Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Rủi ro trong đầu tư chứng khoán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.48 KB, 16 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Phần I
Lý thuyết rủi ro trong đầu tư chứng khoán
1.Khái niệm về đầu tư
Đầu tư là sự trao đổi một số tiền hện tại trong một thời gian để
thu về một khoản lớn hơn trong tương lai mà khoản tiền đó có thể
bù đắp cho nhà đầu tư về:

-Thời gian mà số tiền được đem trao đổi
-Tỉ lệ lạm phát dự tính
-Rủi ro thanh khoản
2.Rủi ro trong đầu tư chứng khoán
2.1.Khái niệm

Rủi ro được định nghĩa là khả năng (hay xác suất) xảy ra
những kết quả đầu tư ngoài dự kiến, hay cụ thể hơn là khả năng
làm cho mức sinh lời thực tế nhận được trong tương lai sai khác
với mức sinh lời dự kiến ban đầu.
2.2.Các loại rủi ro
2.2.1.Rủi ro hệ thống

- Rủi ro thị trường
Rủi ro thị trường xuất hiện do có những phản ứng của các
nhà đầu tư đối với những sự kiện hữu hình hay vô hình làm biến
động giá chứng khoán.
Các sự kiện vô hình là các sự kiện nảy sinh do yếu tố tâm lý
của thị trường.
- Rủi ro lãi suất
Nguyên nhân cốt lõi của rủi ro lãi suất là sự lên xuống của lãi
suất chuẩn (có thể là lãi suất trái phiếu của cính phủ), khi đó sẽ có
1


Website: Email : Tel : 0918.775.368
sự thay đổi trong mức sinh lời kỳ vọng của các loại chứng khoán
khác.
- Rủi ro sức mua

Rủi ro sức mua là tác động của lạm phát và giảm phát đối với
khoản đầu tư.
Lạm phát và giảm phát sẽ làm thay đổi mức lãi suất danh
nghĩa và từ đó sẽ gây tác động tới giá cả chứng khoán.
2.2.2.Rủi ro phi hệ thống

- Rủi ro kinh doanh
Rủi ro kinh doanh là sự biến động giá chứng khoán do những
thay đổi trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nó chính là
sự bất ổn về thu nhập mà nguyên nhân cơ bản xuất phát từ lĩnh
vực ngành mà công ty đó trực thuộc.
Rủi ro kinh doanh thường được tính bằng mức độ biến động
của thu nhập phát sinh từ hoạt động sản xuất kinh doanh của công
ty
Độ lệnh chuẩn của thu nhập hoạt động
Rủi ro kinh doanh =

─────────────────────────

Thu nhập hoạt động bình quân
- Rủi ro tài chính
Rủi ro tài chính là sự biến động về lợi nhuận của các cổ đông
khi công ty vay nợ. Nó liên quan đến việc sử dụng đòn bẩy tài
chính.
Để xác định rủi ro tài chính của một công ty, người ta thường

sử dụng hai loại hệ số:
-Các hệ số của bảng cân đối kế toán: Cơ cấu vốn (Nợ/vốn
cổ phần)
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
-Nhóm các hệ số về dòng tiền: Khả năng thanh toán ( ngắn
hạn và dài hạn)

- Rủi ro tỷ giá
Liên quan đến sự thay đổi tỷ giá.
Ví dụ : Nếu trái phiếu được thanh toán bằng đồngViệt Nam,
mà đồng Việt Nam lại giảm giá so với đồng USD thì nhà đầu tư sẽ
nhận được ít USD hơn.
- Rủi ro thanh khoản

Liên quan đến các điều kiện giao dịch.
2.3. Đánh giá rủi ro:

- Độ lệch chuẩn: _____________
σ = √ ∑(R
i
– E(R))
2
P
i

- Hệ số ß:
σ
iM
ß = ───

σ
2
M

σ
iM
: Độ lệch chuẩn của chứng khoán i
σ
2
M
: Phương sai của thị trường
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Phần II
Thực tiễn trên thị trường Việt Nam
1.Rủi ro từ “tâm lý bầy đàn”
Các trào lưu mua, bán chứng khoán theo tâm lý đám đông
làm phá vỡ các quy luật vận động bình thường của thị trường.

Đặc biệt, diễn biến của thị trường chứng khoán Việt Nam
(TTCK VN) trở nên vô cùng phức tạp khi mức dao động của chỉ số
VN-Index ở những phiên giao dịch kế tiếp nhau khá cao, trong khi
giá trị giao dịch giảm dần. Điều này trở thành yếu tố kích thích
nhiều nhà đầu tư (N ĐT) trong nước đầu tư ngắn hạn, đặc biệt là
khi diễn biến tăng, giảm giá cổ phiếu phụ thuộc nhiều vào động thái
đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài.
Thông thường khi đầu tư theo “bầy đàn”, nhà đầu tư trong
nước hiểu rất ít về cổ phiếu đang nắm giữ, nên khi có những thông
tin bất thường, họ thường phản ứng ngay bằng cách bán ra.
Trường hợp cổ phiếu BMC trong những phiên gần đây là một ví dụ

điển hình. Ngay khi thông tin Tỉnh ủy Bình Định bán ra 100.000 cổ
phiếu và Chủ tịch HĐQT BMC bán ra 6.000 cổ phiếu, thì khối lượng
bán theo trong những phiên kế tiếp rất lớn, khiến cổ phiếu này rớt
giá. Trong khi đó, ước tính kết quả kinh doanh quý II của BMC rất
tốt và cổ đông sẽ được thực hiện quyền mua theo tỷ lệ 1:1 trong
năm nay.
2.Rủi ro do tính thanh khoản thấp
Tính thanh khoản thấp của chứng khoán mà nhà đầu tư đang
sở hữu có thể do chứng khoán đó khó và thậm chí không thể bán
được, hoặc không được phép bán hay chuyển nhượng nhằm thu
hồi vốn đầu tư. Đối với chứng khoán, tính thanh khoản của nó thấp
do một số nguyên nhân sau:
- Tình trạng tài chính và triển vọng thị trường của công ty, tổ
chức phát hành chứng khoán không tốt.
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Thật không may cho nhà đầu tư chứng khoán, khi vì một lý do
nào đó, chứng khoán đã mua là của một công ty có tình trạng tài
chính thiếu lành mạnh và triển vọng cung cấp các yếu tố đầu vào,
cũng như khả năng tiêu thụ sản phẩm thiếu hiệu quả vững chắc.
Thậm chí, chỉ cần một sự thay đổi nhân sự cấp cao trong
công ty cũng có thể khiến giá chứng khoán đó sụt giảm. Và rủi ro
đối với nhà đầu tư sẽ là tối đa khi công ty phát hành chứng khoán bị
phá sản và biến mất trên thương trường sau những “pha” “tự đánh
bóng” khá chuyên nghiệp, giật gân nhằm thu hút, dẫn dụ những nhà
đầu tư. Trên thị trường chứng khoán hiện nay, vẫn đang tiếp tục
diễn ra tình trạng công khai và nô nức đấu giá mua cổ phiếu của cả
những công ty trên thực tế đã bị phá sản vì trình trạng tài chính âm,
không thể trả nợ, hoặc của những công ty, quỹ đầu tư thậm chí mới
có quyết định thành lập, chưa hề triển khai hoạt động trên thực tế…

- Lựa chọn không đúng cơ cấu chứng khoán đầu tư
Nhà đầu tư chứng khoán cũng có thể chịu rủi ro do “bỏ hết
trứng vào một giỏ”. Thậm chí, việc sở hữu thuần túy các cổ phiếu
ưu đãi mà không được chuyển nhượng trong thời hạn nhất định
(thường từ 3-5 năm) cũng có thể khiến nhà đầu tư gặp rủi ro, nhất
là khi cần tiền để trả lãi vay ngân hàng hoặc muốn rút vốn về để
đầu tư vào chỗ khác.

- Sự cạnh tranh khốc liệt và biến động khôn lường của thị
trường
Ngay cả những chứng khoán tốt nhất cũng có thể không giữ
vững được vị thế lâu dài trước sự biến động của thị trường. Điều
này cũng đồng nghĩa với việc các nhà đầu tư chứng khoán này có
thể phải hứng chịu cả hai thiệt hại dạng “khấu hao hữu hình” và
“khấu hao vô hình” giá trị và tính thanh khoản của các chứng khoán
đang nắm giữ.
3.Rủi ro từ thông tin
Thật hiếm có hoạt động kinh doanh nào mà sự thành bại của
nhà đầu tư lại đòi hỏi và gắn liền với yêu cầu về tính đa dạng, tính
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hệ thống, toàn diện, cập nhật và chính xác của các thông tin có liên
quan trực tiếp và gián tiếp như đầu tư chứng khoán.

Nói cách khác, rủi ro trong kinh doanh chứng khoán có nguồn
gốc rất sâu đậm từ số lượng và chất lượng thông tin mà nhà đầu tư
cần để làm cơ sở đưa ra các quyết định đầu tư. Rủi ro luôn rình rập
ở mọi nơi và nhà đầu tư sẽ phải trả giá sớm hay muộn, đắt hay rẻ,
khi không nắm được các thông tin chính xác nhất, đầy đủ và kịp
thời nhất liên quan đến môi trường đầu tư, chất lượng chứng khoán

và tình hình thị trường...
Các hoạt động đầu cơ, tung tin đồn thất thiệt, gây nhiễu thông
tin và tự đánh bóng, thổi giá hoặc thậm chí lừa đảo và thông đồng
có tổ chức của các nhà đầu tư chuyên nghiệp đủ sức gây biến động
thị trường hòng trục lợi.

Một báo cáo tài chính hoặc cáo bạch chưa được kiểm toán,
thẩm định bởi các tổ chức độc lập, chuyên nghiệp, có uy tín và trình
độ chuyên môn cao; một thông tin đến chậm hoặc bị cắt xén, không
chính xác về hoạt động kinh doanh của công ty phát hành cổ phiếu,
về môi trường pháp lý và về các nhà đầu tư khác trên cùng “sân
chơi”, hoặc đơn giản là về tình hình thời tiết hay dịch bệnh nào đó...
đều có thể gây ra thiệt hại khôn lường cho nhà đầu tư chứng
khoán.
4.Rủi ro từ các quy định và chất lượng của sàn giao dịch, trung
tâm giao dịch và công ty chứng khoán
Vì yêu cầu đặc thù đòi hỏi bắt buộc kinh doanh chứng khoán
phải thông qua các tổ chức trung gian, môi giới, nên các nhà đầu tư
có thể phải chịu nhiều rủi ro liên quan đến các quy định, quy trình
nghiệp vụ và chất lượng dịch vụ của các tổ chức trung gian. Điển
hình là các rủi ro liên quan đến việc tổ chức khớp lệnh và phân lô
giao dịch cổ phiếu trên thị trường chứng khoán có tổ chức.
- Việc khớp lệnh định kỳ gây rủi ro cho nhà đầu tư vì họ không
thể hủy ngang lệnh đã đặt trước khi kết thúc phiên khớp lệnh, bất
chấp những biến động mới bất lợi trên thị trường, nếu họ không
muốn chịu phạt về sự thay đổi quyết định này. Khớp lệnh định kỳ có
6

×