Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

Biện pháp phát triển đội ngũ cán bộ quản lý của các trường mầm non trên địa bàn tỉnh Trà Vinh trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (508.24 KB, 108 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Để sự nghiệp giáo dục và đào tạo (GD&ĐT) phát triển, điều quan trọng
là phải nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý (CBQL) giáo
dục. Điều 16 Luật giáo dục (2005) ghi rõ: “CBQL giáo dục giữ vai trò quan
trọng trong việc tổ chức, quản lý, điều hành các hoạt động giáo dục”. Ban Bí
thư Trung ương (TW) Đảng Cộng sản Việt Nam đã có Chỉ thị 40-CT/TW
ngày 15/6/2004 về “Xây dựng, nâng cao chất lượng nhà giáo và đội ngũ
CBQL giáo dục”, trong đó đã ghi rõ: “Mục tiêu chiến lược phát triển giáo
dục và đào tạo là xây dựng đội ngũ nhà giáo và CBQL giáo dục được chuẩn
hóa, đảm bảo chất lượng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt chú
trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất, lối sống, lương tâm, tay nghề
của nhà giáo… để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng những đòi
hỏi ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
Thủ tướng Chính phủ Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có Quyết
định số 09/TTg ngày 11/01/2005 phê duyệt Đề án “Xây dựng, nâng cao chất
lượng đội ngũ nhà giáo và CBQL giáo dục giai đoạn 2005 - 2010”.
Để nâng cao chất lượng đội ngũ CBQL giáo dục, cần tập trung phát triển
đội ngũ đó đủ về số lượng, phù hợp về cơ cấu và đạt chuẩn về trình độ; có đủ
năng lực và phẩm chất đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục trong giai đoạn hiện
nay.
Trà Vinh là tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long, điều kiện phát triển
kinh tế - xã hội (KT-XH) còn rất nhiều khó khăn. Nhìn chung, nền kinh tế,
văn hoá còn chậm phát triển, chất lượng giáo dục nói chung và giáo dục mầm
non (GDMN) nói riêng còn thấp. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình
trạng đó là do các cơ sở giáo dục nói chung và các trường mầm non trong tỉnh


2


nói riêng chưa có một đội ngũ CBQL đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu và
đạt chuẩn về chất lượng.
Thực hiện quyết định 161/2002/QĐ-TTg, ngày 1/11/2002 của Thủ tướng
Chính phủ, về một số chính sách phát triển GDMN, trong thời gian qua, mạng
lưới trường, lớp mầm non phát triển nhanh và rộng khắp các xã ấp trong tỉnh,
nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội. Sự phát triển mạnh mẽ về quy mô, cơ cấu và
mạng lưới trường, lớp mầm non. Đồng thời, trước yêu cầu thực hiện chương
trình GDMN mới sẽ triển khai trên diện rộng trong một vài năm tới, đòi hỏi
phải thực hiện đồng bộ hàng loạt các giải pháp tăng cường các điều kiện nâng
cao chất lượng chăm sóc và giáo dục trẻ. Do đó, yêu cầu phát triển đội ngũ
CBQL của các trường mầm non trong tỉnh là cấp thiết đối với tỉnh Trà Vinh
giai đoạn hiện nay.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến giáo dục, GDMN và
phát triển đội ngũ CBQL giáo dục cũng như GDMN. Tuy nhiên, hiện nay vẫn
chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu về phát triển đội ngũ CBQL của
các trường mầm non của tỉnh Trà Vinh.
Là một CBQL của Phòng Giáo dục mầm non của tỉnh Trà Vinh, lại được
theo học trình độ thạc sĩ chuyên ngành quản lý giáo dục, cho nên tôi chọn đề
tài “Biện pháp phát triển đội ngũ cán bộ quản lý của các trường mầm non
trên địa bàn tỉnh Trà Vinh trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài luận văn tốt
nghiệp cao học chuyên ngành quản lý giáo dục; nhằm góp phần vào sự nghiệp
đổi mới và phát triển GDMN của tỉnh nhà.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

Đề xuất được biện pháp phát triển đội ngũ CBQL của các trường mầm
non trên địa bàn tỉnh Trà Vinh trong giai đoạn hiện nay.
3. KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU VÀ ĐỐI TƯỢNG

3.1. Khách thể nghiên cứu



3
Công tác quản lý đội ngũ nhà giáo và CBQL giáo dục của Sở GD&ĐT
Trà Vinh.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp phát triển đội ngũ CBQL các trường mầm non trên địa bàn
tỉnh Trà Vinh trong giai đoạn hiện nay.
4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC

Hiện nay, công tác phát triển đội ngũ CBQL các trường mầm non của Sở
GD&ĐT Trà Vinh bước đầu đã có những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên
vẫn còn có một số hạn chế thể hiện ở sự thiếu hụt về số lượng, chưa đồng bộ
về cơ cấu, chưa đạt chuẩn về đào tạo và chất lượng.
Nếu Sở GD&ĐT Trà Vinh có được và sử dụng một số biện pháp quản lý
về phát triển đội ngũ CBQL của các trường mầm non mà chúng tôi đề xuất
trong luận văn này, thì nhất thiết đội ngũ CBQL của các trường mầm non trên
địa bàn tỉnh sẽ được phát triển đáp ứng yêu cầu đổi mới GDMN trong giai
đoạn hiện nay. Đó là các biện pháp về các lĩnh vực:
- Xây dựng quy hoạch đội ngũ CBQL trường mầm non trên địa bàn tỉnh
Trà Vinh.
- Đổi mới hoạt động đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CBQL trường mầm non.
- Cải tiến việc lựa chọn và bổ nhiệm CBQL trường mầm non.
- Xây dựng và thực hiện chế độ chính sách và điều kiện làm việc cho
CBQL trường mầm non.
- Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra đánh giá hoạt động quản lý
trường mầm non.
- Nâng cao năng lực cho đội ngũ CBQL trường mầm non thông qua thực
hiện cơ chế “tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ
máy, biên chế, tài chính,…”
5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU



4
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về phát triển đội ngũ CBQL trường mầm
non.
5.2. Khảo sát và đánh giá thực trạng đội ngũ CBQL các trường mầm non
và thực trạng công tác phát triển đội ngũ CBQL các trường mầm non của Sở
GD&ĐT Trà Vinh.
5.3. Đề xuất một số biện pháp quản lý của Sở GD&ĐT Trà Vinh đối với
công tác phát triển đội ngũ CBQL của các trường màm non trên địa bàn tỉnh
trong giai đoạn hiện nay.
6. GIỚI HẠN VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

CBQL trường mầm non hiểu đầy đủ gồm nhiều đối tượng đang công tác
tại các cơ quan quản lý giáo dục như Bộ GD&ĐT, Sở GD&ĐT, Phòng
GD&ĐT; công tác tại Uỷ ban nhân dân các cấp và công tác tại các cơ sở
GDMN (hiệu trưởng, phó hiệu trưởng, tổ trưởng). Mặt khác biện pháp phát
triển đội ngũ CBQL các trường mầm non có thể hiểu là của Bộ GD&ĐT, của
Sở GD&ĐT, của Phòng GD&ĐT, của Uỷ ban nhân dân các cấp.
Đề tài này chỉ nghiên cứu để đề xuất các biện pháp quản lý của Sở
GD&ĐT Trà Vinh đối với công tác phát triển đội ngũ hiệu trưởng và phó hiệu
trưởng của các trường mầm non công lập thuộc tỉnh này.
7. PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Trên cơ sở phương pháp luận duy vật lịch sử và duy vật biện chứng của
Chủ nghĩa MacLênin, khi nghiên cứu đề tài luận văn này, chúng tôi đã phối
hợp sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chủ yếu dưới đây.
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Bằng việc nghiên cứu các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước; các điều lệ, quy chế của ngành GD&ĐT; các công trình khoa học

có liên quan đến vấn đề phát triển đội ngũ CBQL giáo dục nói chung và phát
triển CBQL của các trường mầm non và trường mẫu giáo nói riêng; phương


5
pháp này được sở dụng nhằm mục đích xác định cơ sở lý luận của vấn đề
nghiên cứu.
7.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Bằng việc quan sát, điều tra, xin ý kiến chuyên gia và tổng kết kinh
nghiệm; các phương pháp này được sử dụng nhằm khảo sát, đánh giá thực
trạng về đội ngũ CBQL của các trường mầm non và thực trạng công tác phát
triển đội ngũ CBQL của các trường mầm non của Sở Giáo dục và Đào tạo Trà
Vinh.
7.3. Các phương pháp hỗ trợ khác
Bằng việc sử dụng một số thuật toán, một số phần mềm tin học; phương
pháp này được sử dụng với mục đích xử lý các số liệu nghiên cứu.
8. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN

- Mở đầu.
- Chương 1: Cơ sở lý luận về phát triển đội ngũ CBQL của các trường
mầm non.
- Chương 2: Thực trạng phát triển đội ngũ CBQL của các trường mầm
non trên địa bàn tỉnh Trà Vinh trong giai đoạn hiện nay
- Chương 3: Biện pháp phát triển đội ngũ CBQL các trường mầm non
tỉnh Trà Vinh trong giai đoạn hiện nay.
- Kết luận và khuyến nghị
- Tài liệu tham khảo.
- Phụ lục



6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ CÁN BỘ QUẢN LÝ
TRƯỜNG MẦM NON CỦA SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
1.1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

Đội ngũ CBQL giáo dục có vai trò rất quan trọng trong sự thành bại của sự
nghiệp giáo dục và đào tạo. Vì vậy, các quốc gia trên thế giới nói chung và Việt
Nam nói riêng luôn quan tâm đến việc nghiên cứu phát triển đội ngũ CBQL, đặc
biệt là đội ngũ CBQL giáo dục.
Ở nước ta, ngay sau khi nước nhà giành được độc lập, Hồ chủ tịch đã đặc
biệt quan tâm chỉ đạo phát triển đội ngũ giáo viên phục vụ cho sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Những quan điểm tư tưởng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục là định hướng đúng đắng cho vấn đề
đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện đội ngũ giáo viên mới và CBQL giáo dục. Bằng
nhiều bài viết, bài nói chuyện về vấn đề giáo dục, Người khẳng định: “Cán bộ
là cái gốc của mọi công việc”, “muôn việc thành công hay thất bại đều do cán
bộ tốt hay kém” [Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội 2000].

Từ những cách tiếp cận khác nhau, kể cả xu hướng kế thừa và phát triển,
các nhà nghiên cứu như Thái Duy Tuyên, Đặng Quốc Bảo, Nguyễn Gia Quý,
Trần Kiều, Phạm Viết Vượng,… trong các công trình nghiên cứu của mình đã
bàn về công tác quản lý giáo dục và những vấn đề có liên quan đến việc xây
dựng và phát triển đội ngũ CBQL giáo dục nói chung. Đáng chú ý là các tác
phẩm “Cơ sở khoa học quản lý” của Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ
Lộc; “Những luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
trong thời kỳ CNH – HĐH” (Nguyễn Phú Trọng và Trần Xuân Sầm).
Xét về góc độ nghiên cứu quản lý giáo dục, dựa trên quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các nhà khoa học tiếp cận quản



7
lý giáo dục và quản lý trường học để đề cập đến việc phát triển, xây dựng
công tác quản lý nhà trường, tiêu biểu có: Phương pháp luận khoa học giáo
dục (Phạm Minh Hạc); Khoa học quản lý giáo dục – Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn (Trần Kiểm).
Riêng về lĩnh vực GDMN, đã có nhiều bài viết của các tác giả Lê Thị
Ánh Tuyết, Trần Thị Bích Liễu, Trần Thị Thanh,… đăng trên tạp chí. Trên
thực tế có nhiều công trình khoa học nghiên cứu biện pháp phát triển đội ngũ
CBQL trường học của nhiều tác giả nhưng việc đi sâu nghiên cứu về các biện
pháp phát triển đội ngũ CBQL GDMN hiện nay ở các địa phương chưa được
quan tâm nhiều. Những năm gần đây, một số luận văn thạc sĩ chuyên ngành
quản lý giáo dục đã nghiên cứu về phát triển đội ngũ CBQL trường mầm non:
- Những giải pháp xây dựng và phát triển đội ngũ Hiệu trưởng các
trường mầm non quận Ba Đình – Hà Nội của Nguyễn Thị Như Tâm, (Trường
Đại học sư phạm Hà Nội – Trường CBQL giáo dục và đào tạo, Hà Nội 2005).
- Biện pháp xây dựng đội ngũ CBQL trường Mầm non thị xã Cam Ranh,
tỉnh Khánh Hòa của Nguyễn Khiêm, Trường Đại học Huế, 2008.
Tuy nhiên, đến nay, chưa có đề tài luận văn thạc sĩ nào đề cập đến công
tác phát triển đội ngũ CBQL trường mầm non của tỉnh Trà Vinh. Tình trạng
này dẫn đến công tác quản lý hoạt động phát triển đội ngũ CBQL các trường
mầm non của tỉnh Trà Vinh chưa có những biện pháp dựa trên các cơ sở lý
luận và có giá trị về thực tiễn. Do đó, chúng tôi thấy cần có một quá trình
nghiên cứu nghiêm túc về vấn đề này và tìm ra một số biện pháp quản lý khả
thi để phát triển đội ngũ CBQL trường mầm non đối với một tỉnh vùng khó
khăn nhưng phải đáp ứng yêu cầu phát triển không ngừng của nền kinh tế - xã
hội hiện nay của nước ta.


8

1.2. MỘT SỐ KHÁI NIỆM

1.2.1. Quản lý và chức năng quản lý
1) Quản lý
Một số nhà khoa học đã đưa ra các quan niệm và định nghĩa về quản lý
như sau:
- Theo Omarốp thì quản lý là tính toán, sử dụng hợp lý các nguồn lực
(nhân lực, vật lực, tài lực) nhằm thực hiện các nhiệm vụ sản xuất và dịch vụ
với hiệu quả kinh tế tối ưu [27].
- Theo Aunapu (Nhật Bản) thì quản lý là một hệ thống xã hội, là khoa
học và nghệ thuật tác động vào hệ thống mà chủ yếu là vào những con người
nhằm đạt các mục tiêu kinh tế, xã hội xác định [27].
- Theo E.Taylor: “Quản lý là biết được chính xác điều bạn muốn người
khác làm và sau đó hiểu được rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt
nhất và rẽ nhất” [27].
- Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang thì quản lý là những tác động có
định hướng, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến đối tượng bị quản lý trong tổ
chức để vận hành tổ chức, nhằm đạt mục đích nhất định [24].
- Theo Trần Kiểm thì quản lý là những tác động của chủ thể quản lý
trong việc huy động, phát huy, kết hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều phối các
nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) trong và ngoài tổ chức (chủ yếu là nội
lực) một cách tối ưu nhằm đạt được mục đích của tổ chức với hiệu quả cao
nhất [18] .
- Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc cho rằng “Quản lý là tác
động có định hướng, có chủ đích chủ thể quản lý (người quản lý) đến khách
thể quản lý (người bị quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho các tổ chức
vận hành và đạt được các mục đích của tổ chức” [10].
Với nội hàm của các định nghĩa trên, chúng tôi thấy:



9
- Quản lý là một hoạt động, trong đó có tác động của người quản lý (chủ
thể quản lý) đến người bị quản lý (khách thể quản lý) và luôn luôn gắn liền
với hoạt động của tổ chức.
- Quản lý là để đạt tới mục tiêu nhất định.
- Sự tác động có định hướng (hướng tới mục tiêu của tổ chức) được chủ
thể quản lý phải hợp quy luật, nghĩa là đúng với lý luận và thực tiễn).
Với những phân tích trên, chúng tôi nhận thấy: “Quản lý một tổ chức là
tác động có chủ đích và hợp quy luật của chủ thể quản lý đến đối tượng và
khách thể quản lý nhằm làm cho tổ chức vận hành đạt được mục tiêu”.
2) Chức năng quản lý
Chức năng quản lý là phương thức, nội dung và quy trình tác động của
chủ thể quản lý đến khách thể quản lý trong quá trình quản lý.
Quá trình quản lý được thực hiện theo các chức năng cơ bản của quản lý
sau đây và coi đó là một chu trình quản lý. Cụ thể:
i) Kế hoạch hoá là việc dựa trên những thông tin luật pháp,
chính sách và quy chế hoạt động, về bộ máy tổ chức và đội ngũ nhân sự, về
tài lực và vật lực, về môi trường hoạt động và về các thông tin có liên quan
đến tổ chức; mà vạch ra mục tiêu hoạt động, dự kiến nguồn lực (nhân lực, tài
lực và vật lực), thời gian, các phương tiện và điều kiện, đồng thời chỉ ra các
biện pháp thực hiện mục tiêu.
ii) Tổ chức là việc thiết lập cấu trúc bộ máy, bố trí nhân lực và
xây dựng cơ chế hoạt động; đồng thời ấn định chức năng, nhiệm vụ cho các
bộ phận và cá nhân; quy định cơ chế hoạt động; huy động, sắp xếp và phân bổ
các nguồn lực vật chất nhằm thực hiện mục tiêu đã có.
iii) Chỉ đạo là việc hướng dẫn công việc, liên kết, liên hệ, động
viên, kích thích, giám sát các bộ phận và mọi cá nhân thực hiện kế hoạch đã
có theo đúng dụng ý đã xác định trong chức năng tổ chức.
iv) Kiểm tra là việc theo dõi và đánh giá mọi hoạt động của
từng đơn vị hoặc của mỗi cá nhân trong tổ chức bằng nhiều phương pháp và



10
hình thức (trực tiếp hoặc gián tiếp, thường xuyên hoặc định kỳ,...) nhằm so
sánh kết quả hoạt động với mục tiêu đã xác định để nhận biết về chất lượng
và hiệu quả các hoạt động đó. Từ đó tìm ra những tốt, chưa tốt và những sai
phạm để từ đó đưa ra các quyết định phát huy, điều chỉnh hoặc xử lý.
1.2.2. Quản lý giáo dục và quản lý GDMN
1) Quản lý giáo dục
Quản lý giáo dục được hiểu là hệ thống những tác động có mục đích, có
kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý giáo dục đến toàn bộ các phần tử
và các lực lượng trong hệ thống giáo dục nhằm làm cho hệ thống vận hành
theo đúng tính chất, nguyên lý và đường lối phát triển giáo dục để đạt tới mục
tiêu giáo dục.
Ở thời đại ngày nay, với việc thực hiện triết lý giáo dục thường xuyên và
triết lý học suốt đời thì có thể hiểu quản lý giáo dục là sự tác động có mục
đích, có kế hoạch, có ý thức và tuân thủ các quy luật khách quan của chủ thể
quản lý giáo dục lên toàn bộ các mắt xích của hệ thống giáo dục nhằm đưa hoạt
động giáo dục đạt tới kết quả mong muốn (xây dựng và hoàn thiện nhân cách
người lạo động phù hợp với yêu cầu phát triển KT-XH).
Từ quan điểm trên, quản lý giáo dục được hiểu theo các cấp độ khác nhau
(vĩ mô và vi mô).
- Quản lý giáo dục cấp độ vĩ mô được nhìn nhận ở góc độ quản lý nhà
nước của các cơ quan quản lý giáo dục. Cụ thể: quản lý giáo dục được hiểu là
những tác động tự giác (có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp
quy luật) của chủ thể quản lý giáo dục trong việc huy động, tổ chức, điều phối,
điều chỉnh, giám sát,… một cách có hiệu quả các nguồn lực giáo dục (nhân lực,
vật lực, tài lực) nhằm đạt tới mục tiêu phát triển của cả hệ thống giáo dục và
đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH.
- Quản lý giáo dục cấp độ vi mô được nhìn nhận ở góc độ quản lý giáo

dục tại các cơ sở giáo dục (trường học) với các tác động của chủ thể quản lý
của các cơ sở đó (hiệu trưởng nhà trường) một cách có ý thức, có mục đích, có


11
kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật của hiệu trưởng đến tập thể giáo viên,
nhân viên, tập thể học sinh, cha mẹ học sinh và các lực lượng xã hội trong và
ngoài nhà trường nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu giáo dục
của nhà trường mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học - giáo dục thế hệ trẻ
và góp phần đưa hệ thống giáo dục đến mục tiêu dự kiến.
2) Quản lý GDMN
GDMN thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em từ ba
tháng tuổi đến sáu tuổi. GDMN là một mắt xích trong hệ thống giáo dục quốc
dân nhằm mục tiêu giúp trẻ em phát triển về thể chất, nhận thức, ngôn ngữ,
tình cảm, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị
cho trẻ em vào học lớp một.
Như vậy, có thể hiểu:
Quản lý GDMN là quản lý hoạt động nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ
từ 3 tháng đến 6 tuổi nhằm đạt được mục tiêu GDMN: giúp trẻ phát triển về
thể chất, nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố
đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ em vào học lớp một.
1.2.3. Quản lý trường học và quản lý trường mầm non
1) Quản lý trường học
Quản lý trường học là tập hợp những tác động tối ưu của chủ thể quản lý
(hiệu trưởng) đến tập thể giáo viên, học sinh và các cán bộ giáo dục khác; huy
động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực vốn có, tạo động lực thúc đẩy mọi
hoạt động giáo dục của nhà trường, nhằm thực hiện có chất lượng mục tiêu và
kế hoạch đào tạo, đưa nhà trường tiến lên trạng thái mới về chất.
2) Quản lý trường mầm non
Quản lý trường mầm non là tập hợp những tác động tối ưu của chủ thể

quản lý trường mầm non (hiệu trưởng) đến tập thể cán bộ, giáo viên, nhân
viên nhằm huy động tối đa các tiềm lực vật chất và tinh thần của xã hội, nhà


12
trường và gia đình để thực hiện mục tiêu GDMN nói chung và thực hiện có
hiệu quả kế hoạch phát triển nhà trường.
1.2.2. Đội ngũ, đội ngũ CBQL trường mầm non
1) Đội ngũ
Theo Từ điển Tiếng Việt “Đội ngũ là tập hợp gồm một số đông người
cùng chức năng, nhiệm vụ hoặc nghề nghiệp hợp thành lực lượng hoạt động
trong một hệ thống (tổ chức) nhất định” [34].
Khái niệm đội ngũ có liên quan đến với khái niệm nguồn nhân lực. Nguồn
nhân lực có thể hiểu là tổng thể tiềm năng lao động của một đất nước, một cộng
đồng cả trong độ tuổi lao động và ngoài độ tuổi lao động. Đội ngũ của một tổ
chức cũng chính là nguồn nhân lực trong tổ chức đó. Chính vì vậy, các đặc trưng
về phát triển đội ngũ gắn liền với những đặc điểm phát triển tổ chức nói chung và
đặc trưng của công tác cán bộ nói riêng.
2) Đội ngũ CBQL trường mầm non
Trước hết đội ngũ CBQL GDMN là những CBQL giáo dục chịu trách
nhiệm quản lý hoạt động GDMN trên phương diện quản lý vĩ mô (hệ thống
GDMN) và vi mô (các cơ sở GDMN - trường mầm non, trường mẫu giáo và
nhà trẻ).
Đội ngũ CBQL trường mầm non là đội ngũ CBQL GDMN có trách
nhiệm trực tiếp quản lý GDMN tại các trường mầm non, trường mẫu giáo
hoặc nhà trẻ.
Đối với một tỉnh, đội ngũ CBQL GDMN gồm tất cả các hiệu trưởng, các
phó hiệu trưởng, các tổ trưởng làm việc tại các cơ sở GDMN đó của tỉnh đó.
Đối với một cơ sở GDMN, đội ngũ CBQL GDMN gồm hiệu trưởng, các
phó hiệu trưởng, các tổ trưởng trong cơ sở GDMN đó.

Theo giới hạn của đề tài này, đội ngũ CBQL GDMN được hiểu là toàn
thể các hiệu trưởng, các phó hiệu trưởng các cơ sở GDMN công lập của một tỉnh.


13
1.2.3. Phát triển, phát triển đội ngũ, phát triển đội ngũ CBQL trường
mầm non
1) Phát triển
Theo triết học duy vật biện chứng phát triển là quá trình vận động đi
lên, từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao, từ chưa biết đến biết, từ biết ít
đến biết nhiều,...
Theo từ điển tiếng Việt “Phát triển là lớn lên về mặt kích thước, độ rộng
(số lượng) hay về mặt giá trị, tầm quan trọng (chất lượng)” [33].
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo – Bài giảng kinh tế học giáo dục: “Phát
triển là tăng cả về chất lượng và số lượng làm cho hệ giá trị được cải tiến,
được hoàn thiện” [2].
2) Phát triển đội ngũ
Phát triển đội ngũ trong một tổ chức chính là phát triển nguồn nhân lực,
hay gọi là nguồn lực con người của tổ chức đó. Nguồn nhân lực được xem xét
trên cơ sở tổng thể các chỉ số phát triển con người mà con người có được nhờ
sự trợ giúp của xã hội và sự nỗ lực của bản thân, là tổng thể số lượng dân và
chất lượng con người; là tổng thể sức mạnh thể lực, trí lực, kinh nghiệm sống,
nhân cách, đạo đức, lý tưởng, chất lượng văn hóa, năng lực chuyên môn và
tính năng động trong công việc mà bản thân con người và xã hội có thể huy
động vào cuộc sống lao động sáng tạo vì sự phát triển và tiến bộ xã hội.
Phát triển đội ngũ là quá trình vận động đi lên để đảm bảo cho đội ngũ
đó có đủ về mặt số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đạt chuẩn về trình độ đào tạo,
có được phẩm chất và năng lực đảm đương tốt sứ mạng của cả tổ chức và các
nhiệm vụ mà xã hội giao cho từng cá nhân và sứ mạng của cả tổ chức.
3) Phát triển đội ngũ CBQL trường mầm non

Trong giới hạn và phạm vi nghiên cứu của đề tài, phát triển đội ngũ
CBQL trường mầm non được hiểu là làm sao cho các cơ sở GDMN có một
đội ngũ các hiệu trưởng và phó hiệu trưởng đạt được những yêu cầu chủ yếu:


14
- Đủ về số lượng theo quy định trong Luật Giáo dục và Điều lệ trường
mầm non.
- Đồng bộ về cơ cấu: tuổi đời và thâm niên công tác, giới, người dân tộc,
chuyên ngành đào tạo.
- Đạt chuẩn về trình độ đào tạo: theo quy định trong Điều lệ trường Mầm
non và khuyến khích đạt trên chuẩn về trình độ đào tạo, trình độ quản lý và
trình độ lý luận chính trị.
- Có phẩm chất và năng lực đáp ứng được các yêu cầu quản lý GDMN
tại các cơ sở GDMN.
Đội ngũ CBQL trường Mầm non là lực lượng trực tiếp quản lý mọi
hoạt động của trường Mầm non. Họ là thành phần cốt cán trong đội ngũ giáo
viên Mầm non, chịu trách nhiệm hoàn toàn trước Đảng và Nhà nước về chất
lượng, hiệu quả công tác GDMN. Tiêu chí chủ yếu để đánh giá đội ngũ
CBQL trường mầm non chính là chất lượng của đội ngũ. Đội ngũ mạnh hay
yếu, có đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ hay không phụ thuộc rất nhiều vào
quy mô số lượng đội ngũ; trình độ, phẩm chất và năng lực của mỗi thành viên
trong đội ngũ. Phát triển đội ngũ CBQL GDMN mà nồng cốt là CBQL trường
mầm non là tạo tiền đề quan trọng cần thiết cho việc nâng cao chất lượng và
hiệu quả GDMN trong giai đoạn hiện nay.
1.3. CÁC YÊU CẦU PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC MẦM NON TRONG GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY

1.3.1. Định hướng phát triển GDMN
1) Quan điểm chỉ đạo

Quan điểm chỉ đạo của Đảng, Chính phủ và Bộ GD&ĐT về phát triển
GDMN được thể hiện trong nhiều văn bản chỉ đạo.
- Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần IX của Đảng đã nhấn mạnh:
“Chăm lo phát triển GDMN, mở rộng hệ thống nhà trẻ, trên mọi địa bàn
dân cư”.


15
- Quyết định số161/2002/QĐ-TTg ngày 15/11/2002 của Thủ tướng
Chính phủ về một số chính sách phát triển GDMN: “Nhà nước tiếp tục tăng
đầu tư phát triển GDMN, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa sự nghiệp GDMN,
mở rộng hệ thống nhà trẻ và trường, lớp mẫu giáo trên mọi địa bàn dân cư;
ưu tiên đầu tư phát triển GDMN ở những xã có điều kiện kinh tế - xã hội khó
khăn, các xã vùng núi cao, hải đảo; tăng cường phổ biến kiến thức nuôi dạy
trẻ cho các gia đình, nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ em trước 06
tuổi, tạo điều kiện để trẻ em được phát triển toàn diện về thể chất, tình cảm,
trí tuệ, thẩm mỹ và hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách”.
- Quyết định số 149/2006/QĐ-TTg ngày 23/6/2006 của Thủ tướng Chính
phủ, phê duyệt Đề án “Phát triển GDMN giai đoạn 2006-2015”, nêu rõ quan
điểm chỉ đạo: “GDMN là cấp học đầu tiên của hệ thống giáo dục quốc dân,
đặt nền móng ban đầu cho sự phát triển thể chất, trí tuệ, tình cảm, thẩm mỹ
của trẻ em Việt Nam. Việc chăm lo phát triển GDMN là trách nhiệm chung của
các cấp chính quyền, của mỗi ngành, mỗi gia đình và toàn xã hội dưới sự lãnh
đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước”.
- Dự thảo chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam (lần thứ 14)
+ Thực hiện phổ cập giáo dục một năm cho trẻ 5 tuổi chuẩn bị tốt cho
trẻ vào học lớp một. Đến năm 2020 có 99% trẻ 5 tuổi được học một năm mẫu
giáo chuẩn bị vào lớp 1.
+ Chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ được chuyển biến cơ bản, giúp trẻ
phát triển hài hòa về thể chất, tình cảm trí tuệ và thẩm mỹ, hình thành những

yếu tố đầu tiên của nhân cách chuẩn bị tốt cho trẻ vào lớp 1. Đến năm 2020 có
90% số trẻ 5 tuổi đạt chuẩn phát triển; tỉ lệ trẻ suy dinh dưỡng trong các cơ sở
GDMN giảm ở mức dưới 10%.
+ Hoàn thành việc thí điểm chương trình GDMN mới vào năm 2008 để
chính thức triển khai trên phạm vi toàn quốc từ năm 2010. Thực hiện chương
trình chuẩn bị tiếng Việt cho lớp mẫu giáo 5 tuổi vùng núi, vùng dân tộc.


16
+ Thực hiện cuộc vận động toàn ngành đổi mới phương pháp dạy học
theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người học,
biến quá trình học tập thành quá trình tự học có hướng dẫn và quản lý của
giáo viên.
2) Mục tiêu GDMN
- Mục tiêu của GDMN là giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm, trí
tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho
trẻ em vào học lớp một [29].
- Phát triển GDMN nhằm tạo bước chuyển biến cơ bản, vững chắc và
toàn diện, nâng cao chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ; củng cố
mở rộng mạng lưới cơ sở GDMN, đặc biệt chú trọng đối với vùng đồng bào
dân tộc, vùng có điều kiện KT-XH đặc biệt khó khăn, vùng núi, vùng sâu,
vùng xa, vùng biên giới, hải đảo; đa dạng hóa các phương thức , bảo đảm chế
độ, chính sách cho giáo viên mầm non theo quy định. Phấn đấu đến năm 2010
hầu hết trẻ em đều được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ bằng những hình
thức thích hợp, giảm tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng.
3) Yêu cầu về thực hiện nội dung, chương trình và phương pháp
GDMN
- Nội dung GDMN phải bảo đảm phù hợp với sự phát triển tâm sinh lý
của trẻ em, hài hòa giữa nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục; giúp trẻ em phát
triển cơ thể cân đối, khỏe mạnh nhanh nhẹn; biết kính trọng, yêu mến, lễ phép

với ông bà, cha mẹ, thầy giáo, cô giáo và người trên; yêu quý anh, chị, em,
bạn bè; thật thà mạnh dạn, hồn nhiên, yêu thích cái đẹp; ham hiểu biết, thích
đi học.
- Phương pháp GDMN chủ yếu là thông qua việc tổ chức các hoạt động
vui chơi giúp trẻ em phát triển toàn diện; chú trọng việc nêu gương, động
viên, khích lệ.


17
- Chương trình GDMN thể hiện mục tiêu GDMN; cụ thể hóa các yêu cầu
về nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em ở từng độ tuổi; quy định việc tổ
chức các hoạt động nhằm tạo điều kiện để trẻ em phát triển về thể chất, tình
cảm, trí tuệ, thẩm mỹ; hướng dẫn cách thức đánh giá sự phát triển của trẻ em
ở tuổi mầm non.
- Đề án phát triển giáo dục nầm non giai đoạn 2006-2015 đã nêu rõ:
“Xây dựng và triển khai chương trình GDMN mới theo hướng tích hợp các
nội dung chăm sóc, giáo dục theo chủ điểm, tổ chức các hoạt động cho trẻ,
đặc biệt là hoạt động vui chơi cho phù hợp với sự phát triển tâm sinh lý lứa
tuổi và yêu cầu nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ”.
- Ở trường mầm non, ngoài những thiết bị phục vụ chăm sóc giáo dục
trẻ, đồ dùng dạy học là phương tiện hoạt động chủ yếu giúp cho trẻ khám phá
thế giới, thông qua đó giúp trẻ phát triển bền vững và toàn diện.
Cơ sở vật chất trang thiết bị dạy học, giáo dục trẻ là điều kiện để CBQL
và giáo viên mầm non tiến hành hoạt động của mình. Vì vậy, cơ sở vật chất
và thiết bị trường học phải được cung cấp đầy đủ, hiện đại và bổ sung thường
xuyên nhằm đáp ứng yêu cầu chăm sóc giáo dục trẻ. Một trong những giải
pháp nhằm phục vụ đổi mới nội dung, phương pháp GDMN là “Tăng cường
cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ chơi để bảo đảm tiến độ và chất lượng việc
thực hiện triển khai thực hiện chương trình GDMN mới” [31].
- Công tác xã hội hóa GDMN là một trong những yêu cầu chủ yếu hiện

nay. Đó là việc huy động mọi lực lượng cùng tham gia phát triển sự nghiệp
GDMN, tạo điều kiện để mọi người dân được thụ hưởng các thành quả do
hoạt động GDMN đem lại; trong đó kết hợp tăng cường đầu tư cho GDMN
của nhà nước với đẩy mạnh đa dạng hóa các loại hình trường lớp, phát triển
mạnh hệ thống các trường lớp mầm non ngoài công lập dưới sự quản lý của
Nhà nước và tổ chức tốt sự phối hợp giữa gia đình - nhà trường - xã hội cùng
chăm lo cho sự nghiệp GDMN.


18
1.3.2. Vai trò của đội ngũ CBQL trường mầm non trước yêu cầu đổi
mới và phát triển GDMN
Điều 16 của Luật Giáo dục (2005) đã xác định: “CBQL giáo dục giữ vai
trò quan trọng trong việc tổ chức, quản lý, điều hành các hoạt động giáo dục”.
CBQL trường mầm non là CBQL giáo dục đảm nhận trách nhiệm làm
hiệu trưởng hoặc phó hiệu trưởng trường mầm non. Vì vậy, họ “là người chịu
trách nhiệm quản lý các hoạt động của nhà trường, do cơ quan nhà nước có
thẩm quyền bổ nhiệm, công nhận” [23]:
Trong quản lý, để thực hiện hiệu quả các chức năng cơ bản của quản lý
(kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra) thì người hiệu trưởng trường
mầm non phải thể hiện được các vai trò lãnh đạo và quản lý chủ yếu dưới đây:
- Người chỉ đường và hoạch định sư phát triển nhà trường: vạch ra tầm
nhìn, sứ mạng, mục tiêu và các giá trị nhà trường trong xây dựng chiến lược
phát triển nhà trường mầm non.
- Người đề xướng sự thay đổi: chỉ ra những lĩnh vực cần thay đổi để phát
triển nhà trường mầm non theo đường lối và chính sách phát triển GD&ĐT
của Đảng và Nhà nước và theo xu thế phát triển giáo dục của thời đại.
- Người thu hút, dẫn dắt các nguồn nhân lực: tập hợp, thu hút, huy động
và phát triển các nguồn lực (nhân lực, tài lực và vật lực) thực hiện kế hoạch
chiến lược phát triển nhà trường, phát triển đội ngũ,… nhằm nuôi dững, chăm

sóc và giáo dục trẻ phát triển toàn diện.
- Người thúc đẩy phát triển: đánh giá, uốn nắn, khuyến khích, phát huy
thành tích, tạo các giá trị mới cho nhà trường.
- Người đại diện cho chính quyền về mặt thực thi pháp luật chính sách,
điều lệ, quy chế giáo dục và thực hiện các quy định về mục tiêu, nội dung,
chương trình, phương pháp, đánh giá chất lượng giáo dục GDMN.
- Hạt nhân thiết lập bộ máy tổ chức, phát triển, điều hành đội ngũ nhân
lực, hỗ trợ sư phạm và hỗ trợ quản lý cho đội ngũ cô giáo, nhân viên và


19
CBQL cấp dưới của nhà trường để mọi hoạt động của trường thực hiện đúng
tính chất, nguyên lý, mục tiêu, nội dung chương trình, phương pháp giáo dục.
- Chủ sự trong việc huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực vật
chất nhằm đáp ứng hoạt động nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ.
- Tác nhân xây dựng mối quan hệ giữa giáo dục nhà trường với giáo
dục gia đình và xã hội nhằm đảm bảo cho mọi hoạt động của nhà trường mầm
non trong một môi trường lành mạnh.
- Nhân tố tổ chức và vận hành hệ thống thông tin giáo dục Hệ thống
thông tin quản lý giáo dục (Education Management Information System –
EMIS) nói chung và hệ thống thông tin quản lý nhà trường mầm non nói riêng
để ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động nuôi dưỡng, chăm sóc
và giáo dục trẻ.
Từ các nhận định trên, cho thấy ngoài vai trò là một nhà giáo, hiệu
trưởng nhà trường còn có vai trò kép là nhà lãnh đạo và nhà quản lý. Lãnh
đạo để nhà trường luôn có sự thay đổi và phát triển bền vững, quản lý để các
hoạt động nhà trường có sự ổn định nhằm đạt tới mục tiêu [9].
1.3.3. Một số yêu cầu cơ bản về đội ngũ CBQL trường mầm non
1) Yêu cầu về số lượng
Điều lệ trường mầm non nêu rõ: “Trường hạng 1 có 2 phó hiệu trưởng,

trường hạng II có 1 phó hiệu trưởng được bố trí thêm 1 phó hiệu hiệu trưởng
nếu có từ 5 điểm trường hoặc có từ 20 trẻ em khuyết tật trở lên. Các hạng I, II
của nhà trường, nhà trẻ được quy định tại Thông tư số 71/2007/TTLTBGDĐT- BNV ngày 28 tháng 11 năm 2007 liên tịch Bộ Giáo dục và Đào tạo
và Bộ Nội vụ, hướng dẫn định mức biên chế sự nghiệp trong các cơ sở
GDMN công lập” [4].
2) Yêu cầu về cơ cấu
- Về cơ cấu độ tuổi và thâm niên: nhìn chung phải có độ tuổi phù hợp
theo các quy định (không quá 55 tuổi - vì đều là nữ). Chú ý tới trẻ hoá đội ngũ.


20
- Về cơ cấu giới: nhìn chung là nữ để phù hợp với đặc điểm đối tượng trẻ
mầm non, trẻ mẫu giáo.
- Về cơ cấu người dân tộc: chú trọng đồng đều theo tỉ lệ dân tộc của trẻ.
Điều này phải đặc biệt chú trọng đến các địa phương, các cơ sở GDMN có trẻ
là người của nhiều dân tộc.
- Về cơ cấu chuyên ngành đào tạo: trên thực tế nhà giáo và CBQL
GDMN được đào tạo theo nhiều hệ đào tạo khác nhau. Có thể là tại khoa
GDMN và khoa giáo dục tiểu học của các trường đại học sư phạm, có thể
được đào tạo để làm giáo viên ở trường cao đẳng nhà trẻ mẫu giáo, ... trường
cao đẳng sư phạm và ở trường trung cấp sư phạm. Chính vì vậy, cơ cấu này
hiện nay phải đảm bảo được những tồn tại thực tế; sau đó chuẩn hoá ở mức độ
cao hơn.
3) Yêu cầu về chuẩn trình độ đào tạo
Về chuẩn trình độ đào tạo: thực hiện chuẩn hiệu trưởng và phó hiệu
trưởng các trường mầm non được quy định tại Điều lệ trường mầm non và các
văn bản hướng dẫn của Bộ GD&ĐT, của các Sở GD&ĐT và đặc biệt là của Sở
Nội vụ các tỉnh/ thành phố và Phòng Nội vụ các huyện/quận.
- Đào tạo về chuyên môn: Điều lệ trường mầm non được ban hành theo
Quyết định số 14/2008/QĐ-BGDĐT ngày 7 tháng 4 năm 2008 của Bộ trưởng

Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hiệu trưởng và Phó hiệu trưởng trường mầm non
phải có trình độ chuẩn được đào tạo là có bằng trung cấp sư phạm mầm non;
có ít nhất 5 năm (đối với Hiệu trưởng) và ít nhất 3 năm (đối với Phó hiệu
trưởng) công tác liên tục trong GDMN. Như vậy, muốn bổ nhiệm CBQL
trường mầm non, trước hết phải quan tâm đến trình độ chuẩn và thâm niên
công tác của những cán bộ giáo viên cần tuyển chọn.
- Điều kiện kế tiếp không thể thiếu là người được bổ nhiệm Hiệu trưởng
và Phó hiệu trưởng trường mầm non cũng phải tuân theo quy định chung là
phải có bằng trung cấp chính trị. Quy định này được ban hành theo Quyết


21
định số 28/2007/QĐ-UBT, của chủ tịch UBND tỉnh Trà Vinh. Theo đó,
những giáo viên mầm non thuộc diện quy hoạch cán bộ lãnh đạo và những
CBQL chưa có trình độ lý luận chính trị, được đào tạo trung cấp hoặc cao cấp
chính trị.
- Đào tạo về lý luận và nghiệp vụ quản lý: Điều lệ trường mầm non quy
định, Hiệu trưởng “Đã hoàn thành chương trình bồi dưỡng CBQL,...”. Ngoài
ra, Hiệu trưởng và Phó hiệu trưởng trường mầm non phải thường xuyên “Dự
các lớp bồi dưỡng về chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ quản lý,...” để cập nhật
kịp thời những thông tin mới về chuyên môn nghiệp vụ và quản lý.
4) Yêu cầu về phẩm chất của đội ngũ CBQL
- Có được phẩm chất của một nhà giáo
a) Chấp hành đúng luật pháp và chính sách Nhà nước. Có ý thức
tổ chức, kỷ luật cao.
b) Có chí tiến thủ, có ý thức tự học nâng cao trình độ chính trị,
chuyên môn, nghiệp vụ và quản lý.
c) Yêu nghề mến trẻ, tận tụy với công việc, trách nhiệm . Không
tham nhũng, không cửa quyền, hách dịch
d) Hiểu biết, tôn trọng, hợp tác với các cộng sự, với các cấp quản lý.

e) Có ý thức cao trong phê và tự phê bình, tiết kiệm, bảo vệ của
công, rèn luyện tu dưỡng đạo đức.
g) Đoàn kết, tương thân tương ái, gương mẫu, giản dị, trung thực,
nhân ái, sống hòa đồng với mọi người
k) Khiêm tốn, lắng nghe ý kiến của đồng nghiệp và nhân dân.
l) Có uy tín với tập thể, với nhân dân địa phương
m) Tiết kiệm, bảo vệ tài sản, tài chính của nhà trường.
n) Có sức khoẻ tốt để đảm đương công việc
- Có được phẩm chất của người lãnh đạo và quản lý, thể hiện được các
vai trò chủ yếu:


22
a) Lập trường quan điểm chính trị vững vàng, quyết tâm thực hiện
sự nghiệp đổi mới.
b) Nắm vững đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước(đặc biệt là về GD&ĐT)
c) Có tầm nhìn chiến lược phát triển nhà trường
d) Say mê học tập, sáng tạo để thích ứng với sự thay đổi.
e) Có ý chí, nghị lực vượt khó; dám nghĩ, dám làm; bình tĩnh, chín
chắn, cẩn trọng trong công việc.
5) Yêu cầu về năng lực của CBQL trường mầm non
- Thể hiện tốt các vai trò lãnh đạo trường học
a) Năng lực chỉ đường và hoạch định sự phát triển nhà trường:
vạch ra tầm nhìn, sứ mạng, mục tiêu và các giá trị nhà trường trong xây dựng
chiến lược phát triển nhà trường mầm non.
b) Năng lực đề xướng sự thay đổi: chỉ ra những lĩnh vực cần thay
đổi để phát triển nhà trường mầm non theo đường lối và chính sách phát triển
GD&ĐT của Đảng và Nhà nước và theo xu thế phát triển giáo dục của thời đại.
c) Năng lực thu hút, dẫn dắt các nguồn nhân lực: tập hợp, thu

hút, huy động và phát triển các nguồn lực (nhân lực, tài lực và vật lực) thực
hiện kế hoạch chiến lược phát triển nhà trường, phát triển đội ngũ,… nhằm
nuôi dững, chăm sóc và giáo dục trẻ phát triển toàn diện.
d) Năng lực thúc đẩy phát triển: đánh giá, uốn nắn, khuyến
khích, phát huy thành tích, tạo các giá trị mới cho nhà trường.
- Thể hiện tốt các vai trò nhà quản lý trường học
e) Năng lực về luật pháp (đại diện cho chính quyền về mặt thực
thi pháp luật chính sách, điều lệ, quy chế giáo dục và thực hiện các quy định
về mục tiêu, nội dung, chương trình, phương pháp, đánh giá chất lượng
GDMN).


23
g) Năng lực về tổ chức (hạt nhân thiết lập bộ máy tổ chức, phát
triển, điều hành đội ngũ nhân lực, hỗ trợ sư phạm và hỗ trợ quản lý cho đội
ngũ cô giáo, nhân viên và CBQL cấp dưới của nhà trường để mọi hoạt động
của trường thực hiện đúng tính chất, nguyên lý, mục tiêu, nội dung chương
trình, phương pháp giáo dục).
h) Năng lực về quản lý kinh tế (chủ sự trong việc tổ chức huy
động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực vật chất nhằm đáp ứng hoạt động
nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ).
i) Năng lực giao tiếp (tác nhân xây dựng mối quan hệ giữa giáo
dục nhà trường với giáo dục gia đình và xã hội nhằm đảm bảo cho mọi hoạt
động của nhà trường mầm non trong một môi trường lành mạnh).
k) Năng lực về ứng dụng công nghệ thông tin (nhân tố tổ chức và
vận hành hệ thống thông tin giáo dục, hệ thống thông tin quản lý giáo dục
(Education Management Information System – EMIS) nói chung và hệ thống
thông tin quản lý nhà trường mầm non nói riêng để ứng dụng công nghệ
thông tin trong các hoạt động nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ).
1.4. NỘI DUNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ CÁN BỘ QUẢN

LÝ GIÁO DỤC MẦM NON

Tiếp cận trên cơ sở lý luận quản lý nguồn nhân lực thì đội ngũ nhà giáo
(ĐNNG) và CBQLGD là một bộ phận trong nguồn nhân lực của hệ thống
giáo dục. Phát triển ĐNNG và CBQLGD là quản lý việc phát triển nguồn
nhân lực của các nhà trường và các cơ quan quản lý giáo dục đối với các
trường học.
Nội dung quản lý hoạt động phát triển đội ngũ CBQL GDMN được đề
cập dưới đây dựa trên lý luận phát triển nguồn nhân lực.
1.4.1. Xây dựng quy hoạch phát triển đội ngũ CBQL trường mầm non
Nội dung và quy trình xây dựng quy hoạch phát triển đội ngũ CBQL
trường mầm non xét trên phương diện công tác quản lý của Sở GD&ĐT gồm:


24
- Đánh giá tác động của môi trường xã hội có ảnh hưởng đến phát triển
GDMN, để chỉ ra các cơ hội và thách thức đối với công tác phát triển đội ngũ
CBQL trường mầm non.
- Đánh giá thực trạng đội ngũ CBQL trường mầm non của toàn tỉnh để
nhận biết được các khó khăn và thuận lợi đối với công tác phát triển đội ngũ
CBQL trường mầm non, dựa trên thực trạng số lượng, cơ cấu, trình độ đào
tạo, năng lực và phẩm chất của đội ngũ CBQL trường mầm non ở từng cơ sở
GDMN.
- Dự báo quy mô phát triển các cơ sở GDMN của tỉnh, để nhận biết được
số lượng các trường mầm non của cả tỉnh hiện tại, trong tương lại gần (5 năm)
và tương lai xa (10 hoặc 15 năm).
- Xây dựng chuẩn CBQL trường mầm non.
- Đề ra mục tiêu quy hoạch, trong đó có các mục tiêu về số lượng, cơ
cấu, trình độ đào tạo, năng lực và phẩm chất của đội ngũ CBQL trường mầm
non của tỉnh trong từng giai đoạn (5, 10, 15 năm, ...) phù hợp với quy mô phát

triển GDMN và phù hợp với chuẩn đã có.
- Chỉ ra tiến trình thực hiện mục tiêu, trong đó có xác định các mục tiêu
ưu tiên, thời lượng và thời hạn hoàn thành từng mục tiêu (bắt đầu và kết thúc).
- Xây dựng các biện pháp thực hiện quy hoạch, trong đó có các biện
pháp về nhận thức, về chính sách và cơ chế, về đào tạo và bồi dưỡng, về điều
động và luận chuyển, về nguồn cung cấp CBQL, về nhân lực và tài lực thực
hiện quy hoạch,....
- Chỉ ra các điều kiện thực hiện mục tiêu
- Đưa ra các đề nghị hoặc kiến nghị cần thiết để thực hiện quy hoạch.
1.4.2. Thực hiện quy hoạch phát triển đội ngũ CBQL trường mầm non
1) Tuyển chọn và bổ nhiệm
- Tuyển chọn:


25
Theo lý thuyết về quản lý và phát triển nguồn nhân lực, công tác tuyển
chọn đội ngũ CBQL có hai hoạt động cụ thể là tuyển mộ và lựa chọn.
Tuyển mộ là cung cấp một nhóm đủ lớn các ứng viên có khả năng đáp ứng
cho các vị trí cần tuyển nhằm tạo điều kiện cho tổ chức có thể lựa chọn những
thành viên phù hợp có thể đáp ứng nhiệm vụ một cách tốt nhất.
Trước hết, phải xác định vị trí công tác cần tuyển mộ và mô tả rõ công việc,
có nghĩa là tuyển mộ phải “nêu rõ tên gọi (chức danh) công việc hay vị trí công
tác; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm cho vị trí sắp đặt trong tổ chức”.
Sau đó phải đưa ra yêu cầu hay tiêu chuẩn tuyển mộ về trình độ, văn
bằng chứng chỉ, kiêm nhiệm, kỹ năng tay nghề để hoàn thành công việc hay
vị trí quản lý sẽ đảm đương.
Nguồn tuyển mộ có thể từ bên trong tổ chức hoặc bên ngoài tổ chức.
Mỗi nguồn tuyển mộ đều có ưu điểm và nhược điểm riêng. Chẳng hạn như
tuyển mộ từ bên trong tổ chức, người được tuyển mộ có thể thích nghi nhanh
chóng với nhiệm vụ mới vì họ đã quen với hoạt động, truyền thống, luật lệ

của tổ chức; khích lệ sự trung thành kiên định của mọi thành viên với tổ chức.
Tuy nhiên, nhược điểm của cách làm này là dễ dẫn đến sự tự mãn của nhiều
thành viên trong tổ chức và gây nên trạng thái tâm lý “sống lâu lên lão làng”.
Nếu tuyển mộ từ nguồn ngoài tổ chức thì cần phải lưu ý đến vấn đề pháp luật,
áp lực từ bên trong tổ chức, sự ảnh hưởng và tác động của người quản lý và
tốn kém hơn
Như vậy, với công tác tuyển mộ nhân sự đối với các CBQL cũng cần tân
theo các yêu cầu trên. Tuy nhiên, đối với đội ngũ CBQL GDMN cần kết hợp
các xu hướng khác nhau để tuyển mộ được những người quản lý có phẩm
chất tốt, có lòng yêu mến trẻ, tận tụy với sự nghiệp chăm sóc, nuôi dưỡng và
giáo dục trẻ.
Lựa chọn.


×