Tiểu luận: Môn học Thị trường chứng khoán
PHẦN MỞ ĐẦU
Trải qua gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã
hội, kể từ Ðại hội VI (năm 1986), và hơn 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) đến nay, Việt Nam
đã thu được những thành tựu to lớn, hết sức quan trọng. Thực hiện đường lối đổi
mới, với mô hình kinh tế tổng quát là xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, đất nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo được
những tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Để có thể xây dựng và phát triển một nền kinh tế với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế như
ở nước ta hiện nay đòi hỏi ngày càng nhiều vốn. Bên cạnh vốn của Nhà nước cần phải huy động vốn của
dân cư trong nước và nước ngoài. Vấn đề huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn là một trong
những nhiệm vụ chiến lược quan trọng. Thực tiễn sinh động của công cuộc đổi mới ở nước ta đã chỉ ra
rằng để đáp ứng yêu cầu về vốn đặc biệt là vốn trung và dài hạn nhằm thực hiện sự nghiệp CNH- HĐH đất
nước thì việc xây dựng và phát triển TTCK ổn định ở nước ta trong giai đoạn hiện nay là rất cần thiết
Nhưng từ cuối năm 2007 đến nay, tình hình kinh tế thế giới và trong nước có
nhiều sự biến động mạnh mẽ về tỷ giá, nhiên liệu, thiên tai, dịch bệnh , đặc biết là
những biến động của thị trường tài chính do ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài
chính thế giới có nguồn gốc từ khủng hoảng tài chính ở Hoa Kỳ ( bắt đầu xảy ra
năm 2007 và chính thức bùng nổ năm 2008 sau đó lan rộng sang các nước khác
trên thế giới ) đã dẫn đến sự đổ vỡ hàng loạt hệ thống ngân hàng, tình trạng đói tín
dụng, tình trạng sụt giá chứng khoán và mất giá tiền tệ quy mô lớn ở nhiều nước
trên thế giới, …điều này thể hiện rõ nét ở thị trường tài chính thế giới nói chung và
cả châu Á nói riêng trong đó có Việt Nam. Thị trường tài chính Việt Nam cũng
chịu nhiều ảnh hưởng đặc biệt là TTCK. Trong giai đoạn này TTCK Việt Nam diễn
biến rất phức tạp. Điển hình là liên tiếp sự sụt giảm giá chứng khoán trên hai sàn
giao dịch Hà Nội và TP HCM. Chỉ số VN-Index đã chính thức phá đáy kỷ lục với
360,43 điểm vào ngày 23/10/2008 . Vn-Index chốt phiên giao dịch cuối tháng
6/2013 đạt 481,12 điểm, giảm 7,19% so với tháng trước, giảm 2,02% so với cuối
1
1
Tiểu luận: Môn học Thị trường chứng khoán
quý 1 nhưng so với cuối năm 2012 vẫn tăng 16,29%. Kết thúc phiên giao dịch
ngày 5/7, chỉ số VN-Index còn 485,66 điểm …
Việc chỉ số VN-Index biến động tăng giảm phức tạp đã gây thiệt hại không
nhỏ đến sự ổn định và phát triển chung của nền kinh tế Việt Nam. Hơn nữa, TTCK
của một nước tăng trưởng cao, bền vững là biểu hiện của nền kinh tế của quốc gia
đó phát triển thịnh vượng, ổn định, và an toàn. Cho nên để TTCK Việt Nam vượt
qua những khó khăn do khủng hoảng tài chính thế giới và phát triển toàn diện , bền
vững TTCK trong tương lai chúng ta phải nghiên cứu những vấn đề ảnh hưởng đến
sự suy giảm của TTCK để đưa ra các chính sách phát triển thích hợp trong thời
gian tới. Vì tầm quan trọng trên, cho nên việc “Phân tích những điều kiện để phát
triển một thị trường chứng khoán ổn định ở Việt Nam ” là một vấn đề hết sức cấp
thiết và bổ ích.
2
2
Tiểu luận: Môn học Thị trường chứng khoán
PHẦN II: LÝ LUẬN CHUNG
I. Những vấn đề cơ bản về thị trường chứng khoán.
1. Khái niệm và quá trình hình thành, phát triển thị trường chứng khoán.
a. Khái niệm.
Khái niệm về thị trường chứng khoán rất đa dạng và phong phú cho đến nay
chưa có một định nghĩa chung cho “thị trường chứng khoán (TTCK)”.
Theo nghiên cứu của các nhà chuyên môn thì thị trường chứng khoán có tiếng Latinh là Btursa, có nghĩa là
“cái ví đựng tiền! Còn gọi là “Sở giao dịch chứng khoán”. Đó là một thị trường có tổ chức và hoạt động có điều
khiển (The Stock Exchange- dịch ra tiếng Việt là thị trường chứng khoán, theo chữ Hán là chứng khoán giao dịch
sở, Sở là nơi chốn, còn giao dịch là hoạt động mua bán trao đổi).
Theo “Longman Dictionary of Business English-1985” thì TTCK được định nghĩa như sau: “An organized
market Where Securities are Bought Sold undiel fixed rule”. Dịch ra tiếng Việt đó là một thị trường có tổ chức là nơi
chứng khoán được mua bán tuân theo những qui tắc đã ấn định. Định nghĩa này đã đưa ra một định nghĩa nêu lên
được các loại chứng khoán (Securities) đó là cổ phiếu (Share) và trái phiếu (Bond). Chứng khoán thực ra là từ ghép
của hai từ đồng nghĩa. Chứng và khoán đều có nghĩa là bằng cứ (Evidence). Trong tiếng Anh người ta dùng từ
Secueitier có nghĩa Writen Evidence of Ownership. Từ những phân tích trên có thể hiểu một cách căn bản “chứng
khoán” là bằng chứng giấy trắng mực đen về quyền sở hữu.
Cùng với sự phát triển đổi mới của thị trường vốn, thị trường tiền tệ, sự đa dạng hoá trong đời sống kinh tế.
Thuật ngữ thị trường chứng khoán đã thoát ly định nghĩa ban đầu và có thêm những nội dung mới.
Dù có rất nhiều định nghĩa về “TTCK” nhưng mỗi định nghĩa chỉ cung cấp một khái niệm tổng quát về một
vấn đề nào đó. Vì vậy sẽ thật là thiếu sót khi ta nghiên cứu về “TTCK” mà chỉ đứng trên góc độ một định nghĩa nào
đó mà muốn hiểu được vấn đề thì phải nghiên cứu quá trình phát sinh và phát triển lâu dài của nó.
b. Lịch sử hình thành phát triển “TTCK”
Lịch sử loài người đã ra đời và tồn tại hàng ngàn năm nay. Trong đó lịch sử phát triển xã hội loài người đã
trải qua các hình thái xã hội khác nhau từ thấp đến cao. ứng với mỗi hình thái xã hội khác nhau thì có một lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất khác nhau tương ứng với chúng xã hội muốn tồn tại thì phải lao động sản xuất ra hàng
hoá, của cải vật chất phục vụ nhu cầu con người.
Trong đó thị trường chứng khoán là hình thức phát triển cao của nền sản xuất hàng hoá. Thị trường chứng
khoán nguyên thuỷ đã tồn tại hàng trăm năm nay. Vào khoảng giữa thế kỷ XI ở tại những thành phố trung tâm buôn
bán ở phương Tây, các thương gia thường tụ tập tại các quán Cafe để thương lượng việc mua bán, trao đổi các loại
hàng hoá (nông sản, khoáng sản, ngoại tệ và giá khoán động ...). Điểm đặc biệt là tại các cuộc thương lượng này, các
thương gia chỉ dùng lời nói để trao đổi với nhau, không có hàng hoá, ngoại tệ, giá khoán động sản, hay bất cứ một
loại giấy tờ nào. Những cuộc thương lượng này nhằm thống nhất với nhau, hợp đồng mua bán, trao đổi. Không biết
do sự phát triển của các thương gia hay hiệu quả của kiểu “thương lượng” này mà số lượng người tham gia ngày
3
3
Tiểu luận: Môn học Thị trường chứng khoán
càng đông lên. Đến cuối thời Trung cổ, phiên chợ riêng này trở thành một thị trường và khoảng cách các phiên chợ
ngày càng rút ngắn. Những qui ước trao đổi dần dần được tu bổ thành các qui tắc có giá trị bắt buộc đối với người
tham gia. Từ đó thị trường chứng khoán bắt đầu được hình thành.
Đến 1986 ở một số nước, các giá trị động sản đã lần lượt được yết giá trên hệ thống vi tính các (yết giá liên
tục) như vậy việc yết giá cổ phiếu, trái phiếu, không còn được tập trung nữa, không được giao dịch dưới dạng giao
miệng. Các nhà giao dịch sẽ truyền lệnh cho công ty chứng khoán của mình thông qua điểm cuối mạng vi tính.
Năm 1991, hệ thống RELIT đã tiêu chuẩn hoá tiến trình thanh toán tiền và giao dịch chứng khoán. Sau khi đã
giao dịch thương lượng trên thị trường.
+ Thành lập các thị trường biến tướng: 1986 ở Pháp lập thị trường Matif, 1987 thị trường Monep. Các thị
trường này lập ra cho các nhà quản lý hồ sơ chứng khoán phòng ngừa các rủi ro liên quan đến biến động về cổ
phiếu, tỉ lệ lãi suất, tỉ giá hối đoái. Và thị trường này cũng có mục đích tăng vốn khả duy trên thị trường giao ngay
qua khả năng kinh doanh chênh lệch giá. Và đây cũng là thị trường thực sự trong thời đại mới.
Sự hình thành của “TTCK” trên thế giới vào thế kỉ 15 và cùng với thăng trầm của lịch sử nó vẫn tồn tại đến
ngày nay. Sau nhiều năm chờ đợi và chuẩn bị vào ngày 11.7.1998. Chính phủ nước ta đã ký nghị định 18/CP ban
hành về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Và ngày đó cũng là ngày đánh dấu sự ra đời của thị trường chứng
khoán Việt Nam.
2. Vai trò TTCK trong nền kinh tế thị trường.
Với quá trình phát triển lâu dài của mình, TTCK đã cho thấy vị trí không thể thiếu của mình trong nền kinh tế
thị trường. Nó có vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế của các nước có nền kinh tế thị trường. TTCK
là kênh bổ sung nguồn vốn trung và dài hạn cho Nhà nước và các doanh nghiệp. Nó là yếu tố hạ tầng quan trọng
nhất một công cụ đem lại nhiều lợi ích. Vai trò của TTCK thì rất là nhiều nhưng nhìn chung lại thì nó có các vai trò
chủ yếu sau:
a) Tạo vốn cho nền kinh tế quốc dân.
Như ta đã thấy trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung không có khái niệm về giao lưu vốn và cũng không
có nhu cầu về tiền và vốn để đầu tư cho sản xuất. Nền kinh tế hoạt động như một cỗ máy chứng nhắc dưới sự chỉ
đạo tập trung của Nhà nước. Cơ chế phân phối bình quân theo giá cả bao cấp đã làm tê liệt chức năng của đồng tiền
phá vỡ quan hệ cung cầu và qui luật giá trị. Nền kinh tế phát triển què quặt.
Khi chuyển sang chơ chế thị trường doanh nghiệp chủ động trong sản xuất kinh doanh các vấn đề đều do thị
trường quyết định. Tạo môi trường cạnh tranh cho các doanh nghiệp. Nhu cầu giao lưu về vốn đã xuất hiện, phản
ánh qui luật cung cầu và qui lụât giá trị. Nhu cầu này bắt nguồn từ hai phía: người cần vốn và người có vốn.
Người ta ví thị trường chứng khoán, như một trung tâm thu gom mọi nguồn vốn tiết kiệm lớn nhỏ của từng
bộ phận dân cư, như một nam châm cực mạnh thu hút nguồn vốn to lớn từ nước ngoài, thu hút nguồn vốn tạm thời
nhàn rỗi từ các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính, chính phủ, tạo thành một nguồn vốn khổng lồ cho nền kinh tế
quốc dân. Đồng thời nó tạo ra cho các doanh nghiệp có vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh và thu được lợi nhuận
nhiều hơn, kích thích doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả bằng cách vừa sản xuất vừa mua bán chứng khoán.
4
4
Tiểu luận: Môn học Thị trường chứng khoán
TTCK giúp Nhà nước giải quyết các vấn đề cơ bản như ngân sách, hạ tầng cơ sở, trực tiếp cải thiện đời sống của
người tiêu dùng.
b. Thị trường chứng khoán tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sử dụng vốn kinh doanh và có hiệu
quả hơn.
Khả năng linh động tức thì của chứng phiếu là một yếu tố rất cần đối với nhà đầu tư khi đầu tư vốn.
Thị trường chứng khoán giúp doanh nghiệp sử dụng vốn linh hoạt và tối ưu. Khi một doanh nghiệp cần vốn
để mở rộng qui mô doanh nghiệp có thể phát hành các loại chứng khoán để huy động vốn. Phương thức này còn gọi
là “vay vốn qua phát hành”. Doanh nghiệp vay vốn của người có tiền tích luỹ. Những người này mong muốn đầu tư
tiền nhàn rỗi vào giá trị động sản. Doanh nghiệp phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu để người dân ghi mua, phát
hành cổ phiếu doanh nghiệp tăng vốn tự có bằng cách góp vốn, cổ phiếu. Khi phát trái phiếu doanh nghiệp đã tăng
nguồn vốn vay dân.
Ngược lại khi doanh nghiệp chưa có cơ hội sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có thể dự trữ chứng khoán
như một tài sản kinh doanh.
Mặt khác TTCK còn giúp doanh nghiệp xâm nhập lẫn nhau thông qua việc mua bán cổ phiếu việc sát nhập
mở rộng hợp đồng kinh doanh của doanh nghiệp đều được thực hiện thông qua TTCK.
Mặc dù các chứng khoán được mua bán trên thị trường như mua bán tài sản doanh nghiệp, nhưng vốn khả
dụng của nền kinh tế luôn được phát triển và duy trì. Thậm chí khi một doanh nghiệp bị phá sản nó cũng không mất
đi nó sẽ bám vào tay một cổ đông khác và cổ đông này sẽ duy trì và phát triển các HDDN.
c. Công cụ đánh giá doanh nghiệp, dự đoán tương lai.
Thị trường chứng khoán biến động rất phức tạp và nhanh chóng. Để lựa chọn phương án đầu tư thích hợp
người ta phải có phương pháp xác định cho từng tình hình cụ thể với tham vọng theo dõi sự biến động chung của giá
cả của chứng khoán người ta đã cố gắng tìm các biện pháp xác định khác nhau. Đó là lí do ra đời chỉ số thị trường
(market index) các chỉ số cung cấp thông tin về thị trường nói chung.
Sự hình thành thị trường chứng khoán của một doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán đã bao hàm sự
đánh giá thực trạng của doanh nghiệp đó. Trong hiện tại và dự đoán trong tương lai. Thị trường cổ phiếu cao hay
thấp biểu hiện mức độ đầu tư tài chính. Trạng thái kinh tế của doanh nghiệp đặc biệt là mức độ cổ tức mà các cổ
đông được hưởng và giá thặng dư của cổ phiếu thể hiện ở khả năng mang lại lợi tức và thu nhập cho doanh nghiệp
cho cổ đông của mình. Thuờng những doanh nghiệp làm ăn tốt, thì có khả năng trả lợi tức cổ phần cao và chỉ có
doanh nghiệp có quản lý tốt mới ăn lên làm ra. Tuy nhiên có những cổ phiếu cổ tức khiêm tốn vẫn có giá trị thị
trường cao. Vì đó là doanh nghiệp có nhiều triển vọng trong tương lai.
Nhìn chung thị trường chứng khoán còn vốn vào các chức năng khác như chức năng TTCK khuyến khích
dân chúng tiết kiệm và sử dụng nguồn vốn tiết kiệm vào công cuộc đầu tư. TTCK là công cụ làm giảm áp lực lạm
phát, TTCK đảm bảo tính thanh khoản cho số tiền tiết kiệm đầu tư dài hạn TTCK tạo thói quen đầu tư... nhưng ba
chức năng trên là ba chức năng quan trọng đặc biệt, dù để ý ở tầm vi mô hay vĩ mô.
5
5
Tiểu luận: Môn học Thị trường chứng khoán
3. Nguyên tắc hoạt động và điều kiện cho sự hình thành TTCK
a. Nguyên tắc hoạt động.
Sự hoạt động của TTCK là rất phức tạp, nhưng nhìn chung nó hoạt động tuân theo các nguyên tắc sau:
+ Nguyên tắc trung gian thị trường chứng khoán hoạt động không phải trực tiếp do những người muốn mua
hay bán chứng khoán thực hiện mà do người môi giới trung gian thực hiện. Đây là nguyên tắc trung gian cơ bản cho
tổ chức và hoạt động của thị trường chứng khoán.
Nguyên tắc trung gian nhằm bảo đảm các loại chứng khoán được giao dịch là chứng khoán thực và thị trường
chứng khoán hoạt động lành mạnh, đều đặn, hợp pháp và ngày càng phát triển, bảo vệ lợi ích của người đầu tư.
Trong đó có môi giới trung gian và thương gia chứng khoán.
* Nguyên tắc đấu giá: mọi việc mua bán chứng khoán đều phải tuân thủ theo nguyên tắc đấu giá. Vì vậy
không phải bạn muốn mua là mua được ngay mà nó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác. Hiện nay có ba hình thức
đấu giá cơ bản.
+ Đấu giá trực tiếp: các nhà môi giới trực tiếp gặp nhau. Thông qua một trung gian (chuyên gia chứng khoán
tại quầy giao dịch trong sân).
+ Đấu giá gián tiếp: là hình thức các môi giới không trực tiếp gặp nhau.
+ Đấu giá tự động: là hình thức đấu giá qua hệ thống Computer nối mạng giữa máy chủ và các cơ sở giao
dịch với hệ máy và công ty chủ máy khoán thành viên.
* Nguyên tắc công khai: là nguyên tắc mà tất cả các hoạt động trên thị trường chứng khoán ra công chúng
đều được công khai, như là các loại chứng khoán trên thị trường chứng khoán, tình hình tài chính. Kết quả kinh
doanh của các công ty có chứng khoán đăng ký niêm yết trên thị trường, số lượng và giá cả từng loại chứng khoán
đã mua bán đều được thông báo công khai trên thị trường và trên các phương tiện thông tin đại chúng.
b) Điều kiện cho sự hình thành TTCK
Không phải bất kì lúc nào ta muốn thành lập TTCK là có thể thành lập được ngay. Mà muốn thành lập TTCK
và hoạt động có hiệu quả thì phải đảm bảo một số những điều kiện nhất định.
* Điều kiện về cổ phần hoá có nền kinh tế ổn định rồi vấn đề tạo nguồn hàng cho thị trường. Gắn liền với
lĩnh vực này là chương trình cổ phần hoá và việc phát hành trái phiếu công ty cũng như trái phiếu chính phủ.
Để tạo môi trường cho cổ phần hoá chúng ta phải: xây dựng cơ sở dữ liệu để phân loại các doanh nghiệp Nhà
nước, trên cơ sở đó quản lý và áp dụng hình thức cổ phần hoá cho từng loại hình. Xử lý vấn đề nợ tồn đọng, trên cơ
sở nâng cao tài sản có của doanh nghiệp tạo điều kiện cho quá trình cổ phần.
Xây dựng hệ thống kế toán và đánh giá giá trị doanh nghiệp.
* Điều kiện pháp lý: thị trường chứng khoán liên quan đến vấn đề sở hữu, quan hệ vay mượn và quan hệ kinh
tế giữa chủ thể và toàn bộ đời sống kinh tế xã hội. Bởi vậy có rất nhiều văn bản pháp lý liên quan đến hoạt động của
TTCK. Do nhu cầu về vốn cao nên trong giai đoạn đầu TTCK hoạt động sẽ không có tổ chức nếu không có hệ thống
6
6
Tiểu luận: Môn học Thị trường chứng khoán
pháp lí điều chỉnh kịp thời. Vì vậy xây dựng hệ thống pháp lý là điều kiện quan trọng tạo hành lang pháp lý cho
TTCK phát triển là tiêu đề duy trì lòng tin và bảo vệ các nhà đầu tư.
Có nhiều văn bản pháp lí được xây dựng.
+ Luật /pháp lệnh nghị định về CK và TTCK.
+ Luật /nghị định về lưu giữ CK.
+ Luật/ nghị định về Uỷ ban CK quốc gia.
+ Quy định về niêm yết, giao dịch, quĩ đầu tư...
Những văn bản gián tiếp tác động đến TTCK:
+ Luật dân sự
+ Luật thương mại.
+ Luật Thuế.
+ Luật doanh nghiệp.
+ Luật đầu tư.
* Điều kiện kĩ thuật và tổ chức.
Để giúp cho hoạt động trên thị trường diễn ra trôi chảy, hiệu quả cần xây dựng một hệ thống giao dịch, hệ
thống xử lý dữ liệu, hệ thống thông tin, hệ thống thanh toán bù trừ, lưu giữ chứng khoán với mô hình và mức độ tự
động hoá thích hợp đáp ứng được khối lượng giao dịch ban đầu, mặt khác tính được xu hướng mở rộng của thị
trường và khả năng có thể nâng cấp trên cơ sở có sẵn. Bên cạnh xây dựng cơ sở hạ tầng cho TTCK cần phát triển
các tổ chức hoạt động trên thị trường.
+ Các công ty bảo hành phát hành CK.
+ Các công ty môi giới CK.
+ Các công ty giao dịch CK cho chính mình.
+ Các quĩ đầu tư.
+ Tổ chức tư vấn.
+ Nhân viên giao dịch C/I.
Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn kế toán quốc tế áp dụng thống nhất trong toàn ngành. Đồng thời phát triển các
công ty kiểm toán trong và ngoài nước đáp ứng yêu cầu thẩm định cả hai phía các tổ chức CK các tổ chức KDCK.
* Điều kiện về con người.
Nhân tố con người đóng vị trí hết sức quan trọng đối với sự thành công của TTCK. Vì đây là một ngành mới,
rủi ro cao nên phải có đội ngũ cán bộ nhanh nhậy, tinh thông nghiệp vụ và có tư cách. Vì vậy cần đào tạo cán bộ cho
TTCK, cần thực hiện trước khi thành lập TTCK khoảng ba năm các đối tượng cán bộ cần đào tạo.
+ Cán bộ quản lý giám sát thị trường, công tác tại Ủy ban chứng khoán.
7
7
Tiểu luận: Môn học Thị trường chứng khoán
+ Cán bộ quản lý, điều hành tại sở giao dịch CK và tại các hệ thống phụ trợ.
+ Nhân viên KDCK tại các công ty KDCK.
4. Ưu và nhược điểm của TTCK.
a. Những ưu điểm.
+ Thị trường chứng khoán khuyến khích dân chúng tiết kiệm và thu hút mọi nguồn vốn nhàn rỗi vào đầu tư.
Nhờ TTCK mà đại đa số dân chúng đều có thể tha gia được và công cuộc đầu tư ít ỏi của mình làm cho vốn đầu tư
sẽ sinh lời và lại làm cho kích thích ý thức tiết kiệm để đầu tư trong dân chúng.
+ Thị trường chứng khoán là phương tiện huy động vốn. Trước đây các đơn vị kinh doanh phụ thuộc lớn vào
ngân này để có vốn kinh doanh. Ngày nay các đơn vị kinh doanh cũng như Nhà nước huy động vốn trực tiếp từ các
nguồn tiết kiệm bằng cách phát hành cổ phiếu hay trái phiếu.
+ Thị trường chứng khoán là công cụ giúp Nhà nước thực hiện chương trình phát triển kinh tế xã hội về mặt
kinh tế Nhà nước vay tiền của dân là thiết thực và lành mạnh. Vì chính phủ không phải thông qua ngân hàng để phát
hành thêm tiền vào lưu thông. Tạo ra sức ép lạm phát thông qua TTCK việc phát hành trái phiếu hết sức thuận lợi.
+ TTCK là công cụ kiểm soát thu hút vốn đầu tư nước ngoài. TTCK là công cụ cho phép kiểm soát vốn
ĐTNN tốt nhất vì nó hoạt động công khai.
+ TTCK lưu động hoá mọi nguồn vốn trong nước. Một khi việc đầu tư vào doanh nghiệp là có lợi cho tầng
lớp dân từ thì qua TTCK các khoản tiết kiệm sẵn sàng từ bỏ bất động hoá, chấp nhận vào quá trình đầu tư.
+ Thị trường CK là điều kiện cho quá trình cổ phần hoá: cổ phần hoá là quá trình chuyển từ doanh nghiệp
Nhà nước sang công ty cổ phần. Đòi hỏi phải có TTCK, TTCK là cơ sở, là tiền đề vật chất cho quá trình cổ phần
hoá đi đúng trật tự pháp luật, phù hợp với tâm lý người đầu tư.
+ TTCK kích thích doanh nghiệp hoạt động đàng hoàng hơn: Nhờ TTCK các doanh nghiệp mới có thể đem
bán phát hành cổ phiếu; trái phiếu của họ mà ban quản lý TTCK chỉ chấp nhận cổ phiếu, trái phiếu hợp lệ: như kinh
doanh hợp pháp, tài chính lành mạnh... dân chúng cũng mua cổ phiếu của công ty thành đạt. Vì vậy sẽ kích thích
doanh nghiệp hoạt động đàng hoàng hơn.
b. Những nhược điểm.
Như đã nêu trên TTCK có vai trò tích cực trong huy động vốn song nó chỉ phát huy khi hoạt động tốt, đảm
bảo lành mạnh cần thiết.
Nhưng bên cạnh đó TTCK có nhiều mặt tiêu cực cần tránh để hạn chế thấp nhất những rủi ro tạo điều kiện
cho nó phát huy hết vai trò của nó.
+ Yếu tố đầu cơ: yếu tố này làm ảnh hưởng dây truyền làm cho cổ phiếu có thể tăng giá cao giả tạo, điều này
có thể dẫn đến sự khan hiếm hay thừa thãi làm cho giá cổ phiếu tăng giảm đột biến.
+ Mua bán nội gián: Đây là hiện tượng một cá nhân nào đó lợi dụng việc làm thu được những thông tin nội
bộ của một đơn vị kinh tế để mua hoặc bán cổ phiếu của đơn vị đó nhằm thu lợi cho mình, gây ảnh hưởng giá cổ
phiếu trên thị trường đó.
8
8
Tiểu luận: Môn học Thị trường chứng khoán
+ Mua bán cổ phiếu ngoài TTCK luật về TTCK cũng đã hạn chế các nhà môi giới mua bán cổ phiếu ngoài thị
trường chứng khoán, vì nếu để việc này xảy ra sẽ gây hậu quả khó lường. Vì bộ phận quản lý không hề nào biết
được việc chuyển nhượng quyền sở hữu cổ phiếu của đơn vị đó. Mọi sự mua bán ngoài có khả năng tạo áp lực cho
các nhà đầu tư khác.
PHẦN III
THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM
I/ Tính tất yếu của việc thành lập TTCK ở Việt Nam
1. Bối cảnh kinh tế Việt Nam và chủ trương đổi mới cơ chế quản lý theo cơ chế
thị trường
Trong mấy chục năm, khi nền kinh tế của nước ta đang ở trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, nền kinh
tế phát triển rất chậm, có thời gian rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng, cùng với việc lạm phát phi mã, cơ cấu kinh tế
mất cân đối lớn và đặc biệt là những khó khăn to lớn trong đời sống của nhân dân.
Từ những yếu kém của cơ chế cũ đến năm 1986, Đảng và Nhà nước đã chuyển sang cơ chế mới : cơ chế thị
trường có sự điều tiết của Nhà nước, đến nay nền kinh tế đã có những biến đổi đáng mừng và đem lại một số thành
quả quan trọng bước đầu.
Theo cơ chế mới, các hình thức được đa dạng hoá, nền kinh tế trở thành nền kinh tế hỗn hợp có nhiều thành
phần: kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể... Cùng với nó trong nông nghiệp cũng có nhiều thay đổi,
ruộng đất giờ đây đã trao cho các hộ gia đình sử dụng dài hạn. Nhờ đó mà lương thực thực phẩm không những đủ
tiêu dùng trong nước mà còn có để xuất khẩu. Cụ thể là từ năm 1989 nước ta bắt đầu xuất khẩu gạo và hiện nay
đang đứng đầu thế giới. Trong công nghiệp và dịch vụ Nhà nước đã giao quyền tự chủ kinh doanh cho doanh nghiệp
và doanh nghiệp tự chịu trách nhiệm về hoạt động sản xuất kinh doanh và kết quả kinh doanh của mình. Đặc biệt
hàng loạt cơ chế chính sách mới đã được Nhà nước ban hành tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài trong đó
có việc khuyến khích thành lập các công ty liên doanh, đưa ra bộ luật mới về đầu tư nước ngoài 12/1987. Ngoài ra
còn ban hành các pháp lệnh về ngân hàng và luật về các công ty TNHH và công ty cổ phần nhằm đẩy nhanh quá
trình chuyển sang cơ chế thị trường. Chính những thay đổi tích cực trên đã tạo nên một cơ sở để thành lập nên thị
trường chứng khoán ở Việt Nam.
Thực ra, chứng khoán đã xuất hiện từ lâu ở Việt Nam, đó là những công trái dài hạn, những trái phiếu ...
được phát hành và thường áp đặt cho công chúng mua khi Nhà nước cần vốn để làm một việc lớn nào đó. Với lãi
suất thấp giá trị đồng tiền không được bảo đảm và biện pháp hành chính thiếu hấp dẫn nên hiệu quả của chứng
khoán không cao. Khi nền kinh tế có nhiều thành phần, khu vực kinh tế tư nhân được mở rộng, luật doanh
nghiệp ra đời. Theo đó các công ty cổ phần được phát hành cổ phiếu, trái phiếuvà chúng trở thành những mặt
hàng của thị trường chứng khoán. Nếu một TTCK được thành lập việc mua bán các mặt hàng trên sẽ dễ dàng
hơn và do đó việc thu hút vốn sẽ thuận tiện hơn.
9
9
Tiểu luận: Môn học Thị trường chứng khoán
2. Môi trường tăng trưởng kinh tế và nhu cầu đòi hỏi thành lập TTCK
a- Mối quan hệ giữa đầu tư và phát triển kinh tế
Ngày nay phát triển kinh tế đã trở thành một thách thức thường xuyên đối với một quốc gia, một dân tộc.
Phát triển nhanh hay chậm trong điều kiện bùng nổ dân số không chỉ đem lại sự giàu có thịnh vượng hay nghèo nàn
lạc hậu mà còn củng cố, nâng cao hoặc làm xói mòn, hạ thấp vị trí và vai trò của một nước trong cộng đồng quốc tế.
Quy luật của phát triển là: các nguồn tiết kiệm, tích luỹ trong xã hội phải được huy động, tập trung hầu hết vào lĩnh
vực đầu tư nhanh, nhiều, đều đặn thì nền kinh tế đất nước sẽ phát triển với tốc độ cao. Bắt đầu từ tiết kiệm chuyển
sang đầu tư tạo nên sự phát triển rồi trở lại tiết kiệm được nhiều hơn, chuyển sang đầu tư lớn hơn tạo nên tốc độ phát
triển cao hơn...
b- Tiết kiệm- nguồn gốc của đầu tư
Một nền kinh tế chỉ có thể phát triển nhanh khi có đủ vốn đầu tư và tốc độ tăng của lượng vốn đầu tư hăng
năm lớn gấp ba, bốn lần tốc độ tăng của tổng sản phẩm quốc dân(GDP). Tiết kiệm là nguồn gốc sản sinh ra đầu tư.
Quy mô vốn đầu tư lớn hay nhỏ lại phụ thuộc vào hai nhân tố: qui mô tiết kiệm lớn hay nhỏ và khả năng huy động
tập trung các nguồn tiết kiệm chuyển giao vào đầu tư cao hay thấp. Nhưng qui mô của đầu tư lại phụ thuộc vào qui
mô và hiệu số giữa thu nhập và chi tiêu thì qui mô của thu nhập tăng nhanh hơn chi tiêu thì qui mô tiết kiệm tăng và
ngược lại qui mô tiết kiệm giảm. Điều này thể hiện rõ trong kinh tế vĩ mô qua công thức :
S = Yd - C
Trong đó : S là qui mô tiết kiệm
Yd là thu nhập thoả dụng
C là qui mô tiêu dùng
Trên thế giới hầu hết các nước đều xem tiết kiệm là nguồn đầu tư chính và tiết kiệm là một quốc sách. Với
việc làm này Nhật Bản đã đạt được thành công to lớn. Mỗi năm nhân dân Nhật Bản tiết kiệm 20% thu nhập của
mình dùng để đầu tư và gần 50 sau đại chiến thế giới thứ hai Nhật đã trở thành nước công nghiệp hiện đại nhất nhì
thế giới. Nguồn tiết kiệm của cả nước gọi là tổng tiết kiệm và nó bao gồm:
-
Nguồn tiết kiệm trong dân cư
-
Nguồn tiết kiệm trong các doanh nghiệp
-
Nguồn tiết kiệm của Chính Phủ
Nhưng trong ba nguồn này thì nguồn tiết kiệm trong dân cư là lớn nhất. Nó là nguồn vốn cơ bản để phát triển
đầu tư tạo lợi nhuận. Có đủ vốn đầu tư và sử dụng nó có hiệu quả sẽ dẫn tới tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Lãng phí
vốn đầu tư là loại lãng phí lớn nhất của một nền kinh tế, là hoạt động làm xói mòn hiệu quả của tiết kiệm, làm hạn
chế một phần tốc độ tăng trưởng kinh tế.
10
10
Tiểu luận: Môn học Thị trường chứng khoán
c- Vốn đầu tư trong nước, vốn đầu tư ngoài nước
Tổng nguồn vốn đầu tư do hai nguồn cung ứng là nguồn vốn trong nước và nguồn vốn ngoài nước .
Nếu sử dụng nguồn vốn trong nước thì sẽ tiết kiệm được chi phí đầu tư kiềm chế lạm phát, không bị tác đông
bởi sự biến động của thị trường vốn quốc tế, không phải trả lợi tức bằng ngoại tệ, không bị người nước ngoài bóc lột
và bị chuyển lợi nhuận bằng ngoại tệ về nước họ; toàn bộ tài sản tăng lên đều của nước mình. Tuy nhiên, nguồn vốn
ngoài nước có tác dụng nhanh chóng trong việc thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế .
3. Tình hình hoạt động TTCK ở Việt Nam hiện nay.
TTCK đã ra đời từ lâu trên thế giới nhưng ở Việt Nam đây vẫn còn là một khái niệm khá mới mẻ. Tuy nhiên
để Việt nam có thể hoà vào cùng với sự phát triển của thế giới và tạo đà thúc đẩy nền kinh tế trong nước phát triển
chúng ta phải cố gắng để xây dựng nên một TTCK. Đây là một công việc rất khó khăn đòi hỏi sự cố gắng, quyết tâm
của nhiều ban ngành cũng như của các cấp lãnh đạo. Sau ba tháng ráo ríêt chuẩn bị, một sự kiện đáng ghi nhớ và có
ý nghĩa trong đời sống kinh tế chính trị của nước ta đó là việc khai trương TTCK đầu tiên của nước ta ngày 20/ 7/
2000.
Năm 2000, chỉ với 02 công ty niêm yết khi đưa TTGDCK TP.HCM vào hoạt
động, TTCK đã có mức tăng trưởng nhanh về giá do nguồn cung hàng hóa khan
hiếm, chỉ số VN Index liên tục tăng và đạt tới đỉnh điểm là 571,04 điểm ngày
25/6/2001. Sau đó, thị trường đã liên tục sụt giảm trong suốt 3 năm sau đó, trước
khi tăng mạnh trở lại vào cuối năm 2003. Năm 2005, sau khi TTGDCK Hà Nội đi
vào hoạt động, tổng số các công ty niêm yết trên cả hai thị trường là 44 công ty với
tổng giá trị niêm yết là 4,94 nghìn tỷ đồng. Tuy nhiên, nhìn chung, giai đoạn 20002005 là giai đoạn hoạt động khá trầm của TTCK Việt Nam.
Kể từ năm 2006 đến nay, TTCK Việt Nam bắt đầu khởi sắc và đã có bước tăng
trưởng mạnh mẽ cả về số lượng công ty niêm yết lẫn doanh số giao dịch. Tính đến
cuối năm 2009, đã có 541 doanh nghiệp niêm yết cổ phiếu trên cả hai SGDCK và 4
chứng chỉ quỹ đại chúng niêm yết, với tổng giá trị niêm yết đạt 127,489 nghìn tỷ
đồng, tăng 66,5 lần so với cuối năm 2005. Tổng giá trị vốn hóa thị trường tính tại
thời điểm ngày 31/12/2009 ước đạt 620,551 ngàn tỷ đồng tương đương với gần
38% GDP cả năm 2009.
Tính đến
6 tháng đầu năm 2013, số lượng công ty niêm yết
mới tăng khoảng 7 công ty; trong khi đó có 21 công ty và 1 chứng chỉ quỹ bị hủy
niêm yết (16 công ty huỷ niêm yết bắt buộc, 3 công ty huỷ niêm yết tự nguyện, và 2
11
11
Tiểu luận: Môn học Thị trường chứng khoán
công ty chuyển sang thị trường UPCoM), đưa tổng số công ty niêm yết trên 2 sàn
khoảng 737 công ty (chưa kể 135 công ty giao dịch trên hệ thống UPCoM).
Thị trường chứng khoán đã có sự tăng trưởng không chỉ về quy mô niêm yết
mà cả về tính thanh khoản của thị trường. Nếu như năm 2005, bình quân có
667.600 cổ phiếu được giao dịch một phiên, thì năm 2006, con số này tăng lên 2,6
triệu đơn vị (tăng 3,93 lần), tiếp tục tăng lên 9,79 triệu và 18,07 triệu trong hai năm
sau đó. Tốc độ luân chuyển thị trường trong giai đoạn này liên tục tăng từ 0.43 lần
(năm 2006) lên 0.64 lần (năm 2007), 0.68 lần (năm 2008) và ước đạt 1.13 lần (năm
2009).
Giai đoạn 2006-2009 cũng chứng kiến những kỷ lục của TTCKVN. Tháng
3/2007, các chỉ số chứng khoán đạt được mức cao nhất. VNIndex đạt mức
1,170.67 điểm và HASTC-Index đạt 459.36 điểm. Trong khi đó, xét về khối lượng
giao dịch, tháng 5/2009 là tháng có khối lượng giao dịch lớn nhất, bình quân có 77
triệu cổ phiếu được giao dịch mỗi phiên, với giá trị đạt 2.270,57 tỷ đồng.
Năm 2012 thị trường chứng khoán Việt Nam đã trải qua nhiều thăng trầm,
nhưng nếu quy chiếu với tình hình kinh tế vĩ mô thì thực tế đây không phải là năm
quá tồi của TTCK Việt Nam. VN- Index có lúc sụt giảm mạnh, có khi đi ngang
nhưng tính cả năng đã tăng hơn 17% (từ mức 351 điểm ngày 30/12/2011 lên sát
413 điểm vào ngày cuối năm 2012. Tổng số vốn huy động qua TTCK năm 2012
đạt kỷ lục từ trước đến nay, với 170.000 tỷ đồng, tăng hơn 40% so với năm 2011.
Trong đó, lượng vốn huy động qua kênh trái phiếu, đặc biệt là trái phiếu chính phủ
đạt 160.000 tỷ đồng, tăng gần gấp đôi so với năm 2011; 6 tháng đầu năm 2013
tổng mức huy động trên thị trường chứng khoán thông qua phát hành cổ phiếu, đấu
giá cổ phần hóa và đấu thầu trái phiếu chính phủ đạt 114.840 tỷ đồng (tăng 37%
so với cùng kỳ năm 2012). Tuy nhiên, huy động vốn qua phát hành cổ phiếu giảm
mạnh, chỉ đạt 2.344 tỷ đồng (giảm 58% so với cùng kỳ năm ngoái); đấu giá cổ
phần hoá đạt 420 tỷ đồng (tăng 75% so với cùng kỳ); Tổ chức được 110 đợt đấu
12
12
Tiểu luận: Môn học Thị trường chứng khoán
thầu TPCP với tổng giá trị trúng thầu đạt trên 112.000 tỷ đồng (chiếm 67% so với
tổng khối lượng trúng thầu cả năm 2012).
Mặc dù đã có những bước phát triển nhảy vọt so với năm 2000 nhưng thị
trường giao dịch cổ phiếu còn nhiều biến động và hạn chế về tính thanh khoản đặc
biệt khi thị trường có dấu hiệu suy giảm. Bên cạnh đó, hàng hóa niêm yết trên
TTCK chưa đa dạng, chất lượng chưa cao, chưa đáp ứng nhu cầu đầu tư và phòng
ngừa rủi ro của nhà đầu tư. Các dịch vụ tiện ích cho nhà đầu tư trên thị trường còn
nghèo nàn, mặt khác do bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước vẫn còn bộc lộ
nhiều khó khăn, nên TTCK trong năm 2013 còn đối mặt với không ít thách thức.
Tuy nhiên, nếu việc giải quyết 3 thách thức lớn nhất hiện tại là: nợ xấu ngân hàng,
hàng tồn kho và đóng băng tín dụng đạt được những kết quả lớn trong năm 2013 thì
đó là một động lực đáng kể tác động tích cực lên TTCK
4. Những thuận lợi và khó khăn của TTCK Việt Nam
a. Những thuận lợi
Năm 1986 đánh dấu sự thay đổi căn bản trong đường lối đổi mới của Chính phủ nhằm chuyển nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Cuộc cải cách đã và đang kéo theo
hàng loạt những thay đổi tích cực tạo nên tiền đề để hình thành một thị trường tài chính ở Việt Nam.
Điều hết sức quan trọng là Nhà nước đã khẳng định sự đa dạng hoá các hình thức sở hữu. Cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần cho phép giải phóng mọi năng lực sản xuất kinh doanh, huy động tối đa và có hiệu quả các năng
lực cho công cuộc phát triển đất nước.
Những thành tựu kinh tế đáng khích lệ trong mấy năm qua khá khả quan, lạm phát được giảm xuống còn
17,2% năm 1992 và 5,2% năm 1993, ổn định kinh tế đi đôi với tăng trưởng, đầu tư nước ngoài lên tới gần 15 tỷ đô
la... thì ý tưởng hình thành một thị trường chứng khoán ở Việt Nam là có thể khả thi trong một tương lai gần .
Nền kinh tế thị trường đang thay đổi dần thói quen và nếp nghĩ của dân chúng trong việc sử dụng vốn tích
luỹ của mình.
Là nước có nền kinh tế phát triển sau nên Việt Nam có thuận lợi là tiếp thu được khoa học tiên tiến của thế
giới, có thời cơ và điều kiện để rút ra kinh nghiệm bổ sung những khiếm khuyết của mô hình thị trường chứng
khoán các nước.
Những điều kiện thuận lợi trên đây là những tiền đề để có thể chuẩn bị ra đời một thị trường chứng khoán ở
nước ta. Chính vì vậy, từ năm 1990 trong pháp lệnh ngân hàng (điều 32 và điều 49) Chính phủ đã cho phép ngân
hàng phối hợp với Bộ Tài chính tổ chức và thực hiện một số nghiệp vụ về thị trường chứng khoán. Tháng 8/1992
Chính phủ ra văn bản số 4396-KTĐN chỉ rõ “Để chuẩn bị việc cho ra đời thị trường chứng khoán ở Việt Nam mà
13
13
Tiểu luận: Môn học Thị trường chứng khoán
hiện nay đã xuất hiện một số tiền đề, các nội dung cần thiết từ vấn đề pháp quy, tổ chức bộ máy điều hành, địa điểm
triển khai và các bước triển khai “ .
b. Những khó khăn
Nền kinh tế chưa thật ổn định, hiệu quả của nền kinh tế còn thấp, tỷ lệ tích luỹ đầu tư còn nhỏ. Năng suất lao
động thấp, chất lượng của nhiều sản phẩm còn kém sức cạnh tranh, thị trường tiêu thụ còn hẹp.
Kỹ năng quản lý còn yếu kém, các báo cáo tài chính thường không chính
xác, bị sửa đổi bổ sung, sai sự thật… điều nay cung cấp các thông tin thiếu chính
xác và không đầy đủ tăng độ rủi ro cho nhà đầu tư.
- Các tổ chức tài chính ngân hàng trong nước còn thiếu và yếu kém về
những dịch vụ, sản phẩm dành cho các tầng lớp khác nhau trong nền kinh tế, các
ngân hàng nước ngoài bị hạn chế. Các ngân hàng có kinh nghiệm, uy tín và tiêm
lực tài chính mạnh là không nhiều.
Về môi trường pháp lý, hệ thống pháp luật của chúng ta những năm nay tuy đã được củng cố, bổ sung nhưng
thực sự còn chưa đồng bộ và kém hiệu lực , việc chấp hành luật đã có chưa nghiêm minh, nên đã kéo theo nhiều
hậu quả tiêu cực làm giảm sút lòng tin.
Đây là những khó khăn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng dẫn đến sự thành công hay thất bại của thị trường
chứng khoán.
PHẦN VI
MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHO SỰ PHÁT TRIỂN ỔN ĐỊNH TTCK Ở VIỆT NAM
Nhằm phát triển và đảm bảo TTCK Việt Nam hoạt động ổn định , tạo ra kênh huy động vốn trung và dài hạn
cho đầu tư phát triển, góp phần phát triển thị trường tài chính Việt Nam, duy trì trật tự, an toàn, mở rộng phạm vi,
tăng cường hiệu quả quản lý, giám sát thị trường, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người đầu tư, từng bước
nâng cao khả năng cạnh tranh … theo em, chúng ta cần thực hiện một số biện pháp sau:
1. Đẩy mạnh sự phát triển của thị trường cổ phiếu và trái phiếu doanh nghiệp
Trái phiếu và cổ phiếu công ty là những loại chứng khoán khá phổ biến trên thị trường đồng thời chúng
cũng được xác định là nguồn hàng chính cho thị trường. Nhưng thực tế hiện nay tiến trình cổ phần hoá còn chậm,
chất lượng kém nên phần lớn các doanh nghiệp chưa đủ điều kiện để phát hành ra công chúng đồng thời sự yếu kém
của hệ thống pháp luật cũng chưa tạo được điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát hành chứng khoán. Do đó ta
cần có một số biện pháp cụ thể nhằm thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá, nâng cao chất lượng của các công ty cổ phần
hoá:
14
- Đơn giản hoá các điều kiện phát hành, niêm yết chứng khoán cho phù hợp với điều kiện Việt Nam
14
Tiểu luận: Môn học Thị trường chứng khoán
- Đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá và nâng cao chất lượng doanh nghiệp cổ phần hoá
- Cần điều chỉnh chính sách cấp phát vốn ngân sách Nhà nước đối với các DNNN, mở rộng quyền làm chủ
tài chính doanh nghiệp
- Cần có các chính sách khuyến khích thành lập mới cho các công ty cổ phần bởi đây là loại hình công ty
cung cấp chủ lực hàng hoá chứng khoán cho thị trường.
- Có các giải pháp cho tình trạng chênh lệch cung cầu trên thị trường hiện nay.
2. Giải pháp cần thiết cho sự phát triển của thị trường trái phiếu Chính phủ
Trái phiếu chính phủ là một trong 2 loại hàng hoá chính của thị trường chứng khoán bên cạnh cổ phiếu và trái
phiếu doanh nghiệp
- Cần chuẩn hoá mọi điều kiện kỹ thuật của trái phiếu như thống nhất chủ thể phát hành là Bộ tài chính; tổ
chức phát hành nên thông qua một số tổ hợp phân phối chứng khoán, nhằm tạo ra sự thống nhất trong thời hạn đáo
hạn của trái phiếu chứ không nên trực tiếp phát hành riêng lẻ như hiện nay, qua đó dễ dàng đưa các trái phiếu vào
niêm yết tại Trung tâm giao dịch chứng khoán.
- Cần đẩy mạnh việc phát hành trái phiếu ra công chúng với nhiều loại thời hạn khác nhau: 1, 3, 5, 10, 15, 20
năm trong đó có điều khoản khuyến khích đối với các trái phiếu có thời gian đáo hạn tương đối dài (10- 20 năm)
- Mệnh giá nên phát hành đồng nhất và không nên đưa ra mệnh giá quá lớn. Cần mạnh dạn phát hành trái
phiếu công trình xây dựng cơ sở hạ tầng và các lĩnh vực thuộc kỹ thuật công nghệ cao ra thị trường vốn quốc tế.
- Cần có chính sách lãi suất hợp lý, cũng cần có chính sách miễn giảm thuế đối với trái phiếu chính phủ cũng
như trái phiếu doanh nghiệp theo từng thời điểm. Cũng cần có chính sách miễn giảm thuế đối với trái phiếu Chính
phủ đối với các nhà đầu tư có tổ chức (hiện tại thuế thu nhập từ trái phiếu đối với các cá nhân đã được miễn).
3. Đẩy mạnh công tác đổi mới doanh nghiệp Nhà nước và thành lập mới các công ty cổ phần
- Cần đẩy mạnh đổi mới cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước thông qua các biện pháp điều chỉnh cơ cấu đầu tư và
thành lập mới doanh nghiệp Nhà nước, đồng thời tiếp tục sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước hiện có phù hợp với
đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần.
- Điều chỉnh việc đầu tư thành lập mới doanh nghiệp Nhà nước theo hướng vốn ngân sách chỉ đầu tư cho
những dự án phát triển cơ sở hạ tầng, công ích và hỗ trợ một phần cho phát triển công nghệ cao. Vốn tín dụng ưu đãi
chỉ nên áp dụng cho những dự án thuộc diện được khuyến khích theo luật đầu tư trong nước. Các hoạt động thuần
tuý khác đều phải sử dụng nguồn vốn tín dụng thông thường và thông qua phát hành trái phiếu ra công chúng dưới
sự bảo lãnh của các tổ chức kinh tế có uy tín.
Mục tiêu của TTCKVN trong giai đoạn tới được đặt ra như sau:
Một là, phát triển thị trường chứng khoán phải dựa trên chuẩn mực chung của
thị trường và các thông lệ quốc tế tốt nhất, phù hợp với điều kiện thực tế và định
hướng phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, tích cực hội nhập với thị trường tài
chính khu vực và quốc tế.
15
15
Tiểu luận: Môn học Thị trường chứng khoán
Hai là, phát triển TTCK đồng bộ, toàn diện, hoạt động hiệu quả, vận hành an
toàn, lành mạnh, vừa góp phần huy động vốn cho đầu tư phát triển của xã hội vừa
tạo ra những cơ hội đầu tư sinh lợi, góp phần nâng cao mức sống và an sinh xã hội.
Ba là, phát triển TTCK nhiều cấp độ, bảo đảm chứng khoán được tổ chức
giao dịch theo nguyên tắc thị trường, có sự quản lý, giám sát của Nhà nước; bảo
đảm quyền, lợi ích hợp pháp và có chính sách khuyến khích các chủ thể tham gia
thị trường chứng khoán.
Bốn là, đa dạng hóa các sản phẩm, nghiệp vụ của thị trường, đảm bảo cho các
tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng khoán hoạt động an toàn, hiệu quả dựa trên nền
tảng quản trị rủi ro và phù hợp với các chuẩn mực chung và thông lệ quốc tế. Từng
bước tái cơ cấu hệ thống các trung gian thị trường trên nguyên tắc không gây xáo
trộn lớn và bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên thị trường.
Năm là, phát triển TTCK trong mối tương quan với việc phát triển thị trường
tiền tệ, thị trường bảo hiểm, nhằm tạo ra một hệ thống thị trường tài chính thống
nhất, đồng bộ có sự quản lý, giám sát của nhà nước. Hoạt động quản lý, giám sát,
điều hành và phát triển của các cơ quan quản lý nhà nước phải thống nhất về mục
tiêu, mục đích, định hướng và giải pháp thực hiện.
Sáu là, chủ động hội nhập thị trường tài chính quốc tế, nâng cao khả năng
cạnh tranh, từng bước thu hẹp về khoảng cách phát triển giữa TTCK Việt Nam so
với các thị trường khác trong khu vực và trên thế giới.
KẾT LUẬN
Thị trường chứng khoán là một thực thể phức tạp nhưng hết sức quan trọng trong nền kinh tế. Nó giúp giảm
bớt “phí tổn trung gian” tạo điều kiện cho người đi vay và người cho vay lựa chọn cách đầu tư sử dụng vốn một
cách hiệu quả nhất đồng thời cũng là công cụ quan trọng để Nhà nước điều tiết và phát triển nền kinh tế. Nhờ những
ưu việt vượt trội đó, TTCK được phát triển mạnh mẽ ở hầu hết các nước trên thế giới.
Nước ta nói riêng và các nước đang trong xu hướng chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế
thị trường nhu cầu vốn là rất lớn và rất khó huy động. Nhưng nhờ hoạt động phát hành chứng khoán, người lao động
16
16
Tiểu luận: Môn học Thị trường chứng khoán
cảm thấy mình thật sự là chủ nhân, cảm thấy được bình đẳng do đó họ cố gắng dốc hết sức lực và tiền của để phát
triển đơn vị, xí nghiệp của mình.
Chúng ta tin tưởng trong tương lai, với việc khắc phục những hạn chế, mở cửa thị trường , minh bạch trong
chính sách, công khai hoá thông tin…, cùng với sự hồi phục của nền kinh tế thế giới và Việt Nam,
trong chỉ đạo, điều hành thị trường
của Chính phủ, các ngành, các cấp
sự quan tâm
và Ủy ban chứng
khoán Nhà nước… thì thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ ngày càng thu hút
nhiều hơn nguồn vốn, từ đó đầu tư và góp phần đưa đất nước phát triển bền vững
hơn.
Nam Định, ngày 10 tháng 7 năm 2013
HỌC VIÊN
Trần Trung Kiên
MỤC LỤC
17
17