Tải bản đầy đủ (.doc) (121 trang)

XÂY DỰNG WEBSITE TRỰC TUYẾN NHẰM KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ HỌC SINH MÔN TIN HỌC 10 TRƯỜNG THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 121 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
------------------------------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
CHUYÊN NGÀNH: PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
Đề tài:
XÂY DỰNG WEBSITE TRỰC TUYẾN NHẰM KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ
HỌC SINH MÔN TIN HỌC 10 TRƯỜNG THPT

GV hướng dẫn: TS Trần Doãn Vinh
Sinh viên thực hiện: Đoàn Thị Thu Huyền
Lớp: K56A – CNTT – ĐHSP Hà Nội

Hà Nội – 2010


Lời cảm ơn
Bằng tấm lòng trân trọng và biết ơn sâu sắc nhất, em xin
chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình và chu đáo của Tiến
sĩ Trần Doãn Vinh trong quá trình thực hiện và hoàn thành
khoá luận tốt nghiệp này.
Em cũng xin cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong khoa
Công Nghệ Thông Tin trường Đại Học Sư phạm Hà Nội
cùng gia đình và toàn thể các bạn sinh viên lớp K56A đã
luôn ủng hộ, giúp đỡ, đóng góp ý kiến, giới thiệu tài liệu và
tạo điều kiện cho em trong suốt thời gian học tập và nghiên
cứu tại trường.
Mặc dù đã cố gắng hoàn thành khoá luận trong phạm vi
thời gian và khả năng cho phép, nhưng chắc chắn sẽ vẫn còn
nhiều thiếu sót, kính mong sự chỉ bảo tận tình và góp ý của


quý thầy cô và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 01 tháng 05 năm 2010
Sinh viên
Đoàn Thị Thu Huyền


MỤC LỤC

3 3


4 4


Phần I: MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Công nghệ thông tin (CNTT) là một trong các phương tiện quan trọng nhất của sự
phát triển, đang làm biến đổi sâu sắc đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục của thế
giới hiện đại, trong đó có Việt Nam. Công nghệ thông tin – Truyền thông (CNTT-TT) ở
nước ta ngày càng được phát triển và ứng dụng rộng rãi trong tất cả mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội. “Sự phát triển của CNTT Việt Nam là “đáng kinh ngạc” và là một mẫu hình
phát triển cần học hỏi” – Là phát biểu của rất nhiều đại biểu quốc tế tại Diễn đàn CNTT
Thế giới (WITFOR 2009) lần thứ tư diễn ra tại Hà Nội với chủ đề “CNTT-TT vì sự phát
triển bền vững”, trong đó có Ông Houlin Zhao, Phó Tổng thư ký Liên minh Viễn thông
Quốc tế (ITU). CNTT-TT đã trở thành một thành phần thiết yếu của cuộc sống, từ trong
giáo dục đào tạo, cung cấp dịch vụ y tế cho đến các hoạt động điều hành của chính phủ,
thỏa mãn nhu cầu thông tin của người dân.
Chính sự thay đổi của những điều kiện kinh tế, xã hội cùng với các tiến bộ về khoa
học công nghệ đã tạo ra một môi trường mới cho giáo dục. Môi trường mới vừa tạo điều

kiện cho việc đổi mới phương pháp, vừa bắt buộc chúng ta phải thay đổi phương pháp
giáo dục. Bởi ngày nay, kiến thức, kĩ năng CNTT là một trong những văn hóa thiết yếu mà
HS cần được trang bị cho học tập và cuộc sống. Bên cạnh đó, việc gia nhập tổ chức
thương mại quốc tế (WTO) đòi hỏi ngành giáo dục phải đào tạo những con người không
chỉ đáp ứng nhu cầu về thị trường lao động trong nước mà còn phải đáp ứng nhu cầu về
nhân lực trình độ cao của thế giới đang bước vào nền kinh tế tri thức - “công dân toàn
cầu”. Bởi nếu cứ tiếp tục cách dạy và học thụ động, giáo dục sẽ không đáp ứng được
những yêu cầu mới của xã hội. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, sự phát
triển không ngừng của khoa học công nghệ, những thách thức trước nguy cơ tụt hậu trên
con đường hòa nhập vào kỉ nguyên mới - kỉ nguyên kinh tế tri thức, xã hội thông tin bằng
cạnh tranh trí tuệ đang đòi hỏi phải đổi mới giáo dục, trong đó đòi hỏi có sự đổi mới căn
bản về phương pháp dạy và học.
Quyết định số 698/QĐ-TT ngày 01 tháng 06 năm 2009 của thủ tướng chính phủ về
Phê duyệt Kế hoạch tổng thể phát triển nguồn nhân lực CNTT đến năm 2015 và định
hướng đến năm 2020 đã chỉ rõ: Phát triển nguồn nhân lực CNTT là yếu tố then chốt có ý
nghĩa quyết định đối với việc phát triển và ứng dụng CNTT. Đẩy mạnh ứng dụng CNTT
5 5


trong giáo dục và đào tạo, hiện đại hóa, nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của hệ
thống đào tạo nhân lực CNTT, để trình độ đào tạo nhân lực CNTT của nước ta tiếp cận
trình độ và có khả năng tham gia thị trường đào tạo nhân lực CNTT quốc tế, từng bước trở
thành một trong những nước cung cấp nhân lực CNTT chất lượng cao cho các nước trong
khu vực và trên thế giới.
Chính vì vậy, trong chương trình giáo dục phổ thông, Tin học là một môn học
chính khóa. Những năm gần đây, ở cấp Tiểu học, Tin học được dạy từ lớp 3, là môn học tự
chọn, không bắt buộc. Ở cấp THCS, Tin học là môn học tự chọn, được dạy ở tất cả các lớp
của bậc học. Từ năm 2006 -2007, ở cấp THPT, Tin học là môn học chính khóa bắt buộc,
lớp 10 là 2 tiết/ 1 tuần, lớp 11 là 1,5 tiết/ 1 tuần, lớp 12 là 1,5 tiết/ 1 tuần.
Nhằm thực hiện mục tiêu đến năm 2010, 100% HS THPT được học tin học, giải

pháp được đưa ra đó là đẩy mạnh dạy tin học và ứng dụng CNTT trong trường phổ thông.
Công văn số 9886/BGDĐT-CNTT v/v Hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ CNTT năm
học 2009 – 2010 của Bộ Giáo Dục và Đào tạo ngày 11 tháng 11 năm 2009 đã chỉ rõ 16
nhiệm vụ trọng tâm, trong số đó có 3 nhiệm vụ dưới đây:
-

Đẩy mạnh một cách hợp lý việc ứng dụng CNTT trong đổi mới phương

pháp dạy và học ở từng cấp học
-

Triển khai chương trình công nghệ giáo dục và e-Learning

-

Tiếp tục triển khai dạy môn tin học trong nhà trường, cần chú ý cập nhật

chương trình, nội dung giảng dạy theo hướng modul kiến thức hiện đại, thiết thực, thay vì
dùng một bộ chương trình và sách tin học cứng.
Như vậy đổi mới PPDH là một yêu cầu cấp bách có tính chất đột phá để nâng cao
chất lượng dạy học. Đổi mới PPDH đòi hỏi phải tiến hành một cách đồng bộ đổi mới từ
nội dung chương trình sách giáo khoa, PPDH cho đến kiểm tra đánh kết quả dạy học.
Kiểm tra đánh giá có vai trò rất to lớn đến việc nâng cao chất lượng đào tạo. Kết quả của
kiểm tra đánh giá là cơ sở để điều chỉnh hoạt động dạy, hoạt động học và quản lý giáo
duc. Nếu kiểm tra đánh giá sai dẫn đến nhận định sai về chất lượng đào tạo gây tác hại to
lơn trong việc sử dụng nguồn nhân lực. Vậy đổi mới kiểm tra đánh giá trở thành nhu cầu
bức thiết của ngành giáo dục và toàn xã hội ngày nay. Kiểm tra đánh giá đúng thực tế,
chính xác và khách quan sẽ giúp người học tự tin, hăng say, nâng cao năng lực sáng tạo
trong học tập.
6 6



Bên cạnh đó, Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng, Bộ GD-ĐT cũng yêu cầu các
đơn vị đổi mới ra đề kiểm tra 15 phút, 1 tiết, học kỳ, theo hướng kiểm tra kiến thức cơ bản,
năng lực vận dụng kiến thức của người học, hạn chế lối học tủ, học vẹt, ghi nhớ máy móc.
Theo đó, các trường tăng cường đổi mới khâu kiểm tra, đánh giá thường xuyên,
định kỳ. Phối hợp có hiệu quả giữa các hình thức kiểm tra vấn đáp, tự luận và trắc nghiệm
khách quan. Trang bị cho người học kiến thức, kỹ năng đáp ứng yêu cầu đối với chương
trình của từng cấp học.
Đặc biệt, các trường phải có biện pháp quản lý tích cực, chủ động trong dạy và học,
nghiêm túc trong kiểm tra, đánh giá để phản ánh đúng chất lượng dạy và học, thực hiện
thành công nhiệm vụ năm học theo tinh thần cuộc vận động “Nói không với tiêu cực trong
thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục; nói không với vi phạm đạo đức nhà giáo và việc
ngồi nhầm lớp”.
Cùng với sự phát triển của Internet thì Website cũng được phát triển nhanh chóng.
Tại các Website, người dùng có thể tiếp nhận thông tin, tiếp thu một lượng lớn tri thức,
tương tác, đối thoại trực tiếp. Đặc biệt đối với các website giáo dục, một lượng lớn tri thức
được cung cấp và thể hiện khá phong phú. Bên cạnh đó, người học có thể tham gia vào
quá trình kiểm tra, đánh giá kiến thức của mình một cách nhanh chóng, hiệu quả và chính
xác.
“CNTT cũng sẽ làm thay đổi rất lớn việc học của chúng ta. Những người nhân viên
sẽ có khả năng cập nhật các kĩ thuật trong lĩnh vực của mình. Mọi người ở bất cứ nơi đâu
sẽ có khả năng tham gia các khóa học tốt nhất dạy bởi các GV giỏi nhất.” Bill Gates –
“Con đường phía trước”
Trong khi đó việc kiểm tra, đánh giá trong lớp cũng như các kì thi tuyển sinh bậc
THPT hiện nay nói chung hay việc kiểm tra, đánh giá HS môn Tin học 10 trong các
trường THPT nói riêng mới chỉ có thể giới hạn ở một số môn học, cũng như không thể
kiểm tra toàn diện tri thức và có nhiều hạn chế trong việc kiểm tra năng lực vận dụng tri
thức một cách sáng tạo trong các tình huống gắn với thực tiễn.
Chính vì những lí do trên chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài: “Xây dựng

website nhằm kiểm tra, đánh giá học sinh môn Tin học 10 trường THPT”, với mong
muốn góp một phần công sức vào việc nâng cao chất lượng dạy học và đổi mới phương
7 7


pháp kiểm tra, đánh giá HS trong việc học tập môn Tin học 10 trong nhà trường THPT
hiện nay, góp phần vào sự nghiệp phát triển Giáo dục – Đào tạo nước nhà.
2. Mục đích của đề tài
Xây dựng Website trực tuyến với hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan đủ tiêu
chuẩn định tính và định lượng, theo nội dung chương trình Tin học 10 nhằm góp phần
nâng cao chất lượng của việc kiểm tra, đánh giá HS trong việc học tập môn Tin học 10
trong các nhà trường THPT.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
a. Nghiên cứu lý luận
-

Lí luận dạy học

-

Lí luận dạy học môn Tin học trường THPT

b. Nghiên cứu thực tiễn
-

Chương trình, giáo trình

-

Thực trạng dạy và học môn Tin học 10 trường THPT


c. Đề xuất giải pháp
- Ứng dụng những thành tựu của CNTT vào đổi mới phương pháp giảng dạy
- Xây dựng Website trực tuyến nhằm kiểm tra, đánh giá HS môn Tin học 10
trường THPT
d. Xây dựng website nhằm kiểm tra, đánh giá HS môn Tin học 10 trường THPT
-

Tìm hiểu các công cụ để xây dựng Website

-

Xây dựng Website

4. Phương pháp nghiên cứu
Phối hợp các phương pháp:
-

Phương pháp nghiên cứu lý luận về trắc nghiệm khách quan, nghiên cứu các tài liệu

lien quan tới kiểm tra, đánh giá và PPDH Tin học 10
-

Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Tìm hiểu thực trạng dạy học và phương pháp

kiểm tra, đánh giá môn Tin học ở nhà trường THPT
-

Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Thực nghiệm nhằm xác định tính khả thi, hiệu


quả của đề tài và chất lượng của hệ thống Website trực tuyến với hệ thống câu hỏi trắc
nghiệm khách quan được nêu trong luận văn
-

Phương pháp thống kê toán học: Nhằm xử lý và phân tích kết quả thực nghiệm
8 8


5. Những đóng góp của luận văn
-

Hệ thống hóa cơ sở lí luận của việc kiểm tra, đánh giá và xây dựng Website trực

tuyến cùng bộ câu hỏi trắc nghiệm khách quan nhằm kiểm tra, đánh giá HS trong quá trình
học môn Tin học 10
-

Xác định quy trình xây dựng câu hỏi trắc nghiệm khách quan về từng loại kiến thức

trong sách giáo khoa Tin học 10
-

Xây dựng bộ câu hỏi trắc nghiệm khách quan theo nội dung chương trình Tin học

10 và được kiểm định đạt tiêu chuẩn định tính, định lượng và có độ tin cậy cao để đảm
bảo sử dụng trong dạy học Tin học 10
6. Cấu trúc luận văn
Luận văn gồm 5 chương chính như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn dạy học môn Tin học 10 trường THPT
1.


Nghiên cứu lý luận

2.

Thực tiễn quá trình kiểm tra, đánh giá môn Tin học 10 trường THPT

3.

Đề xuất giải pháp
Chương 2: Hệ thống câu hỏi trắc nghiệm trong chương trình Tin học 10 trường

THPT
1.

Nội dung chương trình Tin học 10 trường THPT

2.

Nội dung kiểm tra, đánh giá Tin học 10 trường THPT

3.

Hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan
Chương 3: Tìm hiểu về Elearning

1.

Khái niệm eLearning


2.

Một số hình thức eLearning

3.

Tình hình phát triển và ứng dụng eLearning trên thế giới và ở Việt Nam

4.

Lợi ích mà eLearning mang lại

5.

Triển vọng phát triển eLearning
Chương 4: Tìm hiểu và xây dựng Website đào tạo trực tuyến nhằm kiểm tra,

đánh giá việc học tập môn Tin học 10 của HS ở trường THPT với MOODLE
1.

Tìm hiểu về MOODLE

2.

Xây dựng website
9 9


Chương 5: Thực nghiệm sư phạm
1.


Mục đích, nội dung và đối tượng thực nghiệm

2.

Tiến hành thực nghiệm

3.

Kết quả thực nghiệm

1 10


Phần II: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN DẠY HỌC, KIỂM TRA, ĐÁNH
GIÁ MÔN TIN HỌC 10 TRƯỜNG THPT
1. Nghiên cứu lý luận
1.1.

Dạy học

Dạy học là sự truyền lại của thế hệ trước cho thế hệ sau những kinh nghiệm mà xã hội
đã sáng tạo ra và tích lũy được qua các thế hệ.
Hoạt động học là quá trình tương tác giữa cá thể với môi trường, kết quả là dẫn tới sự
biến đổi bền vững về nhận thức, thái độ hay hành vi của cá thể đó.
Dạy và học là hai mặt không thể tách rời của phương thức tồn tại và phát triển của xã
hội và cá nhân. Một mặt là sự tiếp nhận và chuyển hóa những kinh nghiệm đã có của xã
hội thành kinh nghiệm cá nhân, còn mặt kia là sự chuyển giao những kinh nghiệm của thế
hệ trước cho thế hệ sau.

PPDH là hệ thống những hành động có chủ đích, theo một trình tự nhất định của GV
và HS nhằm tổ chức hoạt động nhận thức và hoạt động thực hành của HS. Nhằm đảm bảo
cho HS lĩnh hội nội dung dạy học nhằm đạt được mục đích dạy học. PPDH bao gồm cả
hoạt động dạy của thầy và hoạt động học của trò. Đây là hai mặt của quá trình dạy học,
chúng không tách rời mà gắn bó mật thiết với nhau. Trong đó phương pháp dạy có vai trò
chủ đạo, còn phương pháp học chịu sự chỉ đạo của phương pháp dạy nhưng có tính độc lập
tương đối, vừa có tác động trở lại phương pháp dạy.
Trong trường THPT, có một số nhóm PPDH như sau:
-

Nhóm phương pháp tổ chức, thực hiện hoạt động nhận thức – học tập, bao gồm:
o Nhóm phương pháp dùng lời: Phương pháp thuyết trình, vấn đáp, đàm thoại,

o Nhóm PPDH trực quan: Phương pháp trình bày trực quan, phương pháp
quan sát, sử dụng các dụng cụ dạy học, thí nghiệm,….
o Nhóm PPDH thực hành: Phương pháp luyện tập, ôn tập, thực hành,…

-

Nhóm phương pháp kiểm tra, đánh giá, tự kiểm tra, tự đánh giá

Việc sử dụng phương pháp nào hay tổ hợp các phương pháp phụ thuộc vào nội dung
môn học, nội dung cụ thể của từng bài học, vào khả năng và sức sáng tạo của từng GV.
1 11


1.2.
-

Khái niệm kiểm tra, đánh giá


Kiểm tra:

Là quá trình GV thu thập thông tin về kết quả học tập của HS. Các thông tin này giúp
cho GV kiểm soát được quá trình dạy học, phân loại và giúp đỡ HS. Những thông tin thu
thập được so sánh với tiêu chuẩn nhất định.
-

Đánh giá:

Đánh giá kết quả học tập là quá trình thu thập và xử lý thông tin về trình độ, khả năng
thực hiện mục tiêu học tập của HS, về tác động và nguyên nhân của tình hình đó nhằm tạo
cơ sở cho những quyết định sư phạm của GV và nhà trường, cho bản thân HS để HS ngày
một học tập tiến bộ hơn. Kết quả của việc đánh giá được thể hiện chủ yếu bằng điểm số
theo thang điểm đã được quy định, ngoài việc đánh giá, thể hiện bằng lời nhận xét của GV.
Kiểm tra và đánh giá là hai quá trình có quan hệ chặt chẽ với nhau. Kiểm tra là để đánh
giá, đánh giá dựa trên cơ sở kiểm tra.
a. Đánh giá là công cụ quan trọng, chủ yếu điều chỉnh quá trịnh dạy và hoc, là động
lực để đổi mới PPDH, góp phần cải thiện, nâng cao chất lượng đào tạo con người theo
mục tiêu giáo dục
Đánh giá là một khâu quan trọng không thẻ thiếu được trong quá trình giáo dục.
Đánh giá kế quả học tập là quá trình thu thập và xử lí thông tin về trình độ, khả năng thực
hiện mục tiêu học tập của HS, về tác động và nguyên nhân của tình hình đó, nhằm tạo cơ
sở cho những quyết định sư phạm của GV và nhà trường, cho bản thân HS để HS học tập
ngày một tiến bộ hơn. Phương tiện và hình thức quan trọng của đánh giá là kiểm tra. Đổi
mới PPDH được chú trọng để đáp ứng những yêu cầu mới của mục tiêu nên việc kiểm tra,
đánh giá phải chuyển biến mạnh theo hướng phát triển trú thông minh sáng tạo của HS,
khuyến khích vận dụng linh hoạt các kiến thức kĩ năng đã học vào những tình huống thực
tế, làm bộc lộ những cảm xúc, thái độ của HS trước những vấn đề nóng hổi của đời sống
cá nhân, gia đình và cộng đồng. Chứng nào việc kiểm tra, đánh giá chưa thoát khỏi quỹ

đạo học tập thụ động thì chưa thể phát triển dạy và học tích cực.
b. Đổi mới PPDH là điều kiện quan trọng nhất để đổi mới đánh giá kết quả dạy học
Đổi mới nội dung, PPDH theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo,
tạo niềm tin, năng lực tự học cho HS thì đánh giá phải đổi mới theo hướng phát triển mọi
năng lực HS.
1 12


c. Đánh giá là một quá trình, theo một quá trình, đánh giá từng nội dung, từng bài
học, từng hoạt động giáo dục, từng môn học và đánh giá toàn diện theo mục tiêu giáo dục.
Đánh giá không chỉ ở thời điểm cuối cùng của mỗi giai đoạn giáo dục mà trong cả
quá trình. Đánh giá ở những thời điểm cuối mỗi giai đoạn sẽ trở thành khởi điểm của một
giai đoạn giáo dục tiếp theo với yêu cầu cao hơn, chất lượng mới hơn trong cả một quá
trình giáo dục.
Thống nhất với quan điểm đổi mới đánh giá như trên việc kiểm tra, đánh giá sẽ
hướng vào việc bám sát mục tiêu của từng bài, từng chương và mục tiêu giáo dục của môn
học ở từng cấp học. Các câu hỏi bài tập sẽ đo được mức độ thực hiện các mục tiêu đã được
xác định.

1 13


1.3.
-

Vị trí, vai trò, chức năng và các hình thức kiểm tra, đánh giá

Vị trí:
Kiểm tra đánh giá là một khâu quan trọng không thể thiếu được trong quá trình


giáo dục. Đánh giá thường nằm ở giai đoạn cuối cùng của một giai đoạn giáo dục và sẽ trở
thành khởi điểm của một giao đoạn giáo dục tiếp theo với yêu cầu cao hơn, chất lượng mới
hơn trong của một quá trình giáo dục.
Vị trí của kiểm tra, đánh giá trong một quá trình đào tạo được thể hiện trong sơ đồ
dưới đây:

KỸ NĂNG

MỤC TIÊU

TRÌNH ĐỘ
XUẤT PHÁT

KIẾN THỨC

KIỂM TRA
ĐÁNH GIÁ

TRÌNH ĐỘ
PHÁT TRIỂN

Hình 1.1: Vị trí của kiểm tra, đánh giá trong một quá trình đào tạo
Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của HS là một bộ phận cấu thành và là giai đoạn
cuối cùng của quá trình dạy học.

1 14


Vị trí của kiểm tra, đánh giá trong quá trình dạy học được thể hiện trong sơ đồ
dưới đây:

MỤC TIÊU

NỘI DUNG CHƯƠNG TRÌNH

PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY

PHƯƠNG TIỆN

HỌC SINH

ĐÁNH GIÁ

KIỂM TRA

Hình 1.2: Vị trí của kiểm tra, đánh giá trong quá trình dạy học
-

Vai trò:
Thông qua kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của HS, GV thu được những thông

tin ngược từ HS, phát hiện thực trạng kết quả học tập của HS cũng như những nguyên
nhân cơ bản dẫn tới thực trạng kết quả đó. Đó là cơ sở thực tế để GV điều chỉnh, hoàn
thiện hoạt động học của HS và hướng dẫn HS tự điều chỉnh, tự hoàn thiện hoạt động học
của bản thân.
Đánh giá kết quả học tập của HS là một bộ phận hợp thành rất quan trọng và tất
yếu của toàn bộ quá trình dạy học. Kết quả toàn bộ quá trình dạy học ở một mức độ quan
trọng phụ thuộc vào việc tổ chức kiểm tra và đánh giá kết quả học tập của HS một cách
đúng đắn. Công tác đánh giá trong dạy học – giáo dục là một việc làm phức tạp, bởi lẽ kết
quả cuối cùng là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố tác động.
1 15



Cụ thể:
o Đối với HS: Kiểm tra, đánh giá giúp cung cấp những thông tin “liên hệ ngược
trong”, giúp người học tự điều chỉnh hoạt động học. Qua kiểm tra, đánh giá người học tự
thấy mình đã tiếp thu những điều đã học tới mức nào, có những lỗ hổng nào cần phải bổ
khuyết trước khi bước vào một phần mới của chương trình học tập. Ngoài ra HS còn có cơ
hội thể hiện, phát triển năng lực hoạt động trí tuệ như: ghi nhớ, tái hiện, chính xác hóa,
phân tích, tổng hợp,… Kiểm tra và đánh giá còn tạo động cơ khuyến khích HS phát huy
tinh thần học tập, tự học và nâng cao ý thức tự giác, tổ chức, kỷ luật. HS sẽ so sánh kết quả
của các bạn và thi đua học tập với bạn bè, đề ra phương hướng phấn đấu, ý chí vươn lên
đạt kết quả học tập cao hơn.
o Đối với GV: Kiểm tra và đánh giá cung cấp cho GV những thông tin “liên hệ
ngược ngoài” giúp người dạy điều chỉnh hoạt động dạy. Việc kiểm tra đánh giá được tiến
hành thường xuyên, nghiêm túc cung cấp cho GV những thông tin về trình độ chung của
cả tập thể HS và giúp GV đánh giá chính xác năng lực học tập và nhận thức của từng cá
nhân HS để kịp thời có biện pháp giúp đỡ, bồi dưỡng thích hợp. Kết quả bài kiểm tra của
HS còn là cơ sở để dựa vào đó GV có thể phân loại kết quả học tập của HS trong lớp.
o Đối với các cấp quản lí: Kiểm tra đánh giá cung cấp những thông tin cơ bản về
thực trạng dạy và học để có thể có những chỉ đạo kịp thời, uốn nắn những lệch lạc, khuyến
khích và hỗ trợ những sáng kiến hay, đảm bảo thực hiện tốt mục tiêu giáo dục. Kiểm tra,
đánh giá cũng giúp cho các cơ quan quản lý đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo để cấp phát
chứng chỉ, văn bằng được chính xác và có những biện pháp quản lí giáo dục thích hợp.
-

Chức năng: Kiểm tra, đánh giá có những chức năng sau:
o Chức năng định hướng: Đánh giá nhằm phân tích các phương tiện vật chất và

định ra một kế hoạch lý tưởng về tiến trình của hành động. Đây là đánh giá chuẩn đoán
hay đánh giá dự báo.

o Chức năng điều chỉnh: Đánh giá là khâu quan trọng nhằm tác động ngược trong
thời điểm hiện thực. Đây là đánh giá uốn nắn.
o Chức năng xác nhận hay xếp loại: Đây là chức năng đánh giá tổng hợp. Khi
thực hiện chức năng này cần xác định rõ mục tiêu cuối cùng mà ta nhằm tới. Mục tiêu này
phải có ý nghĩa đối với cá nhân cũng như đối với toàn xã hội. Ngoài ra, trình độ mong
1 16


muốn phải được đánh giá trong những điều kiện xem xét càng gần điều kiện thực tế càng
tốt.
-

Các hình thức kiểm tra đánh giá
Kiểm tra, đánh giá có thể sử dụng những hình thức sau:
o Theo câu hỏi: GV có thể sử dụng câu hỏi vấn đáp để kiểm tra, đánh giá. Đây là

một hình thức kiểm tra vừa có hiệu quả vừa nhanh, linh hoạt và toàn diện.
o Kiểm tra viết theo yêu cầu của GV: Kiểm tra chủ quan này thường kiểm tra sâu
một lĩnh vực không những về kiến thức mà còn kiểm tra cả kĩ năng viết, xem có cấu trúc
chặt chẽ không, ý tứ sắp xếp có logic không, những sự kiện, thuật ngữ nêu ra có chính xác
không,…. Kiểm tra viết ổn định hơn vì có văn bản rõ ràng.
o Kiểm tra thực hành: Qua một bài tập, một tình huống HS vận dụng những kiến
thức đã học vào những công việc thực tế. Đây là mục đích cuối cùng của việc học tập và
cũng là mục đích của việc đánh giá.
2. Thực tiễn quá trình kiểm tra, đánh giá môn Tin học 10 trường THPT
2.1. Một số hạn chế trong việc kiểm tra, đánh giá nói chung
Các thầy, cô giáo trong quá trình chuẩn bị kiến thức cho HS, khi tổ chức kiểm tra, đánh
giá kết quả thông qua các bài kiểm tra thường xuyên, định kì, bài thi cần hết sức lưu ý
khắc phục dần những hạn chế
- Bài kiểm tra, bài thi chỉ đo được những kiến thức HS nhớ trong SGK, tài liệu, chưa

quan tâm chú trọng đến các kết quả học tập quan trọng khác.
- Bài kiểm tra, thi chưa thể hiện được tất cả những kiến thức mà HS đã được học trong
nhà trường. Đánh giá chủ dựa trên chỉ tiêu điểm số của HS có thể làm lệch lạc mục tiêu
đào tạo con người toàn diện.
- GV chưa thể phản hồi cụ thể, chính xác với HS vì sao các em không học tốt và bằng
cách nào các em có thể nâng cao kết quả học tập của mình, ngoài việc nhắc các em một
câu không mấy liên quan đến đánh giá là các em cần phải học tập chăm chỉ hơn.
- HS không phải lo lắng về những kết quả học tập quan trọng khác vì những kết quả
này không được kiểm tra.
- Trong nhiều trường hợp, HS phải làm quá nhiều bài kiểm tra và các em có ít cơ hội
học tập và phát triển toàn diện. Việc đánh giá bằng điểm số này được thực hiện thường
1 17


xuyên và công khai. HS được hệ thống giáo dục và gia đình theo dõi liên tục từ sáng sớm
tới tối mịt, không có thời gian và không gian riêng tư.
- HS chỉ học những gì các em sẽ kiểm tra, thi. Nếu các em biết chỉ kiểm tra một lượng
kiến thức nhất định thì các em sẽ không quan tâm đến những nội dung khác mà chúng ta
mong muốn các em học. HS được đánh giá về năng lực học tập theo điểm số GV cho. Vì
vậy, không thấy được tầm nhìn về hành vi tương lai. Điểm số chỉ là công cụ để đánh giá
mức thuộc bài, không đánh giá được con người.
2.2.

Một số hạn chế có thể có của hình thức trắc nghiệm khách quan

Hình thức trắc nghiệm khách quan có nhiều ưu điểm so với tự luận, tuy nhiên cũng có
một số khó khăn, hạn chế cần lưu ý khắc phục:
- Hình thức trắc nghiệm khách quan có thể có lợi thế với một số HS (phụ thuộc tích
cách HS)
- Khó quan tâm được nhiều đến môi trường học tập của HS

- HS khó thể hiện được tính thống nhất trong quá trình học tập
- Khó đánh giá được hết các năng lực học tập, các kỹ năng mà chỉ đánh giá được các
mảng kiến thức (nhất là với Ngoại Ngữ)
3. Đề xuất giải pháp
3.2. Định hướng đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá
Theo vụ THPT Bộ Giáo dục và Đào tạo, một số yêu cầu, nội dung cụ thể về đổi mới
đánh giá của môn Tin học bao gồm:
1. Việc kiểm tra, đánh giá bao gồm cả lí thuyết và thực hành, hình thức có thể là tự luận
hoặc trắc nghiệm, kiểm tra vấn đáp, trên giấy hoặc trên máy. Nội dung môn Tin học rất
thuận lợi cho ra đề kiểm tra trắc nghiệm. Cần tăng cường sử dụng phương pháp kiểm tra
trắc nghiệm để có thể kiểm tra phạm vi kiến thức rộng và để tiết kiệm thời gian.
2. Việc kiểm tra, đánh giá không chỉ thực hiện nhằm mục đích lấy điểm vào sổ điểm
cho HS, mà quan trọng hơn nữa là cung cấp thông tin phản hồi để điều chỉnh quá trình dạy
học giúp nâng cao hiệu quả của quá trình dạy học.
3. Đặc điểm khá đặc trưng của môn Tin học là kiến thức đi đôi với thực hành, kiểm tra
kiến thức có lẽ đã quen thuộc với nhiều GV, còn kiểm tra thực hành ở khía cạnh nào đó
còn chưa quen. Không nên lạm dụng máy vi tính trong kiểm tra. Cần phân biệt bài tập và
thực hành. Do điều kiện hạn chế về máy vi tính nên chỉ kiểm tra những kĩ năng mà không
1 18


thể kiểm tra được nếu không có máy vi tính (ví dụ nếu muốn kiểm tra kĩ năng gõ bàn phím
10 ngón). Lưu ý là có những phần kiểm tra lại không nên thực hiện trên máy vi tính, ví dụ
nếu muốn kiểm tra HS về quy tắc đặt tên tệp của hệ điều hành hoặc tên biến trong ngôn
ngữ lập trình và sử dụng trắc nghiệm đặt tên tệp đúng hoặc tên biến đúng, nếu thực hiện
trên máy vi tính HS có thể chỉ cần gõ vào máy vi tính, sau đó căn cứ vào thông báo của
máy tính để chọn đáp án mà không cần biết vì sao.
4. Tin học là môn học mới đưa vào trường phổ thông và có những đặc thù riêng như
liên quan chặt chẽ với sử dụng máy tính, cách suy nghĩ và giải quyết vấn đề theo quy trình
công nghệ, coi trọng làm việc theo nhóm…. Vì vậy có thể đánh giá HS thông qua:

-

Mức độ nắm vững kiến thức cơ bản: Có thể thực hiện thông qua bài kiểm tra bằng

trắc nghiệm hay tự luận
-

Khả năng sử dụng máy tính và ứng dụng phần mềm: Có thể thực hiện bằng bài kiểm

tra thực hành (trên máy tính hoặc trên giấy)
-

Khả năng giải quyết vấn đề thể hiện qua khả năng biết đề xuất phương hướng giải

quyết và biết lựa chọn công cụ thích hợp để giải quyết: Có thể thực hiện kiểm tra bằng
giao vấn đề, bài tập lớn.
-

Khả năng làm việc theo nhóm: Có thể giao nhiệm vụ, chủ đề, đề án nhỏ.

-

Cần lưu ý đến việc tự đánh giá hoặc HS đánh giá lẫn nhau.

5. Bắt đầu từ năm học 2006 – 2007, môn Tin học là môn học chính khóa và được dạy ở
tất cả các trường THPT. Như vậy, việc kiểm tra, đánh giá môn Tin học sẽ phải thực hiện
theo quy định chung về kiểm tra, đánh giá giống các môn học khác như Toán, văn,….
6. Bộ GD&ĐT đã có chương trình giáo dục phổ thông môn Tin học, trong đó quy định
chuẩn kiến thức, kĩ năng cho từng nội dung cụ thể. Việc kiểm tra, đánh giá kết quả học
môn Tin học ở tất cả các lớp nói chung và lớp 10 nói riêng đều căn cứ vào Chuẩn kiến

thức, kĩ năng, thái độ đã được quy định trong Chương trình. Chuẩn kiến thức, kĩ năng là cơ
sở để đảm bảo tính thống nhất về nội dung và mức độ cần đạt của HS trên toàn quốc. Đây
cũng là cơ sở pháp lí cho việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của HS.
7. Bộ GD&ĐT đã có chỉ đạo về việc chuẩn bị máy vi tính, kết nối Internet, đồng thời
cũng đã ban hành danh mục TBDH tối thiểu môn Tin học để các đơn vị trang bị phục vụ
dạy học từ năm 2006 – 2007. Do vậy, phần lớn các trường sẽ có đủ trang thiết bị ở mức tối
thiểu cho việc dạy học, kiểm tra, đánh giá cả lí thuyết và thực hành môn Tin học.
1 19


8. Trong chương trình chuẩn do Bộ GD&ĐT nêu ra, bên cạnh mức độ yêu cầu về kiến
thức, kĩ năng còn có thái độ. Mặc dù đã nêu khá cụ thể yêu cầu về thái độ, nhưng nói
chung việc kiểm tra đánh giá thái độ của HS còn gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh việc đánh
giá kết quả cuối cùng cần phải đánh giá được quá trình HS đi đến kết quả đó. Ví dụ, cũng
một kết quả là một trang văn bản như nhau nhưng HS sử dụng những công cụ thích hợp
của Word để đi đến kết quả sẽ được đánh giá tốt về tác phong làm việc hiệu quả. Hoặc
trong việc học tập theo nhóm, ngoài đánh giá kết quả của nhóm cần đánh giá việc hợp tác
giữa các thành viên trong nhóm. Có một số ý kiến cho răng khi đánh giá kết quả theo
nhóm có thể dẫn tới sự không công bằng, em làm ít cũng như em làm nhiều. Xét theo khía
cạnh nào đó thì đúng là còn có những hạn chế, tuy nhiên chúng ta đang quan tâm giáo dục
HS thói quen hợp tác làm việc, nếu không có sự hợp tác, điểm số của nhóm sẽ không thể
cao, làm như vậy HS giỏi hơn muốn có điểm cao sẽ phải giúp đỡ hợp tác với nhóm để có
kết quả cao, tránh kiêu căng, tự mãn, ngược lại HS kém hơn cũng sẽ thấy trách nhiệm của
mình cùng cố gắng hoàn thành công việc để nâng cao điểm số của bản thân và của cả
nhóm.
9. Việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của HS phải được thực hiện thường xuyên,
liên tục. Kiểm tra, đánh giá thường xuyên được coi là một trong những biện pháp thúc đẩy
quá trình học tập và rèn luyện của HS.
10. Bên cạnh những hình thức kiểm tra miệng, kiểm tra 15’, 30’, 45’, kiểm tra cuối kì
học, kiểm tra cuối năm học, GV cần phải tiến hành quan sát, đánh giá HS trong các giờ

thực hành. Trong giờ thực hành, GV quan sát, đánh giá kĩ một vài HS hoặc một, hai nhóm
HS để chi điểm, không nhất thiết phải cho điểm tất cả các HS trong một giờ thực hành.
ĐIểm của HS được chấm trong giờ thực hành sẽ được lấy làm điểm (hệ số 1) để đánh giá
học lực của HS. Nết HS có nhiều điểm giờ thực hành thì có thể lấy trung bình cộng các
điểm để ghi vào sổ điểm. Trong một học kì, mỗi HS sẽ phải có một điểm thực hành được
ghi vào sổ điểm để tính điểm học lực. Với cách làm như vậy, chất lượng giờ thực hành sẽ
được tăng lên rõ rệt. Đặc biệt, GV có thể biết được kiến thức, kĩ năng của HS để kịp thời
điều chỉnh việc dạy học.
11. Một học kì, mỗi HS phải có ít nhất một bài kiểm tra thực hành (khác với điểm của
giờ thực hành) đây là yêu cầu bắt buộc trong quy định về kiểm tra, đánh giá môn Tin học
2 20


của Bộ GD&ĐT. Quy định này nhằm đảm bảo HS học Tin học phải đạt được cả yêu cầu
về kiến thức và kĩ năng.
12. GV cần căn cứ vào các bài tập, câu hỏi cuối bài để xác định các kiến thức, kĩ năng
cần kiểm tra, đánh giá. Tuy nhiên, dựa trên thực tế trình độ của HS cũng như điều kiện về
trang TBDH mà GV định ra nội dung, phương thức tiến hành kiểm tra, đánh giá phù hợp.
13. GV tự bố trí kiểm tra miệng, kiểm tra dưới 45’ để đảm bảo đủ số lượng điểm kiểm
tra theo quy định.
14. Sau mỗi bài thực hành phải có đánh giá và cho điểm. Phải dùng điểm thực hành làm
ít nhất một điểm (hệ số 1) trong các điểm để xếp loại học lực của HS.
15. Nên thực hiện đúng, đủ hai bài kiểm tra thực hành trong phân phối chương trình.
16. Việc kiểm tra học kì phải được đánh giá ở cả hai nội dung lý thuyết và thực hành.
17. Do đặc thù của môn Tin học nên việc kiểm tra đánh giá bao gồm cả lí thuyết và thực
hành, hình thức có thể là tự luận hoặc trắc nghiệm khách quan.
18. Năm học 2006 – 2007 là năm học đầu tiên triển khai dạy học môn Tin học ở lớp 10
THPT. Một số địa phương còn khó khăn về GV, máy vi tính, Internet…. Vì vậy, việc kiểm
tra, đánh giá lí thuyết và nhất là kiểm tra kĩ năng thực hành trên máy phải căn cứ vào điều
kiện thực tế điều kiện dạy học.

Trong dạy học, việc đánh giá HS không chỉ nhằm mục đích nhận định thực trạng và
điều chỉnh hoạt động học của trò mà còn đồng thời tạo điều kiện nhận định thực trạng và
điều chỉnh hoạt động của thầy.
Trước đây, GV giữ độc quyền đánh giá HS. Trong PPDH tích cực, GV phải hướng dẫn
HS phát triển kĩ năng tự đánh giá để tự điều chỉnh cách học. Liên quan tới điều này, GV
cần tạo điều kiện thuận lợi để HS được tham gia đánh giá lẫn nhau. Tự đánh giá đúng và
điều chỉnh hoạt động kịp thời là năng lực rất cần cho sự thành đạt trong cuộc sống mà nhà
trường phải trang bị cho HS.
Theo hướng phát triển các phương pháp tích cực để đào tạo những con người năng
động, sớm thích nghi với đời sống xã hội, thì việc kiểm tra, đánh giá không thể dừng lại ở
yêu cầu tái hiện kiến thức, lặp lại các kĩ năng đã học mà phải khuyến khích trí thông minh,
óc sáng tạo trong việc giải quyết những tình huống thực tế.

2 21


Với sự giúp đỡ của các thiết bị kĩ thuật, kiểm tra đánh giá sẽ không còn là một công
việc nặng nhọc đối với GV mà còn cung cấp nhiều thông tin kịp thời hơn để linh hoạt điều
chỉnh hoạt động dạy, chỉ đạo hoạt động học.
Tăng cường sử dụng phương tiện dạy học (PTDH) và CNTT trong dạy học: PTDH có
vai trò quan trọng trong việc đổi mới PPDH, nhằm tăng cường tính trực quan và thí
nghiệm thực hành trong dạy học. Việc sử dụng các PTDH cần phù hợp với mối quan hệ
giữa PTDH và PPDH. Việc trang bị các PTDH mới cho các trường THPT đang được tăng
cường. Tuy nhiên các PTDH tự tạo của GV luôn có ý nghĩa quan trọng, cần được phát
huy.
Đa phương tiện và CNTT vừa là nội dung dạy học vừa là PTDH trong dạy học hiện
đại. Đa phương tiện và CNTT có nhiều khả năng ứng dụng trong dạy học. Bên cạnh việc
sử dụng đa phương tiện như một phương tiện trình diễn, cần tăng cường sử dụng các phần
mềm dạy học cũng như các PPDH sử dụng mạng điện tử (E - Learning). PTDH mới cũng
hộ trợ việc tìm ra và sử dụng các PPDH mới. Webquest là một ví dụ về PPDH mới với

phương tiện mới là dạy học sử dụng Internet, trong đó HS khám phá tri thức trên mạng
một cách có định hướng.
Theo đó, cần phải lưu ý các mặt sau:
a. Quán triệt ba chức năng chủ yếu của kiểm tra, đánh giá, đó là:
- Đánh giá kết quả học tập của HS: Là quá trình xác định trình độ đạt tới những chỉ tiêu
của mục đích dạy học, xác định xem khi kết thúc một giai đoạn (một bài, một chương, một
học kì, một năm,...)của quá trình dạy học đã hoàn thành đến một mức độ nào đó về kiến
thức, về kĩ năng,...
- Phát hiện lệch lạc: Phát hiện ra những mặt đã đạt được và chưa đạt được mà môn học
đề ra đối với HS, qua đó tìm ra những khó khăn và trở ngại trong quá trình học tập của
HS... Xác định được những nguyên nhân lệch lạc về phía người dạy cũng như người học
để đề ra phương án giải quyết.
- Cơ sở để điều chỉnh: GV điều chỉnh kế hoạch dạy học (nội dung và phương pháp sao
cho thích hợp để loại trừ những lệch lạc, tháo gỡ những khó khăn trở ngại, thúc đẩy quá
trình học tập của HS).

2 22


Đánh
giá

Phát
hiện
lệch lạc

Điều
chỉnh

Hình 1.3: Ba chức năng chủ yếu của kiểm tra, đánh giá

Như vậy, kiểm tra đánh giá không chỉ dùng cho việc lấy điểm để tính điểm học lực của
HS.
b. Xác định rõ vai trò của kiểm tra, đánh giá trong quá trình dạy học
- Đầu tiên dựa vào mục tiêu của dạy học, GV đánh giá trình độ xuất phát của HS (kiểm
tra đầu vào) trên cơ sở đó có kế hoạch dạy học: Kiến thức bộ môn rèn kĩ năng bộ môn để
phát triển tư duy bộ môn. Kiểm tra đánh giá sau khóa học (kiểm tra đầu ra) để phát hiện
trình độ HS, điều chỉnh mục tiêu và đưa ra chế độ dạy học tiếp theo.
- Bản chất của khái niệm kiểm tra thuộc phạm trù phương pháp, nó giữ vai trò liên hệ
nghịch trong hệ điều hành quá trình dạy học, cung cấp thông tin phản hồi về kết quả vận
hành, góp phần quan trọng quyết định việc điều chỉnh nhằm tối ưu quá trình.
2 23


- Kiểm tra, đánh giá trong quá trình dạy học là hết sức phức tạp, luôn luôn chứa đựng
những nguy cơ sai lầm, không chính xác. Do đó người ta thường nói: “Kiểm tra - đánh
giá” hoặc “đánh giá thông qua kiểm tra” để chứng tỏ mối quan hệ tương hỗ và thúc đẩy lẫn
nhau giữa hai công việc này.

Kĩ năng bộ
môn

Mục tiêu

Trình độ xuất
phát của HS
(Kiểm tra ban
đầu)

Kiến thức bộ
môn


Kiểm tra,
đánh giá

Trình độ phát
triển tư duy
bộ môn

Hình 1.4: Vai trò của kiểm tra, đánh giá
Như vậy, kiểm tra, đánh giá có vai trò rất quan trọng trong quá trình dạy học. Nhờ đó,
GV có thể:
- Tự giám sát việc thực hiện mục tiêu dạy học, kết quả sử dụng PPDH, hình thức và
TBDH.
- Điều chỉnh việc dạy học cho phù hợp với đối tượng HS
- Biết được kết quả học tập, rèn luyện của lớp học và từng HS
Đánh giá giúp HS:
- Thấy rõ năng lực học tập của bản thân để phấn đấu và kịp thời rút kinh nghiệm cho việc
học tập của mình
- Được động viên khuyến khích phấn khởi, tích cực trong học tập
Việc đánh giá được thực hiện thông qua công cụ chủ yếu là kiểm tra.
Kiểm tra, đánh giá tác động trở lại PPDH và ngược lại.

2 24


c. Kiểm tra, đánh giá góp phần đổi mới PPDH
Việc kiểm tra, đánh giá phải góp phần quan trọng vào việc đổi mới PPDH. Cần yêu
cầu HS không chỉ học thuộc lòng nội dung bài học, mà phải biết liên hệ nội dung bài học
với thực tiễn cuộc sống, phải biết vận dụng tri thức, kĩ năng đã được trang bị qua bài học
và huy động vốn kinh nghiệm sống của bản thân để giải quyết vấn đề, tình huống trong

cuộc sống thực tế. Việc kiểm tra, đánh giá cần thúc đẩy HS tham gia hoạt động tích cực
như thảo luận nhóm, chia sẻ, hợp tác với bạn bè và tự giác học tập.
Cần chú trọng hơn đến kiểm tra thái độ, khả năng vận dụng và thực hành. Trên cơ
sở đó, thúc đẩy HS tích cực rèn luyện theo yêu cầu. Cần kiểm tra đánh giá được HS trên cả
ba mặt: kiến thức, kĩ năng, thái độ.
Đổi mới kiểm tra, đánh giá góp phần thúc đẩy đổi mới PPDH, ngược lại, đổi mới
PPDH góp phần thúc đẩy đổi mới kiểm tra đánh giá.
d. Đánh giá qua nhiều kênh khác nhau
Việc đánh giá kết quả giáo dục của HS cần thực hiện qua nhiều nguồn thông tin khác nhau
như:
- Các bài kiểm tra
- Quan sát hoạt động của HS trong các hoạt động tập thể, giờ học thực hành
- Tập thể HS
- Tự nhận xét của cá nhân HS
- GV chủ nhiệm
- Cán bộ Đoàn Đội
- Phụ huynh HS
e. Tin học liên quan chặt chẽ đến việc sử dụng máy tính và cách tìm tòi hướng giải quyết
vấn đề theo hướng công nghệ, vì vậy ngoài kiểm tra viết cần chú ý:
- Đánh giá HS qua thực hành: Kĩ năng sử dụng máy tính và các phần mềm
- Đánh giá khả năng giải quyết vấn đề: tìm hướng giải quyết và biết lựa chọn công cụ thích
hợp
- Đánh giá khả năng làm việc theo nhóm
- Đánh giá qua đối thoại
3.3. Quan điểm tiếp cận đánh giá theo kết quả đầu ra
2 25


×