Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

mặt trận ngoại giao từ tháng 3- 1946 đến tháng 7- 1954

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.64 MB, 123 trang )

1

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
---------------------------

LỤC THUÝ HẰNG

MẶT TRẬN NGOẠI GIAO TỪ THÁNG 3-1946
ĐẾN THÁNG 7-1954

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

THÁI NGUYÊN - 2008

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




2

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
---------------------------

LỤC THUÝ HẰNG

MẶT TRẬN NGOẠI GIAO TỪ THÁNG 3-1946
ĐẾN THÁNG 7-1954
Chuyên ngành : LỊCH SỬ VIỆT NAM


Mã số : 60.22.54

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
T.S NGUYỄN XUÂN MINH

THÁI NGUYÊN - 2008

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




3

MỤC LỤC
Trang

Trang phụ bìa
Mục lục
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 2
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài ............................... 4
3.1. Đối tượng nghiên cứu ........................................................................... 4
3.2. Phạm vi nghiên cứu .............................................................................. 5
3.3. Nhiệm vụ của đề tài .............................................................................. 5
4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu ................................................... 5
4.1. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................... 5

4.2. Nguồn tài liệu ....................................................................................... 5
5. Đóng góp của đề tài....................................................................................... 6
6. Bố cục của đề tài ........................................................................................... 6
Chương 1. ĐẤU TRANH NGOẠI GIAO TRONG NHỮNG
THÁNG ĐẦU SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
(9/1945 - 3/1946) ................................................................. 7

1.1. Tầm quan trọng của đấu tranh ngoại giao .................................................. 7
1.2. Quá trình đấu tranh ngoại giao dẫn đến Hiệp định sơ bộ 6 tháng 3
năm 1946 .................................................................................... 10
1.3. Ý nghĩa của Hiệp định sơ bộ 6 tháng 3 năm 1946 ................................... 25
Chương 2. HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA NHÀ NƯỚC VIỆT
NAM
TỪ SAU NGÀY 6/3/1946 ĐẾN NĂM 1953 ....................... 30

2.1. Từ sau ngày 6/3/1946 đến ngày 19/12/1946 ............................................ 30

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




4

2.2. Từ sau ngày 19/12/1946 đến năm 1949 ................................................... 38
2.3. Từ năm 1950 đến năm 1953..................................................................... 56
Chương 3. ĐẤU TRANH NGOẠI GIAO TẠI HỘI NGHỊ
GIƠNEVƠ NĂM 1954 VỀ CHẤM DỨT CHIẾN
TRANH LẬP LẠI HOÀ BÌNH Ở ĐÔNG DƯƠNG ................. 68


3.1. Hoàn cảnh lịch sử dẫn tới Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương ............... 68
3.2. Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương (8/5 - 21/ 7/ 1954) ........................... 74
3.2.1. Mục đích cuộc đàm phán ................................................................ 74
3.2.2. Tiến trình cuộc đàm phán ................................................................ 77
3.2.3. Nội dung cơ bản của Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh,
lập lại hoà bình ở Đông Dương ........................................................ 84
3.3. Ý nghĩa Hiệp định Giơnevơ ..................................................................... 87
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 93
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 97
PHỤ LỤC

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




1

MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Chính sách đối ngoại của Đảng là biểu hiện cụ thể của chính sách đối
nội trên phạm vi quốc tế, phản ánh quan điểm, lập trường của Đảng và lợi ích
của cách mạng Việt Nam.
Chính sách đối ngoại có vị trí hết sức quan trọng trong hệ thống chính
sách của Đảng. Sau vấn đề phòng thủ, ngoại giao là một vấn đề cốt yếu cho
một nước độc lập. Từ những ngày đầu sau Cách mạng tháng Tám, hoạt động
ngoại giao đã góp phần quan trọng trong cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng
chế độ dân chủ nhân dân. Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược, đấu tranh ngoại giao có tác dụng nâng cao địa vị của Nhà nước

Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trên trường quốc tế, cô lập ngày càng cao độ kẻ
thù. Cuối cùng, bằng đấu tranh ngoại giao kết hợp với thắng lợi quân sự trên
chiến trường, chúng ta đã buộc thực dân Pháp phải cam kết công nhận các
quyền dân tộc cơ bản của nhân dân ba nước Đông Dương.
Chặng đường đấu tranh đầy gay go, phức tạp giữa hai thời điểm gắn
với hai Hiệp định (6/3/1946 và 21/7/1954) đánh dấu những bước trưởng thành
của nền ngoại giao Việt Nam hiện đại. Thắng lợi cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp cũng chính là thắng lợi của đường lối đối ngoại do Đảng và
Nhà nước ta đề ra.
Bởi vậy, nghiên cứu đấu tranh ngoại giao từ tháng 3/1946 đến tháng
7/1954 để làm rõ đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng và Chính
phủ trong kháng chiến chống Pháp là điều cần thiết.
Việc nghiên cứu quá trình đấu tranh ngoại giao từ Hiệp định sơ bộ
(3/1946) đến Hiệp định Giơnevơ (7/1954) không chỉ có ý nghĩa khoa học, mà
còn có giá trị thực tiễn sâu sắc. Thông qua việc nghiên cứu đấu tranh ngoại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




2

giao từ tháng 3/1946 đến tháng 7/1954, chúng ta có thể rút ra những bài học
kinh nghiệm cho đấu tranh ngoại giao trong sự nghiệp cách mạng hiện nay.
Đi sâu tìm hiểu đấu tranh ngoại giao trong kháng chiến chống thực dân
Pháp còn giúp cho công tác giảng dạy phần lịch sử dân tộc ở nhà trường phổ
thông đạt chất lượng tốt hơn.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn vấn đề: "Mặt trận ngoại giao
từ tháng 3-1946 đến tháng 7-1954" làm đề tài Luận văn Thạc sĩ Sử học.
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ


Lịch sử ngoại giao Việt Nam nói chung, chính sách đối ngoại của
Đảng, sự lãnh đạo của Đảng trong đấu tranh ngoại giao nói riêng đã thu hút sự
quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu.
Cho đến nay đã có khá nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến ngoại
giao Việt Nam hiện đại từ những góc độ khác nhau, khẳng định nội dung cơ
bản của chính sách đối ngoại Việt Nam, trí tuệ và thiên tài ngoại giao Hồ Chí
Minh và những hoạt động phong phú trong đấu tranh ngoại giao và vận động
quốc tế qua các thời kỳ cách mạng Việt Nam.
Ngay từ 1950 trong tác phẩm "Hội nghị Việt - Pháp Phôngtennơblô
tháng 7-1946", Nxb Văn hoá, tác giả Trịnh Quốc Quang đã đề cập đến bối
cảnh lịch sử dẫn đến cuộc đấu tranh chính thức giữa Việt Nam và Pháp.
Năm 1979, Nxb Sự thật, Hà Nội cho ra đời cuốn sách "Mặt trận
ngoại giao thời kỳ chống Mĩ cứu nước (1965-1975)". Đây là một cuốn sách
tập hợp các bài viết, các bài trả lời phỏng vấn, các báo cáo về ngoại giao ...
trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước của cố Bộ trưởng Ngoại giao
Nguyễn Duy Trinh.
Năm 1985, Học viện Quan hệ Quốc tế xuất bản cuốn sách "Thắng lợi
có tính thời đại và cuộc đấu tranh trên mặt trận đối ngoại của nhân dân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




3

ta". Cuốn sách đã đề cập đến quá trình đấu tranh ngoại giao của nhân dân
ta trong kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ dẫn đến thắng lợi mang tính
thời đại sâu sắc mùa xuân năm 1975.

GS. Đinh Xuân Lâm, trong bài viết "Thắng lợi ngoại giao đầu tiên có
tính chất quyết định của chính quyền cách mạng (1945-1946)" đăng trên tạp
chí Khoa học Đại học Tổng hợp Hà Nội, số 6 - 7 năm 1990, đã đi sâu phân
tích quá trình đấu tranh ngoại giao trong năm đầu tiên của nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà. Tác giả nhấn mạnh thắng lợi cuộc đấu tranh ngoại giao
trong thời gian này có ý nghĩa quyết định đối với công cuộc bảo vệ Chính
quyền Dân chủ Nhân dân.
Tạp chí Lịch sử Đảng số 6 năm 1993 đã đăng bài viết: "Hồ Chí Minh
với quan hệ Việt - Mĩ" của hai tác giả Trịnh Vương Hồng và Nguyễn Minh
Đức. Bài báo đã đi sâu phân tích mối quan hệ giữa Việt Nam và Mĩ trong
lịch sử.
Năm 1994, Học viện Quan hệ Quốc tế xuất bản cuốn sách: "Bác Hồ nói
về ngoại giao". Cuốn sách nêu rõ những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về công tác ngoại giao trong đấu tranh cách mạng.
Đặc biệt vào năm 1995, nhân dịp kỷ niệm 50 năm thành lập ngành Ngoại
giao Việt Nam hiện đại, Học viên Quan hệ Quốc tế đã tổ chức hội thảo khoa
học. Cuộc hội thảo đã thu hút nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài ngành ngoại
giao. Nhiều báo cáo khoa học được gửi về cuộc hội thảo. Trên cơ sở đó, tập kỉ
yếu "Hội thảo khoa học 50 năm ngoại giao Việt Nam dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam" đã được xuất bản. Các báo cáo khoa học tại Hội thảo
đã nêu rõ quá trình phát triển cùng với những thắng lợi của ngoại giao Việt Nam
trong 50 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




4


Lưu Văn Lợi trong tác phẩm "50 năm ngoại giao Việt Nam (19451995)" do Nxb Công an nhân dân Hà Nội xuất bản năm 1996, đã nêu rõ quá
trình phát triển của ngành Ngoại giao Việt Nam trong 50 năm.
Năm 2001, Học viện Quan hệ Quốc tế cho ra mắt bạn đọc cuốn sách:
"Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp giành độc lập tự do". Cuốn sách
đã trình bày quá trình phát triển của nền ngoại giao Việt Nam từ sau khi nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, trải qua hai cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp và đế quốc Mĩ xâm lược, góp phần đem lại thắng lợi vĩ đại của nhân
dân ta vào mùa Xuân năm 1975.
Tác giả Nguyễn Phúc Luân trong tác phẩm "Ngoại giao Việt Nam hiện
đại vì sự nghiệp giành độc lập tự do (1945-1975)", Nxb Chính trị năm 2001,
đã trình bày khá cụ thể quá trình đấu tranh ngoại giao trong suốt hai cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ xâm lược (1945-1975).
Dưới góc độ đi sâu tìm hiểu đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản
Việt Nam, năm 2005 tác giả Vũ Quang Hiển đã cho xuất bản cuốn "Tìm hiểu
chủ trương đối ngoại của Đảng thời kỳ 1945-1954".
Ngoài ra, còn nhiều công trình của các nhà nghiên cứu dưới những góc
độ khác nhau đề cập vấn đề đấu tranh ngoại giao trong lịch sử Việt Nam.
Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một công trình nào mang tính
chuyên khảo trình bày một cách hệ thống quá trình đấu tranh ngoại giao từ
ngày ký Hiệp định Sơ bộ (6/3/1946) đến ngày kí Hiệp định Giơnevơ về Đông
Dương (21/7/1954).
Mặc dù vậy, tất cả những công trình nghiên cứu đã được công bố đều là
những nguồn tư liệu quý báu giúp cho chúng tôi hoàn thành Luận văn này.
3. ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU VÀ NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI

3.1. Đối tƣợng nghiên cứu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





5

Cuộc đấu tranh ngoại giao Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Quá trình đấu tranh ngoại giao của Chính phủ và nhân dân Việt Nam
trong thời gian từ Hiệp định sơ bộ 6 tháng 3 năm 1946 đến Hiệp định
Giơnevơ 1954 về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Đông Dương. Luận
văn còn đề cập đến những hoạt động ngoại giao từ sau khi nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà ra đời đến trước ngày kí Hiệp định sơ bộ 6/3/1946.
3.3. Nhiệm vụ của đề tài
- Làm rõ bối cảnh lịch sử dẫn đến việc ký kết Hiệp định sơ bộ 6 tháng 3
năm 1946.
- Quá trình đấu tranh ngoại giao từ sau ngày ký kết Hiệp định sơ bộ đến
trước Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương.
- Cuộc đấu tranh ngoại giao tại Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương.
- Thông qua đó làm rõ lập trường kiên định, tính đúng đắn, sáng tạo
của Đảng và Chính phủ ta trong quá trình đấu tranh ngoại giao, rút ra những
bài học kinh nghiệm trong đấu tranh ngoại giao.
4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ NGUỒN TÀI LIỆU

4.1. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng phương pháp lịch
sử, kết hợp với phương pháp lôgic là chủ yếu. Một số phương pháp cụ thể
(phân tích, tổng hợp...) cũng được sử dụng.
4.2. Nguồn tài liệu
Để đạt được mục đích của đề tài chúng tôi sử dụng:
- Các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh bàn
về ngoại giao làm cơ sở lí luận nghiên cứu.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




6

- Các văn kiện chủ yếu của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Các chỉ thị về ngoại giao của Bộ Ngoại giao và Chính phủ trong thời
kỳ 1945-1954.
- Các tác phẩm, công trình nghiên cứu, bài viết của các tác giả về
ngoại giao.
5. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI

- Tập hợp, hệ thống hoá các nguồn tư liệu về quá trình đấu tranh ngoại
giao từ Hiệp định sơ bộ 6 tháng 3 năm 1946 đến Hiệp định Giơnevơ 1954 về
chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Đông Dương.
- Làm rõ đường lối đấu tranh trên mặt trận ngoại giao ở hai thời điểm
đầu và cuối cuộc kháng chiến chống Pháp.
- Dùng tài liệu phục vụ cho việc giảng dạy phần lịch sử dân tộc trong
trường phổ thông trung học.
6. BỐ CỤC CỦA ĐỀ TÀI

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, Luận văn
được xây dựng thành 3 chương:
Chƣơng 1. Đấu tranh ngoại giao trong những tháng đầu sau Cách mạng
tháng Tám (9/1945 - 3/1946)
Chƣơng 2. Hoạt động đối ngoại của Nhà nước Việt Nam từ sau ngày
6/3/1946 đến năm 1953

Chƣơng 3. Đấu tranh ngoại giao tại Hội nghị Giơnevơ năm 1954 về chấm
dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Đông Dương

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




7

Chương 1
ĐẤU TRANH NGOẠI GIAO TRONG NHỮNG THÁNG ĐẦU SAU
CÁCH MẠNG THÁNG TÁM (9/1945 - 3/1946)
1.1. TẦM QUAN TRỌNG CỦA ĐẤU TRANH NGOẠI GIAO

Đường lối hay chính sách của một quốc gia bao giờ cũng gồm hai
mặt: Đối nội và đối ngoại nhằm phục vụ lợi ích tối cao của dân tộc. Đường
lối đó trước hết xác định bởi tính chất của chế độ kinh tế, xã hội, của quốc
gia. V.I. Lênin nói: "Những cội rễ sâu xa nhất của chính sách đối nội lẫn
đối ngoại của nhà nước chúng ta đều có lợi ích kinh tế, địa vị kinh tế của
giai cấp thống trị ở nước ta quyết định. Những luận điểm đó vốn là cơ sở
toàn bộ của thế giới quan của những người Mác xit... đã được kinh nghiệm
chứng thực" [55, tr.403-404].
Hai mặt đó gắn bó chặt chẽ với nhau, tạo thành một thể thống nhất vì
chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp và dân tộc trong quốc gia và quan
hệ giữa giai cấp, dân tộc trên trường quốc tế.
Song, từng quốc gia lại thi hành chính sách thống nhất để thực hiện
những lợi ích chiến lược của giai cấp cầm quyền ở trong nước và tạo điều
kiện tốt nhất thực hiện lợi ích ấy trên trường quốc tế. Chính sách đối ngoại
thống nhất với chính sách đối nội ở nội dung giai cấp, xuất xứ và phương

hướng. Nói cách khác, chính sách đối nội và đối ngoại của một quốc gia đều
giải quyết một nhiệm vụ bảo vệ, duy trì hệ thống quan hệ kinh tế - xã hội hiện
hành ở quốc gia đó. Lênin thường nhấn mạnh: Đem tách chính sách đối ngoại
ra khỏi chính trị nói chung, hay hơn nữa, đem đối lập chính sách đối nội, đó là
tư tưởng hoàn toàn sai lầm, không Macxit, không khoa học.
Trong mối liên hệ trên, vai trò quyết định thuộc về chính trị đối nội, vì
nó gắn trực tiếp, sâu sắc hơn với cơ sở hạ tầng kinh tế như V.I.Lênin đã khẳng
định: "Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế".
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




8

Chính trị đối nội quyết định nội dung, phương hướng chính trị đối ngoại,
đặt yêu cầu cho chính trị đối ngoại. Tuy nhiên, chính trị đối ngoại có tính độc
lập nhất định và tác động trở lại chính trị đối nội. Chính sách đối ngoại bao
gồm mục đích, lợi ích của một quốc gia, phương pháp hoạt động của nó trên
trường quốc tế. Phương pháp giải quyết các nhiệm vụ đối nội bằng cách Nhà
nước nắm quyền lực chính trong xã hội. Điều đó không thể áp dụng được trên
lĩnh vực đối ngoại. Trên sân khấu quốc tế không có một trung tâm quyền lực
thống nhất, trái lại, sự tồn tại các hoạt động của nhiều Nhà nước mà về nguyên
tắc thì các nhà nước này đều có quyền bình đẳng với nhau. Quan hệ giữa các
nhà nước này với nhau được thực hiện thông qua các cuộc đấu tranh thương
lượng, thông qua các hiệp định, thoả hiệp song phương hoặc đa phương.
Mục đích và lợi ích của một quốc gia trong quan hệ quốc tế được thực
hiện trước tiên thông qua quan hệ chính thức giữa các Chính phủ, nhưng đồng
thời cũng thực hiện thông qua quan hệ kinh tế và văn hoá dưới sự bảo trợ của
Chính phủ cũng như của các công ty, đoàn thể quần chúng, các tổ chức phi

Chính phủ... Cuối cùng được thực hiện thông qua việc sử dụng lực lượng vũ
trang. Lực lượng vũ trang này tuỳ thuộc vào tính chất giai cấp của nhà nước
và chính sách đối ngoại mang tính chất mục đích xâm lược hay tự vệ.
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, từ xưa, ông cha ta đã đánh giá cao vai
trò của ngoại giao, đã kết hợp hết sức tài tình giữa đấu tranh quân sự, chính trị
với ngoại giao. Tiêu biểu là vua Lê Đại Hành trong kháng chiến chống Tống;
nhà Trần trong ba lần kháng chiến chống quân Nguyên; đặc biệt là Lê Lợi,
Nguyễn Trãi trong cuộc kháng chiến chống Minh. Trải qua quá trình đấu
tranh lâu dài chống giặc ngoại xâm, ông cha ta đã đúc kết nên nhiều bài học
kinh nghiệm quý báu trong công tác ngoại giao, đó là: Kiên quyết giữ vững
độc lập trong mọi tình huống, đặt lợi ích dân tộc lên trên hết, giữ vững nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




9

tắc: "Dĩ bất biến, ứng vạn biến", "biết mình, biết người" để đưa ra mục tiêu
chính sách kịp thời.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc mối quan hệ biện chứng giữa
chính sách đối nội và đối ngoại, đánh giá cao vị trí, vai trò đối ngoại, vai trò
của nhân dân quốc tế, nhân tố bên ngoài đối với cuộc đấu tranh giành độc lập,
bảo vệ, xây dựng Tổ quốc. Trong quá trình đi tìm đường cứu nước, tư tưởng
của Người về đường lối cách mạng Việt Nam, bao gồm cả lĩnh vực đối nội và
đối ngoại đã dần dần hình thành, phát triển.
Trong cuốn sách: "Phép dùng binh của Tôn Tử", Chủ tịch Hồ Chí Minh
nêu rõ: Đánh hơn trăm trận, không phải là giỏi nhất. Giỏi nhất là không đánh
mà quân địch phải thua. Cho nên dùng binh giỏi nhất là đánh bằng mưu. Thứ

hai là đánh bằng ngoại giao. Thứ ba là đánh bằng binh.
Tại Hội nghị đại biểu Đảng ở Tân Trào, Hồ Chí Minh đã đặc biệt chú ý
tới công tác ngoại giao đối với đất nước Việt Nam độc lập. Nghị quyết của
Hội nghị đã đặt "Vấn đề ngoại giao" thành mục riêng, mục IV, ngang với mục
III: "Chủ trương của Đảng" và mục VI "Nhiệm vụ quân sự". Điều này nói lên
rằng, vào giai đoạn quyết định của cách mạng, ngoại giao phải là một mặt trận
quan trọng ngang với đấu tranh chính trị và đấu tranh quân sự.
Trong quá trình kháng chiến chống chiến tranh xâm lược của đế quốc,
đấu tranh ngoại giao kết hợp với đấu tranh quân sự nhằm mục tiêu cuối cùng
là đánh bại ý chí xâm lược của kẻ thù, trong đó đấu tranh quân sự là quyết
định, đấu tranh ngoại giao phục vụ cho đấu tranh quân sự, cho phát triển lực
lượng và phát huy thắng lợi. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nói: "Thực lực
như cái chiêng, ngoại giao như cái tiếng, chiêng có to thì tiếng mới lớn".
Nền ngoại giao hiện đại của Việt Nam chính thức ra đời cùng với sự ra
đời của Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á mà người đặt
nền móng là Hồ Chí Minh. Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, ngoại

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




10

giao trở thành "một mặt trận quan trọng có ý nghĩa chiến lược và dưới sự
lãnh đạo của Đảng, hoạt động ngoại giao đã gắn liền với các giai đoạn phát
triển của cách mạng. Ngoại giao luôn thể hiện là vũ khí bảo vệ và phát huy
thành quả, là một mặt trận đấu tranh góp phần tích cực giành và bảo vệ độc
lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, xây dựng và phát triển đất nước" [48,
tr.336].

Nhận thức rõ tầm quan trọng của đấu tranh ngoại giao trong đấu tranh
cách mạng, Đảng và Nhà nước ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
quan tâm đẩy mạnh hoạt động đối ngoại.
1.2. QUÁ TRÌNH ĐẤU TRANH NGOẠI GIAO DẪN ĐẾN HIỆP ĐỊNH SƠ BỘ 6
THÁNG 3 NĂM 1946

Nhà nước dân chủ nhân dân vừa ra đời, các lực lượng thù địch đã ập
tới, uy hiếp từ nhiều phía. Dựa vào đó, các lực lượng phản động, chủ yếu là
tay sai Tưởng ở miền Bắc và tay sai Pháp ở miền Nam, cũng ráo riết chống
phá từ bên trong. Trước mắt, chính quyền cách mạng phải chiến đấu đơn độc,
hầu như không có một lực lượng nào bên ngoài hỗ trợ. Mối liên hệ với phong
trào cộng sản quốc tế hầu như không có. Trong mối quan hệ quốc tế phức tạp,
chằng chéo sau chiến tranh, lại có nhiều vấn đề đối nội và đối ngoại cấp bách
cần phải giải quyết, nên các Đảng Cộng sản, các lực lượng cách mạng trên thế
giới chưa có điều kiện giúp đỡ cách mạng Việt Nam.
Trong khi đó, chính quyền cách mạng mới thành lập, chưa có kinh
nghiệm điều hành công việc của một quốc gia. Lực lượng vũ trang cách
mạng còn quá nhỏ bé và đơn sơ so với yêu cầu của một nhà nước. Chính
quyền mới lại phải đương đầu với hàng loạt khó khăn chồng chất về kinh tế,
chính trị, xã hội. Theo cách đánh giá của các đế quốc và tay sai thì chỉ riêng
những khó khăn về kinh tế (hậu quả nạn đói, tình hình tài chính kiệt quệ...)
cũng đã đủ khiến cho Nhà nước Cộng hoà non trẻ của ta ngả nghiêng, sụp đổ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




11


nhanh chóng. Trong hoàn cảnh ấy, hoàn toàn có thể xảy ra khả năng chính
quyền nhân dân không đứng vững, nền độc lập dân tộc vừa giành được có
thể bị thủ tiêu.
Bên cạnh những khó khăn, trở ngại, cách mạng nước ta vẫn có nhiều
thuận lợi rất cơ bản. Cách mạng tháng Tám đem lại những đổi thay quan
trọng về thế và lực cho nhân dân Việt Nam. Bản thân chính quyền cách mạng
được thành lập đã là một nhân tố mới rất quan trọng, tạo ra những thuận lợi
cơ bản cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta. Lực lượng cách mạng lúc này đã
đứng trên tư thế của một nhà nước, có những quyền lực nhất định. Với Cách
mạng tháng Tám, cả một dân tộc bị áp bức gần một thế kỷ, có truyền thống
chống ngoại xâm lâu đời, đã tự khẳng định được sức mạnh quật khởi. Một
dân tộc bị đẩy xuống địa vị "vong quốc nô" nay trở lại là chủ nhân đất nước,
tạo dựng một chế độ mới chưa từng có trong lịch sử của mình. Sự gắn bó của
nhân dân với chính quyền cách mạng do chính họ dựng lên, niềm hi vọng của
nhân dân ở chế độ mới tốt đẹp, ý chí của cả dân tộc quyết tâm bảo vệ chủ
quyền đất nước và thành quả cách mạng, uy tín của lãnh tụ, của Đảng và Mặt
trận Việt Minh sau thắng lợi của cách mạng..., tất cả những yếu tố đó sẽ trở
thành sức mạnh và phát huy tác dụng trong cuộc đấu tranh để bảo vệ độc lập
dân tộc.
Trước mắt, nhiều thế lực thù địch tràn vào nước ta, trong đó chủ yếu là
Tưởng và Pháp, gây cho ta những khó khăn nghiêm trọng. Mặc dù thống nhất
với nhau trong ý đồ chung nhằm tiêu diệt chính quyền cách mạng, song các
thế lực ấy lại mâu thuẫn với nhau về quyền lợi cụ thể. Những mâu thuẫn đó
cũng là một thuận lợi khách quan mà cách mạng cần tranh thủ.
Những thuận lợi khách quan và chủ quan nói trên vừa có tác dụng lâu
dài, lại vừa có tác động trực tiếp tới chính sách của các thế lực đế quốc và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





12

phản động, hạn chế thế và lực của chúng ở nhiều nơi, khiến cho chúng không
thể hoàn toàn công khai hành động theo ý muốn.
Thực tế ngay buổi chiều ngày 2/9/1945, tại Nam Bộ, trong lúc hàng
chục vạn đồng bào Sài Gòn - Chợ Lớn họp mít tinh mừng độc lập thì một
nhóm người Pháp đã nổ súng khiêu khích làm một số người bị thương và
chết. Phái bộ Anh đã tỏ rõ thái độ ủng hộ thực dân Pháp qua việc vu cáo
chính quyền Việt Nam không giữ được trật tự trong thành phố. Họ cho quân
Nhật tước khí giới và đòi ta giải tán các đội tự vệ. Sau khi quân Anh kéo vào
phía Nam vĩ tuyến 16, việc đầu tiên của họ chưa phải là tước khí giới quân
Nhật mà là thả tù binh Pháp bị Nhật bắt giam từ ngày 9/3/1945. Đồng thời,
họ ra lệnh đóng cửa tất cả các báo chí của ta tại Sài Gòn. Ngày 21/9, Anh
chiếm đóng trụ sở Cảnh sát Quận 2, trang bị lại vũ khí cho tù binh người
Pháp, ban bố lệnh thiết quân luật, cấm nhân dân ta biểu tình hội họp, đem
theo vũ khí và đi lại ban đêm. Tối 22/9, sau khi chiếm đài vô tuyến điện,
phía Anh làm ngơ cho quân Pháp nổ súng đánh úp ta ở Sài Gòn. Như vậy là,
quân Anh đã làm tấm bình phong, đồng thời làm nhiệm vụ dọn đường cho
thực dân Pháp trở lại xâm lược Việt Nam lần thứ hai. Âm mưu và hành động
xâm lược của thực dân Pháp đã lộ rõ. Nhân dân Nam Bộ anh dũng đứng lên
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược để bảo vệ nền độc lập chủ quyền
vừa giành được.
Trung ương Đảng và Chính phủ đã kêu gọi đồng bào cả nước dốc sức
ủng hộ Nam Bộ kháng chiến. Trong lời kêu gọi ủng hộ kháng chiến Nam Bộ,
Chính phủ lâm thời đã khẳng định cần phải: "hy sinh hết thảy vì kháng chiến.
Hy sinh hết thảy vì mặt trận Nam Bộ".
Hưởng ứng lời kêu gọi của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh, trên các mặt trận Nam Bộ, quân và dân ta đã anh dũng chiến đấu, bao

vây chặt quân Pháp trong thành phố, gây cho chúng nhiều tổn thất nặng nề.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




13

Trong toàn quốc, phong trào ủng hộ Nam Bộ diễn ra sôi nổi ở khắp nơi với
nhiều hình thức phong phú. Tháng 9 - 1945, hầu hết các tỉnh Bắc Bộ và Trung
Bộ đã lập các "Phòng Nam Bộ" để ghi tên những người tình nguyện vào Nam
đánh giặc. Các đội quân Nam tiến được thành lập và nhanh chóng lên đường
vào Nam chiến đấu.
Xuất phát từ tình hình thực tế, trên cơ sở phân tích chính xác, âm mưu và
hành động của từng thế lực ngoại xâm có mặt ở nước ta sau chiến tranh thế giới
lần thứ hai, trong bản Chỉ thị: "Kháng chiến, kiến quốc" (25/11/1945), Trung
ương Đảng chỉ rõ: "Kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp" [72, tr.21].
Trong quá trình lãnh đạo cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm để bảo
vệ chính quyền, giữ gìn độc lập dân tộc, Trung ương Đảng và Chính phủ, đặc
biệt là Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng hoạt động ngoại giao.
Là người lãnh đạo Chính phủ, đồng thời trực tiếp phụ trách công tác
ngoại giao trong buổi đầu khó khăn của Nhà nước cách mạng, Hồ Chí Minh
luôn theo đúng tinh thần các nghị quyết của Đảng ta về đối ngoại, hết sức
tránh trường hợp cùng một lúc đương đầu với nhiều lực lượng Đồng minh kéo
vào nước ta nhằm tập trung mũi nhọn đấu tranh vào kẻ thù chính. Bản tuyên
bố về chính sách ngoại giao của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà do
Người dự thảo, được Hội đồng Chính phủ thông qua trong phiên họp ngày
28/9/1945 cũng thể hiện tinh thần ấy.
Việc giải quyết quan hệ với phía Pháp luôn được Hồ Chí Minh đặt

trong bối cảnh chung, liên quan chặt chẽ với việc giải quyết quan hệ với các
lực lượng Đồng minh.
Đối với Anh, Đảng chủ trương giao thiệp bình thường, chỉ phản đối
những hành động sai trái của Anh nhằm dung túng cho quân Pháp xâm lược
Việt Nam. Đó là những hành động ngoài phạm vi nhiệm vụ được Đồng Minh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




14

quy định. Ngày 26/9/1945, Người gửi điện cho tướng Anh Graxy (Gracey) để
kháng nghị việc quân Pháp đánh chiếm Sài Gòn.
Phối hợp đấu tranh ngoại giao, Đảng ta đã phát động phong trào đấu
tranh của nhân dân trong nước để biểu thị thái độ phản đối quân Anh dung
túng cho quân Pháp xâm lược Nam Bộ.
Để nâng cao vị trí của Nhà nước ta, Hồ Chí Minh đã cố gắng tranh thủ
các nước có vai trò quan trọng trong quan hệ quốc tế lúc đó. Đối với Liên Xô,
giai đoạn này Chính phủ ta không có mối quan hệ trực tiếp. Trong và sau
Chiến tranh thế giới thứ hai, Đảng ta luôn dành mối cảm tình đặc biệt đối với
Liên Xô. Tuy nhiên, thời gian đó nước ta đang trong tình thế bị bao vây, các
đường liên hệ với bên ngoài rất hạn chế.
Với Mĩ, Hồ Chí Minh tiếp tục giữ vững quan hệ đã có trong thời gian
cuối chiến tranh. Là nước đứng đầu các nước tư bản trong phe Đồng Minh và
có vai trò quan trọng trong Liên hợp quốc, Mĩ có ảnh hưởng rất lớn tới các
mối quan hệ quốc tế sau chiến tranh. Hồ Chí Minh hiểu rất rõ rằng nếu không
có sự giúp đỡ của Mĩ và các nước Đồng Minh thì Pháp không thể trở lại được
Đông Dương. Điểm yếu nhất của Pháp là không có danh nghĩa hợp pháp để

vào Đông Dương. Ở miền Nam, Pháp được Anh giúp, muốn vào miền Bắc,
Pháp phải được sự giúp đỡ của Mĩ - Tưởng. Đảng ta - đứng đầu là Chủ tịch Hồ
Chí Minh - đã chỉ rõ thái độ hai mặt của Mĩ: "Mĩ tuy vẫn nói với Đông Dương,
giữ thái độ trung lập, song Mĩ đã ngầm giúp Pháp bằng cách cho Pháp mượn
tàu chở quân sang Đông Dương. Một mặt, Mĩ muốn tranh giành quyền lợi với
Anh - Pháp ở Đông Dương và Đông Nam Á, nhưng mặt khác lại muốn hoà
hoãn với Anh - Pháp để cùng lập mặt trận bao vây Liên Xô" [73, tr.21]. Trên
cơ sở nhận định đó, Hồ Chí Minh đã quyết định khai thác "mặt trung lập" của
Mĩ. Người thường nhắc tới vai trò đứng đầu Đồng Minh của Mĩ, tán dương
những điều Mĩ tuyên bố công khai, dựa vào đó để đấu tranh trên lĩnh vực
ngoại giao với Pháp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




15

Song Mĩ đã ngả hẳn về lập trường ủng hộ Pháp trong vấn đề Đông
Dương. Ngày 5/10/1945, khi tướng Lơcơlec đổ bộ lên Sài Gòn, Chính phủ Mĩ
đã gửi một bức điện nói rõ: Hoa Kỳ không hề có ý định chống lại việc khôi
phục sự thống trị của Pháp ở Đông Dương và không có một quan điểm chính
thức nào của Chính phủ Mĩ động đến quyền của Pháp ở Đông Dương.
Chính phủ Trùng Khánh được sự chỉ đạo của Mĩ và sự vận động của
Pháp có xu hướng nhường Bắc Việt Nam cho Pháp đổi bằng việc lấy lại
những đặc quyền kinh tế to lớn của Pháp.
Để đối phó với âm mưu ấy, Đảng đã vận dụng sách lược hoà hoãn hết
sức mềm dẻo. Đảng ta đã dự đoán Mĩ - Tưởng sẽ nhân nhượng với Anh Pháp, nhường Đông Dương cho Pháp. Như vậy, khả năng quân Tưởng ở miền
Bắc cũng không lâu dài được như chúng mong muốn. Ta sẽ bị đẩy vào thế
cùng lúc đương đầu với cả Pháp và Tưởng, rất nguy hiểm cho cách mạng.

Ngoài ra, còn có các lí do khác về phương diện quốc tế. Chính phủ Trùng
Khánh trong Chiến tranh được Liên Xô giúp đỡ kháng Nhật. Đến thời gian
này, Liên Xô tiếp tục tranh thủ Tưởng để giữ yên biên giới phía Đông. Hơn
nữa, cuộc hợp tác Quốc - Cộng ở Trung Quốc cũng chưa tan vỡ hẳn, thái độ
công khai của Tưởng cũng như Mĩ ủng hộ độc lập của các dân tộc, là khả
năng để ta tranh thủ.
Việc hoà hoãn được với quân Tưởng trong khi chúng sắp sẵn mưu đồ
đen tối, lại đem theo bọn tay sai đầy tham vọng và ngông cuồng chống phá
cách mạng nước ta quả là một việc vô cùng khó khăn. Nhưng với sự hiểu biết
cặn kẽ nội bộ các tên tướng cầm đầu quân Tưởng, với những đòn chủ động tiến
công ngoại giao kết hợp với các biện pháp khôn khéo, mềm dẻo, Hồ Chí Minh
đã buộc chúng phải giao thiệp với Chính phủ ta và hoà hoãn với ta ngay từ đầu.
Để duy trì sự hoà hoãn với Tưởng, Đảng ta đã có những nhân nhượng,
lùi bước quan trọng, ngăn chặn âm mưu khiêu khích phá hoại của chúng và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




16

của các đảng phái tay sai. Trong lúc nhân dân đang bị nạn đói đe doạ, Chính
phủ vẫn phải nhận cung cấp lương thực cho quân Tưởng. Trước những yêu
sách của quân Tưởng đòi cho bọn tay sai tham gia chính quyền, Hồ Chí
Minh đã 2 lần quyết định mở rộng Chính phủ (tháng 12/1945 và tháng
2/1946). Qua đó nhường cho các đảng Việt Quốc và Việt Cách 70 ghế trong
Quốc hội không qua bầu cử, cho chúng giữ chức Bộ trưởng 4 Bộ trong số 10
Bộ của Chính phủ và để Nguyễn Hải Thần, thủ lĩnh Việt Cách giữ chức Phó
Chủ tịch nước.

Chủ trương và những hoạt động ngoại giao của Đảng cùng với sự chỉ
đạo cụ thể của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc giữ mối quan hệ hoà hoãn
với quân Tưởng có ý nghĩa rất lớn. Thông qua sách lược này, vị thế chủ nhân
đất nước của Chính phủ Việt Nam được củng cố, đồng thời khoét sâu thêm
mâu thuẫn giữa Tưởng và Pháp ở chừng mực nhất định. Cùng với việc tranh
thủ Mĩ, sự hoà hoãn với Tưởng đã tạo điều kiện cho chính quyền cách mạng
tập trung mũi nhọn vào kẻ thù chính là thực dân Pháp xâm lược.
Âm mưu trở lại xâm lược nước ta, chính thực dân Pháp đã đặt nhân dân
Việt Nam trong thế phải đối mặt với chúng như trước những năm 40 của thế
kỷ. Song, cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp sau Cách mạng tháng Tám
không còn bó hẹp trong khuôn khổ một dân tộc thuộc địa chống chế đế quốc
thống trị như thời kỳ trước mà đã chuyển thành cuộc đấu tranh của một quốc
gia vừa giành được chủ quyền, chống lại kẻ xâm lược. Trong đó, đấu tranh
ngoại giao có ý nghĩa rất quan trọng, có khả năng mở ra một phạm vi rộng lớn
của các vấn đề quốc tế.
Thực hiện các chính sách ngoại giao hoà bình, Nhà nước Việt Nam đã
ý thức sâu sắc được sự khác nhau về chất trong quan hệ Việt - Pháp giữa thời
kỳ đấu tranh giành chính quyền với thời kỳ đã có chính quyền. Ở thời kỳ
trước, yêu cầu của dân tộc Việt Nam là phải lật đổ nền thống trị thực dân của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




17

Pháp để giành lại chủ quyền đất nước. Còn ở thời kỳ sau, để tồn tại và phát
triển với tư cách một quốc gia có chủ quyền, điều quan trọng nhất và cũng là
điều kiện thuận lợi nhất, là cần phải có mối quan hệ hoà bình với các quốc gia

khác trên thế giới. Chính sách ngoại giao hoà bình lúc này mang ý nghĩa
chiến lược lâu dài đối với sự phát triển của đất nước, đồng thời cũng đáp ứng
yêu cầu cấp bách của việc bảo vệ chính quyền cách mạng.
Đối với Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà mới ra đời, lực lượng
còn non yếu, yêu cầu có điều kiện hoà bình càng trở nên quan trọng để xây
dựng nền móng của chế độ mới và củng cố, phát triển lực lượng.
Ở miền Nam, tuy đã bước đầu kìm chân được quân Pháp tại các đô thị,
song lực lượng kháng chiến của ta cũng gặp rất nhiều khó khăn.
Ở miền Bắc, tuy hoà hoãn với quân Tưởng nhưng Chính phủ ta vẫn
phải thường xuyên đối phó với những thủ đoạn khiêu khích, gây rối của
chúng và tay sai. Trên thực tế, chúng là gánh nặng cho ta về cả kinh tế lẫn
chính trị. Dự đoán của Đảng về khả năng Mĩ - Tưởng thoả thuận cho Pháp trở
lại miền Bắc Đông Dương càng cho thấy vấn đề chống Pháp không đơn giản
trong phạm vi quan hệ giữa Việt Nam với Pháp.
Như vậy, việc Đảng ta tìm kiếm khả năng hoà hoãn với Pháp xuất phát
từ đường lối ngoại giao phù hợp với lợi ích lâu dài của quốc gia, đáp ứng yêu
cầu củng cố nhà nước dân chủ nhân dân non trẻ. Điều đó phù hợp với tương
quan lực lượng giữa ta với Pháp và cũng phù hợp với hoàn cảnh quốc tế lúc
bấy giờ.
Tuy nhiên, nếu hoà hoãn chỉ là yêu cầu của một phía thì khó có thể trở
thành hiện thực. Nếu như không trùng hợp, thì ít nhất cũng phải có những chỗ
gặp nhau về lợi ích của cả hai phía trong sự hoà hoãn ấy.
Nước Pháp sau chiến tranh đã suy yếu về nhiều mặt. Tại miền Nam,
cuộc kháng chiến của nhân dân ta từ tháng 9/1945 đã cho một số tướng Pháp
thấy rõ là không thể bình định được xứ thuộc địa cũ này một cách nhanh chóng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





18

như ý muốn. Bởi vì đối với Pháp, việc chiếm đóng cả miền Bắc Việt Nam có ý
nghĩa rất quan trọng. Để mở rộng xâm lược ra cả miền Bắc Việt Nam, theo sự
tính toán của một số tướng tá Pháp, cần phải bổ sung một lực lượng lớn quân
viễn chinh, nhưng nước Pháp không đủ khả năng đáp ứng yêu cầu ấy.
Thực tế cách mạng Việt Nam cùng với những chuyển biến của tình
hình thế giới và nước Pháp sau chiến tranh, cũng như sự lớn mạnh của
phong trào giải phóng dân tộc, đã khiến cho ngay trong hàng ngũ tướng tá
Pháp cũng có sự phân hoá, chuyển biến về thái độ đối với Việt Nam. Bên
cạnh những tướng tá vẫn còn giữ đầu óc thực dân thủ cựu, đã có một số
người tương đối thức thời. Đại diện cho số này là Lơcơlec, Xanhtơni... Họ
vẫn đứng trên quan điểm thực dân, vẫn theo đuổi mục đích bảo vệ quyền lợi
của nước Pháp ở các thuộc địa, vẫn không thể chấp nhận nền độc lập thực sự
và hoàn toàn của Việt Nam. Nhưng trước thực tế chính quyền cách mạng
Việt Nam được nhân dân ủng hộ, kiểm soát được hầu như toàn bộ miền Bắc
và đứng trên tư thế chủ nhân đất nước để giao thiệp thân thiện với Đồng
minh Mĩ - Tưởng, những người Pháp này đã nhận thức được rằng không thể
áp dụng những biện pháp thực dân kiểu cũ; không thể trở lại Đông Dương
bằng con đường vũ lực đơn thuần, nhất là trong việc đưa quân Pháp ra miền
Bắc.
Mặt khác, tình hình chính trị của nước Pháp sau chiến tranh cũng có
nhiều chuyển biến. Sự lớn mạnh của Đảng Cộng sản và các lực lượng dân chủ
đem lại cho nước Pháp một không khí chính trị tiến bộ rõ rệt, nhất là sau khi
Đảng Cộng sản Pháp có đảng viên tham gia chính quyền và giữ những chức vụ
khá quan trọng trong Chính phủ Pháp. Đó là điều kiện thuận lợi để cho khả
năng về một giải pháp hoà bình giữa Pháp với Việt Nam có thể thực hiện được.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





19

Như vậy là ở hai phía, Việt Nam và Pháp đều có những yêu cầu về hoà
hoãn, ít nhất là tạm thời. Nhà nước cách mạng Việt Nam, đứng đầu là Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nhận ra và tranh thủ, khai thác khả năng ấy. Đồng thời,
với cương vị của mình, Người luôn cố gắng tạo ra nhiều cơ hội thuận lợi để
khả năng ấy trở thành hiện thực.
Việc tiếp xúc giữa đại diện Chính phủ Việt Nam với phía Pháp đã bắt
đầu ngay từ sau khi ta giành được chính quyền. Cuộc tiếp xúc đầu tiên diễn ra
tại Hà Nội, ngày 27/8/1945 với sự có mặt của thiếu tá Mĩ Patti. Phía Việt
Nam có Võ Nguyên Giáp và Dương Đức Hiền, phía Pháp là Xanhtơni, đây là
dịp để thực hiện việc nói chuyện với Việt Minh đã dự định từ trước khi chiến
tranh kết thúc. Trong cuộc gặp mặt này, đại diện phía Việt Nam đã tỏ thái độ
mềm mỏng khi tuyên bố rằng Việt Minh đã làm chủ đất nước và mong muốn
có sự tiếp xúc chặt chẽ giữa hai bên. Xanhtơni cũng nói rõ lập trường của
Pháp vẫn giữ "chủ quyền" đối với Đông Dương và đang lựa chọn một đường
lối chính trị rộng rãi đối với Đông Dương sau khi Đồng minh rút khỏi khu
vực này. Cuộc tiếp xúc thực ra chỉ mang tính chất thông báo quan điểm và
thăm dò thái độ giữa hai bên.
Cho đến tháng 1/1946, các cuộc tiếp xúc Việt - Pháp vẫn chưa đem lại
kết quả gì cụ thể và thường rơi vào tình trạng bế tắc. Lập trường của phía
Pháp vẫn cơ bản dựa trên tinh thần tuyên bố ngày 23/4/1945 của Đờ Gôn, chỉ
thừa nhận cho Việt Nam tự trị trong Liên bang Đông Dương. Tư tưởng chỉ
đạo của Chính phủ Đờ Gôn là không muốn ký kết với chính quyền bản địa
nếu như chính quyền ấy không do người Pháp tạo ra. Ngay cả những người
tán thành thương lượng như Lơcơlec thì cũng quan niệm rằng chỉ có thể điều

đình với Việt Minh khi đã tỏ rõ sức mạnh của Pháp.
Về phía Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đại diện Chính phủ ta
đã thể hiện đúng tinh thần Chỉ thị "Kháng chiến kiến quốc" của Trung ương
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




20

Đảng (25/11/1945). Song song với lập trường kiên quyết chống xâm lược để
bảo vệ chủ quyền và thống nhất đất nước, Hồ Chí Minh luôn tỏ rõ thiện chí
hoà bình, sẵn sàng hợp tác với nước Pháp.
Tại Đông Dương, quân Tưởng cũng chạy đua với Pháp về thời gian.
Chúng dung túng cho bọn tay sai cố tình phá hoại cuộc đàm phán giữa ta
với Pháp. Chúng cho tay sai khiêu khích, đẩy ta xung đột với Pháp để
chúng lợi dụng. Do đó, yêu cầu về sự thoả thuận ở cả hai phía, ta và Pháp,
lúc này đều trở nên cần thiết. Trong bức điện gửi về cho Chính phủ Pháp
ngày 14/2/1946, Lơcơlec đề nghị: "Nếu muốn đi đến thoả hiệp, không nên
do dự nói đến chữ Độc lập". Lơcơléc yêu cầu Xanhtơni: "Phải hết sức
tránh khi quân Pháp đổ bộ, Hồ Chí Minh đi vào chiến khu để làm một cuộc
chiến tranh thần thánh nào đó" [7, tr.14].
Về phía ta, để tạo lối thoát cho cuộc đàm phán đang bế tắc, trong cuộc
trao đổi ngày 16/2/1946 với Xanhtơni, có Hoàng Minh Giám cùng dự, Hồ Chí
Minh đã nhận đàm phán bí mật trên cơ sở nền độc lập của Việt Nam trong
khối Liên hiệp Pháp. Xanhtơni yêu cầu thêm là phía Pháp sẽ ký kết không chỉ
với Việt Minh mà với một Chính phủ bao gồm nhiều đảng phái chính trị tiêu
biểu cho các khuynh hướng chính trị ở Việt Nam.
Tiến hành thương lượng với Pháp khi những đội quân Tưởng đang
chiếm đóng miền Bắc nước ta và sẵn sàng kiếm cớ lật đổ chính quyền của ta,

là một việc rất khó khăn, phức tạp, vẫn còn đang tranh chấp về vấn đề miền
Bắc Việt Nam.
Những cuộc tiếp xúc cho đến tháng 2/1946 vẫn chưa giải quyết gì cụ thể
mặc dù Chính phủ Việt Nam rất cố gắng và thiện chí. Tuy nhiên, những cuộc
tiếp xúc ấy đã tạo điều kiện cho Chính phủ Việt Nam hiểu rõ thêm lập trường
của phía Pháp cũng như thái độ cụ thể của các chính khách, tướng tá Pháp.
Cũng chính sau những cuộc tiếp xúc ấy, qua Hồ Chí Minh, nhiều người Pháp

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




21

ngày càng nhận thấy rõ rằng lúc này, muốn giải quyết những vấn đề liên quan
đến Việt Nam, không thể thiếu vai trò của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà. Dù không đi đến kết quả cụ thể nào trong mối quan hệ Việt - Pháp, song
những cuộc tiếp xúc đã tạo được cơ sở thực tế cho việc thực hiện chủ trương
hoà hoãn với Pháp khi hai kẻ thù của ta (Pháp và Tưởng) đã bắt tay với nhau.
Hiệp ước Hoa - Pháp ký ngày 28/2/1946 quy định rõ việc quân Pháp
vào miền Bắc Việt Nam thay thế quân Tưởng với thời hạn chậm nhất là
31/3/1946. Mặc dù đó không phải là một điều bất ngờ, nhưng cũng đặt cách
mạng Việt Nam trước một tình thế mới cấp bách.
Với Hiệp ước này, việc quân Pháp vào miền Bắc nước ta không còn chỉ
là khả năng mà sẽ là hiện thực chắc chắn trước mắt. Cuộc xâm lược của
chúng đã được khoác chiếc áo hợp pháp là thay quân Tưởng làm tiếp nhiệm
vụ của Đồng Minh. Như vậy trên thực tế, Đồng Minh đã hoàn thành nhiệm vụ
giúp thực dân Pháp trở lại Đông Dương.
Tình thế đã đặt Nhà nước cách mạng Việt Nam trước hai khả năng cần

lựa chọn: Hoặc là chống lại việc quân Pháp vào miền Bắc nước ta, cũng có
nghĩa là chống lại Hiệp ước Hoa - Pháp, hoặc là thoả thuận với Pháp, đồng ý
việc đưa quân Pháp vào miền Bắc với một số điều kiện của ta. Khả năng thứ
nhất sẽ dẫn đến chiến tranh, trước hết là với Pháp, có thể cả với Tưởng. Cùng
với Pháp, Tưởng là các đảng phái phản động trong nước. Đằng sau Pháp,
Tưởng là Anh, Mĩ. Khả năng thứ hai cũng có nghĩa là chấp nhận nước ta tạm
thời trong tình trạng độc lập không hoàn toàn, phải tiếp tục những cuộc đấu
tranh để giành độc lập trong những hoàn cảnh mới, song sẽ chỉ còn phải đối
đầu trực tiếp với kẻ thù chính là thực dân Pháp.
Trong tình hình khẩn trương, Hồ Chí Minh đã hết sức chủ động trong
việc cùng Trung ương Đảng kịp thời đề ra chủ trương cụ thể phù hợp với
hoàn cảnh.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




×