Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

Một số phương hướng và biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu tại công ty phụ tùng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (435.32 KB, 85 trang )

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

LỜI MỞ ĐẦU
Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, nước ta chuyển đổi từ một
nền kinh tế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước. Qua 15 năm đổi mới kinh tế Việt Nam đã có những bước chuyển
đổi rõ rệt, ngày càng phát triển và vững chắc điều đó đã và đang khẳng
định được tính ưu việt của cơ chế kinh tế thị trường.
Cùng với việc chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường, nền kinh tế mở
cửa và đang từng bước hội nhập với nền kinh tế thế giới. Hoạt động kinh
doanh xuất nhập khẩu có vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế
Việt Nam. Nó là hoạt động kinh doanh mang tính quốc tế làm cầu nối
giữa kinh tế Việt Nam và kinh tế thế giới, góp phần đắc lực thúc đẩy tăng
nhanh năng suất lao động xã hội và tăng thu nhập quốc dân nhờ tranh thủ
được lợi thế so sánh trong trao đổi với nước ngoài. Trong kinh doanh
thương mại quốc tế hoạt động nhập khẩu là một trong những hoạt động có
tác động rất lớn đến nền kinh tế và sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại
hoá đất nước. Do vậy nghiên cứu hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập
khẩu để hiểu rõ, nhận thức được các vấn đề hữu ích và rút ra những kinh
nghiệm là điều rất cần thiết.
Đảm bảo và không ngừng nâng cao hiệu quả là mối quan tâm hàng đầu
của bất kỳ quốc gia nào nói chung và của mỗi doanh nghiệp nói riêng. Vì
vậy, ngày nay việc nâng cao hiệu quả kinh doanh nói chung và hiệu quả
hoạt động kinh doanh nhập khẩu nói riêng là một trong những mục tiêu
quan trọng của các doanh nghiệp, nó là điều kiện để doanh nghiệp có thể
đứng vững trong cạnh tranh và ngày càng phát triển.
Công ty phụ tùng là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh chủ yếu trong
lĩnh vực nhập khẩu. Trong thời gian qua Công ty đã thu được những kết
quả nhất định, hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu ngày càng được
nâng cao. Tuy nhiên, Công ty vẫn gặp phải nhiều khó khăn trong lĩnh vực
nhập khẩu do ảnh hưởng của nhiều nhân tố chủ quan và khách quan từ


môi trường bên ngoài. Xuất phát từ nhận thức của mình, với kiến thức đã
tiếp thu được trong quá trình học tập tại trường và trong thời gian thực tập
tại Công ty phụ tùng. Tôi chọn đề tài “Một số phương hướng và biện
ĐỖ HOÀNG NGUYỄN

LÓP QTKDTH 39A
1


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu tại
Công ty phụ tùng”làm đề tài luận văn tốt nghiệp.
Nội dung của luận văn này được trình bày thành ba chương sau:
Chương I: Tầm quan trọng và nội dung về hiệu quả hoạt động kinh
doanh nhập khẩu.
Chương II: Phân tích thực trạng hoạt động kinh doanh và hiệu quả của
hoạt động kinh doanh nhập khẩu ở Công ty phụ tùng.
Chương III: Một số phương hướng và biện pháp nhằm nâng cao hiệu
quả của hoạt động kinh doanh nhập khẩu tại Công ty phụ tùng.
Tuy nhiên, do hạn chế về thời gian, kiến thức và kinh nghiệm thực tế
cho nên luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tôi mong nhận
được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo để luận văn này được hoàn
thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn thầy giáo hướng dẫn Thạc sỹ Vũ Kim Dũng
cùng toàn thể các cô chú phòng kinh doanh XNK Công ty phụ tùng đã
giúp đỡ tôi hoàn thành bản luận văn này.

ĐỖ HOÀNG NGUYỄN


LÓP QTKDTH 39A
2


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

CHƯƠNG I
TẦM QUAN TRỌNG VÀ NỘI DUNG VỀ HIỆU QUẢ HOẠT
ĐỘNG KINH DOANH NHẬP KHẨU.
I. QUAN ĐIỂM VỀ HIỆU QUẢ KINH DOANH.

1. Khái niệm về hiệu quả kinh doanh.
Mặc dù còn nhiều quan điểm khác nhau song có thể khẳng định trong
cơ chế thị trường nước ta hiện nay mọi doanh nghiệp kinh doanh đều có
mục tiêu bao trùm, lâu dài là tối đa hoá lợi nhuận. Để đạt được mục tiêu
này doanh nghiệp phải xác định chiến lược kinh doanh trong mọi giai
đoạn phát triển phù hợp với những thay đổi của môi trường kinh doanh.
Doanh nghiệp phải phân bổ và quản trị có hiệu quả các nguồn lực và luôn
kiểm tra quá trình diễn ra là có hiệu quả. Muốn kiểm tra tính hiệu quả của
hoạt động sản xuất kinh doanh phải đánh giá được hiệu quả kinh doanh ở
phạm vi doanh nghiệp cũng như ở từng bộ phận của nó.
Cũng giống như một số chỉ tiêu khác, hiệu quả là một chỉ tiêu chất
lượng tổng hợp phản ánh trình độ lợi dụng các yếu tố trong quá trình sản
xuất, đồng thời là một phạm trù kinh tế gắn liền với nền sản xuất hàng
hoá. Sản xuất hàng hoá có phát triển hay không là nhờ đạt được hiệu quả
cao hay thấp. Biểu hiện của hiệu quả là lợi ích mà thước đo cơ bản của lợi
ích là “tiền”. Vấn đề cơ bản trong quản lý là phải biết kết hợp hài hoà giữa
lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, giỡa lợi ích trung ương và lợi ích địa
phương, giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích nhà nước.
Từ trước tới nay các nhà kinh tế đã đưa ra nhiều khái niệm khác nhau

về hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhưng có thể nói rằng
mặc dù có sự thống nhất quan điểm cho rằng phạm trù hiêụ quả kinh
doanh phản ánh mặt chất lượng của hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp song lại khó tìm thấy sự thống nhất trong quan điểm về hiệu quả
kinh doanh.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: “Hiệu quả của sản xuất diễn ra khi xã
hội không thể tăng sản lượng một loại hàng hoá mà không cắt giảm sản

ĐỖ HOÀNG NGUYỄN

LÓP QTKDTH 39A
3


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

lượng của một loại hàng hoá khác. một nền kinh tế có hiệu quả nằm trên
giới hạn khả năng sản xuất của nó.” Thực chất quan điểm này đã đề cập
đến khía cạnh phân bổ có hiệu quả các nguồn lực của nền sản xuất xã hội.
Trên góc độ này rõ ràng phân bổ các nguồn lực kinh tế sao cho đạt được
việc sử dụng mọi nguồn lực trên đường giới hạn khả năng sản xuất sẽ làm
cho nền kinh tế có hiệu quả và rõ ràng xét trên phương diện lý thuyết này
thì đây là mức hiệu quả cao nhất mà mỗi nền kinh tế có thể đạt được. Xét
trên góc độ lý thuyết, hiệu quả kinh doanh chỉ có thể đạt được trên đường
giới hạn năng lực sản xuất của doanh nghiệp. Tuy nhiên, để đạt được mức
độ kinh doanh này sẽ cần rất nhiều điều kiện, trong đó đòi hỏi phải dự báo
và quyết định đầu tư sản xuất theo quy mô phù hợp với cầu thị trường.
Thế mà không phải lúc nào điều này cũng trở thành hiện thực.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Hiệu quả kinh doanh được xác định bởi
quan hệ tỉ lệ giữa sự tăng lên của hai đại lượng kết quả và chi phí. Thực

chất của quan điểm này chỉ đề cập đến hiệu quả kinh tế của phần “tăng
thêm” chứ không phải của toàn bộ phần tham gia vào quá trình kinh
doanh.
Quan điểm thứ ba cho rằng: Hiệu quả kinh doanh được xác định bởi tỉ
số giữa kết quả đạt được và chi phí phải bỏ ra để đạt được kết quả đó.
Từ các quan điểm trên có thể hiểu một cách khái quát hiệu quả kinh
doanh là phạm trù phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực (nhân tài, vật
lực, tiền vốn) để đạt được mục tiêu xác định. Trình độ lợi dụng các nguồn
lực chỉ có thể được đánh giá trong mối quan hệ với kết quả tạo ra để xem
xét xem với mỗi sự hao phí nguồn lực xác định có thể tạo ra kết quả ở
mức độ nào. vì vậy, có thể mô tả hiệu quả kinh doanh bằng công thức
chung nhất như sau:
H=

K
C

Trong đó:

H : Hiệu quả kinh doanh.
K : Kết quả đạt được.
C : Hao phí nguồn lực cần thiết gắn với hiệu quả đó.
Như thế, hiệu quả kinh doanh phản ánh mặt chất lượng các hoạt động
sản xuất kinh doanh, trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất trong quá

ĐỖ HOÀNG NGUYỄN

LÓP QTKDTH 39A
4



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

trình kinh doanh của doanh nghiệp trong sự vận động không ngừng của
các quá trình sản xuất kinh doanh, không phụ thuộc vào quy mô và tốc độ
biến động của từng nhân tố.
2. Bản chất của hiệu quả kinh doanh.
Hiệu quả kinh doanh là phạm trù phản ánh mặt chất lượng của các hoạt
động kinh doanh, phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất trong
quá trình tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
để hiểu rõ bản chất của phạm trù hiệu quả kinh doanh cần phân biệt rõ
ranh giới giữa hai phạm trù hiệu quả và kết quả. Kết quả là phạm trù phản
ánh những cái thu được sau một quá trình kinh doanh hay một khoảng
thời gian kinh doanh nào đó. Kết quả bao giờ cũng là mục tiêu của doanh
nghiệp có thể được biểu hiện bằng đơn vị hiện vật hoặc đơn vị giá trị.
Trong khi đó hiệu quả kinh doanh là phạm trù phản ánh trình độ lợi dụng
các nguồn lực sản xuất. Trình độ lợi dụng các nguồn lực không thể đo
bằng các đơn vị hiện vật hay giá trị mà là một phạm trù tương đối và nó
chỉ có thể được phản ánh bằng số tương đối: tỉ số giữa kết quả và hao phí
nguồn lực.
Phạm trù hiệu quả kinh doanh khác với phạm trù mô tả sự chênh lệch
giữa kết quả và hao phí nguồn lực. Chênh lệch giữa kết quả và chi phí
luôn là số tuyệt đối, phạm trù này chỉ phản ánh mức độ đạt được về mặt
nào đó nên cũng mang bản chất là kết quả của quá trình kinh doanh và
không bao giờ phản ánh được trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất.
Nếu kết quả là mục tiêu của quá trình sản xuất kinh doanh thì hiệu quả là
phương tiện để có thể đạt được các mục tiêu đó. Bên cạnh đó do hiệu quả
kinh doanh phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất trong một
thời kỳ kinh doanh nào đó nên nó hoàn toàn khác với việc so sánh sự tăng
lên của kết quả với sự tăng lên của sự tham gia các yếu tố đầu vào.

Từ đó ta thấy bản chất của hiệu quả kinh doanh là nâng cao năng suất
lao động xã hội và tiết kiệm lao động xã hội. Đây chính là hai mặt có mối
quan hệ mật thiết của vấn đề hiệu quả. Chính việc khan hiếm nguồn lực
và việc sử dụng chúng có tính cạnh tranh nhằm thoả mãn nhu cầu ngày
càng tăng của xã hội, đặt ra yêu cầu phải khai thác, tận dụng triệt để và
tiết kiệm các nguồn lực.

ĐỖ HOÀNG NGUYỄN

LÓP QTKDTH 39A
5


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

Hiệu quả kinh doanh là một khái niệm phức tạp khó đánh giá và khó
tính toán chính xác bởi cả phạm trù kết quả và hao phí nguồn lực gắn với
một thời kì cụ thể nào đó đều khó xác định một cách chính xác.
3. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Trong thực tế, các nguồn lực sản xuất xã hội ngày càng khan hiếm và
cạn kiệt do con người khai thác và sử dụng chúng. Càng ngày người ta
càng sử dụng nhiều các nguồn lực sản xuất vào các hoạt động sản xuất
phục vụ các nhu cầu khác nhau của con người. Nhu cầu của con người
ngày càng đa dạng và phong phú, ngoài đòi hỏi về số lượng còn đòi hỏi về
chất lượng ngày càng cao. Do nhu cầu của con người tăng không có giới
hạn trong khi các nguồn lực sản xuất xã hội đã khan hiếm lại ngày càng
khan hiếm hơn, điều này phản ánh quy luật khan hiếm. Quy luật khan
hiếm bắt buộc mọi doanh nghiệp phải lựa chọn và trả lời chính xác ba câu
hỏi: Sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Sản xuất cho ai? Vì thị trường
chỉ chấp nhận những doanh nghiệp nào quyết định sản xuất đúng loại sản

phẩm, dịch vụ với chất lượng và số lượng phù hợp. Các doanh nghiệp trả
lời không đúng ba vấn đề trên sẽ sử dụng các nguồn lực sản xuất xã hội để
sản xuất ra những sản phẩm không được thị trường chấp nhận điều đó có
nghĩa là doanh nghiệp kinh doanh không có hiệu quả, gây lãng phí các
nguồn lực sản xuất xã hội do đó doanh nghiệp sẽ không tồn tại được trên
thị trường.
Mặt khác, các doanh nghiệp kinh doanh trong cơ chế thị trường mở
cửa và ngày càng hội nhập phải chấp nhận và đứng vững trong cạnh tranh.
Trong môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt các doanh nghiệp muốn
chiến thắng trong cạnh tranh phải luôn tạo ra và duy trì được lợi thế cạnh
tranh: chất lượng và sự khác biệt hoá, giá cả và tốc độ cung ứng. Để duy
trì được lợi thế cạnh tranh về giá cả doanh nghiệp phải sử dụng tiết kiệm
nguồn lực sản xuất hơn so với các doanh nghiệp cùng ngành. Chỉ trên cơ
sở sản xuất kinh doanh với hiệu quả kinh tế cao, doanh nghiệp mới có thể
đạt được điều này.
Bên cạnh đó, mục tiêu bao trùm, lâu dài của mọi doanh nghiệp kinh
doanh là tối đa hoá lợi nhuận. Để thực hiện mục tiêu này, doanh nghiệp

ĐỖ HOÀNG NGUYỄN

LÓP QTKDTH 39A
6


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

phải tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh để tạo ra sản phẩm, dịch vụ
cung cấp cho thị trường. Muốn vậy, doanh nghiệp phải sử dụng các nguồn
lực sản xuất xã hội nhất định. Doanh nghiệp càng tiết kiệm sử dụng các
nguồn lực này bao nhiêu sẽ càng có cơ hội để thu được nhiều lợi nhuận

bấy nhiêu. Hiệu quả kinh doanh là phạm trù phản ánh tính tương đối của
việc sử dụng tiết kiệm các nguồn lực sản xuất xã hội nên là điều kiện để
thực hiện mục tiêu bao trùm, lâu dài của doanh nghiệp. Hiệu quả kinh
doanh càng cao càng phản ánh doanh nghiệp đã sử dụng tiết kiệm các
nguồn lực sản xuất. Vì vậy, nâng cao hiệu quả là đòi hỏi khách quan để
doanh nghiệp thực hiện các mục tiêu bao trùm, lâu dài là tối đa hoá lợi
nhuận.
II. NHỮNG NGUYÊN TẮC VÀ QUAN NIỆM VỀ HIỆU QUẢ KINH
DOANH NHẬP KHẨU.

1. Những nguyên tắc về hiệu quả kinh doanh nhập khẩu.
Hiệu quả và nâng cao hiệu quả kinh doanh có một vị trí đặc biệt quan
trọng trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Vì vậy, nghiên
cứu và có phương pháp đúng đắn trong việc đánh giá đúng đắn hiệu quả
kinh doanh cho phép doanh nghiệp phát hiện ra những hạn chế, khó khăn
cũng như những thuận lợi của doanh nghiệp mình trong quá trình hoạt
động kinh doanh. Từ việc phân tích, đánh giá môi trường bên trong và
môi trường bên ngoài doanh nghiệp sẽ tìm ra được chiến lược, giải pháp
phù hợp nhằm phát huy những thuận lợi và hạn chế những khó khăn để
thực hiện được mục tiêu kinh doanh đã đề ra. Tuy nhiên, khi đánh giá
hiệu quả kinh doanh và đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả kinh
doanh cần quán triệt các nguyên tắc sau đây:
1.1.Nguyên tắc mối tương quan Thu-Chi.
Theo nguyên tắc này các doanh nghiệp phải hoạt động theo hướng cực
đại cái thu được và cực tiểu phải chi ra. Nguyên tắc này đối với các doanh
nghiệp thực hiện hoạt động kinh doanh nhập khẩu là rất quan trọng, bởi vì
trong đàm phán, giao dịch, ký kết các hợp đồng phát sinh các khoản chi
phí rất lớn, đòi hỏi các doanh nghiệp nhập khẩu phải kết hợp giữa lợi ích

ĐỖ HOÀNG NGUYỄN


LÓP QTKDTH 39A
7


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

mà mình thu được với chi phí mà mình bỏ ra để có hiệu quả kinh doanh
cao nhất.
1.2.Nguyên tắc tăng lợi nhuận.
Mọi doanh nghiệp hoạt động kinh doanh đều phải tuân thủ nguyên tắc
này nếu như muốn tồn tại và phát triển. Để xem xét hoạt động kinh doanh
nhập khẩu của doanh nghiệp có hiệu quả hay không chúng ta phải xét
trong mối quan hệ so sánh với kết quả đạt được trong thời kỳ trước với
hiện tại của doanh nghiệp. Có thể doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả
năm nay nhưng so với năm trước thì lại không hiệu quả do mức tăng lợi
nhuận của năm nay nhỏ hơn so với mức tăng lợi nhuận của năm trước.
điều này đã lý giải tại sao có nhiều doanh nghiệp nhập khẩu hoàn thành
chỉ tiêu giảm chi phí, tăng lợi nhuận nhưng thực ra vẫn không đạt hiệu
quả tương ứng với những nguồn lực hiện có của mình. Tuy nhiên không
nên xem lợi nhuận như là tiêu chuẩn duy nhất đánh giá hiệu quả kinh
doanh mà quan trọng là phải xem xét lợi nhuận đạt được bằng cách nào và
được phân phối sử dụng như thế nào. Chính vì vậy, luôn tăng lợi nhuận và
phân phối lợi nhuận đúng, hợp lý không phải doanh nghiệp nào cũng làm
được.
1.3.Nguyên tắc toàn diện: Thể hiện qua các quan điểm sau.
- Thứ nhất, đó là sự gắn bó và ước định lẫn nhau về giá trị và giá trị sử
dụng chính của doanh nghiệp sản xuất và giá trị mua vào, bán ra của
doanh nghiệp nhập khẩu, một mặt giảm chi phí lao động xã hội sản xuất
hàng hoá mặt khác đảm bảo chất lượng sản phẩm và không ngừng mở

rộng mặt hàng đáp ứng nhu cầu đa dạng của xã hội.
- Thứ hai, sự toàn diện đòi hỏi vừa giải quyết những vấn đề xã hội vừa
giải quyết vấn đề kinh tế-kinh doanh.
- Thứ ba, sự toàn diện đòi hỏi phải xem xét mỗi giải pháp, mỗi phương
án một cách toàn diện về không gian và thời gian, làm sao bảo đảm hiệu
quả của từng phần tử, từng phân hệ có tác động tích cực đến việc nâng
cao hiệu quả của toàn hệ thống, nâng cao hiệu quả hiện tại và lâu dài.
Nhất là đối với các doanh nghiệp nhập khẩu, tính bền vững của các mối
quan hệ với đối tác phụ thuộc vào lợi ích thu được từ những hợp đồng vơí
đối tác đó.
ĐỖ HOÀNG NGUYỄN

LÓP QTKDTH 39A
8


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

1.4. Nguyên tắc đảm bảo phải kết hợp hài hoà giữa lợi ích cá nhân,
tập thể và nhà nước.
Nguyên tắc này đòi hỏi việc nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu
phải xuất phát và thoả mãn những mối quan hệ trên, trong đó lợi ích của
người lao động là yếu tố quyết định việc nâng cao hiệu quả kinh doanh.
2.Quan niệm về hiệu quả kinh doanh nhập khẩu.
Cũng giống như các lĩnh vực kinh doanh khác, kinh doanh nhập khẩu
cũng cần các yếu tố đầu vào như: vốn, thiết bị, phương tiện vận tải, nguồn
nhân lực ...đồng thời nó cũng tác động mạnh tới sự ổn định chính trị, xã
hội của mỗi quốc gia. Bởi vậy, hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu
được thể hiện trên hai mặt đó là hiệu quả xã hội và hiệu quả kinh tế. Ta có
thể đưa ra khái niệm sau về hiệu quả kinh doanh nhập khẩu: Hiệu quả

kinh doanh nhập khẩu là một phạm trù phản ánh trình độ sử dụng các
nguồn lực đầu vào nhằm đảm bảo thực hiện có kết quả cao những nhiệm
vụ kinh tế-xã hội đặt ra của doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh
nhập khẩu với chi phí thấp nhất.
Hoạt động kinh doanh nhập khẩu là một nội dung của hoạt động kinh
doanh, nó được mở rộng về mặt không gian trao đổi hàng hoá và chủng
loại hàng hoá. Doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu là một doanh nghiệp
trao đổi, buôn bán hàng hoá vượt qua biên giới của quốc gia. Trong thực
tế hàng hoá mà một quốc gia tiêu dùng không phải chỉ là hàng hoá nội địa
mà còn là nhiều hàng hoá của các quốc gia trên thế giới. Thực tế, những
năm mở cửa của nền kinh tế nước ta cho đến nay cho thấy hoạt động kinh
doanh nhập khẩu tạo ra hiệu quả kinh tế rất cao trong nền sản xuất của
quốc gia.
3.Phân loại hiệu quả kinh doanh nhập khẩu.
Thực tế cho thấy hiệu quả là một phạm trù được sử dụng rộng rãi trong
tất cả các lĩnh vực xã hội, kinh tế và kỹ thuật ... Việc phân loại hiệu quả
kinh doanh trong kinh doanh nhập khẩu theo những tiêu thức khác nhau
có tác dụng thiết thực cho công tác quản lý kinh tế. Nó là cơ sở để xác
định các chỉ tiêu, mức hiệu quả và xác định các biện pháp nâng cao hiệu
quả trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
3.1.Hiệu quả kinh doanh cá biệt và hiệu quả kinh tế xã hội.
ĐỖ HOÀNG NGUYỄN

LÓP QTKDTH 39A
9


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

Hiệu quả kinh doanh cá biệt là hiệu quả kinh doanh thu được từ hoạt

động kinh doanh của từng doanh nghiệp nhập khẩu. Biểu hiện chung của
hiệu quả cá biệt là doanh lợi mà mỗi doanh nghiệp đạt được.
Hiệu quả kinh tế-xã hội mà doanh nghiệp thương mại quốc tế đem lại
cho nền kinh tế quốc đân là sự đóng góp của hoạt động thương mại quốc
tế vào việc phát triển sản xuất, đổi mới cơ cấu kinh tế, tăng năng suất lao
động xã hội, tích luỹ ngoại tệ, tăng thu cho ngân sách, giải quyết việc làm,
cải thiện đời sống nhân dân vv...
Trong quản lý kinh doanh thương mại quốc tế, không những cần tính
toán và đạt hiệu quả trong hoạt động của từng người, từng doanh nghiệp
mà còn phải tính toán để đạt được hiệu quả kinh tế-xã hội đối với nền
kinh tế quốc dân. Giữa hiệu quả kinh tế-xã hội và hiệu quả kinh doanh cá
biệt có quan hệ nhân quả và tác động qua lại lẫn nhau. Hiệu quả kinh tế
quốc dân chỉ có thể đạt được trên cơ sở hoạt động có hiệu quả của các
doanh nghiệp. Tuy vậy, có thể có những doanh nghiệp nhập khẩu không
đảm bảo được hiệu quả nhưng nền kinh tế vẫn thu được hiệu quả. Tuy
nhiên, tình hình thua lỗ của doanh nghiệp nào đó, chỉ có thể chấp nhận
trong những thời điểm nhất định do những nguyên nhân khách quan mang
lại. Các doanh nghiệp phải quan tâm tới hiệu quả kinh tế-xã hội, vì đó
chính là tiền đề và điều kiện cho doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả.
3.2.Hiệu quả của chi phí bộ phận và chi phí tổng hợp.
Mục đích hoạt động của các doanh nghiệp là thu được lợi nhuận tối đa.
Do đó, doanh nghiệp phải căn cứ vào thị trường để giải quyết những vấn
đề then chốt. Sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai và với
chi phí là bao nhiêu.
Các doanh nghiệp tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh của mình
trong những điều kiện cụ thể về tài nguyên, trình độ trang bị kĩ thuật, trình
độ tổ chức và quản lý lao động, quản lý kinh doanh. Họ đưa ra thị trường
sản phẩm của mình với một chi phí cá biệt nhất định và với mục đích là
thu được lợi nhuận lớn nhất.
Suy đến cùng, chi phí bỏ ra là chi phí lao động xã hội. Nhưng tại mỗi

doanh nghiệp mà chúng ta cần đánh giá hiệu quả, thì chi phí lao động xã
hội đó lại được thể hiện dưới các dạng chi phí cụ thể:
ĐỖ HOÀNG NGUYỄN

LÓP QTKDTH 39A
10


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

- Chi phí nguyên vật liệu.
- Chi phí lao động sống.
- Chi phí hoa mòn máy móc thiết bị.
- Chi phí ngoài sản xuất.
Bản thân mỗi loại chi phí trên lại có thể được phân chia chi tiết tỉ mỉ
hơn. Đánh giá hiệu quả kinh tế hoạt động nhập khẩu không thể không
đánh giá hiệu quả thị trường tổng hợp của các loại hao phí trên đây,
nhưng cũng rất cần thiết phải đánh giá hiệu quả của từng loại chi phí trên.
3.3.Hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả so sánh.
Trong công tác quản lý kinh doanh, việc xác định hiệu quả nhằm hai
mục đích cơ bản:
Một là: Đánh giá trình độ sử dụng các yếu tố đầu vào trong quá trình
tái sản xuất kinh doanh.
Hai là: Để phân tích, lý giải về kinh tế các phương án khác nhau trong
việc thực hiện một nhiệm vụ cụ thể nào đó, từ đó lựa chọn lấy một
phương án có lợi nhất.
Hiệu quả tuyệt đối là hiệu quả được tính toán cho từng phương án cụ
thể bằng cách xác định mức lơị ích thu được với lượng chi phí bỏ ra.
Chẳng hạn tính toán mức lợi nhuận thu được từ một đồng chi phí sản xuất
(giá thành), hoặc từ một đồng vốn bỏ ra.

Người ta xác định hiệu quả tuyệt đối khi phải bỏ chi phí ra để thực
hiện một thương vụ nào đó, để biết được với những chi phí bỏ ra sẽ thu
được những lợi ích cụ thể và mục tiêu cụ thể gì, từ đó đi đến quyết định
có nên bỏ ra chi phí hay không cho thương vụ đó. Vì vậy, trong công tác
quản lý kinh doanh, bất kỳ công việc gì đòi hỏi phải bỏ ra chi phí, dù với
một lượng lớn hay nhỏ cũng đều phải tính toán hiệu quả tuyệt đối.
Hiệu quả so sánh được xác định bằng cách so sánh các chỉ tiêu hiệu
quả tuyệt đối của các phương án với nhau. Nói cách khác, hiệu quả so
sánh chính là mức chênh lệch về hiệu quả tuyệt đối giữa các phương án.
Mục đích chủ yếu của việc tính toán này là so sánh mức độ hiệu quả của
các phương án để từ đó cho phép lựa chọn một phương án có hiệu quả cao
nhất.

ĐỖ HOÀNG NGUYỄN

LÓP QTKDTH 39A
11


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

Trên thực tế, để thực hiện một nhiệm vụ nào đó, chúng ta không chỉ có
một phương án mà có thể đưa ra nhiều phương án khác nhau. Mỗi phương
án đòi hỏi lượng vốn đầu tư, lượng chi phí khác nhau, thời gian thực hiện
và thời gian thu hồi vốn khác nhau. Vì vậy, muốn đạt được hiệu quả kinh
doanh cao, các doanh nghiệp không đơn thuần đề ra một phương án, mà
phải đưa ra nhiều phương án khác nhau, rồi so sánh hiệu quả của các
phương án đó để chọn ra một phương án có hiệu quả nhất.
Hiệu quả tuyệt đối và hiệu qủa so sánh trong kinh doanh thương mại
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, song chúng lại có tính độc lập tương

đối. Trước hết xác định hiệu quả tuyệt đối là cơ sở để xác định hiệu quả
so sánh. Nghĩa là, trên cơ sở những chỉ tiêu tuyệt đối của từng phương án,
người ta so sánh hiệu quả ấy của các phương án với nhau, mức chênh lệch
ấy chính là hiệu quả so sánh. Tuy vậy, có những chỉ tiêu hiệu quả so sánh
được xác định không phụ thuộc vào việc xác định hiệu quả tuyệt đối.
Chẳng hạn, việc so sánh giữa mức chi phí của các phương án với nhau để
chọn ra phương án có chi phí thấp nhất, thực chất chỉ là so sánh mức chi
phí của các phương án chứ không phải là việc so sánh mức hiệu quả tuyệt
đối của các phương án.
4. Mục đích và ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh
nhập khẩu.
Hiệu quả kinh doanh được coi như là một công cụ để các nhà quản trị
thực hiện chức năng của mình. Các doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế
thị trường với mục tiêu bao trùm là tối đa hoá lợi nhuận thì việc nâng cao
hiệu quả kinh doanh luôn là mối quan tâm hàng đầu của họ. Với mục đích
tồn tại và phát triển, luôn luôn đứng vững trong cạnh tranh, không ngừng
mở rộng thị trường, mở rộng quy mô doanh nghiệp cả về chiều rộng lẫn
chiều sâu thì các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao hiệu quả kinh
doanh. Đối với các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh nhập khuẩu thì
hiệu quả không những là thước đo chất lượng phản ánh trình độ tổ chức,
quản lý hoạt động kinh doanh nhập khẩu mà còn là vấn đề sống còn đối
với doanh nghiệp. Bởi vì do đặc điểm của hoạt động kinh doanh nhập
khẩu đó là hoạt động kinh doanh buôn bán trên phạm vi quốc tế, mỗi một
thương vụ thường có giá trị lớn và thời gian thu hồi vốn lâu và nó chịu

ĐỖ HOÀNG NGUYỄN

LÓP QTKDTH 39A
12



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố. Do vậy, nếu như không có hiệu quả thì
chỉ cần một thương vụ thôi cũng có thể ảnh hưởng tới sự tồn tại cuả doanh
nghiệp.
Trong điều kiện môi trường cạnh tranh ngày càng mở rộng, doanh
nghiệp muốn khẳng định được vị trí của mình trên thị trường và vươn lên
thì trước tiên doanh nghiệp phải kinh doanh có hiệu quả. Một doanh
nghiệp không thể tồn tại nếu kinh doanh không hiệu quả. Hiệu quả kinh
doanh càng cao, doanh nghiệp càng có điều kiện mở mang và phát triển.
Nâng cao hiệu quả kinh doanh có nghĩa trên các mặt sau:
- Đối với nền kinh tế quốc dân thì việc nâng cao hiệu quả kinh doanh
nhập khẩu chính là tiết kiệm nguồn lực, nguồn nguyên vật liệu cho xã hội,
khả năng phát triển lực lượng sản xuất kinh doanh ngày càng cao và trình
độ hoàn thiện quan hệ giao dịch, quan hệ sản xuất cao hơn. Tạo điều kiện
cho nền kinh tế trong nước nắm bắt được những thành tựu khoa học kỹ
thuật tiên tiến trên thế giới, tăng khối lượng giá trị sử dụng cho nền kinh
tế quốc dân và mặt khác làm tăng thu nhập quốc dân nhờ tranh thủ được
lợi thế so sánh trong trao đổi với nước ngoài, tạo thêm tích luỹ cho quá
trình tái sản xuất trong nước, góp phần cải thiện đời sống nhân dân trong
nước.
- Đối với bản thân doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường thì việc
nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu là mục tiêu cơ bản. Nó là cơ sở
để tái sản xuất mở rộng, cải thiện đời sống cán bộ công nhân viên trong
doanh nghiệp, tăng cường sức mạnh của doanh nghiệp cũng như nâng cao
uy tín của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế.
-Đối với người lao động: Hiệu quả kinh doanh cao là động cơ thúc
đẩy, kích thích người lao động, làm họ hăng say, yên tâm làm việc, luôn
luôn có ý thức về trách nhiệm của mình trong công ty và họ sẽ luôn cố

gắng đóng góp những sáng kiến cho doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả
kinh doanh đồng nghĩa với nâng cao đời sống cho người lao động trong
doanh nghiệp.
Như vậy, hiệu quả của hoạt động kinh doanh nhập khẩu có ý nghĩa vô
cùng quan trọng đối với doanh nghiệp xuất nhập khẩu nói riêng và với
nền kinh tế nói chung. để đạt được hiệu quả cao doanh nghiệp phải hoàn

ĐỖ HOÀNG NGUYỄN

LÓP QTKDTH 39A
13


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

thành mục tiêu đặt ra trong từng thời kỳ phù hợp với khả năng của doanh
nghiệp và phù hợp với môi trường bên ngoài.
III. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ KINH DOANH NHẬP
KHẨU.

Do đặc điểm của hoạt động kinh doanh nhập khẩu vì vậy có rất nhiều
nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả của nó. Muốn thành công trong kinh
doanh thì những lãnh đạo trong doanh nghiệp phải nắm bắt và hiểu rõ
những tác động của từng nhân tố để điều chỉnh cho thích ứng, cho phù
hợp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu. Các nhân
tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu bao gồm các
nhân tố khách quan và chủ quan.
1.Các nhân tố chủ quan từ phía doanh nghiệp.
Đây là những nhân tố thuộc phạm vi doanh nghiệp tác động trực tiếp
đến hoạt động kinh doanh và kết quả của doanh nghiệp.

1.1.Nhân tố lao động.
−Trình độ tay nghề, chuyên môn của người lao động, nhân tố này ảnh
hưởng trực tiếp đến kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trình
độ chuyên môn của người lao động cao, tinh thần trách nhiệm của nhân
viên trong công việc cao sẽ tạo ra năng suất lao động cao từ đó sẽ nâng
cao được hiệu quả kinh doanh. Bên cạnh đó việc sử dụng đúng người
đúng việc sao cho tận dụng được tốt nhất các khả năng, sở trường của
từng người là một yêu cầu quan trọng trong tổ chức nhân sự của công ty
nhằm đưa hoạt động kinh doanh vào đúng hướng có hiệu quả.
-Trình độ tổ chức và quản lý của lãnh đạo: lãnh đạo là người định
hướng cho sự phát triển của công ty, hướng dẫn tổ chức các hoạt động
kinh doanh của công ty. Do vậy, người lãnh đạo phải có trình độ, năng lực
và năng động. Kinh doanh trong môi trường quốc tế đòi hỏi người lãnh
đạo phải có kiến thức chuyên môn về ngoại thương, trình độ ngoại ngữ,
am hiểu pháp luật trong nước và quốc tế, có năng lực, năng động và sáng
tạo, tổ chức phân công và hợp tác lao động hợp lý giữa các cá nhân, bộ
phận trong công ty, sử dụng đúng người sao cho họ có thể phát huy hết
ĐỖ HOÀNG NGUYỄN

LÓP QTKDTH 39A
14


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

những khả năng của họ, tạo sự thống nhất hợp lý trong tiến trình thực hiện
nhiệm vụ của công ty. Người lãnh đạo phải nên áp dụng các hình thức
trách nhiệm vật chất, sử dụng các đòn bẩy kinh tế, thưởng phạt nghiêm
minh, tạo động lực thúc đẩy người lao động nỗ lực lớn hơn nữa trong
công việc, nhiệm vụ, trách nhiệm của mình, tạo ra sức mạnh tổng hợp

nhằm thực hiện một cách tốt nhất kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp,
góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh.
1.2.Cơ sở vật chất kỹ thuật.
Cơ sở vật chất kỹ thuật trong doanh nghiệp là yếu tố vật chất hữu hình
phục vụ cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Có thể nói, cơ sở
vật chất kỹ thuật là nền tảng quan trọng để thực hiện các hoạt động kinh
doanh. Cơ sở vật chất của doanh nghiệp sẽ đem lại sức mạnh kinh doanh
cho doanh nghiệp trên cơ sở sức sinh lời của tài sản. Nhân tố này đặc biệt
quan trọng đối với các doanh nghiệp thương mại hoạt động nhập khẩu. Cơ
sở vật chất của doanh nghiệp góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có cơ sở vật chất tốt như: Nhà cửa, kho
tàng, bến bãi, cửa hàng, các thiết bị văn phòng và được bố trí một cách
hợp lý sẽ đem lại hiệu quả kinh doanh cao cho doanh nghiệp và nó cũng
chính là lợi thế của doanh nghiệp so với doanh nghiệp khác.
1.3 Tính chất và đặc điểm của mặt hàng nhập khẩu.
Mặt hàng nhập khẩu có tác động rất lớn đến hoạt động nhập khẩu của
doanh nghiệp. Tuỳ theo từng loại mặt hàng nhập khẩu với các đặc điểm
và tính chất khác nhau mà doanh nghiệp phải thực hiện các bước trong
quá trình nhập khẩu với mức độ khác nhau. Ngoài ra mặt hàng nhập khẩu
còn tác động mạnh đến khâu nghiên cứu thị trường, khâu vận chuyển, bảo
quản hàng hoá...từ đó nó sẽ tác động tới chi phí và lợi nhuận của lô hàng
nhập khẩu. Mặt khác, mặt hàng nhập khẩu cũng ảnh hưởng mạnh mẽ tới
kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu như loại mặt hàng nào đó được
khách hàng ưa chuộng, ít người cung cấp trong nước thì việc nhập khẩu sẽ
mang lại lợi nhuận cao, ngược lại nếu như chịu sức ép từ cạnh tranh do
nhiều người cung cấp ở thị trường trong nước thì lợi nhuận thu được từ
mặt hàng đó sẽ thấp.
1.4 Trình độ quản lý và sử dụng vốn.

ĐỖ HOÀNG NGUYỄN


LÓP QTKDTH 39A
15


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

Đây là nhân tố quan trọng tác động thường xuyên, trực tiếp đến hiệu
quả kinh doanh. Do vậy, doanh nghiệp phải chú trọng ngay từ khi hoạch
định nhu cầu vốn kinh doanh, làm cơ sở cho việc lựa chọn, huy động các
nguồn vốn hợp lý trên cơ sở khai thác tối đa mọi nguồn lực sẵn có của
mình, tổ chức chu chuyển vốn, tái tạo vốn, bảo toàn và phát triển vốn. Đối
với các doanh nghiệp hoạt động nhập khẩu cần nghiên cứu sự biến động
của các đồng ngoại tệ mạnh thường được sử dụng trong thanh toán quốc
tế như USD, JPY...để ký kết và thực hiện hợp đồng một cách có lợi nhất.
Trong hoạt động nhập khẩu cần chú trọng tới khâu lập hợp đồng, đàm
phán ký kết, phương thức thanh toán nhằm tránh tình trạng mất vốn kinh
doanh, tránh các khoản bị phạt do vi phạm hợp đồng cũng như các tranh
chấp không cần thiết, giảm các khoản chi phí không đáng có ảnh hưởng
tới kinh doanh.
1.5 Hệ thống trao đổi và xử lý thông tin.
Ngày nay với sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học kỹ
thuật đang làm thay đổi hẳn nhiều lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Đối với
các doanh nghiệp xuất nhập khẩu để đạt được thành công khi kinh doanh
trong điều kiện cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt và quyết liệt, các
doanh nghiệp rất cần các thông tin chính xác về cung và cầu thị trường
hàng hoá, về các đối thủ cạnh tranh...Ngoài ra, doanh nghiệp rất cần đến
các thông tin về các kinh nghiệm thành công hay thất bại của các doanh
nghiệp trong và ngoài nước, các thông tin về việc thay đổi các chính sách
kinh tế của nhà nước và các nước khác, về tỷ giá hối đoái.

Trong thực tế, kinh nghiệm thành công của nhiều doanh nghiệp cho
thấy việc nắm được đầy đủ các thông tin cần thiết, biết xử lý và sử dụng
các thông tin đó một cách kịp thời là một điều kiện rất quan trọng để ra
các quyết định kinh doanh có hiệu quả cao, đem lại thắng lợi trong cạnh
tranh. Có được những thông tin chính xác sẽ là cơ sở vững chắc để doanh
nghiệp xác định phương hướng và xây dựng chiến lược kinh doanh dài
hạn cũng như hoạch định các chương trình kinh doanh ngắn hạn. Nếu như
doanh nghiệp không có được đầy đủ các thông tin thường xuyên và xử lý
không kịp thời thì doanh nghiệp sẽ không có cơ sở chắc chắn để ban hành

ĐỖ HOÀNG NGUYỄN

LÓP QTKDTH 39A
16


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

các quyết định kinh doanh ngắn hạn và dài hạn do vậy doanh nghiệp sẽ
không tồn tại được trong môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt.
1.6 Nhân tố quản trị doanh nghiệp.
Càng ngày nhân tố quản trị càng đóng vai trò quan trọng đối với hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Quản trị doanh nghiệp luôn chú trọng
tới việc xác định cho doanh nghiệp một hướng đi đúng đắn trong môi
trường ngày càng biến động. Chất lượng của chiến lược kinh doanh là
nhân tố đầu tiên và quan trọng nhất quyết định sự thành công, hiệu quả
kinh doanh cao hay thấp của doanh nghiệp.
Muốn tồn tại và phát triển thì doanh nghiệp phải chiến thắng trong
cạnh tranh. Mọi quyết định quan trọng ảnh hưởng tới sự thành công hay
thất bại của doanh nghiệp phụ thuộc chủ yếu vào nhãn quan và khả năng

quản trị của các nhà quản trị doanh nghiệp. Ở mọi doanh nghiệp, kết quả
và hiệu quả hoạt động của quản trị doanh nghiệp đều phụ thuộc rất lớn
vào trình độ chuyên môn của đội ngũ các nhà quản trị cũng như cơ cấu tổ
chức bộ máy quản trị doanh nghiệp, và việc xác định chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn của từng bộ phận, cá nhân và việc thiết lập các mối quan hệ
giữa các bộ phận trong cơ cấu tổ chức đó.

2 .Các nhân tố khách quan.
Đây là những nhân tố thuộc môi trường bên ngoài doanh nghiệp, nó
tác động mạnh đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp và buộc doanh
nghiệp phải có những điều chỉnh để thích ứng.
2.1. Các chính sách về kinh tế của nhà nước.
- Chính sách về thuế nhập khẩu: Đây là một trong những công cụ quan
trọng nhằm quản lý nhập khẩu hàng hoá ở nước ta. Mục đích của nó là
hạn chế việc xuất khẩu của nước khác vào lãnh thổ của nước ta. Tuy
nhiên mỗi quốc gia không thể sống một cách riêng rẽ mà có được đầy đủ
mọi thứ hàng hoá. Vì vậy cần phải nhập khẩu những mặt hàng mà trong
nước không sản xuất được hoặc sản xuất được nhưng chi phí sản xuất cao
hơn giá nhập khẩu từ bên ngoài vào. Việt Nam là nước đang phát triển, so
với các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới thì chúng ta lạc hậu
ĐỖ HOÀNG NGUYỄN

LÓP QTKDTH 39A
17


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

hơn rất nhiều do vậy nhu cầu về việc nhập khẩu các loại hàng hoá nhằm
phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của nhân dân và phục vụ cho sản xuất là

rất lớn. Tuỳ theo từng loại hàng, mặt hàng cụ thể mà nhà nước đặt ra các
mức thuế nhập khẩu khác nhau, trong từng thời điểm khác nhau. Chính
sách về thuế nhập khẩu mà nhà nước đặt ra nhằm phục vụ cho sự phát
triển kinh tế- xã hội của đất nước. Các doanh nghiệp thực hiện hoạt động
kinh doanh nhập khẩu tuỳ theo nhập những loại mặt hàng cụ thể nào thì sẽ
phải chịu mức thuế cao hoặc thấp, do vậy chính sách này có tác động
mạnh đến hiệu quả kinh doanh của từng doanh nghiệp.
- Chính sách về trợ giá, bù giá cho nhập khẩu.
Do một số mặt hàng hết sức cần thiết phải nhập khẩu để phục vụ nhu
cầu trong nước do vậy mục đích của chính sách này đưa ra nhằm khuyến
khích nhập khẩu những mặt hàng tạo đầu vào cho sản xuất hàng xuất
khẩu, những mặt hàng phục vụ cho nhu cầu trực tiếp của nhân dân về
hàng tiêu dùng. Với chính sách ưu tiên cho một số mặt hàng trong số rất
nhiều các mặt hàng nhập khẩu nhằm bổ sung kịp thời những mất cân đối
của nền kinh tế, đảm bảo phát triển kinh tế cân đối và ổn định do vậy nó
có tác động không nhỏ đến hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp.
- Chính sách về tỷ giá: Tỷ giá hối đoái là tỷ lệ giữa giá trị của các đồng
tiền so với nhau, nó phản ánh mối quan hệ tương quan về sức mua của
đồng tiền quốc gia. Tuỳ theo từng thời điểm khác nhau, tỷ giá hối đoái có
thể thay đổi lên xuống khác nhau gây nên những thuận lợi hoặc bất lợi
cho hoạt động xuất nhập khẩu bởi vì nó tác động trực tiếp đến giá cả hàng
hoá xuất nhập khẩu. Cụ thể khi tỷ giá có sự sụt giảm, có nghĩa là đồng nội
tệ tăng giá sẽ làm giảm xuất khẩu và tăng nhập khẩu làm cán cân thương
mại có thể xấu đi. Ngược lại, nếu tỷ giá có sự gia tăng, có nghĩa giá trị của
đồng nội tệ giảm sẽ làm tăng xuất khẩu và giảm nhập khẩu, từ đó cán cân
thương mại có thể được cải thiện. Chính vì vậy Nhà nước đã sử dụng
chính sách tỷ giá hối đoái để tác động vào cung - cầu ngoại tệ trên thị
trường, từ đó giúp điều chỉnh tỷ giá hối đoái nhằm đạt tới những mục tiêu
cần thiết. Từ đó cho thấy chính sách về tỷ giá hối đoái luôn gắn chặt với
hoạt động xuất nhập khẩu, nó chi phối tới việc lựa chọn bạn hàng, mặt

hàng nhập khẩu và cả phương án kinh doanh của các doanh nghiệp xuất

ĐỖ HOÀNG NGUYỄN

LÓP QTKDTH 39A
18


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

nhập khẩu, do vậy nó ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp.
−Chính sách lãi suất tín dụng: Lãi suất tín dụng phụ thuộc vào quan hệ
cung cầu trên thị trường. Nhà nước có thể can thiệp trực tiếp vào cung cầu
tiền tệ, quản lý gián tiếp thông qua các chính sách điều tiết, hướng dẫn..từ
hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Mục tiêu của chính sách tín
dụng là tạo động lực để thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên, để đạt
được mục tiêu này thì mức lãi suất tín dụng phải phù hợp đối với từng
thời kỳ. Đối với các doanh nghiệp hoạt động nhập khẩu thường cần phải
có một lượng vốn lớn ngoại tệ, yêu cầu này không phải doanh nghiệp nào
cũng đáp ứng được do vậy họ phải vay ở các ngân hàng. Nhưng nếu như
lãi suất tín dụng quá cao sẽ làm tăng chi phí trả lãi vay làm giảm hiệu quả
kinh doanh của doanh nghiệp. Ngược lại khi mức lãi suất tín dụng ở mức
phù hợp sẽ tạo cơ hội cho nhiều doanh nghiệp vay được một lượng vốn
ngoại tệ lớn, tạo điều kiện cho doanh nghiệp thực hiện được các hợp đồng
nhập khẩu lớn, hay có thể nắm bắt kịp những cơ hội kinh doanh thuận lợi.
2.2 Sự phát triển của nền sản xuất trong nước.
Đây là nhân tố khách quan có tác động trực tiếp tới hoạt động xuất
nhập khẩu của các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Dựa vào sự phát
triển của nền sản xuất trong nước các doanh nghiệp xác định được những

măt hàng mà doanh nghiệp nhập khẩu là những mặt hàng gì, qui cách,
phẩm chất hàng hóa đó như thế nào, với số lượng bao nhiêu để đạt được
mục đích thu lợi nhận tối đa. Nếu như nền sản xuất trong nước phát triển
mạnh thì nó sẽ tác động tiêu cực đối với các doanh nghiệp nhập khẩu các
mặt hàng tiêu dùng trực tiếp do trong nước có thể sản xuất ra được các
mặt hàng cao cấp có thể thay thế được những mặt hàng nhập khẩu, hoặc
sản xuất ra được những mặt hàng đủ sức cạnh tranh với hàng nhập khẩu.
Khi đó các doanh nghiệp nhập khẩu những mặt hàng này sẽ khó có thể đạt
được mức lợi nhuận cao do rất khó tiêu thụ được những hàng hoá này.
Nhưng đối với những doanh nghiệp nhập khẩu hàng tư liệu sản xuất thì sự
phát triển của nền kinh tế trong nước có thể là cơ hội thuận lợi bởi vì khi
đó nhu cầu về nguyên vật liệu, máy móc thiết bị để phục vụ cho sản xuất

ĐỖ HOÀNG NGUYỄN

LÓP QTKDTH 39A
19


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

trong nước cao tạo cơ hội cho họ mở rộng họat động kinh doanh của
mình.
2.3 Nhân tố giá cả.
Giá cả là nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới kết quả và hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp. Đối với một mặt hàng nào đó có thể do nhiều
nước sản xuất, trong các nước đó có nhiều hãng sản xuất ra với chất lượng
có thể tương đương nhau. Vì vậy, khi các doanh nghiệp mua những mặt
hàng nào muốn mua được với giá thấp thì doanh nghiệp phải tìm kiếm và
lựa chọn thị trường, tìm những nhà cung cấp với giá thấp đồng thời có thể

giảm thiểu được các khoản chi phí như vận chuyển lưu thông, bảo quản,
bốc dỡ...
Bên cạnh đó xu hướng biến động giá cả của các loại hàng hoá trên thị
trường thế giới rất phức tạp. Có lúc tăng, giảm, có lúc ổn định nhưng nhìn
chung xu hướng ổn định chỉ có tính chất tạm thời. Do đó để có thể dự
đoán được xu thế biến động của giá cả theo từng loại hàng hoá trên thị
trường thế giới các Doanh nghiệp thực hiện hoạt động nhập khẩu phải dựa
vào kết quả nghiên cứu và dự đoán tình hình thị trường từng mặt hàng,
đồng thời phải đánh giá chính xác các nhân tố tác động đến xu hướng biến
động giá cả. Đối với giá bán ra, các doanh nghiệp nhập khẩu chủ yếu tiêu
thụ trong nước do vậy có phụ thuộc vào những quy định về giá cả của nhà
nước và số lượng những nhà cung cấp với nhu cầu của khách hàng. Tuỳ
vào mức độ kiểm soát giá cả của thị trường mà có được mức giá hợp lý.

ĐỖ HOÀNG NGUYỄN

LÓP QTKDTH 39A
20


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

2.4. Hệ thống giao thông vận tải và thông tin liên lạc.
Hoạt động nhập khẩu luôn gắn liền với vận chuyển hàng hoá. Nhập
khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán trên phạm vi quốc tế do vậy hàng
hoá phải vận chuyển qua biên giới giữa các quốc gia. Do đó tính chất của
nhiều loại hàng hoá khác nhau và khoảng cách giữa các quốc gia nên
trong quá trình vận chuyển hàng hoá có thể vận chuyển bằng đường bộ,
đường sắt, đường thuỷ, đường hàng không... Vì vậy nó luôn gắn chặt với
hệ thống giao thông vận tải và thông tin liên lạc cả trong nước và quốc tế.

Khi hệ thống giao thông vận tải và thông tin liên lạc thuận tiện thì nó sẽ
tạo diều kiện tốt thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu.
Ngày nay, với sự phát triển của kinh tế-xã hội, thì yêu cầu về việc cung
ứng hàng hoá kịp thời và những thông tin về hàng hoá càng trở nên cấp
thiết, nó được coi là yếu tố tạo nên niềm tin, uy tín với khách hàng và tận
dụng cơ hội của doanh nghiệp thì vai trò của hệ thống thông tin và giao
thông liên lạc càng trở nên quan trọng. Trong sự phát triển mạnh mẽ của
công nghệ thông tin nó đã phục vụ đắc lực cho các doanh nghiệp, đặc biệt
đối với các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu trong việc
thu thập thông tin, tìm kiếm hàng và làm đơn giản rất nhiều quy trình
nhập khẩu, giảm đi được nhiều khoản chi phí, nâng cao tính kịp thời góp
phần nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu ở các doanh nghiệp.
2.5. Nhân tố luật pháp.
Đây là nhân tố tác động trực tiếp đến kết quả và hiệu quả kinh doanh
của doanh nghiệp. Nó tạo ra “sân chơi” bình đẳng để mọi doanh nghiệp
cùng tham gia hoạt động kinh doanh,, cạnh tranh với nhau hợp pháp. Mọi
doanh nghiệp phải có nghĩa vụ chấp hành nghiêm chỉnh mọi quy định của
luật pháp và chỉ được kinh doanh trên các lĩnh vực, mặt hàng nhà nước
không cấm. Đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu không những chỉ
chịu ảnh hưởng của luật pháp trong nước mà còn chịu ảnh hưởng rất lớn
của các thông lệ quốc tế và luật pháp của các nước đối tác. Vì vậy, muốn
nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu thì các doanh nghiệp phải nắm
chắc luật trong nước và của những nước có liên quan.

ĐỖ HOÀNG NGUYỄN

LÓP QTKDTH 39A
21



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

IV. NỘI DUNG VỀ HIỆU QUẢ KINH DOANH NHẬP KHẨU Ở DOANH
NGHIỆP .

1. Nội dung chủ yếu về hiệu quả kinh doanh nhập khẩu.
Tính toán xác định hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu chính là
việc so sánh giữa chi phí và kết quả. Chi phí và kết quả có quan hệ biện
chứng lẫn nhau, chúng phụ thuộc vào nhau, nếu tách rời ra thì hiệu quả
không tồn tại, vì thế nếu không có chi phí thì sẽ không có kết quả như thế
có nghĩa là hiệu quả sẽ không tính được.
Hiệu quả mà các Doanh nghiệp mong muốn phải là một số thực, một
số dương chứ không phải một số âm. Điều này đòi hỏi lượng chi phí phải
bỏ ra nhỏ hơn kết quả thu được. Hoạt động kinh doanh nhập khẩu do nó
chứa nhiều rủi ro, bản chất, phạm vi kinh doanh, đặc điểm của nó rất phức
tạp do đó phát sinh rất nhiều khoản chi phí lớn. Do vậy với một lượng chi
phí nhất định sao cho đạt được kết quả kinh doanh tốt nhất có như vậy thì
hiệu quả kinh doanh nhập khẩu mới cao.
Khái niệm hiệu quả hoạt động kinh doanh chung và hoạt động kinh
doanh nhập khẩu nói riêng luôn được xem xét trên hai mặt kinh tế và xã
hội. Từ công thức chung về hiệu quả kinh doanh ta có được công thức
tính các chỉ tiêu hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu:
H=

K
F

Trong đó:
K: Kết quả bán hàng hoá sau một thương vụ hay sau một khoảng thời
gian nào đó.

F: Tổng chi phí để nhập khẩu các loại hàng hoá.
2.Tiêu chuẩn và chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh nhập khẩu.
2.1.Tiêu chuẩn hiệu quả kinh doanh nhập khẩu.
Hiệu quả là mối quan tâm hàng đầu của các đơn vị kinh tế. Hiệu quả là
tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh nhập
khẩu. Hiệu quả kinh doanh nhập khẩu không chỉ có nghĩa là mức lợi
nhuận bằng tiền. Tuy rằng lợi nhuận là lý do, là mục đích của một doanh
nghiệp nhập khẩu. Tiêu chuẩn của hiệu quả kinh doanh nhập khẩu là tiết

ĐỖ HOÀNG NGUYỄN

LÓP QTKDTH 39A
22


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

kiệm lao động xã hội hay nói cách khác là tăng năng suất lao động xã hội
và xác định hoạt động kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp có hiệu
quả hay không.
Từ công thức xác định hiệu quả kinh doanh nhập khẩu có thể xác định
được một dãy các giá trị có thể của kết quả trên chi phí kinh doanh. Vấn
đề đặt ra là trong dãy các giá trị đó thì giá trị nào là có hiệu quả không
những đối với doanh nghiệp mà còn đối với nền kinh tế. Vì vậy có thể
hiểu tiêu chuẩn hiệu quả là giới hạn, là “mốc” xác định danh giới có hiệu
quả hay không. Như thế, trước hết cần phải xác định được tiêu chuẩn hiệu
quả cho mỗi chỉ tiêu để phân biệt mức có hay không có hiệu quả.
2.2.Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
2.2.1.Các chỉ tiêu doanh lợi của hoạt động nhập khẩu.
♦Doanh lợi của vốn.

- Doanh lợi của toàn bộ vốn kinh doanh.
D VKD (%) =

(TL

R

)

+ TL * 100
V KD

Trong đó:
D VKD : Doanh lợi của toàn bộ vốn kinh doanh của một thời kỳ.
TLR : Lãi ròng thu được của thời kỳ tính toán.
TL : Lãi trả vốn vay của thời kỳ đó.
V KD : Tổng vốn kinh doanh của Doanh nghiệp.

- Doanh lợi của vốn tự có:
D VTC ( % ) =

TLR * 100
V TC

Trong đó:
D VTC : Doanh lợi vốn tự có của một thời kỳ tính toán.
V TC : Tổng vốn tự có của thời kỳ đó.
- Doanh lợi của vốn lưu động.
D LD =


TLR *100
V LD

V LD : Vốn lưu động bình quân.

ĐỖ HOÀNG NGUYỄN

LÓP QTKDTH 39A
23


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

Các chỉ tiêu doanh lợi về vốn cho biết cứ một đồng vốn bỏ ra có thể thu
được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng lớn thì hiệu quả kinh
doanh càng cao.
♦Doanh lợi theo doanh thu.
D TR ( % ) =

TLR * 100
TR

Trong đó:
D TR : Doanh lợi của doanh thu.
DT : Doanh thu của một thời kỳ.

Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng doanh thu có thể mang lại bao nhiêu
đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng cao thì hiệu quả kinh doanh nhập khẩu
của doanh nghiệp càng tốt. Chỉ tiêu này có ý nghĩa khuyến khích các
doanh nghiệp tăng doanh thu, giảm chi phí nhưng với điều kiện tốc độ

tăng của lợi nhuận phải lớn hơn tốc độ tăng doanh thu.
♦Doanh lợi của chi phí:
D CD ( % ) =

TLR *100
TC

Trong đó:
D CD : Doanh lợi của chi phí.
TC : Tổng chi phí bỏ ra.
Chỉ tiêu này cho biết bất cứ một đồng chi phí bỏ ra thì thu được bao
nhiêu đồng lợi nhuận. Để tăng hiệu quả kinh doanh thì phải giảm chi phí
tăng lợi nhuân hoặc tăng chi phí, tăng lợi nhuận nhưng tốc độ tăng lợi
nhuận lớn hơn tốc độ tăng của chi phí.
2.2.2.Hiệu quả kinh doanh theo chi phí
H CPKD ( % ) =

TR * 100
TC

Trong đó:
H CPKD : Hiệu quả kinh doanh theo chi phí.
Chỉ tiêu này cho ta biết cứ một đồng chi phí bỏ ra ssẽ thu được bao
nhiêu đồng doanh thu. Chỉ tiêu này càng cao càng tốt.
2.2.3.Hiệu quả sử dụng vốn.
♦Số vòng quay của vốn lưu động trong kỳ
ĐỖ HOÀNG NGUYỄN

LÓP QTKDTH 39A
24



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

SV VLD =

TR
V LD

Trong đó:
Chỉ tiêu này phản ánh, trong kỳ vốn lưu động của doanh nghiệp quay
được bao nhiêu lần. Hoặc cứ một đồng vốn lưu động bình quân dùng vào
kinh doanh trong kỳ, tạo ra được bao nhiêu đồng tiền doanh thu. Chỉ tiêu
này càng cao, chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng lớn.
♦Thời gian chu chuyển của vốn lưu động trong kỳ.
SN LC =

365 * V LD
TR

Trong đó:
SN LC : Số ngày bình quân của một kỳ luân chuyển vốn lưu động.
Chỉ tiêu này phản ánh, mỗi vòng quay của vốn lưu động trong kỳ hết
bao nhiêu ngày. Chỉ tiêu này càng thấp, số ngày của một vòng quay vốn
lưu càng ít, hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao.
2.2.4.Hiệu quả sử dụng lao động.
NSLD =

KQ
SLD


Trong đó:
NSLD : Là năng suất lao động.
KQ : Kết quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu trong kỳ.
SLD : Số lao động tham gia hoạt động nhập khẩu.
- Nếu kết quả kinh doanh là doanh thu:
NSLD =

DT
TSLD

Trong đó:
DT : Là doanh thu.
TSLD : Là tổng số lao động.

- Nếu kết quả kinh doanh là lợi nhuận:
NSLD =

LN
TSLD

Trong đó:
LN : Là lợi nhuận.

ĐỖ HOÀNG NGUYỄN

LÓP QTKDTH 39A
25



×