Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Phân tích các chức năng cơ bản của dư luận xã hội? Tác dụng của dư luận xã hội đối với lĩnh vực pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.44 KB, 11 trang )

I.

MỞ ĐẨU
Dư luận xã hội là hiện tượng thuộc lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội.
Xuất hiện và tồn tại từ lâu trong lịch sử, dư luận xã hội phát triển cùng với quá
trình vận động, phát triển của bản thân xã hội loài người. Với những chức năng
nhất định của mình, dư luận xã hội ảnh hưởng tới nhiều mặt của xã hội, trong đó
pháp luật. Vậy dư luận xã hội có những chức năng gì? Tác dụng của nó đối với
pháp luật ra sao? Để trả lời những câu hỏi đó, trong bài tập lớn học kì môn xã hội
học của mình, em đã chọn đề tài số 08: “Phân tích các chức năng cơ bản của dư
luận xã hội? Tác dụng của dư luận xã hội đối với lĩnh vực pháp luật”
II.
NỘI DUNG
1. Khái niệm dư luận xã hội
1.1 Định nghĩa
Dư luận xã hội là tập hợp các ý kiến, thái độ có tính chất nhận xét, đánh giá
của các nhóm xã hội hay của xã hội nói chung trước những vấn đề mang tính thời
sự, có liên quan tới những lợi ích chung, thu hút được sự quan tâm của nhiều người
và được thể hiện trong các nhận định hoặc hành động thực tiễn của họ.
1.2 Đối tượng của dư luận xã hội
Đối tượng của dư luận xã hội không phải là mọi thực tế xã hội nói chung, mà
chỉ là những vấn đề được xã hội quan tâm tới, ví nó có liên quan tới các nhu cầu,
lợi ích về vật chất, tinh thần của họ. Chỉ có các sự kiện, hiện tượng xã hội có tính
thời sự, cập nhật trình độ hiểu biết của công cúng được công chúng quan tâm mới
có khả năng trở thành đối tượng của dư luận xã hội. Ví dụ như vấn để về giá cả thị
trường, thiên tai, vấn đề kinh tế, phòng chống dịch bệnh, an toàn và vệ sinh thực
phẩm.
Như vậy dư luận xã hội chỉ nảy sinh khi có những vấn đề có ý ngĩa xã hội
đụng chạm đến lợi ích của cả cộng đồng, có tầm quan trọng cấp bách, đòi hỏi phải
có ý kiến phán xét, đánh giá hoặc când phải đề xuất phương hướng giải quyết cụ
thể. Đó có thể là vấn đề về chính trị, kinh tế, pháp luật, xã hội, văn hóa hay đạo


đức.
2. Chức năng của dư luận xã hội
2.1. Chức năng điều hòa các mối quan hệ xã hội
1


Đây là chức năng có ý nghĩa hết sức quan trọng. Bản thân khái niệm điều hòa
các mối quan hệ xã hội cho phép chúng ta hiểu được về những tác động trực tiếp
hay gián tiếp đến quan hệ giữa các nhóm trong xã hội nhằm đạt được những hoạt
động chung và sự chia sẻ, thừa nhận của các nhóm xã hội. Khi đã hình thành, ư
luận xã hội biểu thị thái độ, quan niệm, cảm xúc, ý chí tập thể của đại đa số người
trong cộng đồng, do đó nó có sức mạnh to lớn. Trong lịch sử xã hội loài người, dư
luận xã hội đã đóng vai trò điều hòa các mối quan hệ xã hội ngay cả khi trong xã
hội chưa có sự phân hóa giai cấp, chưa xuất hiện nhà nước và pháp luật, nghĩa là
trong xã hội nguyên thủy. Theo quan điểm của Ăng ghen thì “ Trong chế độ xã hội
này không hề có các phượng tiện ép buộc nào khác ngoài dư luận xã hội”
Trên cơ sở các phán xét, đánh giá về các sự kiện, hiện tượng xã hội xảy ra
trong đời sống xã hội, dư luận xã hội góp phần hình thành các chuẩn mực xã hội,
chỉ ra những việc nên làm, những điều nên tránh, điều chỉnh hành vi, cách cư xử
của mọi người. Nó làm cho các phong tục, tập quán truyền thống đã hình thành
trong quá khứ phát huy được vai trò, tác dụng trong xã hội hiện đại. Dư luận xã hội
đóng vai trò là “người lính canh giữ”, bảo vệ các quyền lợi, các giá trị phổ biến của
xã hội cũng như các giá trị, lợi ích cá nhân chính đáng của con người.
Đối với đại đa số nhân dân, lợi ích quốc gia, dân tộc luôn có tầm quan trọng
hàng đầu. Mỗi khi quyền lợi, các giá trị của quốc gia, dân tộc hay của nhóm xã hội
bị xâm hại thì dư luận xã hội ngay lập tức xuất hiện với thái độ lên án cực lực, phản
đối gay gắt. Mỗi khi các cá nhân hoặc nhóm xã hội nào đó có hành vi xâm phạm
đến lợi ích quốc gia, dân tộc cũng như lợi ích đặc thù của nhóm xã hội, dư luận xã
hội cũng lập tức lên án, gây sức ép nhằm ngăn chặn hành vi đó. Nhờ sự can thiệp
kịp thời, dư luận xã hội góp phần duy trì trật tự xã hội, mối quan hệ hài hòa giữa cá

nhân và xã hội cũng như giữa các nhóm xã hội với nhau.
Ví dụ cho chức năng này của dư luận xã hội, như chúng ta được biết, trong
năm 2011, Trung Quốc đưa ra tuyên bố chủ quyền với hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa của Việt Nam với cơ sở pháp lí là “đường lưỡi bò” ôm gần trọn vùng
biển Đông. Dư luận xã hội Việt Nam cũng như một số nước Đông Nam Á đã cực
lực lên án hành động trên của Trung Quốc bởi những lí lẽ mà phía Trung Quốc đưa
ra là thiếu thuyết phục, gây ảnh hưởng đến lợi ích của Việt Nam cũng như vi phạm
nghiêm trọng Công ước luật biển 1982 mà Việt Nam và Trung Quốc đều là thành
viên. Mặc dù hiện nay vấn đề này vẫn chưa ngã ngũ và hai quốc gia Việt Nam và
2


Trung Quốc đang đàm phán để có những thỏa thuận nhất định nhưng chúng ta có
thể nhận thấy, dư luận xã hội đã có những ảnh hưởng nhất định nhằm gây sức ép
đến chính phủ Trung Quốc trước những hành vi thiếu căn cứ ấy.
2.2. Chức năng giáo dục
Dư luận xã hội khi đã hình thành thường tác động vào ý thức của con người,
chi phối ý thức cá nhân, điều chỉnh nó phù hợp với ý chí chung của cộng đồng.
Nhờ có uy tín lớn, sự khen hoặc chê, sự khuyên bảo của dư luận xã hội có ảnh
hưởng mạnh mẽ đến ý thức, hành vi của con người, nhất là thế hệ trẻ. Bằng sự khen
hoặc chê, tán thành hoặc phản đối, sự khuyên can kịp thời đối với các hành vi phù
hợp, không phù hợp với các lợi ích, giá trị xã hội, nhất là các giá trị đạo đức, dư
luận xã hội có vai trò giáo dục cho thế hệ trẻ ý thức đúng đắn về sự đúng – sai, phải
– trái, thiện – ác, đẹp – xấu.
Một mặt, dư luận xã hội có thể tác động trực tiếp nhằm phê phán, lên án những
hành vi vi phạm pháp luật, đạo đức; khuyến khích, cổ vũ những hành vi phù hợp
với lợi ích chung, biểu dương những tấm gương cao đẹp. Trong các trường hợp
này, các cá nhân hay nhóm xã hội sẽ có hành vi đáp ứng đối với thái độ, sự đánh
giá của dư luận xã hội, cụ thể là họ sẽ tự điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù
hợp với các giá trị, chuẩn mực xã hội chung

Mặt khác, dư luận xã hội có tác động lâu dài đến việc xây dựng nhân cách con
người, tức là tác động đến quá trình xã hội hóa cá nhân. Điều này biểu thị mối quan
hệ khăng khít giữa dư luận xã hội và các chuẩn mực xã hội. Sự đánh giá của dư
luận xã hội thường dựa trên những khuôn mẫu, chuẩn mực xã hội, hành vi đã có
sẵn và được thừa nhận rộng rãi trong cộng đồng xã hội. Trải qua thời gian nhất
định, các cá nhân sẽ cảm nhận nhận được những điều nên làm và không nên làm,
những hành động, cách cư cử chấp nhận được trong cuộc sống chung của họ. Như
vậy là đại đa số mọi người trong cộng đồng xã hội đều quan tâm xem dư luận xã
hội đánh giá về ý thức, hành vi của mình như thế nào. Từ đó mỗi người đều có
khuynh hướng giữ gìn, bảo vệ những nhận xét, đánh giá tốt; khắc phục, sửa chữa
các sai sót nhằm đáp ứng những đòi hòi của dư luận xã hội đối với bản thân mình.
Thời gian gần đây, dư luận xã hội đang rất bức xúc lên án những nghệ sĩ ăn
mặc phản cảm khi biểu diễn, không phù hợp với thuần phong mĩ tục của người Việt
Nam, như ca sĩ Minh Hằng trong đêm nhạc từ thiện (8/2011), ca sĩ Thủy Tiên, Thu
3


Minh, người mẫu Thái Hà… Trước những luồng dư luận xã hội gay gắt này, Bộ
Văn hòa, truyền thông và du lịch đã lên dự thảo văn bản luật để trình lên Quốc hội
trong thời gian tới, nhằm có những chế tài ngăn chặn những hành vi trên. Và cũng
từ những ý kiến của công chúng mà các nghệ sĩ đã có những lời xin lỗi cũng như sự
cẩn trọng hơn khi biểu diễn. Đây là một trong số rất nhiều ví dụ cho chức năng giáo
dục của dư luận xã hội.
2.3. Chức năng giám sát, tư vấn
Chức năng giám sát, tư vấn được thể hiện rõ nét nhất khi đối tượng của dư
luận xã hội là các hoạt động của cơ quan nhà nước, chính quyền các cấp. Trong tiến
trình dân chủ hóa đời sống xã hội, những người dân bình thường ngày càng có cơ
hội tham gia trực tiếp hay gián tiếp vào các mặt hoạt động, xây dựng và quản lí đất
nước. Người dân không chỉ bầu ra người đại diện cho quyền lợi cua rminhf tại các
cơ quan dân cử mà còn thông qua dư luận xã hội, họ đánh giá, nhận xét về các chủ

trương, chính sách của Nhà nước, hoạt động của bộ máy chính quyền. Quan đó, dư
luận xã hội thực hiện chức năng giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, các
tổ chức xã hội, gây sức ép lớn đối với tệ tham nhũng, quan lieu, tắc trách. Trong
các xã hội có nền dân chủ rộng rãi, công luận (kể cả báo chí) thường được coi là cơ
quan quyền lực thứ tư (sau các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp). Dư luận xã
hội và báo chí được coi là kẻ thù của tệ tham nhũng, quan liệu, cửa quyền vì dư
luận xã hội và báo chí lúc nào cũng sẵn sàng lên án, tố cáo các hiện tượng tiêu cực
đó. Ví dụ trong vụ cưỡng chế đất gần đây của Đoàn Văn Vươn tại xã Vinh Quang,
huyện Tiên Lãng, Hải Phòng, dư luận xã hội đã rất bức xúc trước những sai phạm
của Ông Lê Văn Hiền – Nguyên Chủ tịch UBND huyện Tiên Lãng; ông Nguyễn
Văn Khanh – Nguyên Phó chủ tịch UBND huyện Tiên Lãng; ông Phạm Đăng
Hoan, Nguyên Bí thư Đảng ủy và Lê Thanh Liêm, Nguyên Chủ tịch UBND xã
Vinh Quang. Trước những bức xúc của dư luận, thủ tướng chính phủ cũng như chủ
tịch UBND Thành phố Hải Phòng đã ra những quyết định để xử lí nghiêm những
trường hợp vi phạm của các cán bộ trên.
Trước những vấn đề nan giải, bức xúc của cộng đồng, của đất nước, dư luận
xã hội có thể đưa ra các đề nghị, khuyến cáo, các lời khuyên sáng suốt có tính chất
tư vấn nhằm giải quyết tốt các vấn đề đặt ra đó. Để phát huy được vai trò, chức
năng giám sát, tư vấn của dư luận xã hội cần phải chú ý các điểm sau:
4


- Đảm bảo tính công khai của các công việc chung của đất nước, của xã hội.
Khía cạnh này liên quan mật thiết đến các lĩnh vực như xây dựng và thông quan
Hiến pháp, các bộ luật; soạn thảo và thông qua các chính sách kinh tế - xã hội lớn;
phê phán và lên án các hành vi sai lệch, phạm pháp của cán bộ, công chức nhà
nước ở các cấp…
- Xây dựng cơ chế và hành lang pháp lí phù hợp, thuận tiện cho việc tiếp
nhận
và áp dụng các khuyến nghị, tư vấn đúng đắn của dư luận xã hội vào công tác quản

lí các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội. Có thể coi đây là bộ phận quan trọng
trong việc xây dựng quy chế dân chủ trên đất nước ta hiện nay. Bằng cách này, các
chủ trương, chính sách của Nhà nước sẽ được xây dựng và thông suốt đồng thời từ
dưới lên và từ trên xuống.
Việc áp dụng các lời khuyên có tính chất tư vấn của dư luận xã hội phải được
cân nhắc kĩ lưỡng nhằm tránh hai thái cực có thể xảy ra trong thực tế.
Một là cán bộ lãnh đạo, quản lí có thể coi thường, xem nhẹ dư luận xã hội, coi
nó là “tin tức vỉa hè”, là ý kiến không chính thức, không có giá trị đối với công việc
chung. Đó là thái độ “quay lưng lại với dư luận xã hội”. Hành động theo cách này
dễ khiến cho người dân bất bình, tạo ra tâm lí ức chế hoặc phản kháng của người
dân khi họ nhận thấy tiếng nói cùng mình không được cấp có thẩm quyền tôn
trọng.
Hai là cán bộ lãnh đạo, quản lí nhất nhất mọi việc đều làm theo sự tư vấn của
dư luận xã hội. Đây là thái độ “theo đuôi dư luận xã hội”. Hành động theo cách này
sẽ dẫn đến tình trạng trốn tránh trách nhiệm cá nhân, thiếu sự quyết đoán, các công
việc chung sẽ không có được quyết định thực hiện và chính điều này sẽ gây thiệt
hại cho lợi ích của người dân.
3. Tác dụng của dư luận đối với đới lĩnh vực pháp luật
Từ những chức năng đã phân tích trên đây, chúng ta có thể nhận thấy dư luận
xã hội có tác dụng to lớn đối với lĩnh vực pháp luật. Trong nội dung bài viết này
em sẽ đề cập khái quát tác dụng của dư luận xã hội đối với hệ tư tưởng pháp luật
và tâm lí pháp luật.
3.1. Tác dụng của dư luận xã hội đối với hệ tư tưởng pháp luật

5


Hệ tư tưởng pháp luật là tổng hợp các tư tưởng, quan điểm, quan niệm có
tính chất lý luận và khoa học về pháp luật, phản ánh về pháp luật và các hiện tượng
pháp luật một cách sâu sắc, tự giác dưới dạng các khái niệm, các phạm trù khoa

học. Hệ tư tưởng pháp luật phản ánh trình độ nhận thức cao, có tính hệ thống về
các vấn đề mang tính bản chất của pháp luật và các hiện tượng pháp luật trên lập
trường của một giai cấp nhất định. Nó là cơ sở để sáng tạo các giá trị pháp luật, phổ
biến các tư tưởng, quan điểm pháp luật tiến bộ, nhân văn trong xã hội.
Dư luận xã hội tác động trực tiếp và gián tiếp đến sự hình thành và phát triển
của hệ tư tưởng pháp luật. Với tư cách một hiện tượng xã hội, dư luận xã hội phản
ánh tồn tại xã hội nói chung, đồng thời phản ánh các sự kiện, hiện tượng pháp lý
xảy ra trong đời sống xã hội. Sự bàn luận, trao đổi ý kiến giữa các thành viên trong
xã hội về các sự kiện, hiện tượng pháp lý đưa tới kết quả là, họ đạt tới sự nhận thức
chung, thống nhất trong các phán xét, đánh giá về sự việc, sự kiện pháp lý. Ban
đầu, “chuẩn mực” chung chi phối quá trình thảo luận, bàn bạc giữa họ là những
thông tin, kiến thức, hiểu biết về pháp luật mà mỗi thành viên có được từ những
nguồn khác nhau, chủ yếu là những khái niệm cơ sở mang tính kinh nghiệm. Các ý
kiến bước đầu được đưa ra có thể khác nhau vì nhận thức pháp luật của mỗi thành
viên xã hội cũng khác nhau. Dần dần, các cuộc thảo luận đi vào chiều sâu, nội dung
các phán xét, đánh giá của dư luận xã hội thường tập trung vào những vấn đề trọng
tâm, đưa ra những nhận định phản ánh đúng đắn bản chất của các sự kiện, hiện
tượng pháp lý. Khi đã hình thành, dư luận xã hội biểu thị thái độ, quan điểm, cảm
xúc, ý chí tập thể của đại đa số người trong cộng đồng xã hội trước thực tiễn đời
sống pháp luật của xã hội, thể hiện trình độ nhận thức cao, có tính hệ thống về các
vấn đề mang tính bản chất của pháp luật và các hiện tượng pháp luật.
Như vậy, trên cơ sở của sự phán xét, đánh giá về các sự kiện, hiện tượng
pháp luật diễn ra trong đời sống xã hội, dư luận xã hội làm nảy sinh trong nhận
thức của mọi người những khái niệm cơ sở, mang tính bề ngoài, ngẫu nhiên và sau
đó là những tri thức phản ánh đúng đắn bản chất của các hiện tượng pháp lý. Từ đó,
hình thành nên các quan điểm, quan niệm, tư tưởng phản ánh những vấn đề có liên
quan đến pháp luật và các hiện tượng pháp luật một cách sâu sắc, có tính hệ thống
trong xã hội. Điều đó nói lên sự tác động mạnh mẽ của dư luận xã hội đối với quá
trình hình thành và phát triển của hệ tu tưởng pháp luật.


6


Một trong những đặc điểm cơ bản của dư luận xã hội là tính lan truyền. Dư
luận xã hội. là sản phẩm của tư duy phán xét, là sự thể hiện quan điểm, thái độ của
các cá nhân trước các hiện tượng pháp lý. Dư luận xã hội lan truyền càng rộng thì
càng có xu hướng thống nhất về nội dung các phán xét, đánh giá, càng làm cho mọi
người trong xã hội nhận thức sâu sắc hơn những vấn đề mang tính bản chất của
pháp luật và các hiện tượng pháp luật. Do đó ảnh hưởng của dư luận xã hội đối với
hệ tư tưởng pháp luật còn thể hiện ở chỗ, dư luận xã hội tham gia vào việc phổ
biến, tuyên truyền trong các tầng lớp xã hội những giá trị pháp luật, các tư tưởng,
quan điểm pháp luật.
Hệ tư tưởng pháp luật chính thống của một xã hội nhất định bao giờ cũng là
hệ tư tưởng của giai cấp thống trị. Do đó, trong mỗi học thuyết, quan điểm pháp lý
đều chứa đựng những tư tưởng về quyền lợi kinh tế, chính trị, xã hội và ý chí của
một giai cấp nhất định. Chúng nảy sinh, tồn tại phát triển hay bị thủ tiêu đều phụ
thuộc vào những điều kiện, hoàn cảnh nhất định. Khi giai cấp thống trị là lực lượng
tiến bộ trong xã hội, có lợi ích giai cấp phù hợp với lợi ích cơ bản của các lực
lượng xã hội khác thì tính dân chủ, tính khoa học và tính xã hội của hệ tư tưởng
pháp luật sẽ thể hiện nổi trội, rõ nét. Trong điều kiện như vậy, nội dung của các
nhận định, đánh giá về những sự kiện, hiện tượng pháp lý mà dư luận xã hội đưa ra
sẽ tương ứng và phù hợp với các giá trị, chuẩn mực pháp luật của hệ tư tưởng pháp
luật chính thống, nghĩa là ý chí của giai cấp cầm quyền có nhiều nét tương đồng
với dư luận xã hội của các tầng lớp nhân dân. Qua đó, dư luận xã hội có tác động
mạnh mẽ và tích cực tới sự hình thành, phát triển và phổ biến hệ tư tưởng pháp luật
trong xã hội.
Đối với đại đa số quần chúng nhân dân, lợi ích quốc gia, dân tộc luôn có tầm
quan trọng hàng đầu. Dư luận xã hội đóng vai trò là “người lính canh giữ”, bảo vệ
những quyền lợi, các giá trị phổ biến của xã hội, cũng như các giá trị, lợi ích cá
nhân chính đáng của con người. Mỗi khi quyền lợi, các giá trị của quốc gia, dân tộc

bị xâm hại thì du luận xã hội lập tức xuất hiện với thái độ lên án, phản đối gay gắt.
Mỗi khi các cá nhân hoặc nhóm xã hội nào đó có hành vi xâm phạm đến lợi ích
quốc gia, dân tộc, dư luận xã hội cũng lập tức lên án, gây sức ép nhằm ngăn chặn
hành vi đó. Chẳng hạn, những vụ phạm pháp hình sự đặc biệt nghiêm trọng, như
giết người dã man, xâm hại an ninh quốc gia… thường khiến cho dư luận xã hội hết
sức công phẫn, đòi trừng phạt nghiêm khắc kẻ phạm tội. Trong trường hợp này, nội
7


dung phản ánh các sự kiện, hiện tượng pháp lý của dư luận xã hội phù hợp với hệ
tư tưởng pháp luật tiến bộ, đang phổ biến trong xã hội, đáp ứng được lợi ích,
nguyện vọng của đông đảo các lực lượng tiến bộ trong xã hội. Điều đó cho thấy, dư
luận xã hội có tác đụng củng cố, bảo vệ tính dân chủ, tính khoa học và tính xã hội
của hệ tư tưởng pháp luật.
Khi giai cấp cầm quyền trong xã hội, vì những lý do nhất định, muốn duy trì
một hệ tư tưởng pháp luật lạc hậu, bảo thủ, thì các quan niệm, tư tưởng pháp lý của
nó chỉ nhằm phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị, đi ngược lại các giá trị dân
chủ, nhân văn trong xã hội. Trong các chế độ xã hội độc tài, phát xít, hệ tư tưởng
pháp luật của nó thường mất đi tính dân chủ, tính khoa học và tính xã hội, thông tin
pháp lý bị bưng bít, các quyền cơ bản của con người bị chà đạp, xoá bỏ. Trong các
xã hội đó, nhân dân không được công khai bày tỏ các quan điểm, ý kiến của mình,
nên ở đây thường hình thành cái gọi là “dư luận xã hội của đa số im lặng’ mà sức
mạnh của nó được ví là “sóng ở đáy sông”. Kết quả là, cùng với các cuộc đấu tranh
cách mạng, dư luận xã hội của đông đảo các lực lượng xã hội tiến bộ sẽ tạo nên
một áp lực mạnh mẽ, góp phần hình thành và phát triển hệ tư tưởng pháp luật mới,
phù hợp hơn và tiến bộ hơn.
Như vậy, có thể nói, dư luận xã hội với tư cách một hiện tượng thuộc lĩnh
vực tinh thần của đời sống xã hội luôn có tác dụng với hệ tư tưởng pháp luật. Một
mặt, thông qua quá trình trao đổi, thảo luận ý kiến giữa các nhóm xã hội về những
sự kiện, hiện tượng pháp luật diễn ra trong xã hội, dư luận xã hội góp phần làm nảy

sinh các quan điểm, quan niệm, tư tưởng phản ánh những vấn đề có liên quan đến
pháp luật và các hiện tượng pháp luật một cách sâu sắc, có tính hệ thống trong xã
hội. Mặt khác, dư luận xã hội có tác dụng phổ biến, tuyên truyền trong các tầng lớp
xã hội những giá trị pháp luật, các tư tưởng, quan điểm pháp luật tiến bộ, nhân văn.
3.2. Tác dụng của dư luận xã hội đối với tâm lý pháp luật
Tâm lý pháp luật hình thành một cách tự phát dưới dạng tình cảm, cảm xúc,
tâm trạng của các cá nhân và các nhóm xã hội đối với pháp luật, cũng như những
hiện tượng pháp lý diễn ra trong đời sống xã hội. Tâm lý pháp luật chỉ biểu hiện
cấp độ nhận thức thông thường dựa trên cơ sở tình cảm pháp luật truyền thống,
kinh nghiệm sống, tập quán và tâm lý xã hội. Tâm lý pháp luật, cũng như những
yếu tố tâm lý vốn có của con người là sự phản ánh trực tiếp các sự kiện, hiện tượng
bên ngoài có liên quan đến pháp luật. Những sự kiện, hiện tượng pháp luật đó đồng
8


thời cũng là đối tượng phản ánh của dư luận xã hội. Vì vậy, tác dụng của dư luận
xã hội với tâm lý pháp luật được thể hiện trên các phương diện sau:
Một là, dư luận xã hội có tác động mạnh mẽ tới tình cảm pháp luật. Tình cảm
pháp luật là yếu tố cơ bản của tâm lý pháp luật, thường được hình thành một cách
tự phát dưới ảnh hưởng của hoạt động giao tiếp hàng ngày của con người với môi
trường pháp lý xung quanh. Và, do là yếu tố mang tính tự phát, chịu sự chi phối của
phong tục, tập quán, kinh nghiệm sống và nếp sống của con người, nên tình cảm
pháp luật có thể được bộc lộ dưới dạng các phản ứng tích cực, cũng như tiêu cực
của mỗi người trước những sự kiện, hiện tượng pháp lý diễn ra trong thực tế. Do
vậy, tình cảm pháp luật có thể biểu hiện dưới dạng tích cực, như thái độ phản ứng
lại các hành vi vi phạm pháp luật, yêu công lý, đề cao công bằng xã hội, đề cao
trách nhiệm pháp lý… cũng có thể biểu hiện dưới dạng tiêu cực, như cổ vũ cho
hành vi phạm pháp, chống đối người thi hành .công vụ, làm ngơ trước người bị
hại… Tất cả những biểu hiện đó của tình cảm pháp luật đều là đối tượng phán xét,
đánh giá của dư luận xã hội.

Trong thực tiễn đời sống pháp luật, trước những diễn biến của một sự kiện
hay hiện tượng pháp luật, dư luận xã hội thường nảy sinh và biểu hiện ở hai xu
hướng: thứ nhất, khen ngợi, biểu dương tinh thần đấu tranh không khoan nhượng
trước các hành vi vi phạm pháp luật, ủng hộ những việc làm phù hợp với quyền và
nghĩa vụ pháp lý của công dân, thử hai, phê phán, lên án các hành vi sai trái, phạm
pháp, phạm tội. Về mặt tình cảm, không ai muốn mình trở thành đối tượng phán xét
của dư luận xã hội, không ai muốn hứng chịu sức ép của “búa rìu xã hội”. Do vậy,
mỗi cá nhân đều mong muốn có thể kiểm soát, điều chỉnh tình cảm và hành vi của
mình sao cho phù hợp với ý chí chung của cộng đồng xã hội. Với ý nghĩa đó, dư
luận xã hội tác động mạnh mẽ tới tình cảm pháp luật, góp phần định hướng cho sự
hình thành tình cảm pháp luật tích cực, đúng đắn của mỗi công dân.
Hai là, dư luận xã hội tác động tới tâm trạng của con người trước luật pháp. Tâm
trạng của con người trước luật pháp là sự thể hiện trạng thái tâm lý của các cá nhân
trước các sự kiện, hiện tượng pháp lý diễn ra trong đời sống xã hội thường ngày.
Đây là yếu tố rất linh động, dễ thay đổi của tâm lý pháp luật. Do sự tác động, ảnh
hưởng của các yếu tố, như điều kiện sống, lao động, sinh hoạt hàng ngày mà tâm
trạng của con người thường được thể hiện ra ở các trạng thái đối lập: hưng phấn –
ức chế, lạc quan – bi quan, hy vọng – thất vọng, quan tâm – thờ ơ, nhiệt tình – lãnh
9


đạm… trước thực tiễn cuộc sống. Tuỳ thuộc đang trong tâm trạng hưng phấn, nhiệt
tình, người ta dễ có những phản ứng mạnh mẽ, tích cực trước các hành vi vi phạm
pháp luật ở nơi công cộng, còn khi không tin tưởng vào sự công bằng, nghiêm
minh của pháp luật, người ta thường thờ ơ trước các sự kiện pháp lý… Những tâm
trạng đó được bộc lộ trong nội dung các phán xét, đánh giá của dư luận xã hội và
qua đó, dư luận xã hội tác động tới tâm trạng của con người trước luật pháp.
Với tư cách là sự thể hiện ý chí chung của cộng đồng xã hội, dư luận xã hội
có thể động viên, khích lệ, khơi gợi niềm tin của các thành viên trong xã hội đối với
sự công bằng, nghiêm minh của pháp luật, đưa ra những lời khuyên, tư vấn về cách

ứng xử trước một thực tiễn pháp luật nhất định. Dư luận xã hội có thể tác động, làm
nảy sinh trong mỗi người tâm trạng xúc động trước hành vi thể hiện ý thức tự giác
chấp hành pháp luật. Đây là một biểu hiện cao của lương tâm con người, hướng
con người tới ý muốn noi theo những người có thái độ tự giác chấp hành các
nguyên tặc, quy định của pháp luật, tuân theo quy luật hướng Thiện. Thông qua
việc tạo ra những “khuôn mẫu tư duy”, “khuôn mẫu hành động” cho các thành viên
trong xã hội, dư luận xã hội hướng con người theo gương người tết, việc tất trong
lĩnh vực chấp hành pháp luật. Điều đó nói lên rằng, dư luận xã hội có ảnh hưởng
tích cực tới tâm trạng của con người trước luật pháp.
Ba là, thông qua dư luận xã hội, các cá nhân tự đánh giá về hành vi ứng xử
của mình trong phạm vi điều chỉnh của các quy phạm pháp luật hiện hành. Tâm lý
pháp luật không chỉ biểu hiện ở tình cảm pháp luật, tâm trạng của con người trước
luật pháp, mà nó còn được biểu hiện ra ở việc các cá nhân tự đánh giá về hành vi
ứng xử của mình trong môi trường điều chỉnh của pháp luật. Hành vi pháp luật của
con người, trong chừng mực nhất định, chính là sự hiện thân của tình cảm pháp luật
và tâm trạng trước luật pháp của họ. Cách thức mà mỗi cá nhân tự đánh giá về hành
vi ứng xử của mình có thể biểu hiện dưới dạng cảm xúc, như tự hào, phấn khởi hay
e ngại, xấu hổ, lo lắng… Những phán xét, đánh giá (khen – chê, biểu dương – lên
án…) của dư luận xã hội đối với hành vi của các cá nhân, ở một mức độ nào đó,
đều tham gia vào việc điều chỉnh hành vi pháp luật của cá nhân. Nói cách khác, dư
luận xã hội, trong trường hợp này, là “tấm gương” để mỗi cá nhân tự soi mình vào
đó mà định hướng, điều chỉnh hành vi ứng xử của bản thân. Sức mạnh đặc trưng
của dư luận xã hội khiến cho mỗi cá nhân luôn phải suy nghĩ, xem xét trước khi
thực hiện một hành vi pháp luSật nào đó: hành vi đó đúng hay sai? phù hợp hay
10


không phù hợp với các quy định của pháp luật hiện hành? Nếu thực hiện một hành
vi nào đó thì có bị dư luận xã hội lên án hoặc phải chịu sự xử lý theo các nguyên
tắc luật định không? Điều đó cho thấy, dư luận xã hội luôn có tác động tới cách

thức mà mỗi cá nhân tự đánh giá về hành vi ứng xử của mình.
Như vậy, có thể nói, dư luận xã hội luôn có tác dụng to lớn đối với tâm lí
pháp luật. Tác dụng ấy thể hiện qua các tác động với ba phương diện. Thứ nhất, tác
động tới tình cảm pháp luật của con người, góp phần định hướng cho sự hình thành
tình cảm pháp luật của mỗi công dân. Thứ hai, tác động tới tâm trạng của con
người trước luật pháp cả theo hướng tích cực lẫn tiêu cực. Thứ ba, tác động đến sự
tự đánh giá, tự điều chỉnh hành vi ứng xử của mỗi cá nhân trong phạm vi điều
chỉnh của các quy phạm pháp luật hiện hành.
III. KẾT LUẬN
Dư luận xã hội đã phát triển từ rất lâu và việc tìm hiểu, nghiên cứu về các
chức năng nói riêng cũng như mọi mặt của dư luận xã hội nói chung giúp chúng ta
rất nhiều trong việc nghiên cứu, hoàn thiện công lãnh đạo và quản lý xã hội trên cơ
sở khoa học xã hội trên cơ sở khoa học và thực tiễn, trong đó có lĩnh vực pháp
luật, để từ đó xây dựng một đất nước trọn vẹn là của dân, do dân và vì dân./.

11



×