Tải bản đầy đủ (.pdf) (128 trang)

Vấn đề chấn hưng thực nghiệp trên diễn đàn báo chí Việt Nam đầu thế kỷ XX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.56 MB, 128 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

VŨ THỊ NGỌC YẾN

VẤN ĐỀ CHẤN HƢNG THỰC NGHIỆP TRÊN DIỄN ĐÀN BÁO CHÍ
VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Hà Nội - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

VŨ THỊ NGỌC YẾN

VẤN ĐỀ CHẤN HƢNG THỰC NGHIỆP TRÊN DIỄN ĐÀN BÁO CHÍ
VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Chuyên ngành:

Lịch sử Việt Nam

Mã ngành:

602254

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:



TS.Trần Viết Nghĩa

Hà Nội - 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan nội dung luận văn là kết quả nghiên cứu của tôi, không sao
chép ở bất cứ một công trình nào khác. Tất cả các trích dẫn trong luận văn
đều được chú thích nguồn tư liệu tham khảo rõ ràng, đầy đủ.
Hà Nội, ngày…. tháng…. năm 2014
Học viên

Vũ Thị Ngọc Yến


LỜI CẢM ƠN

Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy giáo, cô giáo Khoa
Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia
Hà Nội đã giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn thành luận văn. Đồng thời tôi xin
cảm ơn cán bộ của Trung tâm Thông tin Tư liệu khoa Lịch sử, Trường Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn; Thư viện Quốc gia đã giúp đỡ tôi trong
quá trình tiếp cận khai thác tư liệu. Đặc biệt tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc
đến TS. Trần Viết Nghĩa, người tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành
luận văn này. Tuy nhiên, luận văn không tránh khỏi những hạn chế và thiếu
sót, tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến quý báu của các thầy, các cô
và các bạn để luận văn được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Vũ Thị Ngọc Yến


MỤC LỤC
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 3
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 4
3. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu ................................................... 7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 7
5. Cấu trúc luận văn .......................................................................................... 7
Chương 1: DÒNG BÁO CHÍ TIẾNG VIỆT Ở VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ
XX ..................................................................................................................... 8
1.1. Sự ra đời của dòng báo chí tiếng Việt ........................................................ 8
1.2. Một số nội dung cơ bản của báo chí tiếng Việt đầu thế kỷ XX ............... 19
1.3. Một số tờ báo có khuynh hướng “thực nghiệp” tiêu biểu ........................ 25
Chương 2: HOẠT ĐỘNG CHẤN HƯNG THỰC NGHIỆP CỦA TẦNG LỚP
NHÀ NHO CẤP TIẾN QUA BÁO CHÍ TIẾNG VIỆT NHỮNG NĂM 19061908 ................................................................................................................. 35
2.1. Vài nét về tầng lớp nhà nho cấp tiến Việt Nam đầu thế kỷ XX .............. 35
2.2. Nhà nho cấp tiến luận bàn về thực nghiệp, chấn hưng thực nghiệp .............. 38
2.3. Một số hoạt động thực nghiệp tiêu biểu của nhà nho cấp tiến Việt Nam
trên diễn đàn báo chí đầu thế kỷ XX ............................................................... 43
Chương 3: GIAI CẤP TƯ SẢN VỚI VẤN ĐỀ CHẤN HƯNG THỰC
NGHIỆP QUA DIỄN ĐÀN BÁO CHÍ Ở VIỆT NAM THỜI KỲ 1914-1929
3.1. Sự ra đời của giai cấp tư sản Việt Nam ................................................... 55
3.2. Giai cấp tư sản với vấn đề thực nghiệp, chấn hưng thực nghiệp ở Việt
Nam trên báo chí tiếng Việt (1914-1929) ....................................................... 62
3.2.1. Đánh giá vai trò của thực nghiệp ......................................................... 63
3.2.2. Nhận thức về các ngành kinh tế ............................................................ 66

1



3.3. Một số hoạt động chấn hưng thực nghiệp tiêu biểu của giai cấp tư sản
phản ánh trên diễn đàn báo chí (1914-1929)................................................... 75
3.3.1. Cổ động thực nghiệp ............................................................................. 76
3.3.2. Phong trào chấn hưng nội hóa, bài trừ ngoại hóa ............................... 79
3.3.3. Hoạt động quảng cáo, hội chợ, triển lãm ............................................. 84
3.3.4. Phong trào tẩy chay tư sản Hoa kiều (1919) ........................................ 86
3.3.5. Phong trào chống độc quyền thương cảng Sài Gòn (1923) ................. 88
3.4. Một số nhà thực nghiệp tiêu biểu ............................................................. 89
3.4.1. Nguyễn Chánh Sắt (1869 - 1947).......................................................... 89
3.4.2. Bạch Thái Bưởi (1874 - 1932) .............................................................. 90
3.4.3. Trương Văn Bền (1883 - 1956) ............................................................. 92
3.4.4. Nguyễn Sơn Hà (1894 - 1980) .............................................................. 93
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 97
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 100
PHỤ LỤC

2


1. Lý do chọn đề tài
Sau khi ký kết Hiệp ước Patenôtre (1884), thực dân Pháp bắt tay ngay
vào thực hiện chương trình khai thác thuộc địa với quy mô trên toàn lãnh thổ
Việt Nam và Đông Dương. Mục đích của thực dân Pháp là biến Việt Nam trở
thành nơi cung cấp nguyên liệu, nhân lực cho nước Pháp và thị trường tiêu
thụ hàng hóa của Pháp. Thông qua các chính sách khai thác, nền kinh tế Việt
Nam đã có những bước tiến nhanh chóng, đưa Việt Nam dần hòa nhập vào
nền kinh tế thế giới.
Đến những năm đầu thế kỷ XX, tư tưởng tiến bộ từ Trung Quốc, Nhật
Bản và phương Tây được truyền bá vào Việt Nam. Những tư tưởng này được

các nhà nho cấp tiến, yêu nước đón nhận. Được khai tâm bởi các Tân văn,
Tân thư, Tân báo, họ nhanh chóng nhận ra con đường vũ trang chống Pháp
không phải là con đường duy nhất cứu nước mà còn có nhiều con đường
khác, trong đó có con đường duy tân, phát triển kinh tế. Trên cơ sở đó, tầng
lớp nho sĩ cấp tiến đã phát động một phong trào yêu nước mới, phong trào
“chấn hưng thực nghiệp”. Nhưng các hoạt động chấn hưng thực nghiệp và các
hoạt động canh tân văn hóa, xã hội khác của các nhà nho cấp tiến chỉ diễn ra
trong vài năm thì bị thực dân Pháp đàn áp và thất bại. Năm 1918 chiến tranh
thế giới thứ nhất kết thúc. Năm 1919 thực dân Pháp bắt đầu tiến hành đợt khai
thác thuộc địa lần thứ hai. Một làn sóng đầu tư mới tràn vào Việt Nam. Tư
sản Việt Nam coi đây là cơ hội để làm giàu. Vì vậy họ đã dấy lên phong trào
chấn hưng thực nghiệp. Phong trào diễn ra sôi nổi hơn, rộng lớn hơn và thực
chất hơn so với phong trào do nhà nho cấp tiến phát động trước đó. Lo sợ
phong trào sẽ gây bất lợi cho các hoạt động kinh doanh của tư bản Pháp và
khơi gợi lên tinh thần yêu nước chống Pháp trong giai cấp tư sản nên thực dân
Pháp đã ra tay đàn áp.

3


Thực dân Pháp đã sử dụng báo chí thành một công cụ trong việc cai trị
và bóc lột thuộc địa Đông Dương. Tuy nhiên các nhà nho cấp tiến, tư sản Việt
Nam đã nhanh chóng nắm lấy báo chí và biến nó thành phương tiện tuyên
truyền, cổ động cho phong trào yêu nước và bàn luận về chấn hưng thực
nghiệp ở Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Nghiên cứu hoạt động chấn hưng thực nghiệp ở Việt Nam đầu thế kỷ
XX qua các tờ báo tiếng Việt góp phần làm rõ quá trình đổi mới tư duy nhận
thức của tầng lớp nho sĩ cấp tiến, tư sản về nền kinh tế Việt Nam, vai trò của
kinh tế trong sự phát triển chung của đất nước. Đồng thời góp phần tìm hiểu
về lịch sử cận đại Việt Nam và thái độ của một bộ phận dân cư Việt Nam

trước những vấn đề giai cấp, vấn đề dân tộc. Với nhận thức đó, tôi quyết định
chọn: “Vấn đề chấn hưng thực nghiệp trên diễn đàn báo chí Việt Nam đầu
thể kỷ XX” làm đề tài luận văn của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
- Về báo chí: Cho tới nay đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về lịch
sử báo chí Việt Nam. Mỗi công trình nghiên cứu nói về nhiều khía cạnh khác
nhau từ khái quát chung về nền báo chí Việt Nam, đến những tờ báo cụ thể,
những vấn đề cụ thể như một nhân vật, một phong trào hay một giai đoạn nào
đó liên quan… được thể hiện trên báo chí.
Một trong những công trình khảo cứu sớm nhất về lịch sử báo chí Việt
Nam là cuốn Lịch sử báo chí Việt Nam từ khởi thủy đến năm 1930 của Huỳnh
Văn Tòng, xuất bản lần đầu vào năm 1973, tại Sài Gòn. Tiếp đó là 120 năm
báo chí Việt Nam và Tìm hiểu lịch sử báo chí Việt Nam, đều của tác giả Hồng
Chương. Vào năm 2000, nhóm tác giả gồm Đỗ Quang Hưng, Nguyễn Thành,
Dương Trung Quốc đã xuất bản cuốn Lịch sử báo chí Việt Nam (1865-1945).
Các công trình này đã khái quát sự ra đời của báo chí Việt Nam, các dòng báo
chí, các khuynh hướng báo chí, mối quan hệ giữa báo chí với cuộc đấu tranh

4


dân tộc, giai cấp thời Pháp thuộc… cùng một số tờ báo tiêu biểu của mỗi
dòng báo chí, mỗi thời kỳ. Các tác giả cũng đánh giá vai trò của báo chí đối
với mọi mặt đời sống, từ chính trị đến kinh tế, văn hóa, văn học, ngôn ngữ.
Tuy nhiên các tác giả mới chỉ dừng lại ở việc khái quát, xây dựng một lược đồ
báo chí Việt Nam (1865-1945), chưa đi sâu vào phân tích từng vấn đề cụ thể
của báo chí Việt Nam thời Pháp thuộc: tác động của các điều kiện chính trị,
kinh tế, xã hội tới sự phát triển báo chí Việt Nam qua từng giai đoạn; nội dung
báo chí phản ánh; vai trò của báo chí đối với sự phát triển kinh tế, văn hóa,
phong trào yêu nước…; độc giả với báo chí… Chưa có một công trình nghiên

cứu một cách cụ thể, sâu sắc dòng báo chí kinh tế Việt Nam đầu thế kỷ XX:
Nông cổ mín đàm, Thực nghiệp dân báo, Khai hóa nhật báo, Hữu thanh tạp
chí… Các tờ báo này được giới thiệu khá sơ lược về thời gian xuất bản, chủ
báo, nội dung… và chỉ là những tờ báo tiêu biểu trong mỗi giai đoạn phát
triển của báo chí Việt Nam đầu thế kỷ XX.
- Về vấn đề chấn hưng thực nghiệp: Vấn đề chấn hưng thực nghiệp được
đề cập đến trong bài viết “Hoạt động chấn hưng thực nghiệp của tư sản Việt
Nam đầu thế kỷ XX” của Trần Viết Nghĩa đăng trên tạp chí Nghiên cứu Lịch
sử, số 387 (7-2008) đã chỉ ra những nguy cơ, thách thức của giai cấp tư sản
Việt Nam khi muốn cạnh tranh quyền lợi kinh tế với tư bản ngoại quốc. Tác giả
cũng nêu ra các nội dung cơ bản của hoạt động thực nghiệp của tư sản Việt
Nam: đánh giá vai trò của thực nghiệp đối với đất nước; vai trò của từng ngành
kinh tế; chấn hưng nội hóa, bài trừ ngoại hóa; thành lập các hội công thương.
Bài viết “Hội Bắc Kỳ công thương đồng nghiệp và Hữu thanh tạp chí với
vấn đề bảo vệ quyền lợi của giới tư sản” của hai tác giả Phạm Xanh - Nguyễn
Dịu Hương đăng trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 381 (1-2008) đã khái quát
những nét cơ bản của Hội Bắc Kỳ công thương đồng nghiệp cùng cơ quan ngôn
luận của nó là Hữu thanh tạp chí. Qua hoạt động của Hội Bắc Kỳ công thương

5


đồng nghiệp và tờ Hữu thanh tạp chí, vấn đề bảo vệ quyền lợi của giới tư sản
Việt Nam ở phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa được hai tác giả khắc họa
khá rõ nét.
Ngoài ra còn có một số Khóa luận, Luận văn tìm hiểu về vấn đề chấn
hưng thực nghiệp trên diễn đàn báo chí tiếng Việt đầu thế kỷ XX như “Phong
trào thực nghiệp trên báo Khai hóa của Bạch Thái Bưởi” (Khóa luận Cử nhân
khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc
gia Hà Nội, 1995) của Lê Thị Lan; “Bước đầu tìm hiểu tinh thần dân tộc trong

kinh doanh của tư sản Việt Nam trước 1929 qua: Thực nghiệp dân báo, Khai
hóa nhật báo và Nam Phong tạp chí” (Khóa luận Cử nhân lịch sử, khoa Lịch
sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội,
1997) của Nguyễn Thế Anh; “Hoạt động kinh tế của giai cấp tư sản Việt Nam
đầu thế kỷ XX qua dòng báo chí kinh tế Hà Nội” (Luận văn Thạc sĩ Lịch sử,
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội,
2014) của Bùi Công Nghiệp… Và các tấm gương thực nghiệp tiêu biểu: “Bạch
Thái Bưởi - khẳng định doanh tài đất Việt” của Lê Minh Quốc; “Tìm hiểu thêm
về Bạch Thái Bưởi - doanh nhân kinh doanh tiêu biểu thời cận đại” của Phạm
Hồng Tung…
Một số công trình nghiên cứu có đề cập tới hoạt động chấn hưng thực
nghiệp: Tìm hiểu giai cấp tư sản Việt Nam thời Pháp thuộc (Nxb Văn - Sử Địa, 1959) của Nguyễn Công Bình phân tích quá trình phát triển của giai cấp
tư sản Việt Nam, tuy có nói tới thực nghiệp nhưng mới chỉ dừng lại ở việc
xem nó đơn thuần là một hoạt động kinh tế của tư sản Việt Nam. Trong “Góp
phần tìm hiểu Nho giáo - Nho sĩ - Trí thức Việt Nam trước năm 1945” (Nxb
Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2007) của Chương Thâu đã phân tích sự chuyển
biến tư tưởng của Nho sĩ, trí thức Việt Nam trước năm 1945 và trên cơ sở đó
thay đổi các phương thức hoạt động của mình.

6


3. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
- Nguồn tư liệu: Tôi sử dụng nguồn tư liệu trực tiếp là các báo Nông cổ
mín đàm, Lục tỉnh tân văn, Đăng cổ tùng báo, Thực nghiệp dân báo, Khai
hóa nhật báo, Hữu thanh tạp chí. Ngoài ra, tôi tham khảo nguồn tư liệu gián
tiếp là các Khóa luận Cử nhân, Luận văn thạc sĩ nghiên cứu về vấn đề này.
- Để có thể thực hiện được luận văn này, tôi đã sử dụng những phương
pháp nghiên cứu như phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích, logic, tổng
hợp, so sánh, đối chiếu…

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Về thời gian: Vấn đề mà tôi nghiên cứu diễn ra trong khoảng ba thập kỷ
đầu thế kỷ XX, cụ thể là trong khoảng thời gian 1906-1929. Tức là từ khi các
nhà nho cấp tiến phát động phong trào chấn hưng thực nghiệp tới khi bắt đầu
cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 1929. Khoảng thời gian này nằm trọn
trong hai đợt khai thác thuộc địa của thực dân Pháp (1897-1929).
Về đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những
bàn luận, những hoạt động chấn hưng thực nghiệp tiêu biểu của tầng lớp nhà
nho cấp tiến và giai cấp tư sản Việt Nam trên diễn đàn báo chí tiếng Việt đầu
thế kỷ XX.
5. Cấu trúc luận văn
Luận văn của tôi ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham
khảo, có cấu trúc như sau:
Chương 1: Dòng báo chí tiếng Việt ở Việt Nam đầu thế kỷ XX
Chương 2: Hoạt động chấn hưng thực nghiệp của tầng lớp nhà nho cấp
tiến qua báo chí tiếng Việt những năm 1906-1908
Chương 3: Giai cấp tư sản với vấn đề chấn hưng thực nghiệp qua diễn
đàn báo chí ở Việt Nam thời kỳ 1914-1929

7


Chƣơng 1
DÒNG BÁO CHÍ TIẾNG VIỆT Ở VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX
1.1. Sự ra đời của dòng báo chí tiếng Việt
Trong tiến trình lịch sử nhân loại, báo chí ra đời muộn hơn so với các
hình thái ý thức xã hội khác. Báo chí ra đời do nhu cầu về thông tin - giao
tiếp, giải trí và nhận thức của con người. Dù xuất hiện muộn nhưng báo chí
nhanh chóng trở thành một trong những lĩnh vực xung kích bởi khả năng phản
ánh hiện thực của mình và là một phần không thể thiếu trong đời sống con

người. Không chỉ đóng vai trò là phương tiện truyền tải thông tin, báo chí còn
có vai trò là một phương tiện giáo dục; vũ khí chính trị, kinh tế…
Trước khi thực dân Pháp xâm lược, Việt Nam chưa có một nền báo chí
đúng nghĩa của nó. Cách thức, phương tiện truyền tải thông tin truyền thống ở
Việt Nam là thông qua những câu vè dân gian, mõ làng, những cuộc “giảng
thập điều” trong các buổi sinh hoạt đình làng…, đến những bản báo cáo từ địa
phương gửi lên triều đình; những chiếu, lệnh của nhà vua và các bộ sử biên.
Theo Đỗ Quang Hưng có ba điều kiện cơ bản để một nền báo chí có thể
xuất hiện là kỹ thuật in hoạt bản, người làm báo và người đọc.
Đi cùng quân xâm lược Pháp có một nhóm bốn công nhân mang theo
máy in, giấy, mực, chữ tới Nam Kỳ. Vì vậy, Nam Kỳ là cái nôi đầu tiên của
báo chí Việt Nam. Nhóm công nhân này có nhiệm vụ in ấn các công văn, chỉ
thị của cấp trên cho quân nhân Pháp. Đây cũng là nhóm công nhân giúp Đô
đốc Bonard in tờ báo đầu tiên ở Nam Kỳ - tờ Bulletin official de L’expédition
de Cochinchine (Tập kỷ yếu công vụ cuộc viễn chinh Nam Kỳ, viết tắt là
BEOC), năm 1861. Báo được viết bằng tiếng Pháp, nội dung chính là các
Nghị định, Quyết định, Nhật lệnh… của Thống đốc Nam Kỳ tới các sĩ quan
Pháp, các viên chức thực dân. Tập kỷ yếu được lưu hành như một phương tiện
thông tin và thống nhất chỉ đạo cho công cuộc xâm chiếm, cai trị [51, tr.19].
8


Để đảm bảo cho việc in ấn, phát hành báo ở Nam Kỳ, thực dân Pháp đã cho
lập một nhà in trực thuộc Tổng hành dinh đội quân viễn chinh và được sự bảo
trợ của Nhà in Quốc gia Paris. Năm 1862 tờ Le Bulletin des communes (tạm
dịch là Kỷ yếu làng xã) bằng chữ Hán - Việt được xuất bản nhằm vào đối
tượng là giới quan lại phong kiến Việt Nam [51, tr.20]. Thực dân Pháp cũng
cho xuất bản các tờ Journal Officiel là loại báo ra số định kỳ, đăng tải những
thông tin ngắn gọn, có tính thời sự và nội dung cũng được mở rộng hơn như
tình hình cuộc viễn chinh, cai trị các địa phương; các tin tức về nhân sự, việc

bổ nhiệm và thuyên chuyển quan chức… [51, tr.20]. Năm 1869 Ủy ban nông
nghiệp và kỹ nghệ Nam Kỳ xuất bản tờ Bulletin du Comité agricole et
industriel de la Conchinchine, chuyên đăng khảo các bài khảo cứu, điều tra
tình hình mọi mặt của thuộc địa… [51, tr.23].
Báo chí đi cùng với bước chân xâm lược của đội quân thực dân từ Nam
ra Bắc nên sau khi ký kết Hiệp ước Harmand (7-1883), thực dân Pháp cho
phát hành Bulletin Officiel du Protectorat de l’Annam et du Tonkin (Tập kỷ
yếu công vụ của nền Bảo hộ xứ Trung và Bắc Kỳ). Năm 1892, ở Hà Nội có tờ
Revue Indochinoise (Tạp chí Đông Dương) với tôn chỉ “giới thiệu xứ Đông
Dương thuộc Pháp cho người Pháp biết” [51, tr.24]. Sang đầu thế kỷ XX là
sự ra đời của hàng loạt các tờ báo làm cơ quan ngôn luận của các tổ chức,
trong đó có nhiều tờ báo nổi tiếng như B.E.F.E.O (Kỷ yếu của trường Viễn
Đông Bác Cổ), Kỷ yếu Đô Thành hiếu cổ [51, tr.24].
So với kỹ thuật in mộc bản ở Việt Nam thì kỹ thuật in hoạt bản hiện đại
hơn với tốc độ in nhanh, nhiều; đáp ứng được tính chất thời sự và rộng rãi của
báo chí. Đến cuối thế kỷ XIX bước sang đầu thế kỷ XX, ở các thành phố lớn
như Sài Gòn, Hà Nội, Hải Phòng lần lượt xuất hiện hàng loạt các nhà in và
nhà xuất bản tư nhân. Bên cạnh đó là các xưởng in của các tờ báo lớn như nhà
in Imprimerie Ray et Curcol, nhà in Guillaud và Martinon, nhà in Ardin, nhà
9


in Gaston, nhà in Mặc Đĩnh Tư, nhà in Ngô Tử Hạ, nhà in Văn Minh… [51,
tr.16]. Đây là điều kiện cho các tờ báo xuất hiện ngày càng nhiều ở khắp ba
kỳ với nội dung ngày càng phong phú hơn. Từ những tờ báo thuần giải trí
(Con rắn mối, Con muỗi Đông Dương, Sinh hoạt Đông Dương…) đến báo
chính trị, báo kinh tế (Le Bulletin du Comité Agricole et Industriel de la
Cochinchine, Le Gong, Le Courier d’Haiphong, Le Courrier de Saigon …)
[51, tr.25].
Công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đã tạo điều kiện cho

sự ra đời của một hệ thống thành thị kiểu phương Tây: Hà Nội, Hải Phòng,
Nam Định, Vinh, Sài Gòn… Hệ thống đô thị này là những đô thị công thương nghiệp và không mang nặng tính chất trung tâm hành chính - văn hóa
như các đô thị phong kiến. Đến đầu thế kỷ XX, ở Việt Nam đã có 3 cấp độ
thành thị: cấp I (Sài Gòn, Hà Nội, Hải Phòng), cấp II (Hải Dương, Nam Định,
Vinh, Đà Nẵng, Chợ Lớn), cấp III (thị xã trực thuộc tỉnh) và hàng trăm thị
trấn, thị tứ. Các đô thị này không chỉ là trung tâm hành chính mà còn là những
đơn vị hành chính của bộ máy chính quyền thuộc địa và cũng là những đơn vị
xã hội kinh tế - văn hóa. Hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại từng bước được xây
dựng: hệ thống đường giao thông, điện, nước, điện thoại; hệ thống các nhà
hát, rạp chiếu phim, sân vận động… Trong đó điển hình là Hà Nội - trung tâm
chính trị, văn hóa của Bắc Kỳ và Đông Dương; và Sài Gòn - Hòn ngọc Viễn
Đông - trung tâm kinh tế của cả Liên bang Đông Dương.
Đô thị kiểu phương Tây ra đời đã tạo điều kiện cho một tầng lớp xã hội
mới xuất hiện: thị dân. Thị dân gồm công nhân, tư sản, tiểu tư sản, thợ thủ
công, thương nhân, viên chức… Bởi đô thị là đơn vị xã hội kinh tế - văn hóa
có sinh hoạt khác hẳn với nông thôn và có những mối quan hệ giao lưu với
nước ngoài nên thị dân cũng có một nếp sống mới, lối suy nghĩ mới theo kiểu
phương Tây và mất dần đi ảnh hưởng của văn hóa làng xã. Hay nói cách
10


khác, quá trình đô thị hóa đã tạo nên một nếp sống thành thị hóa. Người Pháp
đã tạo ra một khung cảnh mà người Việt chưa bao giờ thấy với những phố
phường, công sở, biệt thự, tiệm buôn, xưởng máy; đường phố được trải nhựa
hoặc lát đá có đèn điện chiếu sáng ban đêm, có cây xanh tạo bóng mát cùng
tàu thủy, tàu hỏa, xe điện… [52, tr.112]. Thị dân không còn bị ràng buộc vào
những tư tưởng, giáo lý Nho giáo; ranh giới của gia thế, địa vị xã hội khác
hẳn với kết cấu tứ dân truyền thống. Lối sống mới, suy nghĩ mới ở đây là
sống theo kiểu phương Tây: từ cái ăn (bánh mì, súp, uống bia…), mặc (sơ mi,
comple, váy đầm…) cho tới các đồ dùng sinh hoạt, phương tiện giao thông

(xe hơi, tàu hỏa, xe đạp, xà phòng, thuốc lá…) đến việc xem phim, chụp ảnh,
đọc báo… “Họ đã quen thích những những nhà cửa kiểu Tây, có lầu, có
buồng tắm, đèn điện, có giường lò xo, có ghế bành rộng rãi (…). Trong sự xã
giao thì cử chỉ dáng điệu cũng bắt chước Tây, lễ phép xưa ngăn cách trai gái
già trẻ bằng những bức tường nghiêm mật, đối với họ không còn ý nghĩa gì
nữa. Thanh niên đã kết hôn thì phần nhiều ở riêng; tiếp đãi bạn bè thì họ mời
đến cao lâu phạn điếm; ngày đi làm việc, tối thì hoặc họ đi xem chiếu phim,
hoặc họ đi dạ hội” [77, tr.77]. Thậm chí một số người còn quay lại bài xích,
chê bai văn hóa truyền thống, tư tưởng Nho giáo. Số lượng thị dân tăng lên
nhanh chóng cùng sự mở rộng của các đô thị. Đô thị phát triển, đời sống của
thị dân cũng ngày càng khá lên, vì thế mà nhu cầu thông tin và hưởng thụ văn
hóa tăng lên đồng thời được chú trọng nhiều hơn. Lúc này, các loại hình văn
hóa mới như nhiếp ảnh, báo chí, điện ảnh, kịch, chiếu bóng… phát triển
nhanh chóng, bén rễ vào đời sống tinh thần của nhân dân. Đáng chú ý là tầng
lớp trung lưu, gồm: các quan chức cao cấp, người giàu có (điền chủ, thương
gia), trí thức (bác sĩ, kỹ sư, học sinh, sinh viên)… Bộ phận dân cư này là
những người được làm quen, sống theo lối sống phương Tây; môi trường văn

11


hóa phương Tây ngày càng có ảnh hưởng sâu sắc tới họ. Đây chính là bộ phận
độc giả thường xuyên của báo chí.
Đô thị và báo chí dẫn tới sự ra đời của một nghề mới: nghề viết báo và
một lớp người mới: ký giả. Ban đầu người viết báo chủ yếu là những người
Pháp. Sau này khi chữ Quốc ngữ được phổ biến, tầng lớp trí thức Tây học
hình thành và phát triển đã sản sinh một lực lượng những người viết báo là
người Việt. Những ký giả đầu tiên phải kể tới Trương Vĩnh Ký, Trương Minh
Ký, Nguyễn Văn Của, Lương Khắc Ninh, Trần Chánh Chiếu, Lê Văn Trung,
Nguyễn Chánh Sắt… Theo Huỳnh Văn Tòng người làm báo có ba dạng

chính. Người làm báo - chính khách là những người dùng báo vào mục đích
chính trị, tạo ảnh hưởng trong quần chúng: Phạm Quỳnh, Bùi Quang Chiêu.
Người làm báo kiêm văn nhân có xuất thân từ những nhà văn, nhà thơ được
chủ báo mời đến phụ trách các mục về văn chương, thi phú: Hồ Biểu Chánh,
Tản Đà. Những nhà làm báo kiêm nhà văn này thường được độc giả mến mộ,
làm tăng số lượng người đọc của báo nhưng hầu như đời sống của họ lại khá
túng quẫn, lương không cao. Cuối cùng là các nhà báo chuyên nghiệp. Họ là
người được đào tạo bài bản về báo chí, có xuất thân từ tầng lớp trí thức tiểu tư
sản, muốn mô phỏng theo nhà báo châu Âu: mặc Âu phục, sẵn sàng đi ra
ngoài, xách máy ảnh…, tiêu biểu là Hoàng Tích Chu.
Một điều kiện nữa cho sự phát triển của nền báo chí Việt Nam là việc
sử dụng, phổ biến chữ Quốc ngữ. Chữ Quốc ngữ là một “công trình tập thể”
của các giáo sĩ dòng Tên cùng các thầy giảng người bản xứ. Chữ Quốc ngữ
được công bố lần đầu tiên bởi Alexandre de Rhodes vào năm 1651 và nó
không được phổ biến rộng rãi vì mục đích chính dùng để truyền giáo. Bước
sang đầu thế kỷ XX, giá trị của chữ Quốc ngữ mới được khẳng định với hoạt
động tích cực của Trương Vĩnh Ký rồi đến phong trào Duy tân, Nghĩa thục
đều hô hào, khuyến khích người dân nên học chữ Quốc ngữ.
12


Ngày 29-7-1881 Chính phủ Pháp ban hành Luật báo chí, công nhận
quyền tự do báo chí ở thuộc địa cũng như ở chính quốc. Luật báo chí quy định
rằng dù báo chí xuất bản bằng tiếng Pháp hay tiếng bản xứ đều tự do, muốn ra
báo thì chỉ cần viên quản lý có quốc tịch Pháp, đã thành niên và có đăng ký
thủ tục với Sở Biện lý (Điều 5, 6, 7). Tuy nhiên, nếu áp dụng nó vào thuộc địa
sẽ gây tổn hại đến chính sách cai trị thực dân. Do vậy, chính quyền thuộc địa
Pháp đã ban bố các Sắc lệnh nhằm kìm hãm báo chí thuộc địa phát triển và
hướng nó vào việc phục vụ cho việc khai thác, cai trị thuộc địa; cấm chỉ lưu
hành những tờ báo có tính chất chính trị. Theo đó, các tờ báo bằng tiếng Pháp

được tự do xuất bản còn các tờ báo bằng chữ Quốc ngữ, chữ Hán phải xin
giấy phép; chủ nhiệm báo là người Pháp hoặc có quốc tịch Pháp. Đáng chú ý
nhất là Sắc lệnh ngày 30-12-1898, quy định áp dụng cho tất cả các loại báo
bằng mọi thứ tiếng:
- Chủ nhiệm, chủ bút phải là người Pháp hoặc có quốc tịch Pháp
- Không có giấy phép, tuyệt đối cấm không được ra báo, dù là báo bằng
tiếng Pháp.
- Tuyệt đối cấm không được viết, in, lưu hành, bán hoặc nhập các loại
sách, báo, tranh ảnh có hại cho chính quyền.
- Toàn quyền Đông Dương có quyền ra nghị định đình chỉ bất cứ tờ báo
hay tạp chí nào xuất bản tại Đông Dương, hoặc đình chỉ việc lưu hành bất cứ
tờ bào hay xuất bản phẩm nào ấn hành ở nước ngoài nhập vào Đông Dương.
- Mọi sự vi phạm Sắc lệnh về chế độ báo chí này đều bị nghiêm trị. Các
tòa án, các cơ quan cảnh sát chịu trách nhiệm theo dõi việc này [119, tr.31].
Quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận đã bị hạn chế đi rất nhiều bởi Sắc
lệnh này, cũng không quá khi nói rằng: các quyền tự do căn bản vắng mặt vì
không có tự do báo chí. Mặc dù năm 1938, chính quyền thực dân có cho phép
13


tự do báo chí nhưng cũng không kéo dài được lâu. Các tờ báo phụ thuộc hoàn
toàn vào chế độ kiểm duyệt, nội dung bị kiểm soát gắt gao, có thể bị đình chỉ
bất cứ lúc nào. Người Việt không thể ra báo và chỉ có thể giúp việc cho người
Pháp.
Dù tờ công báo đầu tiên xuất bản năm 1861, nhưng các nhà nghiên cứu
thường lấy mốc năm 1865 là mốc mở đầu cho nền báo chí Việt Nam với sự ra
đời của tờ Gia Định báo ở Nam Kỳ, tờ báo Quốc ngữ đầu tiên. Mục đích của
báo được Thống đốc Nam Kỳ G.Roze nói rõ trong bức thư gửi Bộ trưởng Bộ
Thuộc địa Pháp ngày 9-5-1865: “Tờ báo này (tức Gia Định báo) nhằm phổ
biến trong giới dân bản xứ tất cả những tin tức đáng cho họ lưu ý và cho họ

một kiến thức về những vấn đề mới có liên quan đến văn hóa và những tiến bộ
về ngành canh nông. Những viên thanh tra đặc trách về những công việc của
người dân bản xứ đã cho tôi biết rằng tờ Gia Định báo đã được dân chúng ủng
hộ một cách nhiệt liệt và ở nhiều địa phương những em bé biết đọc chữ quốc
ngữ đã đọc báo cho cha mẹ chúng nghe. Như vậy tờ báo này xuất bản mỗi
tháng một lần sẽ là một sự hữu ích không thể chối cãi được và nó sẽ góp phần
vào việc thay thế chữ của chúng ta và chữ Hán, một thứ chữ mà chỉ có một
thiếu số quan lại hiểu biết mà thôi” [96, tr.55]. Đến khi Trương Vĩnh Ký đảm
nhiệm tờ báo thì Gia Định báo có thêm nhiệm vụ là cổ động cho lối học mới,
phát triển chữ Quốc ngữ và khuyến khích người dân học chữ Quốc ngữ. Năm
1868 một tờ báo tiếng Việt nữa ra đời ở Nam Kỳ là tờ Phan Yên báo. Về nội
dung Phan Yên cũng không khác gì nhiều so với Gia Định báo nhưng lại có
khuynh hướng đăng các bài báo có tính chất chống Pháp, cổ vũ cho phong trào
yêu nước nên nhanh chóng bị chính quyền đình bản. Mấy năm sau có thêm các
tờ Nông cổ mín đàm (1901-1924), Lục tỉnh tân văn (1907-1944), Đăng Cổ
tùng báo (1907)…

14


Năm 1917, A.Sarraut sang làm Toàn quyền Đông Dương lần thứ hai.
Vốn là một nhà báo nên ông đã có một số thay đổi trong việc xuất bản, kiểm
duyệt báo chí nhằm phục vụ cho đường lối thống trị bằng văn hóa. Thực chất là
ca tụng nước Pháp, gạt bỏ ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa trong giới trí thức
Việt Nam và Pháp hóa họ. Tất cả cho cái gọi là “sứ mạng cao cả của nước Đại
Pháp ở Đông Dương”. “Nói cho dễ hiểu thì “nghĩa vụ nhà làm báo là phải diễn
giải cho người ta biết cái công khai hóa của nước Pháp ở xứ này… Phải chỉ
bảo thuyết minh, diễn giải, bình luận cho người ta biết cái công lao ấy lớn lao
chừng nào bởi lòng quảng đại vô cùng của nước Đại Pháp… khiến cho những
người được hưởng cái công đức ấy phải đội ơn kính trọng cả đời””[51, tr.58].

Nhất là sau khi Chiến tranh thứ nhất kết thúc, thực dân Pháp tiến hành công
cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai ở Đông Dương. Lần khai thác này đã tạo
nên những biến đổi to lớn về chính trị, kinh tế, xã hội Việt Nam và có ảnh
hưởng không nhỏ tới sự phát triển của báo chí Việt Nam những năm 19191930. Tầng lớp tư sản Việt Nam đã trở thành một giai cấp thực sự với những
yêu cầu phát triển kinh tế, đòi hỏi về chính trị, văn hóa, ngôn luận… Giai cấp
tiểu tư sản thành thị cũng đông đảo hơn trước với tiểu thương, tiểu chủ, thợ
thủ công, viên chức nhà nước… Bên cạnh đó, các nhà nho cấp tiến cùng một
số như tư sản yêu nước đã nhận thức rất rõ ràng về vai trò của báo chí trong
đời sống, góp phần nâng cao dân trí cũng như đối với phong trào yêu nước ở
Việt Nam. Trong Văn minh tân học sách đã đưa ra một dẫn chứng về sự phát
triển của báo chí ở một số nước trên thế giới và Việt Nam cần phải học tập họ
để xuất bản báo: “Các nước đặt ra báo chí có những danh mục như nhật báo,
nguyệt báo, tuần báo, bán nguyệt báo, thể tài thì chia ra: chính trị, thời sự,
quảng cáo,… Phàm việc trong, việc ngoài, sáng chế mới, tình hình thương
mại cho đến nhà pháp luật, nhà y học, nhà nông, thợ thuyền, thương gia
chẳng giới nào là không có báo. Pháp có hơn 1230 báo quán, Đức có hơn

15


2350 báo quán, Anh có hơn 2180 báo quán, Nga có hơn 430 báo quán, Mỹ có
hơn 14150 báo quán. Nhật Bản không có quận nào không có báo quán. Trung
Quốc gần đây cũng mở báo rất nhiều. Còn ở nước ta thì chỉ có Sài Gòn và
Hải Phòng có báo viết bằng chữ Tây, người đọc được không mấy! Báo viết
bằng chữ Hán chỉ có một tờ Đồng Văn thôi.
Xét thấy viên chủ bút tờ báo Themxơ (Times) là một vị tướng về hưu
nên những lời bình luận của tờ báo ấy rất là công bằng và xác đáng. Thiết
tưởng ở kinh đô ta cũng nên đặt một tờ báo, lựa lấy một vị đại thần làm chủ,
lựa một số thân sĩ sung vào: nửa viết bằng chữ ta (tức chữ quốc ngữ), nửa
viết bằng chữ Hán. Bao nhiêu phép tốt, ý hay, nghề lạ, ngón khéo của Âu Mỹ, cũng là những việc xưa nay ở nước ta hoặc những lời và việc tìm được ở

trong sách và đáng nên làm kiểu mẫu hoặc những bài thiết thực về thời sự
góp nhặt được trong sách luận, bài thơ, hoặc có người đặc biệt trong đám
nhân tài, hoặc có kỹ thuật mới có ích lợi cho nước nhà và do giới công nghệ
mới tìm ra thì đều đăng hết lên báo để cho đồng nhân dân cùng biết. Giá báo
thì tính rẻ và cứ theo ngày đã định, gửi cho các quan lại lớn nhỏ trong ngoài
và các thôn, các xã mỗi nơi một tờ. Trong dân gian, nếu ai bỏ tiền mua riêng
thì có thưởng. Những kẻ thừa hành phát báo nếu để chậm không đúng kỳ,
đúng nơi thì phạt. Cái lợi thu được đã đủ để chi tiêu về việc nhà báo mà nhờ
có báo trương rồi sẽ phá tan giới câu nệ, tối tăm” [91, tr.189-190].
Ngoài ra, chính quyền thuộc địa thi hành chính sách cải lương, mở rộng
các cơ quan dân chủ nhằm lôi kéo một bộ phận địa chủ, tư sản, trí thức tham
gia chính quyền; làm chỗ dựa cho chính sách cai trị mới và phù hợp với tình
hình mới. Cùng với đó các chính sách về văn hóa, giáo dục, y tế, thể dục thể
thao… đều nhằm phục vụ cho sự thống trị của Pháp ở Đông Dương và chống
lại những tư tưởng tiến bộ đang được truyền bá vào Việt Nam ngày một rộng
rãi. Do vậy, ở một mức độ nào đó chính quyền “nới lỏng” cho một số người
16


Việt thuộc tầng lớp tư sản, điền chủ được phép xuất bản báo chí như Bạch
Thái Bưởi, Nguyễn Hữu Thu… nhưng đặt dưới quyền kiểm soát của chính
quyền. Bên cạnh đó chữ Quốc ngữ được hoàn thiện và sử dụng rộng rãi trong
dạy học tạo ra một lực lượng người viết báo và độc giả đông đảo. Số lượng
các tờ báo bằng tiếng Việt ngày một nhiều. Theo thống kê trong Danh mục
các ấn phẩm nộp lưu chiểu của chính quyền thực dân Pháp thì số lượng báo
chữ Quốc ngữ đã tăng từ 19 tờ (1922) lên 47 tờ (1929) [21, tr.90]. Ngoài
những tờ báo đã xuất bản trong thời kỳ trước (Nông cổ mín đàm, Lục tỉnh tân
văn...), nay có thêm nhiều tờ báo mới được in ấn như Đông Dương tạp chí
(1913-1919), Nam Phong tạp chí (1917-1934), Thực nghiệp dân báo (19211933), Khai hóa nhật báo (1921-1928), Hữu thanh tạp chí (1921-1927), Hà
thành ngọ báo (1927-1936)… Các tờ báo đã được xuất bản hoàn toàn bằng

tiếng Việt, không còn đan xen với chữ Hán như trước nữa.
Sự phát triển của báo chí tiếng Việt còn thể hiện ở sự đa dạng, phong
phú về thể loại. Có báo định kỳ: Nam Kỳ kinh tế báo, Hữu thanh tạp chí, An
nam tạp chí, Nam Phong tạp chí, Hà Tĩnh tân văn…; nhật báo: Trung lập báo,
Thực nghiệp dân báo, Khai hóa nhật báo, Nông công thương báo, Hà thành
ngọ báo, Tiếng dân… Từ báo chính trị (báo Đông Pháp, Đông Dương tạp chí,
Hà Thành ngọ báo…), báo kinh tế (Khai hóa nhật báo, Hữu thanh tạp chí,
Thực nghiệp dân báo, Nam Kỳ kinh tế báo…) đến những báo văn hóa giáo dục,
thể thao, nghệ thuật (Vệ sinh y báo, Phục Pháp âu dược, Kịch trường tạp chí,
Điện xa tạp chí, Sư phạm học khóa…). Thanh niên có báo Thanh niên tân tiến,
Việt Nam thanh niên tạp chí; phụ nữ cũng có Nữ giới chung, Phụ nữ tân văn,
Phụ nữ thời đàm; báo tôn giáo có Trung Hòa nhựt báo, Công giáo Đồng
Thịnh… Ngoài ra có 6 tờ báo tiếng Pháp do người Việt làm chủ và phát triển
theo xu hướng chính trị khác nhau hẳn. Các tờ: L’Echo annamite, L’Essor
indochinois, Le Progrès annammite, La Tribune indochinoise, La tribune
17


indigène, La Voix annamite đại diện quyền lợi cho giai cấp tư sản dân tộc, có
tính chất thỏa hiệp với thực dân. Tờ La cloche fêlée có khuynh hướng dân tộc
và xã hội chủ nghĩa, chống chủ nghĩa thực dân [51, tr.69].
Một cách phân định khác cho báo chí tiếng Việt là chia thành hai loại:
báo thân Pháp, báo đối lập. Dòng báo chí thân Pháp chủ yếu do chính quyền
thực dân ấn hành nên có điều kiện phát triển hơn, chiếm số lượng lớn các tờ
báo, nhất là dưới thời A.Sarraut làm Toàn quyền phải kể tới các tờ Đông
Dương tạp chí, Nam Phong tạp chí, Nam Trung nhật báo, An Hà báo, Đại
Việt tạp chí, Nữ giới chung, Đèn nhà Nam, Quốc dân diễn đàn [96, tr.98102]. Tiêu biểu nhất là Nam Phong tạp chí (1917-1934) do Phạm Quỳnh làm
chủ bút. Mục đích chính của báo như A.Sarraut nói là “cung cấp cho giai cấp
sĩ phu và trí thức Việt Nam những bài chính xác ngỏ hầu họ quan niệm được
cái vai trò của người Pháp trên thế giới về phương diện văn hóa, khoa học và

kinh tế. Tạp chí mới này, lấy tên là Nam Phong, sẽ đăng những bài phân tích
chính xác về những tác phẩm khoa học và văn chương hay nhất, tiểu sử
những nhà bác học danh tiếng của chúng ta, những sự mô tả đẹp đẽ về nước
Pháp, những bài phiên dịch, những chuyện ngắn hay tiểu thuyết…” [96,95].
Nam Phong tạp chí thực sự là một công cụ tuyên truyền của chính phủ Pháp,
phổ biến nền văn hóa Pháp. Dòng báo chí đối lập là những tờ báo được xuất
bản công khai, có khuynh hướng chống chính phủ: Nhật Tân báo, Đông Pháp
thời báo, Tân Thế kỷ… Hiển nhiên chính quyền thực dân không bao giờ để
những tờ báo này được phép tồn tại. Qua chính sách kiểm duyệt gắt gao, các
báo hầu như không có gì để in, độc giả không có gì để đọc và cuối cùng báo
tự đình bản.
Thêm một dòng báo chí nữa ra đời trong thập niên 1920 ở Việt Nam là
dòng báo chí cách mạng, hay báo chí bất hợp pháp. Đầu tiên phải kể tới tờ Le
Paria, Việt Nam hồn, Thanh niên do Nguyễn Ái Quốc ấn bản ở nước ngoài.
18


Tiếp đó có tờ Công nông, Lính cách mệnh do Tổng bộ Hội Thanh niên cách
mạng Việt Nam xuất bản. Các tờ báo này in bằng phương tiện thô sơ cỡ nhỏ
rồi được bí mật đưa vào trong nước. Các tổ chức cách mạng ở trong nước
cũng rất coi trọng báo chí, sử dụng nó làm cơ quan ngôn luận của tổ chức,
một vũ khí quan trọng không thể thiếu trong chiến đấu.
1.2. Một số nội dung cơ bản của báo chí tiếng Việt đầu thế kỷ XX
Mục đích chính yếu khi xuất bản báo chí của thực dân Pháp là tranh thủ
tình cảm của người dân thuộc địa đồng thời tuyên truyền cho đường lối, chính
sách của chính quyền và quan trọng hơn là “khai hóa văn minh”, phổ biến văn
hóa Pháp. Nói cách khác thì chính quyền thuộc địa muốn duy trì báo chí là
công cụ độc quyền phục vụ lợi ích cho chính quyền Pháp ở thuộc địa.
Trong những năm đầu mới cai trị, Pháp cho xuất bản hai loại báo là báo
tiếng Pháp dành cho người Pháp, người Việt biết chữ Pháp và báo chữ Hán

dành cho quan lại người Việt, những người từ chối không hợp tác với chính
quyền thuộc địa. Chính quyền thực dân muốn qua báo chí phổ biến nền văn
minh Pháp, phô trương những thay đổi mới mẻ mà chính quyền mới đem đến.
Sau này khi những tờ báo tiếng Việt đầu tiên xuất hiện càng hỗ trợ đắc lực
cho ý đồ này của Pháp. Tuy nhiên, dưới một chế độ kiểm duyệt gắt gao; dân
ta đa phần là mù chữ, không biết tiếng Pháp và cũng không có thói quen đọc
báo nên báo chí chưa hoàn thành được mục đích mà chính quyền thực dân đề
ra. Tờ báo bằng chữ Quốc ngữ đầu tiên, mở đầu cho dòng báo chí tiếng Việt
là tờ Gia Định báo (1865) của Soái phủ Nam Kỳ; bốn năm sau 1898 tờ báo
chữ Quốc ngữ thứ hai ra đời, tờ Phan Yên báo nhưng chỉ được vài số thì bị
ngừng xuất bản. Những năm tiếp theo có thêm các tờ Nông cổ mín đàm
(1901-1924), Lục tỉnh tân văn (1907-1944), Đăng Cổ tùng báo (1907)…
Bước sang thế kỷ XX, báo chí tiếng Việt có những điều kiện thuận lợi
để phát triển, nhất là sau Thế chiến thứ nhất (1914-1918) được coi là thời kỳ
19


nở rộ báo chí ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ và tập trung chủ yếu là ở Hà Nội. Số lượng
các tờ báo bằng tiếng Việt ngày một nhiều: Đông Dương tạp chí (1913-1919),
Nam Phong tạp chí (1917-1934), Thực nghiệp dân báo (1921-1933), Khai
hóa nhật báo (1921-1928), Hữu thanh tạp chí (1921-1927), Hà thành ngọ báo
(1927-1936)…
Nội dung báo rất đa dạng, phong phú; đáp ứng nhu cầu về thông tin của
độc giả về tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, khoa học,
thể dục - thể thao, tôn giáo… Mỗi tờ báo đều có nét riêng, phản ánh quyền lợi
của một bộ phận giai cấp xã hội tùy thuộc vào đối tượng báo nhắm tới là tư
sản, địa chủ hay trí thức…
Lúc này ở Việt Nam đang diễn ra cuộc vận động duy tân sôi nổi trên
khắp cả nước. Các nhà duy tân nhận thức rõ báo chí là một trong những con
đường để duy tân đất nước; vai trò của báo chí trong phong trào yêu nước, tập

hợp mọi tầng lớp nhân dân tham gia đấu tranh chống thực dân Pháp cũng như
góp phần nâng cao dân trí, truyền bá những tri thức mới về khoa học - công
nghệ, chính trị - xã hội, bồi dưỡng chí tiến thủ cho nhân dân. Do vậy nội dung
chủ yếu của các tờ báo là ủng hộ cuộc vận động Duy tân, hô hào thực nghiệp,
cổ vũ phát triển canh nông; cạnh tranh quyền lợi kinh tế với tư bản Pháp, Hoa
kiều, Ấn kiều; chống hủ tục cùng các quan điểm khai dân trí, chấn dân khí…
Các tờ báo tiêu biểu cho khuynh hướng thực nghiệp có: Nông cổ mín đàm,
Lục tỉnh tân văn, Thực nghiệp dân báo, Đăng Cổ tùng báo, Khai hóa nhật
báo, Hữu thanh tạp chí…
Thực nghiệp dân báo tự nhận mình là “cơ quan hữu ích về đường phổ
thông, về việc truyền bá học thuật, tư tưởng và âm tín, về việc nghiên cứu,
việc tổ chức mọi việc của vạn gia thực nghiệp” và “Bản báo không phải là cơ
quan cho một hạng người nào, chính là cơ quan chung cho nền thực nghiệp

20


của khắp quốc dân ta đó” [51, tr.71]. Còn trên Khai hóa nhật báo, mục đích
của việc ra báo gồm: “Một là sự đồng bào ta tự khai hóa cho nhau, dạy bảo
lẫn nhau, kiềm chế lẫn nhau, duy trì cái phong hóa cũ, giữ cho nó biến cải
một cách điều hòa phải lẽ, dung hợp cái văn hóa cũ với văn minh mới, gắng
vào sự truyền bá và sự tiến hóa của quốc văn cũng là mở mang các con
đường thực nghiệp. Hai là rãi bày cùng chính phủ bảo hộ những sự yêu cầu
thiết thực chính đáng của quốc dân. Ba là diễn giải những ý kiến, những sự
lợi ích của các công cuộc chính phủ đang trù tính” [51, tr.73].
Hữu thanh tạp chí là cơ quan ngôn luận của Hội Bắc Kỳ công thương
đồng nghiệp, diễn đàn tụ họp bạn công thương chuyên đăng tải những tư
tưởng, quan điểm bảo vệ quyền lợi giai cấp tư sản Việt, “tập báo cổ động
luôn luôn về cái việc liên lạc, việc buôn bán, việc di dân” [114, tr.14].
Tuy nhiên, một hạn chế của các báo này là chủ trương dựa vào Pháp để

phát triển (Nông cổ mín đàm), ủng hộ đường lối “Pháp - Việt đề huề” (Thực
nghiệp dân báo, Khai hóa nhật báo). Thực nghiệp dân báo luôn nhắc nhở độc
giả: “Thầy dạy của ta bây giờ là ai? Chính là thầy Đại Pháp ấy” và “nhờ thầy
hay bạn tốt là nước Đại Pháp dạy bảo mà nước ta ngày một thêm tiến bộ”
[96, tr.126]. Trước đó, bởi tâm lý mang ơn người Pháp nên Lương Dũ Thúc
không tiếc lời ca ngợi công lao của chính quyền: “Người chúng ta tuy sức yếu
về tiền tài và ít học. Nhờ có nước đại quốc là Chánh Pháp cai trị dạy dỗ
người mình cho thông, vì ý rất muốn cho người bổn quốc rõ biết nghề nghiệp
buôn bán. Nếu người bổn quốc đặng thạnh lợi, ấy là thạnh lợi trong nước, thì
người trên cai trị đặng vui vẻ bình an mà hưởng lợi” [101, tr.1-2]. Bạch Thái
Bưởi cũng không ngừng tán dương “may sao lại gặp được nước Đại Pháp
sang bảo hộ hết lòng hết sức mà khai hóa cho ta” [96, tr.126].

21


×