Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ PHÁP LÝ VÀ CHÍNH SÁCH ĐỂ QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.71 KB, 28 trang )

Sử dụng các công cụ pháp lý và chính sách để quản lý chất thải rắn
TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHIỆP TP.HCM
VIỆN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
TIỂU LUẬN MÔN HỌC
QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN VÀ CHẤT THẢI NGUY HẠI
SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ PHÁP LÝ VÀ CHÍNH SÁCH
ĐỂ QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN
1.
Trang 1
Sử dụng các công cụ pháp lý và chính sách để quản lý chất thải rắn
MỤC LỤC
1. TỔNG QUAN CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH MÔI TRƯỜNG
1.1 Đánh giá chi phí môi trường.........................................................................................
1.2 Phương pháp xây dựng chính sách môi trường............................................................
2. CÁC CÔNG CỤ PHÁP LÝ TRONG CÔNG TÁC QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN
2.1 Các tiêu chuẩn..............................................................................................................
2.2 Các loại giấy phép........................................................................................................
2.3 Các công cụ kinh tế.......................................................................................................
3. CHU TRÌNH HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH MÔI TRƯỜNG
3.1 Chu trình hoạch định chính sách..................................................................................
3.2 Các bước xây dựng chính sách.....................................................................................
4. CÁC MỐI QUAN HỆ VÀ THỂ CHẾ
5. NHU CẦU TĂNG CƯỜNG THỂ CHẾ Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
6. CHIẾN LƯỢC QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN Ở VIỆT NAM
6.1 Đường lối chiến lược....................................................................................................
6.2 Chính sách quản lý chất thải rắn..................................................................................
6.3 Các giải pháp để thực hiện chiến lược.........................................................................
6.4 Thiết lập hệ thống quan trắc, phân tích môi trường quốc gia......................................
6.5 Nâng cao nhận thức của cộng đồng..............................................................................
6.6 Giáo dục và đào tạo nhận thức.....................................................................................
PHỤ LỤC


1. TỔNG QUAN CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH MÔI TRƯỜNG
Chính sách môi trường là những quy định của cơ quan hành chính quốc gia hoặc của
cộng đồng về lĩnh vực sử dụng hợp lý tài nguyên, bảo vệ môi trường nhằm mục tiêu “phát
triển bền vững”. Một chính sách được ban hành phải dựa trên cơ sở 5 nguyên tắc cơ bản sau:
- Chính sách môi trường phải được ban hành và thực hiện hợp hiến, hợp pháp và thống
nhất.
- Nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền”.
- Nguyên tắc phòng ngừa.
Trang 2
Sử dụng các công cụ pháp lý và chính sách để quản lý chất thải rắn
- Nguyên tắc hợp tác giữa các đối tác.
- Nguyên tắc sự tham gia của cộng đồng.
Sự yếu kém và thất bại của chính sách là do sự can thiệp không phù hợp, không kịp
thời hoặc không cần thiết. Đây là trách nhiệm không những của chính quyền mà còn là của
các cơ quan hỗ trợ khi họ ủng hộ hay tài trợ cho các chính sách sai lầm này. Chính sách yếu
kém là một trong những nguyên nhân gây suy thoái môi trường, thể hiện ở một số dạng sau:
- Thị trường có thể đang hoạt động tốt nhưng sự can thiệp của chính quyền có thể làm biến
dạng đi. Ví dụ, những can thiệp của chính quyền qua thuế khóa, bù lỗ cho các xí nghiệp
quốc doanh kém hiệu quả, khuyến khích cho các dự án công cộng với việc hoàn trả kinh tế
chậm và chịu nhiều tác động môi trường.
- Nhiều khoản tài trợ tuy có tăng thu nhập, nhưng dẫn đến việc sử dụng quá mức tài nguyên
gây mất cân bằng sinh thái. Ví dụ, các chính sách khuyến khích các nguồn tài trợ cho phân
bón hóa học, hóa chất bảo vệ thực vật.
- Chính quyền can thiệp nhằm sửa chữa sự yếu kém của thị trường, nhưng hậu quả của sự
can thiệp này còn tồi tệ hơn so với khi không can thiệp.
- Khi cần có sự can thiệp kịp thời thì lại thiếu chính sách phù hợp. Ví dụ chậm hoặc không
ban hành quyền sở hữu đất đai cho nông dân.
Như vậy một chính sách thực sự có hiệu quả nhất thiết phải được xây dựng dựa trên
phương châm trong hoạch định chính sách môi trường.
1.1 Đánh giá chi phí môi trường

Bước đi đầu tiên trong hoạch định chính sách là đánh giá chi phí môi trường. Quá
trình này thường khó chính xác. Các chỉ tiêu đánh giá thường tập trung vào:
- Sử dụng giá cả thị trường : giá cả thị trường được sử dụng để đánh giá khi thiệt hại môi
trường dẫn đến những thiệt hại về sản xuất hoặc sức khỏe. Với thiệt hại về sản xuất có thể
thông qua giá cả để tính tiền. Với ảnh hưởng đến sức khỏe có thế dùng chỉ số về bệnh tật
hay sức khỏe, chết yểu, suy dinh dưỡng…
- Chi phí thay thế: đây là chi phí dùng để nhà đầu tư khắc phục hậu quả thiệt hại về môi
trường do dự án của mình gây ra.
- Thị trường thay thế: sự xuống cấp của môi trường có thể được đánh giá thông qua hậu quả
của nó đến các thị trường khác - đặc biệt là giá trị tài sản và tiền lương. Ví dụ như mức
Trang 3
Sử dụng các công cụ pháp lý và chính sách để quản lý chất thải rắn
lương và phụ cấp ở các vùng ô nhiễm, giá cả nhà cửa cao nếu nó thông thoáng và nằm ở
vùng không khí trong lành.
- Các nghiên cứu: chi phí này nhằm tìm kiếm các nguồn thông tin chính xác về môi trường
có thể giúp ích cho việc đầu tư và hoạch định kế hoạch quản lý.
1.2 Phương pháp xây dựng chính sách môi trường
a. Lựa chọn ưu tiên thông qua đánh giá chi phí
- Việc so sánh chi phí khắc phục thiệt hại với lợi ích bảo vệ môi trường (chi phí phòng
ngừa) sẽ giúp cho nhà hoạch định chính sách có những quyết định chính xác hơn.
- Việc ban hành các tiêu chuẩn môi trường cũng cần dựa trên sự phân tích chi phí - lợi ích
để sao cho các tiêu chuẩn này khả thi trong điều kiện cụ thể. Những tiêu chuẩn yêu cầu chi
phí thấp có thể được đề ra chặt chẽ và nghiêm ngặt hơn.
- Khi có những lựa chọn về ưu tiên, tiêu chuẩn về chính sách đối với môi trường, chính phủ
ngầm đưa vào các giá trị về các thiệt hại khác nhau. Điều này tốt hơn là đưa ra những lựa
chọn chỉ thông qua phân tích dữ liệu và tri thức khoa học tiến bộ, việc đánh giá môi
trường đang từng bước được mở rộng sang lĩnh vực mới của công việc hoạch định chính
sách.
b. Mục tiêu, hình thức và phương pháp của chính sách môi trường
Phương pháp: gồm quy định và những khuyến khích kinh tế.

Việc thực thi chính sách có thể bằng hai phương pháp: điều hành (chỉ huy và kiểm
soát) hoặc khuyến khích kinh tế (áp dụng các công cụ thị trường):
- Các quy định (điều hành chính sách) chỉ phù hợp với hoàn cảnh thiếu sự cạnh tranh trong
nền kinh tế của các xí nghiệp công nghiệp, vấn đề sử dụng đất, hoàn toàn có lơi khi áp
dụng các tiêu chuẩn bắt buộc đối với các cơ sở sản xuất thải chất thải độc hại như sản xuất
phân bón, thuốc trừ sâu, sơn, in, dung môi hóa chất…Bằng việc ban hành các tiêu chuẩn
và quy định này đối với các nhà sản xuất, chính quyền có thể cải thiện môi trường.
- Các khuyến khích kinh tế (sử dụng nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền và các công
cụ kinh tế).
Trái ngược với các quy định chỉ tác động đến những người vi phạm, các chính sách
dựa trên cơ chế thị trường đã tác động đến tất cả những người gây ô nhiễm và những người sử
dụng tài nguyên bởi vì họ đều được khuyến khích tìm mọi cách làm giảm thiệt hại môi trường
để nâng cao lợi ích. Theo những nghiên cứu ở Anh và Mỹ cho thấy những khuyến khích kinh
tế đã tạo ra những chi phí thấp hơn các quy định (khoảng từ 1: 1,1 đến 1:22).
Trang 4
Sử dụng các công cụ pháp lý và chính sách để quản lý chất thải rắn
Các khuyến khích kinh tế chỉ thành công trong một nền kinh tế thị trường lành mạnh,
thực hiện đầy đủ ba nhân tố: quyền sở hữu, cạnh tranh lành mạnh và đa dạng hóa các thành
phần kinh tế - nhà sản xuất - nhà sử dụng tài nguyên. Các xí nghiệp quốc doanh được bao cấp
và bảo trợ thường không nhạy bén với chính sách kinh tế vì họ không quan tâm tới chi phí. Sự
thiếu cạnh tranh làm giảm sức ép đến cả các doanh nghiệp tư nhân nhằm giảm chi phí đến
mức thấp nhất. Việc đa dạng hóa các thành phần kinh tế và nhà sản xuất cũng tạo điều kiện
làm nảy sinh nhiều sáng kiến.
Mục tiêu:
Tập trung vào giá cả, số lượng hay công nghệ. Sự xuống cấp của môi trường có thể
được kiểm soát hoặc bằng cách thay đổi giá của các tài nguyên môi trường (áp dụng lệ phí
hay thuế), hoặc bằng cách hạn chế lượng sử dụng (định mức thải, khoanh vùng sử dụng đất).
Các chính sách quy định về lượng tài nguyên sử dụng có tác dụng ấn định mức thiệt
hại có thể chấp nhận đối với môi trường, còn chính sách nhằm vào giá sẽ ấn định chi phí kiểm
tra (kiểm soát) tác hại đối với môi trường.

Các chính sách quy định lượng ô nhiễm hoặc sử dụng tài nguyên thường ở dạng các
quy định, tuy nhiên trong cơ chế thị trường, việc thương mại hóa các giấy phép (đấu thầu,
mua bán) vẫn có thể nâng cao hiệu quả sử dụng giấy phép theo định lượng.
Các chính sách định lượng rất thích hợp để kiểm soát các chất thải nguy hại, kiểm soát
các vấn đề ô nhiễm gây ảnh hưởng trực tiếp cho sức khỏe con người và đối với tài nguyên
thiên nhiên như là môi trường sống duy nhất (đất ướt, bờ biển nhạy cảm, các rạn san hô, rừng
mưa nhiệt đới).
Hình thức:
Có thể là chính sách trực tiếp hay gián tiếp. Chính sách gián tiếp tác động đến chất
lượng môi trường bằng cách gây ảnh hưởng hoặc quy định đối với việc sử dụng tài nguyên
hay hàng hóa. Chính sách trực tiếp thường nhằm vào thuế phát thải, lệ phí xả thải hoặc thuế
khai thác tài nguyên. Những hạn chế khi áp dụng chính sách trực tiếp:
- Các tác động môi trường ngày càng nhiều và càng phân tán, đòi hỏi chi phí cao cho việc
giám sát liên tục.
- Khó có thể giám sát đối với những người gây ô nhiễm hoặc sử dụng tài nguyên ở quy mô
nhỏ và phân tán (ví dụ: các hoạt động đào đãi vàng, chặt đốn củi…)
Trang 5
Sử dụng các công cụ pháp lý và chính sách để quản lý chất thải rắn
- Sự giám sát tùy thuộc khả năng công nghệ.
- Các vấn đề môi trường thường không bị bó gọn trong biên giới hành chính quốc gia để
chịu sự giám sát.
Do đó các chính sách trực tiếp chỉ thích hợp với việc quản lý phát thải, xả thải của các
xí nghiệp lớn về bụi, khí SO
2
, ô nhiễm công nghiệp, khai thác mỏ, khai thác gỗ của các công
ty lớn.
Những chính sách gián tiếp đặc biệt có lợi khi việc giám sát và khả năng thực hiện của
các cấp điều hành kém hoặc khó thực hiện. Ví dụ: ô nhiễm không khí do: xe cộ, sử dụng năng
lượng trong gia đình, phá rừng quá mức do người dân địa phương, sử dụng hóa chất trong
công nghiệp, chất thải rắn độc hại có nguồn gốc phân tán từ hộ gia đình hay tổ hợp sản xuất

nhỏ.
Trong công tác quản lý chất thải rắn, cơ sở của việc thiết lập chính sách quản lý chất
thải rắn bao gồm các yếu tố sau:
Các quy định mang tính “điều hành và kiểm soát”. Các nhà sản xuất buộc phải áp
dụng các kỹ thuật hiện đại để xử lý ô nhiễm, giảm thiểu tác động xấu ngay tại nguồn phát sinh
nhằm đạt các tiêu chuẩn, các quy định ban hành.
Các công cụ khuyến khích kinh tế nhằm ngăn ngừa tác động xấu của chất thải rắn đối
với môi trường. Đặc điểm của các công cụ khuyến khích kinh tế này là nó tác động trực tiếp
hoặc gián tiếp đến lợi nhuận của các nhà sản xuất, từ đó buộc các nhà sản xuất phải thay đổi
thái độ trong việc khai thác, sử dụng tài nguyên cho sản xuất.
2. CÁC CÔNG CỤ PHÁP LÝ TRONG CÔNG TÁC QUẢN LÝ
CHẤT THẢI RẮN
2.1 Các tiêu chuẩn
Các tiêu chuẩn áp dụng cho mọi khía cạnh của việc quản lý chất thải rắn, bao gồm lưu
chứa, thu gom, vận chuyển, khôi phục tài nguyên và tiêu hủy cuối cùng. Các tiêu chuẩn chủ
yếu bao gồm: tiêu chuẩn kỹ thuật và tiêu chuẩn vận hành được áp dụng cho lưu chứa, thu gom
vận chuyển chất thải rắn, cũng như quản lý, vận hành, bảo dưỡng các phương tiện. Các tiêu
chuẩn này bao gồm các quy định về giảm thiểu và tái chế chất thải.
Tiêu chuẩn kỹ thuật và vận hành liên quan tới việc thu gom chất thải rắn, quy định rõ
các loại hình thùng chứa, các địa điểm thu gom các thùng rác, và cả số lượng cũng như loại
Trang 6
Sử dụng các công cụ pháp lý và chính sách để quản lý chất thải rắn
chất thải phải thu gom. Trong tiêu chuẩn quy định tần suất thu gom (ví dụ một hoặc hai lần
một tuần, tại các khu dân cư) cũng như các yêu cầu đối với chính các xe cộ thu gom. Các tiêu
chuẩn bao gồm các yêu cầu về tiếng ồn đối với các khung gầm xe tải, các cơ cấu nén chất thải
cũng như các yêu cầu đối với các xe tải phanh hơi. Một số khu còn yêu cầu các xe thu gom
rác phải đậy kín trong mọi lúc, trừ lúc chất hoặc dỡ rác. Các khu khác yêu cầu các xe phải
được duy trì trong tình trạng tốt và đêm nào cũng phải đổ sạch rác.
Ở nhiều nước, những biện pháp giảm lượng chất thải rắn tạo thành cũng như khuyến
khích việc sử dụng lại các vật liệu được áp dụng rộng rãi. Ở Mỹ chẳng hạn, một số bang có

luật bắt buộc cư dân phải thu nhặt lại những vật có thể tái chế tại nơi đổ rác bên lề đường.
Một số bang yêu cầu phải phân loại các chất thải từ các hộ thành các loại khác nhau, trước khi
thu gom.
Chính phủ Pháp quy định phải dùng các vật liệu, nguyên tố hay các nguồn năng lượng
nhất định để tạo điều kiện dễ dàng cho việc khôi phục lại các vật liệu thành phần. Chính phủ
cũng có thể yêu cầu các nhà chế tạo và các nhà nhập khẩu sử dụng các vật liệu tận dụng để
bảo vệ môi trường hoặc giảm bớt sự thiếu hụt nguyên, vật liệu nào đó. Tuy nhiên cần phải
tham khảo và thương lượng nhất trí với các tổ chức nghiệp đoàn trước khi áp đặt các yêu cầu
này.
Ở Triều Tiên, luật “khôi phục nhựa phế thải” yêu cầu việc tái chế nhựa phế thải phải
do các công ty thích hợp thực hiện.
Các tiêu chuẩn kỹ thuật và vận hành cũng chi phối việc chọn địa điểm, thiết kế, xây
dựng và đóng cửa các phương tiện xử lý chất thải rắn. Ví dụ ở Mỹ, luật bảo tồn và khôi phục
tài nguyên (resourrce conservation and recovery Act - RCRA) cấm các bãi chôn lấp hở, và
yêu cầu các bãi chôn lấp phải được nâng cấp đạt tiêu chuẩn các bãi vệ sinh.
Các tiêu chuẩn kỹ thuật cũng bao gồm các hệ thống phát hiện rò rỉ, giám sát nước
ngầm, những hạn chế về địa điểm và các biện pháp khắc phục. Ở pháp, các tiêu chuẩn kỹ
thuật đề cập tới bố trí mặt bằng địa điểm, cảnh quan, kiểm soát và quản lý nước, quản lý các
khí lên men, kiểm soát nước chảy tới để tránh sự xâm nhập của các chất thải công nghiệp đặc
biệt và kiểm soát sau đóng bãi.
2.2 Các loại giấy phép
Trang 7
Sử dụng các công cụ pháp lý và chính sách để quản lý chất thải rắn
Các loại giấy phép được cấp cho các loại phương tiện sử dụng trong chất thải rắn
được phê duyệt để đảm bảo công tác tiêu hủy chất thải rắn được an toàn. Các giấy phép địa
điểm chỉ có thể được cấp, nếu như giấy phép quy hoạch cần có đối với địa điểm này đã có
hiệu lực. Chúng có thể phải tuân theo các điều kiện do các cơ quan quản lý chất thải rắn quy
định và có thể bao gồm các hạng mục như: thời hạn của giấy phép; sự giám sát bởi người giữ
giấy phép; loại và số lượng chất thải, các phương pháp giải quyết chất thải; sự ghi lại thông
tin; các biện pháp đề phòng cần có; những giờ thích hợp cho việc giải quyết chất thải; và các

công việc cần phải hoàn thành trước khi các hoạt động được phép bắt đầu, hoặc trong khi các
hoạt động đó tiếp diễn.
Giấy phép xả thải (cô-ta xả thải): đây là giải pháp được đề xuất làm tăng quá trình tái
chế giấy loại, dầu thải, săm lốp cũ ở Mỹ. Hệ thống này không những yêu cầu đạt tiêu chuẩn
môi trường của các chất thải mà nó còn tạo sự thích ứng linh hoạt cho các nhà sản xuất. Giấy
phép được quyền mua và bán giữa nơi sản xuất có chi phí cho các hoạt động tái chế cao và
nơi có chi phí cho hoạt động tái chế thấp. Những chi phí này bao gồm chi phí cho nguyên liệu
đầu vào đã qua tái chế hoặc chi phí để tái chế phế liệu sau khi xả thải.
2.3 Các công cụ kinh tế
a. Các lệ phí: Có 3 loại phí được áp dụng cho việc thu gom và đổ bỏ chất thải rắn:
phí người dùng, phí đổ bỏ và phí sản phẩm.
Phí người sử dụng dịch vụ (phí người dùng):
Phí người dùng được áp dụng phổ biến cho việc thu gom và xử lý chất thải rắn của các
đô thị. Chúng được coi là những khoản tiền phải trả thông thường cho các dịch vụ đó, rất
hiếm khi được coi là biện pháp kích thích. Trong phần lớn trường hợp, phí được tính toán để
trang trải tổng chi phí và không phản ánh những chi phí biên xã hội của các ảnh hưởng môi
trường. Trong một số trường hợp, chính quyền đô thị đã đặt ra các hệ thống định giá chất thải
để cung cấp những khuyến khích liên tục cho các hộ dân cư giảm thiểu chất thải. Ví dụ, các lệ
phí có thể thay đổi theo số thùng rác (ở Seattle, Washington), cũng như hệ thống phí thu theo
từng túi rác (ở New Jersey, Pensylvania, Illinois) đã làm giảm đáng kể chi phí cho việc thu
gom rác. Ở Mỹ, một vài cộng đồng đã đặt ra các hệ thống định giá chất thải rắn để kích thích
các hộ gia đình giảm bớt chất thải. Ví dụ, ở Seattle Washington, “cơ cấu định giá rác thải
Trang 8
Sử dụng các công cụ pháp lý và chính sách để quản lý chất thải rắn
thay đổi” cho dân cư - những người phải trả phí cho các thùng rác họ sử dụng - những kích
thích này làm cho họ giảm bớt số lượng thùng rác mà họ đổ đầy. Khi họ giảm bớt số thùng
rác, thì họ được đền đáp bằng một hóa đơn thu tiền rác ít hơn. Cơ cấu mức phí bao gồm một
vài thành phần: mức phí đa hộ, mức phí cơ bản, (thùng 1 lít, thu rác hàng tuần chịu chi phí
13,75 USD mỗi tháng, mỗi thùng 120 lít tăng thêm phải chịu thêm 9 USD); mức phí rác tập
trung; mức phí cho các khách hàng thu nhập thấp, lớn tuổi, tàn tật, mức phí thu gom rác thải

tại sân và lề đường (phí thu gom tại sân lớn hơn 40% so với tại lề đường để khuyến khích hạ
thấp chi phí thu gom); mức phí rác thải đổ thêm (một tích kê rác trả tiền trước giá 5 USD
dùng cho rác đổ thêm); mức phí rác sân; mức phí thùng nhỏ (dịch vụ thùng rác nhỏ 100 lít;
10,7 USD/tháng cho những ai thải ra ít rác, hoặc có thể tái chế, làm phân ủ phần lớn các rác
thải của họ);và thu gom các vật cồng kềnh. Tháng giêng năm 1989, chương trình Seattle đã
được hoàn thành: lượng rác thu gom hàng tháng vào năm đó đã giảm 30% so với năm 1988.
Hệ thống thu gom chất thải rắn ở New Jersey và Pennsylvania minh họa thêm về tính
hiệu quả của hệ thống trả phí theo từng túi rác. Tại High Bridge, New Jersey, mỗi thùng hoặc
túi 120 lít đặt ở lề đường để thu gom hàng tuần cần có một tem dán của thành phố (năm 1988,
các hộ đã mua 52 tem dán trị giá 140 USD, còn có các tem dán bổ sung, mỗi băng 10 tem trị
giá 12,5 USD). Kể từ khi áp dụng hệ thống này từ năm 1988, khối lượng rác cư dân thải ra đã
giảm đi 25%; khối lượng rác thu gom đã giảm từ 8,5 tấn mỗi ngày xuống còn 6,3 tấn mỗi
ngày. Tại Perkasie, Pensylvania, việc áp dụng phí tính theo túi vào năm 1988 đã giảm được
quá nửa khối lượng rác thải rắn; chi phí đổ rác thải rắn đã giảm từ 30 – 40%. Phần lớn sự
giảm bớt này là do việc tách riêng và tái chế thủy tinh, giấy và các can nhôm. Tuy nhiên, một
kết quả khác của chương trình này là một số doanh nghiệp địa phương đã phải xích và khóa
thùng rác của họ. Ngoài ra, một số cư dân địa phương đã đốt rác bất hợp pháp trong các lò
sưởi của mình (Anderson et al, 1993).
Dựa trên kinh nghiệm ở Mỹ, tính hiệu quả của việc định giá biên trong việc giảm thiểu
khối lượng chất thải rắn cũng được nâng cao khi các cộng đồng thực hiện các quy trình tái chế
đối với giấy báo, thủy tinh, nhựa và kim loại (Anderson et al. 1989). Các phí dựa trên khối
lượng chất thải được thu gom, song đã nảy sinh các khó khăn liên quan tới chi phí giám sát
cao, bất đồng về cơ sở tính phí, lập hóa đơn.
Các phí đổ bỏ:
Trang 9
Sử dụng các công cụ pháp lý và chính sách để quản lý chất thải rắn
Các phí đổ bỏ (còn gọi là phí tiêu hủy cuối cùng) là loại phí trực tiếp đánh vào các chất
thải độc hại, hoặc tại các cơ sở sản sỉnh ra hay tại điểm tiêu hủy. Mục tiêu chính của những
phí này là cung cấp cho công nghiệp những kích thích kinh tế để sử dụng các phương pháp
quản lý chất thải như giảm bớt chất thải, tái chế là các phương pháp thân thiện với môi trường

hơn là phương pháp chôn rác có nhiều nguy cơ làm ô nhiễm nước ngầm.
Một số nước áp dụng các chi phí đổ bỏ chất thải. Ở Bỉ, người ta thu phí đổ bỏ chất thải
công nghiệp và đô thị. Phí này phụ thuộc vào loại chất thải và phương pháp xử lý trước khi
đổ. Các chất thải được đốt hay làm phân ủ chịu phí thấp hơn chất thải đổ vào bãi chôn rác. Ở
Đan Mạch, người ta thu phí chất thải rắn từ các hộ dân cư và các hãng công nghiệp. Phí nhằm
khuyến khích việc tái chế, ở một số bang của Mỹ (ví dụ Maryland) đòi hỏi phải nộp phí đổ bỏ
các chất thải khó xử lý như các lốp xe và các dầu nhờn đã sử dụng. Ngoài ra, ở một số bang
còn thu các phí phụ cho các bãi chôn rác, hoặc các thuế đóng cửa để cấp vốn cho việc giám
sát và kiểm soát ô nhiễm, cũng như các hoạt động khôi phục tài nguyên (Bartone 1990).
Các phí sản phẩm:
Phần lớn các phí sản phẩm đánh vào chất thải, đã được áp dụng đối với các bao bì, dầu
nhờn, các túi nhựa, phân bón, thuốc trừ sâu hại, nguyên vật liệu, các lốp xe và các nhiên liệu ô
tô, không trả lại được. Ví dụ ở Phần Lan, phí đánh vào bao bì đồ uống không trả lại là tương
đối cao. Chúng được áp dụng để hỗ trợ cho sự thành công của hệ thống ký quỹ - hoàn trả các
chai. Tuy nhiên theo báo cáo, thị phần của các chai nhựa không trả lại có xu hướng tăng cao
mặc dầu chịu phí cao. Phí sản phẩm của Pháp đối với dầu nhờn đi kèm với các quy định về
thu gom, cất giữ và đổ bỏ dầu đã sử dụng, là quá thấp tới chức năng pháp lý được công bố,
đều không có tác động kích thích thực tế. Trên thực tế, các phí sản phẩm tài trợ một phần cho
các biện pháp chính sách được vạch ra để đối phó với các tác động môi trường tiêu cực của
các sản phẩm bị thu phí. Sự thiếu tác động kích thích của chúng nói lên rằng, những chi phí
này, nói chung không đóng góp vào việc chuyển dịch từ các chính sách cứu chữa sang các
chính sách phòng ngừa. Sự tiêu thụ sản phẩm sẽ tiếp diễn trừ phi mức phí được nâng cao đáng
kể hoặc các quy định trực tiếp trở nên nghiêm khắc hơn (OECD 1989).
b. Các khoản trợ cấp: Các khoản trợ cấp được cung cấp cho các cơ quan và khu vực
tư nhân tham gia vào các lĩnh vực quản lý chất thải rắn.
Trang 10

×