Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến sự hìnhthành dư luận xã hội, cho ví dụ minh họa ở từng yếu tố? Ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu dư luận xã hội đối với lĩnh vực pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.85 KB, 14 trang )

MỤC LỤC


A/ ĐẶT VẤN ĐỀ
Dư luận xã hội là hiện tượng thuộc lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội. Dư
luận xã hội đã xuất hiện và tồn tại từ lâu trong lịch sử, nó hình thành tồn tại và phát
triển cùng với quá trình vận động, phát triển của bản thân xã hội loại người. Và
trong thời kì nào thì dư luận xã hội đều có ảnh hưởng nhất định đến quá trình chính
trị – xã hội, đến việc lãnh đạo và quản lí xã hội. Và sự hình thành của dư luận xã
hội phụ thuộc vào nhiều điều kiện, nhiều yếu tố khác nhau về cả chủ quan, khách
quan về kinh tế, chính trị, pháp luật, đạo đức, văn hóa, trình độ, nhận thức, tâm lí
xã hội…Với lẽ đó, tôi chọn đề tài: “Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình
thành dư luận xã hội, cho ví dụ minh họa ở từng yếu tố? Ý nghĩa thực tiễn của việc
nghiên cứu dư luận xã hội đối với lĩnh vực pháp luật”

B/ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lý luận về dư luận xã hội.
1. Định nghĩa dư luận xã hội
Có nhiều định nghĩa khác nhau của các nhà nghiên cứu về dư luận xã hội như
C.Mác, B.K Paderin (người Nga), A.K.Uledop (người Nga), Young (người Mỹ)
hay ở nước ta, định nghĩa của Trung tâm nghiên cứu dư luận xã hội thuộc Ban tư
tưởng – Văn hóa trung ương, hay của Trung tâm xã hội học (Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh). Tuy nhiên có thể thấy rằng hầu hết các định nghĩa đều đề
cập tới một nội dung chính đó là:
“Thứ nhất, dư luận xã hội là tập hợp những ý kiến quan điểm, thái độ có tính
chất phán xét đánh giá của các nhóm xã hội, các gia cấp, các cộng đồng người
trước một thực tế xã hội thất định.
Thứ hai, sự phán xét đánh giá đó chỉ nảy sinh khi trong xã hội có những vấn
đề xã hội, những sự kiện, hiện tượng xã hội mang tính thời sự, có liên quan đến
những lợi ích chung của các nhóm xã hội, cộng đồng xã hội, hay của toàn xã hội
nói chung.


1


Thứ ba, vấn đề, sự kiện xã hội mang tính thời sự đó phải thu hút sự quan tâm,
chú ý của nhiều người, của đa số các thành viên trong xã hội.
Kết hợp vai trò, ý nghĩa thực tiễn của dư luận xã hội, theo chúng tôi, có thể định
nghĩa dư luận xã hội như sau:
Dư luận xã hội tập hợp các ý kiến, thái độ có tính chất phán xét đánh giá của
các nhóm xã hội hay của xã hội nói chung trước những vấn đề mang tính thời sự,
có liên quan đến lợi ích chung, thu hút được sự quan tâm của nhiều người và được
thể hiện trong các nhận định hoặc hành động thực tiễn của họ.”1
2. Phân biệt dư luận xã hội với tin đồn
“Khi nghiên cứu dư luận xã hội cần chú ý phân biệt dư luận xã hội với tin
đồn. Tin đồn là một hiện tượng tâm lí xã hội khác về bản chất so với dư luận xã hội
ở chỗ, tin đồn không phải là sản phẩm của tư duy phán xét của chủ thể mang nó.
Tin đồn chỉ là một tin tức về một sự việc, sự kiện hay hiện tượng có thể có
thật, không có thất hoặc chỉ một phần sự thật được lan truyền từ người này sang
người khác, chủ yếu bằng con đường truyền miệng.”2
“Tin đồn là dạng thông tin không chính thức, chưa được kiểm chứng về sự
trung thực và di đó, chủ thể của tin đồn thường không được xác định rõ ràng. Tin
đồn thường là sự bịa đặt (phao tin, đồn nhảm), trong đó quá trình lan truyền từ
người này sang người khác luôn có sự thêu dệt, hư cấu, xuyên
tạc hoặc thổi phồng một cách quá đáng. Tin đồn loang càng xa thì nội dung Tin đồn
loang càng xa thì nội dung của nó càng khác so với nội dung lúc ban đầu.
Dư luận xã hội, ngược lại, là sản phẩm của tư duy phán xét của cá nhân mang
nó. Dư luận xã hội thể hiện quan điểm, thái độ của cá nhân mang nó trước các sự
1

TS. Ngọ Văn Nhân: Tác động của dư luận xã hội đối với ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ


cấp cơ sở,2011. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, tr. 21 – 22.
2

TS. Ngọ Văn Nhân: Tác động của dư luận xã hội đối với ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ

cấp cơ sở,2011. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, tr. 22.

2


kiện, hiện tượng xã hội hay vấn đề xã hội mà cá nhân đó quan tâm. Dư luân xã hội
lúc dâuc có thể mang nhiều luồng ý kiến khác nahu nhưng khi càng lan rộng thì
càng có xu huớng thống nhất về nội dung phán xét hoặc tính tụ lại vài hướng cơ
bản.
Tin đồn có thể chuyển hóa thành dư luận xã hội khi trên cơ sở của tin đồn
người ta đưa ra những phán xét, đánh giá bày tỏ thái độ của mình; khi thông tin về
sự vật, hiện tượng được kiểm chứng và các nhóm xã hội có thể tiếp cận với nguồn
tin, trao đổi, bày tỏ ý kiến của mình thông qua con đường công khai”.3
3. Các chức năng cơ bản của dư luận xã hội
– Chức năng điều hòa các mối quan hệ xã hội.
– Chức năng giáo dục.
– Chức năng giám sát, tư vấn.
II. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành dư luận xã hội
“Sự hình thành dư luận xã hội phụ thuộc vào điều kiện, yếu tố khác nhau, cả
chủ quan, khách quan về kinh tế, chính trị, pháp luật, đạo đức, văn hóa, trình độ
nhận thức, tâm lí xã hội… Những yếu tố chính tác động đến sự hính thành dư luận
xã hội bao gồm:
1. Quy mô, cường độ, tính chất của các sự việc, sự kiện, hiện tượng xã hội,
quá trình xã hội xảy ra trong thực tế xã hội có ảnh hưởng mạnh mẽ tới sự hình
thành dư luận xã hội.

Thực tế xã hội luôn diễn ra đa dạng, phong phú và phức tạp với nhiều sự việc,
sự kiện, hiện tượng xã hội hay quá trình xã hội khác nhau. Với tư cách là một hiện
tượng xã hội, dư luận xã hội phản ánh tồn tại xã hội theo phương thức đặc thù, sự
phản ánh đó trước hết phụ thuộc vào quy mô, cường độ và tính chất của các sự
việc, sự kiện, hiện tượng xã hội mà nó phản ánh; đồng thời, phụ thuộc vào ý nghĩa,
nội dung của các sự việc, sự kiện đó đối với các nhu cầu, lợi ích về vật chất hay
tinh thần cảu cộng đồng người mang dư luận xã hội. Khuynh hướng chung trong
3

Trường Đại học Luật Hà Nội: Tập bài giảng xã hội học, 2010, NXB Công an nhân dân, Tr. 213.

3


các ý kiến và thái độ của công chúng là bày tỏ sự tán thành, ủng hộ đối với những
sự việc, sự kiện hợp với các nhu cầu, lợi ích của mình và tiến lên phê phán hay
phản đối những sự việc, sự kiện đi ngược lại, xâm hại tới những lợi ích của họ.
Trong thực tế xã hội có những sự việc, sự kiện xảy ra ban đầu chỉ ảnh hưởng
tới lợi ích của một nhóm xã hội nhất định, nhưng sự phát triển tiếp theo đã cho thấy
sự liên quan của chúng tới các nhóm xã hội khác. Trong bối cảnh đó, các nhóm xã
hội bước vào cuộc trao đổi ý kiến, thảo luận tại các thời điểm khác nhau. Bên cạnh
đó, những sự kiện, hiện tượng có ảnh hưởng mạnh mẽ, trực tiếp đến đại đa số
người dân như dịch bệnh, thiên tai, các vụ phạm tội đặc biệt nghiêm trọng… sẽ tạo
ra các luồng dư luận xã hội nhanh chóng chỉ trong một thời gian ngắn. Như vậy,
muốn nghiên cứu, tìm hiểu nguồn gốc phát sinh dư luận xã hội thì phải xuất phát từ
chính bản thân các sự việc, sự kiện, hiện tượng xảy ra trong thực tế xã hội với quy
mô, cường độ và tính chất của chúng.”4
Ví dụ: Theo thông tin từ Cục Y tế dự phòng, tính đến 11 – 2012 cả nước đã có
hơn 18.000 ca mắc bệnh tay chân miệng, trong đó có 59 ca tử vong. Do tính chất
cấp bách của sự kiện này, nó đã tạo ra một luồng dư luận lớn trong xã hội, tìm cách

nào đó để ngăn chặn sự lây lan của dịch bệnh, cũng như thảo luận các biện pháp
phòng chống căn bệnh này.
2. Sự hình thành dư luận xã hội phụ thuộc vào hệ tư tưởng, trình độ học
vấn, kiến thức, hiểu biết, kinh nghiệm thực tế của các cá nhân, các nhóm xã
hội trong xã hội
Nếu thông tin không đầy đủ thì dẫn đến khả năng tranh luận kéo dài, khó hình
thành dư luận xã hội, trình độ học vấn của con người cũng ảnh hưởng quan trọng
đến khuynh hướng, chiều sâu, tính chất phản ánh đúng hay sai của các ý kiến, các
quan điểm phán xét đánh giá đối với sự việc, sự kiện. Chẳng hạn, ở những nhóm xã
hội có trình độ học vấn cao, các cá nhân có thể dễ dàng tiếp cận thông tin, phân tích
TS. Ngọ Văn Nhân: Tác động của dư luận xã hội đối với ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ
cấp cơ sở,2011. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, tr. 97 – 98.
4

4


một cách khoa học về nội dung, bản chất, nguồn gốc, nguyên nhân của các sự vật,
sự kiện; từ đó, đưa ra các phán xét đánh giá phù hợp về sự việc, sự kiện, góp phần
hình thành những dư luận xã hội tích cực, có lợi cho cộng đồng, cho dân tộc hay
quốc gia. Ngược lại, ở những nhóm xã hội có trình độ học vấn thấp, sự hình thành
dư luận xã hội thường chậm chạp và khó khăn hơn vì họ thiếu thông tin, kiến thức
hoặc kinh nghiệm trước một vấn đề xã hội.”5
Ví dụ: Trong vụ án cướp tiệm vàng Ngọc Bích của Lê Văn Luyện đã tạo nên
dư luận hết sức sục sôi. Khi đưa ra xét xử thì mọi người dân chưa nắm rõ về pháp
luật đều cho rằng đó là tội rất rất nghiêm trọng mà mức an phù hợp nhất là tử hình
và không đồng tình với bản án mà Tòa án đưa ra là 18 năm tù. Nhưng đối với
những người hiểu biết về pháp luật thì đó là bản án rất chính xác và đúng luật vì
Luyện chưa đủ 18 tuổi để lĩnh mức án là tử hình.
3. Hoạt động của các phương tiện thông tin đại chúng.

Hoạt động của các phương tiện thông tin đại chúng bao gồm sách, báo, tạp
chí, phát thanh, truyền hình, ấn phẩm in, mạng internet… có ảnh hưởng mạnh mẽ
đến sự hình thành dư luận xã hội. Điều đó thể hiện trên cac phương diện sau:
“Thứ nhất, các phương tiện thông tin đại chúng cung cấp thông tin, truyền tải
kịp thời và nhanh chóng thông tin về nọi mặt, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội tới
đông đảo các tầng lớp của đời sống xã hội. Việc đáp ứng sở thích và nhu cầu thông
tin cảu công chúng được coi là một trong những tiền đề cơ bản cho sự phát triển
của hệ thống truyền thông đại chúng. Trên phương diện này, hệ thống truyền thông
thông tin đại chúng ở đất nước ta đã có những bước tiến nổi bật trong những năm
đổi mới. Các chương trình phát thanh, truyền hình, xuất bản phim đã trở nên đa
dạng hơn, phong phú hơn, cập nhật hơn với các thông tin về đời sống chính trị,
kinh tế,văn hóa, xã hội của đất nước; sự phản ánh nội dung các thông tin cũng chân
thực và khách quan hơn. Trong số các thông tin thu nhập được, có những thông tin
TS. Ngọ Văn Nhân: Tác động của dư luận xã hội đối với ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ
cấp cơ sở,2011. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, tr. 98 – 99.
5

5


liên quan đến lợi ích của các nhóm xã hội, của cộng đồng xã hội nói chung, thu hút
được sự quan tâm của họ, từ đó nảy sinh dư luận xã hội. Nói cách khác, những
thông tin mà các phương tiện thông tin đại chúng cung cấp là một trong những
nguồn sống quan trọng của dư luận xã hội. “Dư luận xã hội là sản phẩm của
truyền thông”.
Thứ hai, các phương tiện thông tin đại chúng là diễn đàn ngôn luận công khai
dành cho công chúng. Ngày nay trình độ dân trí của người dân ngày càng được
nâng cao. Các tầng lớp nhân dân cũng ngày càng tham gia rộng rãi hơn vào đời
sống chính trị – xã hội của đất nước. Trong bối cảnh đó các phương tiện thông tin
đại chúng có trách nhiệm truyền tải thông tin về các ý kiến, thái độ của công chúng

đối với các sự kiện, hiện tượng diễn ra trong đời sống xã hội. “Dư luận xã hội
chính là hơi thở của cuộc sống mà các phương tiện thông tin đại chúng không thể
bỏ qua”. Bằng cách công chúng sẽ có được cơ hội tham gia ngày càng tích cực và
có trách nhiệm hơn vào quá trình chuẩn bị, thực hiện, giám sát và đánh giá các chủ
trương, và chính sách của Đảng và Nhà nước cũng như các hoạt động cụ thể,
thường xuyên của các cấp chính quyền.
Thứ ba, các phương tiện thông tin đại chúng định hướng và điều chỉnh sự hình
thành, phát triển của dư luận xã hội sao cho phù hợp với lợi ích của quốc gia, dân
tộc, cộng đồng. Hệ thống truyền thông đại chúng cần dành một phần đích đáng cho
việc đăng tải các thông tin đã được kiểm chứng chính thức và mang tính định
hướng xây dựng. Đặc biệt khi các sự việc, sự kiện diễn ra có tầm quan trọng và liên
quan đến lợi ích của đất nước, của dân tộc, đụng chạm đến các giá trị, chuẩn mực
xã hội cơ bản…, khi đó, định hướng thông tin phải phản ánh kịp thời quan điểm
của Đảng, của Nhà nước, ý kiến chính thức của các cơ quan chức năng và phản ánh
được sự phán xét, đánh giá chung của dư luận xã hội.”
Ví dụ: Vừa qua, theo nguồn thông tin đại chúng, mọi người dân biết được vụ
Triều Tiên sẽ có vụ bắn tên lửa Unha – 3 vào ngày 13/04/2012. Căn thẳng lên cao
khi nhiều nước gây sức ép đòi Bình Nhuỡng ngừng kế hoạch này nhưng Triều Tiên
6


vẩn cương quyết thực hiện cùng và tạo nên làn sóng dư luận lớn và gây lo sợ cho
nhiều người dân và cho nhiều quốc gia trên thế giới.
4. Những nhân tố thuộc về tâm lý xã hội cũng có ảnh hưởng nhất định tới
sự hình thành dư luận xã hội.
Trạng thái tâm lý xã hội thường biểu hiện ở nhiều nhân tố như thói quen, nếp
sống, ý chí, tâm trạng hay tình cảm của một nhóm xã hội, một cộng đồng người.
Chúng được hình thành do ảnh hưởng trực tiếp của các điều kiện sống, lao động,
sinh hoạt hằng ngày hoặc do tác động của công tác tuyên truyền, giáo dục. Tùy
từng thời điểm nhất định, tâm trạng của con người có thể được thể hiện ở các trạng

thái: hưng phấn – ức chế; tích cực – tiêu cực; lạc quan – bi quan; hy vọng – thất
vọng… Nếu con người ta có tâm trạng phấn chấn, hồ hởi thì nội dung các phán xét
đánh giá về một sự kiện, hiện tượng xảy ra sẽ có những khía cạnh khác với khi con
người đang ở trong tâm trạng chán nản, bi quan, thất vọng. Thường khi phấn chấn,
lạc quan thì thấy nhiều thuận lợi hơn, ít thấy khó khăn và ngược lại. Những nếp
nghĩ, bảo thủ cũng có thể ảnh hưởng tới sự hình thành dư luận xã hội nếu không có
sự định hướng đúng đắn.”6
Ví dụ: Sống thử là một dư luận nóng trong xã hội hiện nay. Tuy nhiên, đối với
tâm lý những bậc phụ huynh thì đó là một chuyện tày trời, không thể chấp nhận
những con người như thế. Nhưng đối với tâm lý của một bộ phận giới trẻ hiện nay
thì đó là một chuyện bìh thường, và sống thử để pít có hợp nhau hay không trước
quyết định kết hôn hay là chia tay. Thực sự, sống thử nó không phù hợp cho cuộc
sống của con người phương Đông.
5. Mức độ dân chủ hóa đời sống xã hội.
Khả năng và sự tham gia thực tế của người dân vào các sinh hoạt chính trị –
xã hội của đất nước có ảnh hưởng rất quan trọng tới sự hình thành của dư luận xã
TS. Ngọ Văn Nhân: Tác động của dư luận xã hội đối với ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ
cấp cơ sở,2011. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, tr. 99 – 102.
6

7


hội. Trong điều kiện xã hội có sự thực hành dân chủ rộng rãi, có thông tin đa dạng,
phong phú thì mọi người sẵn sàng thẳng thắn, cởi mở, bộc lộ các ý kiến, quan điểm
của mình, tham gia bàn bạc các vấn đề chung; khi đó, dư luận xã hội có điều kiện
hình thành nhanh chóng, thuận lợi. Ngược lại, trong điều kiện xã hội thiếu dân chủ,
thông tin nghèo nàn, thậm chí bị cắt xén, xuyên tạc thì dư luận xã hội thường hình
thành khó khăn, chậm chạp. Dưới các chế độ độc tài, phát xít, mọi quyền dân chủ
bị thủ tiêu, dư luận xã hội càng khó hình thành và phát huy tác dụng, khi đó nó

thường biểu hiện dưới hình thức biểu tượng, hò, vè, tiếu lâm, châm biếm.”7
Ví dụ: Ở vùng sâu, vùng xa cập nhật thông tin kém, dư luận xã hội khó được
nắm bắt và có thể khi tới nơi dư luận đã được bóp méo gây ảnh hưởng tới tâm lý
người dân, nhưng ngược lại ở thành phố, đô thị dư luận được cập nhật nhanh chóng
người dân có cơ hội hơn để bàn bạc và đưa ra ý kiến của mình…
6. Các phong tục, tập quán, hệ thống các giá trị chuẩn mực xã hội hiện
hành.
Trong chừng mực nhất định, cũng tác động tới sự hình thành dư luận xã hội.
Về cơ bản, các phong tục, tập quán, các giá trị, chuẩn mực xã hội hiện hành tạo ra
những “khuôn mẫu tư duy”, “khuôn mẫu hành động” làm cơ sở cho các phán xét
đánh giá của dư luận xã hội về các sự kiện, hiện tượng, quá trình đang diễn ra trong
xã hội. Sự phán xét, đánh giá của dư luận xã hội về bất lỳ sự kiện, hiện tượng xã
hội hay quá trình xã hội nào cũng phụ thuộc vào hệ thống giá trị, chuẩn mực xã hội
đang tồn tại trong nên văn hóa của cộng đồng xã hội, của dân tộc. Ngay trong cùng
một xã hội, các nhóm xã hội có thể đưa ra các phán xét, đánh giá khác nhau về
cùng một vấm đề. Điều này thể hiện rõ nét qua sự nhìn nhận khác nhau giữa các thế

7

TS. Ngọ Văn Nhân: Tác động của dư luận xã hội đối với ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ

cấp cơ sở,2011. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, tr. 102.

8


hệ đối với những biểu hiện của lối sống hiện đại như cách ăn mặc, các sản phẩm ca
nhạc và phim ảnh; cách sinh hoạt, vui chơi, giải trí…”8
Ví dụ: Với phong tục, tập quán của con người Việt Nam, tà áo dài là một nét
đẹp, nét văn hóa của con người Việt, tuy nhiên một số vụ việc gần đây khi hoa hậu

mắc những chiếc áo dài trong suốt đã gây ảnh hưởng tới nét đẹp tà áo dài Việt cũng
như con người Việt. Và đã tạo nên nguồn dư luận không tốt ảnh hưởng tới thuần
phong mỹ tục của người Việt Nam, đồng thời lên án những con người đã đánh mất
đi nét đẹp truyền thống của con người Việt Nam.
III. Ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu dư luận xã hội đối với lĩnh vực
pháp luật.
1. Đối với hoạt động xây dựng pháp luật
“Dư luận xã hội có vai trò và tác động quan trọng đến nhiều lĩnh vực khác
nhau của đời sống xã hội, như kinh tế, chính trị, đạo đức, pháp luật, văn hóa, giáo
dục…, trong đó số đó, phải kể đến sự tác động, ảnh hưởng của dư luận xã hội đối
với hoạt động xây dựng pháp luật và nó có vai trò, ý nghĩa rất lớn đối với pháp luật
và được thể hiện ở các phương diện:
Thứ nhất, dư luận xã hội là sự thể hiện lợi ích chung thông qua tiếng nói
chung của nhân dân, nên nó là điều kiện cần thiết để các tầng lớp nhân dân phát
huy quyền làm chủ, mở rộng nền dân chủ xã hội, tích cực tham gia vào hoạt động
xây dựng pháp luật. Hiến pháp của Nhà nước ta đã khẳng định nguyên tắc quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân, đồng thời, thiết lập cơ chế bảo đảm sao cho việc
thực thi quyền lực nhà nước phục vụ cho lợi ích nhân dân và luôn nằm dưới sự
kiểm soát của nhân dân. Dưới chế độ ta, nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước
thông qua hai hình thức cơ bản là dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Dân chủ
trực tiếp là hình thức nhân dân trực tiếp thể hiện ý chí và nguyện vọng của mình.
8

TS. Ngọ Văn Nhân: Tác động của dư luận xã hội đối với ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ

cấp cơ sở,2011. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, tr. 102 – 103.

9



Đây là hình thức hữu hiệu tạo cho nhân dân, với tính cách là chủ thể tối cao và duy
nhất của quyền lực nhà nước, khả năng tham gia tích cực và chủ động vào các hoạt
động của Nhà nước, trong đó có hoạt động xây dựng pháp luật. Dân chủ đại diện là
hình thức cơ bản mà thông qua đó, nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước, vân
hành theo quy định của Hiến pháp. Theo cơ chế này nhân dân bầu ra cơ quan đại
diện. Cơ quan đại diện trực tiếp nhận quyền lực từ nhân dân nên được gọi là cơ
quan quyền lực nhà nước, trong đó Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất, Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở đại phương.
Thứ hai, dư luận xã hội là nguồn thông tin có phản hồi có ý nghĩa rất quan
trọng và thiết thực đối với quá trình xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật và
văn bản quy phạm pháp luật dưới luật, đối với việc ban hành các quyết định của các
cá nhân, nhà chức trách có thẩm quyền. Để có được các văn bản pháp luật sát thực
tế, các văn bản quyết định quản lý hành chính nhà nước đúng đắn, có tính khả thi
cao, trước khi xây dựng, soạn thỏa các dự án luật hay ban hành các quyết định, các
cơ quan lập pháp, cơ quan quản lý phải nắm bắt được thực trạng tư tưởng, tâm lý
của các đối tượng xã hội mà văn bản pháp luật, quyết định nhằm vào. Mọi chủ
trương chính sách pháp luật khó có thể trở thành hiện thực nếu không hợp lòng dân,
không được nhân dân ủng hộ. Khi đã có các dự án luật, các thông tin phản hồi lại
càng quan trọng. Mọi vướng mắc, lệch lạc trong quá trình triển khai thực hiện các
văn bản pháp luật, do nhiều yếu tố khó lường trước, đều được bộc lộ qua dư luận xã
hội. Dư luận xã hội là một trong những cơ sở thông tin phản hồi giúp các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền đưa ra các văn bản, quyết định phù hợp với lòng dân. Dư
luận xã hội có tác dụng phát hiện những thiếu hụt, những khe hở trong các văn bản
quy phạm pháp luật, giúp cho Nhà nước có biện pháp sửa đổi, bổ sung và điều
chỉnh một cách kịp thời các văn bản pháp luật còn khiếm khuyết, tháo gỡ những
vướng mắc, khó khăn phát sinh trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật.

10



Thứ ba, dư luận xã hội không mang tính pháp lý, nhưng nó lại có sức mạnh rất
to lớn trong việc định hướng và điều chỉnh hành vi, hoạt động của các thành viên
trong xã hội. Trong hoạt động xây dựng pháp luật, các cá nhân, nhà chức trách có
thẩn quyền, với tư cách chủ thể xây dựng pháp luật, cần phải biết lắng nghe dư luận
xã hội một cách nghiêm túc và phân tích nó một cách khoa học đẻ có thể rút ra
được những kết luận chính xác về thực trạng của những lĩnh vực quan hệ xã hội
đang cần có pháp luật điều chỉnh. Nhờ đó, Nhà nước có thể ban hành pháp luật một
cách kịp thời, đồng bộ và hiệu quả; tác động đúng phạm vi, đúng đối tượng cần
điều chỉnh; góp phần tăng cường vai trò và hiệu lực của công tác quản lý xã hội
bằng pháp luật.”9
2. Đối với hoạt động thực hiện pháp luật
Bên cạnh đó, dư luận xã hội có tác động mạnh mẽ tới hoạt động thực hiện
pháp luật. “Dư luận xã hội gắn liền với ý chí của cộng đồng, của các nhóm xã hội
nên nó có tác động mạnh mẽ đến suy nghĩ và hành động của các cá nhân. Trong
một chừng mực nhất định, người ta có thể không sợ sự trừng phạt củ pháp luật khi
thực hiện những hành vi sai trái, phạm pháp; nhưng lại rất sợ sự phê phán, lên án
của dư luận xã hội – một thứ “luật bất thành văn”. Trong xã hội có nền dân chủ
rộng rãi, dư luận xã hội được coi là phương tiện kiểm tra xã hội đối với ý thức pháp
luật và hành vi pháp luật của mỗi người. Dưới áp lực của dư luận xã hội, mỗi người
luôn phải xem xét, suy nghĩ, kiểm định trước khi thực hiện một hành vi pháp luật
nào đó. Những câu hỏi luôn phải được mỗi người đặt ra, như hành vi đó đúng hay
sai? Có phù hợp với chuẩn mực pháp luật hiện hành không? Nếu thực hiện thì có
được dư luận xã hội ủng hộ, đồng tình hay sẽ bị dư luận xã hội lên án? Nhờ đó, ý
thức tôn trọng, tuân thủ pháp luật trong mỗi chủ thể cũng được nâng lên một
bước.”10

9
10

TS. Ngọ Văn Nhân: Xã hội học pháp luật,2012. NXB Hồng Đức, tr. 293-295

TS. Ngọ Văn Nhân: Xã hội học pháp luật,2012. NXB Hồng Đức, tr. 330-331

11


3. Đối với hoạt động áp dụng pháp luật
“Một trong những chức năng cơ bản của dư luận xã hội là chức năng giám sát.
Chức năng giám sát, tư vấn của dư luận xã hội được thể hiện rõ nét nhất khi đối
tượng phán xét của dư luận xã hội là các hoạt động của cơ quan nhà nước, của
chính quyền các cấp, trong đó có hoạt động của các cơ quan thực thi và bảo vệ
pháp luật. Mọi hoạt động của các cá nhân, cơ quan có thẩm quyền áp dụng pháp
luật đều bi đặt dưới “ống kính”, “tầm ngắm” của dư luận xã hội; bằng cách đó, nó
gây áp lực lên hoạt động áp dụng pháp luật. Áp lực mà dư luận xã hội tạo ra khiến
cho họ luôn phải chú trọng đến chất lượng, hiệu quả của hoạt động áp dụng pháp
luật.
Dư luận xã hội thường lên tiếng tố cáo, tố giác những hành vi phạm tội, giúp
cơ quan chức năng một cách tích cực trong công tác điều tra, phá án. Dư luận xã
hội bày tỏ sự đồng tình với những bản cáo trạng, những bản án đúng người, đúng
tội, có lý, có tình; đồng thời phản đối hững bản án chư phù hợp với tội danh. Qua
đó nó góp phần tăng cường hiệu quả của hoạt động xét xử và tăng cường bảo vệ
pháp luật. Việc dư luận xã hội phê phán, lên án mạnh mẽ các hành vi phạm pháp,
phạm tội cũng sẽ khiến cho bản thân các cán bộ, công chức tham gia hoạt động áp
dụng pháp luật phải luôn có ý thức điều chỉnh hành vi và hoạt động chuyên môn
của mình đáp ứng mong đợi của dư luận xã hội.”11

C/ KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Dư luận xã hội đã hình thành và phát triển cùng với quá trình vận động, phát
triển của bản thân xã hội loại người. Nó có sức lan tỏa và ảnh hưởng rất lớn đối với
cuộc sống của con người trong xã hội. Khi nghiên cứ về dư luận xã hội thì nó có
ảnh hưởng rất lớn đói với nhiều lình vực như kinh tế, chính trị, văn hóa, pháp luật,

giáo dục… và phải kể đến ảnh hưởng sâu sắc của dư luận xã hội đối với pháp luật
trong quá trình xây dựng pháp luật, thực hiện pháp luật và áp dụng pháp luật.
11

TS. Ngọ Văn Nhân: Xã hội học pháp luật,2012. NXB Hồng Đức, tr. 372 – 373

12


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Tập bài giảng xã hội học, 2010, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB

Công an nhân dân.
2.

Xã hội học pháp luật, 2012, TS. Ngọ Văn Nhân, NXB Hồng Đức.

3.

Tác động của dư luận xã hội đối với ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ

cấp cơ sở, 2011, TS. Ngọ Văn Nhân, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật.

13




×