
2.2.1 Khái niệm

Chúng ta biết rằng sự dao động của thu nhập, dao động
của giá chứng khoán hay cổ tức (trái tức) là những yếu tố
gây ra rủi ro.
Rủi ro trong đầu tư chứng khoán được định nghĩa là sự
dao động của lợi nhuận, tức là khả năng sinh lời thực tế nhận
được ít hơn dự tính ban đầu của nhà đầu tư. Độ dao động của
lợi suất đầu tư càng cao thì rủi ro càng cao và ngược lại.
Trong đầu tư thì có một số rủi ro nằm ngoài sự kiểm soát
của công ty phát hành và ảnh hưởng đến một số lượng lớn
chứng khoán. Một số rủi ro phát sinh từ nội tại của công ty
và công ty có thế kiểm soát ở mức tương đối. [2, trang 240]

9


Chương 2: Lợi tức và rủi ro trong đầu tư chứng khoán

2.2.2 Các loại rủi ro trong đầu tư chứng khoán
2.2.2.1 Rủi ro hệ thống
Những rủi ro do các yếu tố nằm ngoài công ty,
không kiểm soát được và có ảnh hưởng rộng rãi đến cả thị
trường và tất cả mọi loại chứng khoán được gọi là rủi ro hệ
thống.Rủi ro hệ thống không thể giảm thiểu được bằng đa
dạng hóa danh mục đầu tư chứng khoán và thông thường có
các rủi ro chủ yếu sau:
a) Rủi ro thị trường
Giá cả cổ phiếu có thể dao động mạnh trong một
khoảng thời gian ngắn mặc dù thu nhập của công ty vẫn
không thay đổi. Nguyên nhân của nó có thế rất khác nhau
nhưng phụ thuộc chủ yếu vào cách nhìn nhận của các nhà

đầu tư về các loại cổ phiếu nói chung hay về một nhóm các
cổ phiếu nói riêng.Những thay đổi trong mức sinh lời đối với
phần lớn các loại cổ phiếu thường chủ yếu là do sự hy vọng
của các nhà đầu tư vào nó thay đổi và gọi là rủi ro thị trường.
Rủi ro thị trường xuất hiện do có những phản ứng
của các nhà đầu tư đối với những sự kiện hữu hình hay vô
hình.Sự chờ đợi đối với chiều hướng sụt giảm lợi nhuận của
các công ty nói chung có thể là nguyên nhân làm cho phần
lớn các loại cổ phiếu thường bị giảm giá. Các nhà đầu tư
thường phản ứng dựa trên cơ sở các sự kiện thực, hữu hình
như các sự kiện kinh tế, chính trị, xã hội.
10


Chương 2: Lợi tức và rủi ro trong đầu tư chứng khoán

Các sự kiện vô hình là các sự kiện nảy sinh do yếu
tố tâm lý của thị trường. Rủi ro thị trường thường xuất phát
từ những sự kiện hữu hình, nhưng do tâm lý không vững
vàng của các nhà đầu tư nên họ hay có phản ứng vượt quá
các sự kiện đó. Những sự sút giảm đầu tiên trên thị trường là
nguyên nhân gây sợ hãi đối với các nhà đầu tư và họ sẽ cố
gắng rút vốn. Những phản ứng dây chuyền làm tăng vượt số
lượng bán, giá cả chứng khoán sẽ rơi xuống thấp so với giá
trị cơ sở.
Chúng ta đã nói nhiều về tác động tiêu cực, tuy
nhiên vẫn có thể có hiện tượng mua vào rất nhiều khi có
những sự kiện bất thường xảy ra, lúc đó giá cả chứng khoán
sẽ tăng lên.
Tiêu biểu trong thời gian qua là việc sụt giảm mạnh

của thị trường chứng khoán Châu Á nói chung và thị trường
chứng khoán Việt Nam nói riêng sau khi Nhật Bản gặp phải
thảm họa động đất, sóng thần và hạt nhân. Thị trường lao
dốc mạnh nhiều phiên khi các tin xấu được đưa ra và rất
nhiều cổ phiếu đã giảm tới mức dưới mệnh giá mặc dù tình
hình hoạt động kinh doanh của công ty khá tốt trong năm
vừa qua. Động thái giảm mạnh của thị trường được nhiều
nhà đầu tư cho rằng xuất phát từ 2 lý do chính:
Một là, do ảnh hưởng tiêu cực từ thảm họa ở Nhật
Bản nhà đầu tư lo ngại nhiều khả năng Nhật Bản sẽ cắt giảm

11


Chương 2: Lợi tức và rủi ro trong đầu tư chứng khoán

viện trợ ODA FDI đối với Việt Nam và doanh số đối với
các doanh nghiệp xuất khẩu sang Nhật Bản cũng giảm đáng
kể.
Hai là, lo ngại của nhà đầu tư về mức lạm phát cao
khi có những thông tin dự báo chỉ số giá tiêu dùng tăng từ
tháng 3 trở đi.
Giải pháp:
Để ổn định lại thị trường chứng khoán cần thực hiện
đồng bộ về các giải pháp quản lý, kiểm soát tín dụng và
thông tin, trong đó có việc hỗ trợ sức cầu và tăng cường hiệu
quả cổ phần hóa các doanh nghiệp lớn.
Các giải pháp kiểm soát lạm phát hiện nay của Ngân
hàng Nhà nước cần có “ độ trễ” để phát huy tác dụng, tránh
gây sốc với các doanh nghiệp và nền kinh tế. Đối với vấn đề

tỷ giá, cần tiếp tục cho đồng Việt Nam lên giá hơn so với
hiện nay để giảm sức ép mua ngoại tệ và kích thích nhập
khẩu, từ đó giảm sức ép lạm phát và thúc đẩy cải cách hoạt
động xuất khẩu.
Ngân hàng Nhà nước cần đẩy mạnh hơn việc mua
vào ngoài tệ trong thời hạn ít nhất một tháng, trong đó ưu
tiên mua ngoại tệ là kiều hối, vốn đầu tư trực tiếp, vốn đầu tư
chiến lược và đầu tư vào thị trường chứng khoán.

12


Chương 2: Lợi tức và rủi ro trong đầu tư chứng khoán

b) Rủi ro lãi suất
Rủi ro lãi suất là một trong những rủi ro hệ thống,
hay còn gọi là rủi ro không phân tán được khi đầu tư vào thị
trường chứng khoán. Rủi ro lãi suất nói đến sự không ổn
định trong giá trị thị trường và số tiền thu nhập trong tương
lai, nguyên nhân là dao động trong mức lãi suất chung.
Nguyên nhân cốt lõi của rủi ro lãi suất là sự lên
xuống của lãi suất trái phiếu Chính phủ, khi đó sẽ có sự thay
đổi trong mức sinh lời kỳ vọng của các loại chứng khoán
khác, đó là các loại cổ phiếu và trái phiếu công ty. Nói cách
khác, chi phí vay vốn đối với các loại chứng khoán không rủi
ro, chứng khoán Chính phủ sẽ dẫn đến sự thay đổi về chi phí
vay vốn của các loại chứng khoán có rủi ro, chứng khoán
công ty.
Các nhà đầu tư thường coi trái phiếu Chính phủ là
không rủi ro. Lãi suất của trái phiếu Chính phủ được coi là

lãi suất chuẩn, là mức phí vay vốn không rủi ro. Những thay
đổi trong lãi suất trái phiếu Chính phủ sẽ làm ảnh hưởng tới
toàn bộ hệ thống chứng khoán, từ trái phiếu cho đến các loại
cổ phiếu rủi ro nhất.
Lãi suất trái phiếu Chính phủ cũng thay đổi theo
cung cầu trên thị trường.
Ví dụ, khi ngân sách thâm hụt thì Chính phủ sẽ phát
hành thêm chứng khoán để bù đắp, như vậy sẽ làm tăng mức
13


Chương 2: Lợi tức và rủi ro trong đầu tư chứng khoán

cung chứng khoán trên thị trường. Các nhà đầu tư tiềm năng
sẽ chỉ mua các trái phiếu này nếu lãi suất cao hơn lãi suất các
loại chứng khoán đang được lưu hành. Nếu giả sử, lãi suất
trái phiếu chính phủ tăng từ 12% lên 12,5% thì những người
đang nắm giữ trái phiếu có lãi suất 12% sẽ bị thiệt hại do giá
chứng khoán giảm xuống. Vì lãi suất đã cố định là 12% ngay
từ lúc phát hành nên những người nắm giữ chứng khoán chỉ
có thể bán được nếu họ chịu giảm giá xuống tới mức đảm
bảo cho lãi suất đáo hạn của những trái phiếu này đạt được
mức 12,5%.
Do lãi suất trái phiếu Chính phủ tăng, nó sẽ trở nên
hấp dẫn hơn và các loại chứng khoán khác sẽ bị kém hấp dẫn
đi. Hệ quả là, những người mua trái phiếu sẽ mua trái phiếu
Chính phủ thay vì trái phiếu công ty, và do vậy lãi suất trái
phiếu công ty cũng phải tăng lên. Lãi suất trái phiếu công ty
tăng sẽ dẫn đến giá của các loại cổ phiếu thường và cổ phiếu
ưu đãi giảm xuống như một phản ứng dây chuyền.

Như vậy, ta thấy có một cơ cấu hợp lý về lãi suất do
các công cụ có liên hệ với nhau. Sự tăng lên của lãi suất
chuẩn sẽ làm ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống. Hệ quả trực
tiếp của việc tăng lãi suất chuẩn là giá cả của các loại chứng
khoán khác giảm xuống; tương tự, lãi suất chuẩn giảm lại
làm cho giá của các loại chứng khoán tăng lên.

14


Chương 2: Lợi tức và rủi ro trong đầu tư chứng khoán

Ngoài hệ quả trực tiếp đối với giá chứng khoán, lãi
suất chuẩn còn có ảnh hưởng gián tiếp đến giá cổ phiếu
thường. Thứ nhất, lãi suất chuẩn tăng hay giảm sẽ làm cho
các giao dịch ký quỹ kém hấp dẫn đi hay hấp dẫn hơn. Thứ
hai, rất nhiều công ty kinh doanh chủ yếu bằng vốn đi vay.
Nhiều công ty khác, ví dụ các tổ chức tài chính tham gia vào
các hoạt động cho vay khi lãi suất tăng, các công ty vay nợ
nhiều sẽ phải trích từ thu nhập của mình nhiều hơn để trả lãi,
dẫn dến sự giảm sút thu nhập, cổ tức và giá cổ phiếu. Việc
tăng lãi suất lại mang đến thu nhập cao hơn cho những người
cho vay do nguồn thu chính của họ là lãi thu được từ các
khoản cho vay. Đối với những công ty này thu nhập tăng lại
làm cho cổ tức và giá cổ phiếu của nó tăng.
Giải pháp:
Kiểm soát rủi ro lãi suất thông qua thời lượng
Điều chỉnh danh mục đầu tư nhằm tạo ra thời lượng
giúp kiểm soát tác động của lãi suất tới giá tài sản tài chính
đang nắm giữ, qua đó ổn định thu nhập kì vọng của danh

mục đầu tư.
Xây dựng bối cảnh biến động lãi suất, có ứng xử
tương ứng để khai thác mô hình thời lượng trong kiểm soát
rủi ro.
Thực thi chiến thuật đầu tư năng động.

15


Chương 2: Lợi tức và rủi ro trong đầu tư chứng khoán

Xuất phát từ các chiến thuật căn bản: phân tích lãi
suất đối sánh (benchmark), khai thác các cơ hội arbitrage,
đánh cược với rủi ro - lãi suất.
Kết hợp các phân tích giá với DV01, thời lượng và
các phân tích khác.
Dự đoán bối cảnh lãi suất.
Xây dựng kịch bản.
Điều chỉnh năng động danh mục đầu tư.
Tìm kiếm và tận dụng các khoản vay dài hạn với lãi
suất ưu đãi, vay vốn với lãi suất thấp, ổn định và loại trừ
được rủi ro biến động tăng lãi suất.
Mối quan hệ giữa lãi suất với giá trái phiếu và cổ
phiếu
Quan hệ giữa lãi suất với giá trái phiếu là mối quan
hệ trực tiếp và ngược chiều nhau.
Trước tiên, đây là một mối quan hệ trực tiếp và
ngược chiều giữa lãi suất và giá trái phiếu. Đây là mối quan
hệ cơ bản nhất và cần được xem xét nhất trong phân tích và
ra quyết định đầu tư trái phiếu

Thông thường, có hai cách để giải thích mối quan hệ
giữa lãi suất và giá trái phiếu:
Cách thứ nhất, dựa trên nguyên lý định giá trái
phiếu. Giá trái phiếu được tính bằng tổng giá trị hiện tại của
16


Chương 2: Lợi tức và rủi ro trong đầu tư chứng khoán

các khoản tiền thanh toán cho người sở hữu trái phiếu. Để
xác định được giá trái phiếu chúng ta phải chiết khấu toàn bộ
dòng tiền sẽ thanh toán cho người sở hữu trái phiếu tại thời
điểm định giá. Giả sử một trái phiếu được phát hành với thời
gian đáo hạn là N năm và các khoản tiền được thanh toán
bao gồm tiền lãi (R) định kỳ hàng năm và tiền gốc (FV) ở
thời điểm đáo hạn. Với lãi suất bình quân thị trường là i, khi
đó giá trị hiện tại của tổng dòng tiền thanh toán trong tương
lai (hay giá của trái phiếu) được xác định như sau:
N

PV = ∑
t −1

R

+

FV

(1 + i ) (1 + i )

t

N

Từ công thức trên ta thấy khi lãi suất thị trường tăng
lên thì giá trái phiếu sẽ giảm xuống.
Ví dụ, doanh nghiệp A phát hành trái phiếu mệnh
giá 1.000 đồng với thời hạn một năm, lãi suất trái phiếu là
10%/năm và trong điều kiện lãi suất thị trường là 11%/năm.
Giá trái phiếu được tính như sau:
PV =

1.000 × 10%
1.000
+
≈ 991
(1 + 11% ) (1 + 11% )

Như vậy, trái phiếu của doanh nghiệp A sẽ được bán
tại thời điểm hiện tại với giá 991 đồng.
Nếu lãi suất thị trường tăng lên 12%/năm thì giá của
trái phiếu được xác định lại như sau:
PV =

1.000 × 10%
1.000
+
≈ 982
(1 + 12% ) (1 + 12% )


17


Chương 2: Lợi tức và rủi ro trong đầu tư chứng khoán

So với thời điểm lãi suất thị trường là 11%/năm thì
giá trái phiếu của doanh nghiệp A đã giảm xuống còn 982
đồng.
Cách thứ hai để giải thích mối quan hệ giữa lãi suất
và giá trái phiếu là dựa trên quan hệ cung – cầu trái phiếu
trên thị trường
Quan hệ giữa lãi suất với giá cổ phiếu là mối quan
hệ không trực tiếp và không hoàn toàn diễn ra trong một
chiều.
Mối quan hệ giữa lãi suất và giá cổ phiếu là gián tiếp
và luôn thay đổi. Nguyên nhân là do luồng thu nhập từ cổ
phiếu có thể thay đổi theo lãi suất và chúng ta không thể
chắc chắn liệu sự thay đổi của luồng thu nhập này có làm
tăng hay bù đắp cho mức biến động về lãi suất hay không.
Để giải thích rõ vấn đề này, chúng ta sẽ xem xét các khả
năng có thể xảy ra khi tỷ lệ lạm phát tăng, cụ thể như sau:
Lãi suất tăng do tỷ lệ lạm phát tăng và thu nhập
công ty theo đó cũng tăng vì công ty có thể tăng giá cho phù
hợp với mức tăng của chi phí. Trong trường hợp này, giá cổ
phiếu có thể khá ổn định vì ảnh hưởng tiêu cực của việc tăng
tỷ suất lợi nhuận đã được đền bù một phần hay toàn bộ bởi
phần tăng của tỷ lệ tăng trưởng thu nhập và cổ tức.
Lãi suất tăng, nhưng luồng thu nhập dự tính thay đổi
rất ít do công ty không có khả năng tăng giá để phù hợp với
18



Chương 2: Lợi tức và rủi ro trong đầu tư chứng khoán

chi phí tăng, do vậy, giá cổ phiếu giảm. Tỷ suất lợi nhuận
quy định có thể tăng nhưng tỷ lệ tăng trưởng của cổ tức là
không đổi, nên mức chênh lệch giữa 2 nhân tố này càng lớn.
Lãi suất tăng trong khi luồng thu nhập giảm vì các
nguyên nhân làm tăng lãi suất lại gây tác động xấu tới thu
nhập của công ty. Hoặc là người ta có thể hình dung thời kỳ
lạm phát trong đó chi phí sản xuất tăng, nhưng nhiều công ty
không thể tăng giá, dẫn tới biên độ lợi nhuận giảm. Tác động
của một loạt các sự kiện này là rất tồi tệ. Trong những
trường hợp này, giá cổ phiếu sẽ sụt nghiêm trọng vì tỷ suất
lợi nhuận giảm khi cổ tức giảm, dẫn tới chênh lệch giữa 2
nhân tố này càng lớn.
Mặc dù mối quan hệ giữa lạm phát, lãi suất và thu
nhập từ cổ phiếu là tiêu cực, nhưng điều này không phải lúc
nào cũng đúng. Hơn nữa, ngay cả khi điều này là đúng trên
toàn bộ thị trường, thì vẫn tồn tại một số ngành nhất định có
thể có thu nhập và cổ tức tạo ảnh hưởng tích cực từ những
biến động về lạm phát và lãi suất. Trong trường hợp này, giá
cổ phiếu có mối quan hệ tốt với lạm phát và lãi suất.
Đối với những trường hợp ngược lại so với các
trường hợp trên, bạn có thể hình dung ra một loạt các khả
năng ngược lại khi lạm phát và lãi suất giảm. Mối quan hệ
giữa lạm phát, lãi suất và giá cổ phiếu là một vấn đề đòi hỏi
phải có kinh nghiệm và ảnh hưởng của chúng thay đổi theo

19



Chương 2: Lợi tức và rủi ro trong đầu tư chứng khoán

từng thời kỳ. Giá cả hàng hoá (lạm phát), Lịch sử thị trường
chứng khoán Mỹ đã cung cấp nhiều thông tin về sự bất cập
của giá chứng khoán trong mối quan hệ với giá hàng hoá. Từ
năm 1923 tới 1929 là một giai đoạn đáng ghi nhớ khi giá bán
buôn ổn định và giá hàng hoá có xu hướng giảm nhẹ. Tuy
nhiên, trong thời kỳ đó, giá chứng khoán theo thống kê tăng
vọt phổ biến trên các thị trường đầu cơ giá lên. Ngược lại,
giá hàng hoá tăng vào năm 1940, 1941, và 1942, nhưng giá
cổ phiếu lại hạ. Vào mùa xuân năm 1946, việc kiểm soát giá
hàng hoá đã bị bãi bỏ, và lạm phát về giá hàng hoá đã lên tới
đỉnh điểm cho đến hết năm và tiếp tục tăng cho đến đến giữa
năm 1948, giá cả tăng đều trong hai năm. Giá cổ phiếu bắt
đầu biến động gần như vào đúng ngày giá hàng hoá bắt đầu
tăng vào năm 1946; giá cổ phiếu giảm mạnh từ tháng 8 cho
tới cuối năm. Nói cách khác, giá chứng khoán sụp đổ vào
năm 1946 đúng vào thời điểm nguy cơ lạm phát tăng mạnh
nhất do ảnh hưởng của Chiến tranh thế giới lần thứ II.
Sự không nhất quán trong các phản ứng của giá cổ
phiếu trước sự thay đổi giá hàng hoá đã làm nhà phân tích
ngày càng chán nản bởi vì giá cổ phiếu trước đây thường có
xu hướng biến động trước khi giá hàng hoá biến động tới vài
tháng.Do vậy, dường như giá hàng hoá với tư cách là một
chỉ số của giá chứng khoán tỏ ra không đáng tin cậy và có lẽ
là không có giá trị.

20



Chương 2: Lợi tức và rủi ro trong đầu tư chứng khoán

Lãi suất tăng ít hơn thu nhập của cổ phiếu: giá cổ
phiếu tăng
Lãi suất tăng nhiều hơn thu nhập của cổ phiếu: giá
cổ phiếu giảm.
c) Rủi ro sức mua
Rủi ro sức mua là biến cố của sức mua của đồng tiền
thu được. Rủi ro sức mua là tác động của lạm phát đối với
khoản đầu tư.
Khi một người mua cổ phiếu, anh ta đã bỏ mất cơ
hội mua hàng hoá hay dịch vụ trong thời gian sở hữu cổ
phiếu đó. Nếu, trong khoảng thời gian nắm giữ cổ phiếu đó,
giá cả hàng hoá dịch vụ tăng, các nhà đầu tư đã bị mất một
phần sức mua. Giá cả hàng hoá và dịch vụ tăng gọi là lạm
phát, giá cả hàng hoá giảm gọi là giảm phát. Cả lạm phát và
giảm phát đều liên quan đến khái niệm rủi ro sức mua.
Nguyên nhân chính của lạm phát là do giá thành sản phẩm
và nhu cầu về hàng hóa dịch vụ tăng so với mức cung.
Thứ nhất, lạm phát tăng là do nhu cầu tăng lên khi
nền kinh tế có nhiều công ăn việc làm hơn. Tại lúc này, mức
cung không tăng kịp cho đến khi sản xuất được mở rộng.
Với nhu cầu nhiều lên, các loại hàng hoá và dịch vụ sẽ phải
được phân bổ theo một mức giá nào đó tăng lên mà làm cho
cung cầu cân bằng tại đó.

21



Chương 2: Lợi tức và rủi ro trong đầu tư chứng khoán

Thứ hai, lạm phát do tăng giá thành phẩm: Giá
nguyên vật liệu và tiền công tăng lên, các nhà sản xuất cố
gắng bù đắp lại bằng cách tăng giá cả hàng hoá. Trong một
môi trường kinh tế có nhiều công ăn việc làm, tiền công
được trả cao thì giá cả hàng hoá sẽ tăng, ngược lại giá cả
hàng hoá tăng cũng đòi hỏi tiền công tăng lên, chu trình này
cứ lặp đi lặp lại.
Ta đã nói rủi ro sức mua thường đi kèm với sự thay
đổi giá hàng hoá, dịch vụ thì câu hỏi đặt ra là sự thay đổi giá
những hàng hoá cụ thể nào sẽ được coi là thước đo tính lạm
phát. Thức đo thông dụng nhất sử dụng để xác định mức
thay đổi giá cả hàng hoá, dịch vụ là chỉ số giá hàng tiêu
dùng. Chỉ số này sử dụng một số loại hàng hoá và dịch vụ để
tính toán, gồm thức ăn, đồ dùng và rất nhiều các loại dịch vụ,
từ y tế đến tiền học để tính toán.
Các nhà đầu tư cần tính kèm cả lạm phát vào thu
nhập kỳ vòng để bù đắp rủi ro sức mua, mức này được đo
bằng % biến động giá. Nếu như chỉ số hàng tiêu dùng là 100
vào đầu năm và cuối năm là 103 thì ta nói lạm phát là 3%.
Nếu từ năm thứ 2 đến năm thứ 3, chỉ số biến động từ 103 lên
109 thì tỷ lệ lạm phát sẽ vào khoảng 5,8% [109-103/103].
Sự cần thiết phải điều chỉnh thu nhập kỳ vọng theo
những biến động giá cả có thể chứng minh bằng ví dụ đơn
giản sau. Giả sử bạn vay 100 đồng ngày hôm nay và hứa trả

22



Chương 2: Lợi tức và rủi ro trong đầu tư chứng khoán

105 đồng vào cuối năm, lãi suất là 5%. Tuy nhiên nếu giá cả
trong năm tăng lên tới 6%, khi đó 105 đồng nhận được vào
cuối năm sẽ chỉ có sức mua bằng khoảng 98 đồng so với đầu
năm. Như vậy, bạn phải cộng thêm tỷ lệ lạm phát vào lãi
suất, tức là 11% để cuối năm bạn nhận được lãi suất thực là
5%.
Giải pháp
Áp dụng các biện pháp hạn chế lạm phát của thị
trường
Yếu tố lạm phát (giảm phát) sẽ làm thay đổi mức lãi
suất danh nghĩa và từ đó sẽ gây tác động đến giá chứng
khoán.
Cũng giống như lãi suất có ảnh hưởng đến giá của
tất cả các loại chứng khoán, sự thay đổi sức mua cũng làm
ảnh hưởng đến chúng. Nếu chỉ số giá hàng tiêu dùng vào
khoảng 8% hàng năm và năm sau dự kiến là 9% thì mức thu
nhập đối với chứng khoán cũng đòi hỏi phải tăng lên. Điều
đó sẽ tác động đến giá của các loại trái phiếu Chính phủ, trái
phiếu và cổ phiếu công ty.
d) Rủi ro về tái đầu tư
Rủi ro về tái đầu tư là rủi ro khi những người nắm
giữ trái phiếu không thể tái đầu tư số lãi được trả vào một
danh muc đầu tư có lãi suất tương đương với lãi suất đáo hạn
của trái phiếu.
23



Chương 2: Lợi tức và rủi ro trong đầu tư chứng khoán

Các trái phiếu không lãi suất sẽ không có rủi ro tái
đầu tư vì không có khoản lãi nào được trả trong suốt thời
gian tồn tại của nó.[2, trang 242]
2.2.2.2 Rủi ro không hệ thống
Rủi ro không hệ thống là một phần trong tổng rủi ro
gắn liền với một công ty hay một ngành công nghiệp cụ thể
nào đó, ngoài những rủi ro gắn liền với toàn bộ thị trường.
Những yếu tố này có thể là khả năng quản lý, thị hiếu tiêu
dùng, đình công và nhiều yếu tố khác là nguyên nhân gây ra
sự thay đổi trong thu nhập từ cổ phiếu công ty. Do những
yếu tố này chỉ ảnh hưởng tới một ngành hay một công ty cụ
thể nên chúng phải được xem xét cho từng công ty.
Sự không chắc chắn đối với khả năng thanh toán của
công ty có thể là do môi trường của hoạt động kinh doanh và
tình trạng tài chính của công ty. Những rủi ro này bao gồm
rủi ro kinh doanh, rủi ro tài chính và rủi ro quản lý.
a) Rủi ro kinh doanh
Là sự không ổn định hoặc sụt giảm của thu nhập
trong hoạt động của công ty do những thay đổi bất lợi của
môi trường kinh doanh hoặc bản thân công ty có thể sẽ bị sút
giảm lợi nhuận và cổ tức.
VD : nếu lợi nhuận dự kiến tăng 10% hang năm
trong những năm tiếp theo, rủi ro kinh doanh sẽ cao hơn nếu

24


Chương 2: Lợi tức và rủi ro trong đầu tư chứng khoán


như lợi nhuận tăng tới 14% hay giảm xuống 6% so với lợi
nhuận nằm trong khoảng 9-11%.
Rủi ro kinh doanh có thể được chia làm hai loại cơ
bản: Bên ngoài và nội tại.
Rủi ro kinh doanh nội tại phát sinh trong quá trình
vận hành hoạt động của công ty. Mỗi công ty có một loại rủi
ro nội tại riêng và mức độ thành công của mỗi công ty thể
hiện qua hiệu quả hoạt động.
Trong phạm vi rộng, rủi ro kinh doanh bên ngoài là
những trường hợp xảy ra nằm ngoài sự kiểm soát của công ty
và làm ảnh hưởng đến tình trạng hoạt động của công ty. Mỗi
công ty có một kiểu rủi ro bên ngoài riêng, phụ thuộc vào
các yếu tố môi trường kinh doanh cụ thể của công ty. Các
yếu tố bên ngoài, từ chi phí tiền vay đến sự cắt giảm ngân
sách, từ mức thuế nhập khẩu tăng đến sự suy thoái của chu
kỳ kinh doanh,…Trong đó yếu tố quan trọng nhất là chu kỳ
kinh doanh.
Phạm vi của những thay đổi lên xuống trong tổng thu
nhập dẫn đến sự thay đổi trong lợi nhuận có thể được gọi là
rủi ro nội tại. Nếu có một sự sụt giảm trong thu nhập từ một
loại sản phẩm có thể được bù đắp bằng một loại sản phẩm
khác, làm cho tổng thu nhập không thay đổi thì có thể coi là
công ty đã sử dụng việc đa dạng hoá sản phẩm để bảo vệ
mình chống lại rủi ro kinh doanh.

25



×