Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

KINH tế các nước tư bản (1982 NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (906.55 KB, 42 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
MÔN LỊCH SỬ KINH TẾ

KINH TẾ CÁC NƯỚC TƯ BẢN (1982-NAY)
I.

Bối cảnh

Sau giai đoạn kinh tế phát triển chậm chạp và bất ổn định 1973-1982, các
nước tư bản bắt đầu tiến hành điều chỉnh kinh tế trên cơ sở của lý thuyết
điều chỉnh kinh tế mới. Bên cạnh đó, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới cũng
khiến cho Liên Xô và các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa lâm vào tình
trạng khủng hoảng kinh tế-chính trị-xã hội trầm trọng, dẫn đến sự sụp đổ
của Liên Xô (1991) và hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới, trật tự hai
cực Ianta sụp đổ, trật tự thế giới mới dần hình thành, bối cảnh kinh tế-chính
trị xã hội các nước tư bản nói riêng và thế giới nói chung đang có nhiều
chuyển biến và hình thành các xu thế mới:
1. Xu thế phát triển lấy kinh tế trọng điểm
2. Xu thế hòa dịu trên quy mô thế giới, hòa bình thế giới được củng cố.
3. Các nước lớn điều chỉnh quan hệ với nhau theo chiều hướng xây dựng
quan hệ bạn bè chiến lược ổn định và cân bằng hướng về lâu dài.
4. Xu thế quốc tế hóa, toàn cầu hóa và các tổ chức liên minh quốc tế. Đó là
một xu thế ngày càng phát triển với những nét nổi bật là :
Sự phát triển nhanh chóng của nền thương mại thế giới.
Tính quốc tế hoá cao của nền kinh tế thế giới còn được nâng cao
trong vai trò ngày càng lớn của các Công ty xuyên quốc gia (CTXQG)
• Tính quốc tế hóa của nền kinh tế thế giới được tăng cường mạnh mẽ
do quá trình quốc tế hóa rất nhanh của nền tài chính thế giới
• Việc chấm dứt tình trạng chia cắt thế giới thành hai hệ thống xã hội
đối lập nhau càng thúc đẩy nền kinh tế thế giới trở thành toàn cầu
hóa.


• Với việc xóa bỏ phân công lao động trên sự phân chia thế giới thành
những khu vực độc quyền của chủ nghĩa thực dân và sự phân chia
thế giới thành hai hệ thống xã hội đối lập, nền kinh tế thế giới được
quốc tế hóa và toàn cầu hóa đang tạo ra những điều kiện thuận lợi
cho phát triển kinh tế.



1


Bên cạnh xu thế quốc tế hóa và khu vực hóa nền kinh tế thế giới, xu
thế mở cửa hợp tác đồng thời cũng có xu hướng bảo hộ mậu dịch.
• Cùng với xu thế toàn cầu hóa, quốc tế hóa, hiện tượng nổi bật từ sau
chiến tranh thế giới thứ hai là sự ra đời của các tổ chức quốc tế. Hiện
nay trên thế giới có hơn 4000 tổ chức quốc tế, trong đó có khoảng
300 tổ chức liên quốc gia. Các tổ chức quốc tế rất đa dạng, chức năng
cũng không dừng lại ở việc giải quyết các cuộc xung đột quốc tế và
khủng hoảng.
• Các tổ chức quốc tế quan trọng hàng đầu là Liên Hợp Quốc, Quỹ tiền
tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB) và Tổ chức thương mại
thế giới (WTO)...


5.Trong giai đoạn hiện nay, thế giới đang lâm vào cuộc khủng hoàng tài
chính bao gồm sự đổ vỡ hàng loạt hệ thống ngân hàng, tình trạng đói tín
dụng, tình trạng sụt giá chứng khoán và mất giá tiền tệ quy mô lớn ở nhiều
nước trên thế giới, có nguồn gốc từ khủng hoảng tài chính ở Hoa Kỳ.

II.


Thực trạng phát triển kinh tế các nước tư bản giai
đoạn(1982-nay)

1.Điều chỉnh kinh tế của các nước tư bản (1982-nay)
Điều chỉnh sự can thiệp của chính phủ theo hướng làm tăng hiệu quả
của cơ chế thị trường: giảm tỷ trọng chi tiêu của Nhà nước, giảm thâm
hụt ngân sách chính phủ, hạn chế mức cung tiền, ngăn chặn lạm phát.
• Kích thích phát triển khu vực kinh tế tư nhân
• Điều chỉnh cơ cấu kinh tế: hướng điều chỉnh là giảm bớt những ngàng
sử dụng nhiều năng lượng và nhân công, cải tiến kĩ thuật, giảm tiêu hao
nguyên liệu và năng lương
• Điều chỉnh quan hệ quốc tế, tăng cường đầu tư ra nước ngoài


2.Kết quả
Những biện pháp điều chỉnh kinh tế đã có tác động ít nhiều đến các nước,
nhưng nhìn chung đã giúp các nước tư bản khắc phục phần nào những mâu
thuẫn và dần thoát khỏi tình trạng lạm phát, suy thoái. Từ 1983 đến 1990
kinh tế các nước tư bản phục hồi với nhịp độ tăng trưởng bình quân 3.2 % /
năm.

2




Kinh tế Mỹ đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 3.0% /năm trong nhưng năm
80-90. Sau đó bị suy thoái nhẹ vào năm 1991, nhưng tính chung trong thập
niên 1990, tăng trưởng bình quân đạt 3.4%/năm, năm 2000 đạt tới 5.2%.

Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2005 là 12770 tỷ USD, bình quân
đầu người là $41800.

Tổng sản phẩm trong nước của US, EU VÀ Nhật (2002-2007)
Nguồn: 20:00 ngày 30/3/2012


Kinh tế các nước thuộc khối EU: kinh tế các nước Eu phục hồi chậm hơn, tốc
độ tăng trưởng kinh tế trong các giai đoạn (1980-1989) và (1990-1999)
tương ứng của Pháp là 2.3% và 1.7%; Tây Đức là 2.2% và 1.5%; Italia là
2.4% và 1.2%; Anh là 3.2% và 2.2%.
Năm 2005 GDP và GDP bình quân đâu người tương ứng ở Đức là 2830 tỷ
USD và $29700; của Anh là 2275 tỷ USD và $30900; của Pháp là 2118 tỷ
USD và $29900.



Kinh tế Nhật Bản: Nhật đã sớm thoát khỏi tình trang trì trệ, giữ được mức
tăng trưởng bình quân 4.0%/năm vào loại cao nhất trong các nước tư bản
trong giai đoạn 1980-1990, tuy nhiên trong thập niên 90, Nhật lại lâm vào
tình trang khó khăn, tốc độ tăng trưởng bình quân chỉ đạt 1.4%/năm.
Năm 2005, GDP và GDP bình quân đầu người của Nhật Bản là 4922USD và
$30400.

3


GDP bình quân trên mỗi người lao động và GDP bình quân đầu người ở
các nướcEU và US (1981-2006)
Nguồn: 20:30ngày 30/3/2012


nguồn:
ec.europa.eu/20:30ngày 30/3/2012.


Cơ cấu kinh tế các nước tư bản cũng có những biến đổi sâu sắc: Khu vực I
vẫn tiếp tục giảm xuống, khu vực II cũng giảm tỷ trong trong cơ cấu các
ngành, đồng thời với quá trình đó là sự phát triển của khu vực III. Các
ngành chứa hàm lượng khoa học công nghệ cao như kỹ thuật điện tử , năng
lượng mới, vật liệu mới, công nghệ sinh học, công nghệ vũ trụ….. Trình độ và
4


năng suất của người lao đông ngày càng được nâng cao, đời sống vật chất
và tinh thần cũng được nâng lên.
Nền kinh tế càng ngày càng được quốc tế hóa sâu sắc với nhiều tập đoàn
xuyên quốc gia được thành lập, mở rộng và phát triển.

Nguồn: 9:00 ngày 31/3/2012
3. Thách thức và khó khăn


Cuối 2005, bong bóng nhà ở vỡ, kinh tế nước Mĩ bắt đầu tăng trưởng chậm
lại; đến năm 2007, cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu bùng nổ với sự sụp
đổ của hàng loạt tín dụng nhà thứ cấp và nhanh chóng lan sang hệ thống
ngân hàng và chứng khoán:.Sự đổ vỡ tài chính lên đến cực điểm vào tháng
10 năm 2008 khi ngay cả những ngân hàng khổng lồ và lâu đời từng sống
sót qua những cuộc khủng hoảng tài chính và kinh tế trước đây, như
Lehman Brothers, Morgan Stanley, Citigroup, AIG, … cũng lâm nạn. Tình
trạng đói tín dụng xuất hiện làm cho khu vực kinh tế thực của Hoa Kỳ cũng

rơi vào tình thế khó khăn, điển hình là cuộc Khủng hoảng ngành chế tạo ô tô
Hoa Kỳ 2008-2010. Chỉ số bình quân công nghiệp Dow Jones lúc đóng cửa

5










ngày 9 tháng 3 năm 2009 là 6.547,05, mức thấp nhất kể từ tháng 4 năm
1997. Chỉ trong vòng 6 tuần lễ, chỉ số này sụt tới 20%.
Cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu ở Mỹ lan sang các nước EU một cách
nhanh chóng và kéo theo sự sụp đổ của nhiều hệ thống tín dụng, chứng
khoán sụt giảm: chỉ số FTSE 100 từ mức 4789,79 xuống còn 4699,82; Chỉ số
DAX ngày 2 tháng 3 năm 2009 chỉ còn 3666,4099 điểm so với 8067,3198
hôm 27 tháng 12 năm 2007;Chỉ số CAC 40 ngày 2 tháng 3 năm 2009 cũng
xuống mức thấp kỷ lục 2534,45 điểm. Cuối năm 2008, Fortis của Bỉ bắt đầu
bị bán dần, chỉ còn lại các bộ phận kinh doanh dịch vụ bảo hiểm. Dexia chịu
khoản lỗ 3,3 tỷ euro và phải xin Chính phủ Bỉ cho vay để củng cố……
Cuộc khủng hoảng nợ công bắt đầu từ Hy Lạp năm 2010 khi chi phí cho các
khoản nợ Chính phủ liên tục tăng lên; cụ thể là lợi suất trái phiếu Chính phủ
kỳ hạn 2 năm của Hy Lạp liên tục tăng cao từ 3,47% vào tháng 01 năm
2010, lên 9,73% thời điểm tháng 07 năm 2010 và nhảy vọt lên 26,65%/năm
vào tháng 07 năm 2011. Cuộc khủng hoảng sau đó đã lan sang Bồ Đào Nha,
Tây Ban Nha và tiếp theo là Ý trong khu vực đồng euro. Pháp đang là quốc

gia có nhiều nguy cơ tụt hạng tín dụng. Cộng hòa Sip cũng đã bị đẩy tới bờ
vực để nhận gói cứu trợ.
Kinh tế càng ngày càng quốc tế hóa và hợp tác kinh tế làm cho cạnh tranh
trở nên đa dạng và quyết liệt, gay gắt hơn. Khủng hoảng kinh tế thế giới
hiện nay đang là bài toán nan giải với các nhà hoạch định chính sách các
nước tư bản nói riêng và thế giới nói chúng. Tình trạng thất nghiệp và phân
hóa giàu nghèo trong lòng các nước tư bản này càng trầm trọng. “ Biểu tình
chiếm phố Wall” là sự kiện tiêu biểu cho sự phân hóa trầm trọng này, và
không chỉ ở Mỹ, sự kiện này sau đó đã lan ra rất nhiều các nước tư bản
khác, gây ra nhiều cuộc bạo loạn nhẳm lên án sự tham lam của giới chủ.
Song song với đó là tình trạng ô nhiễm mối trường, biến đổi khí hậu, thiên
taiđang là những thách thức đặt ra với nền kinh tế các nước tư bản và thế
giới nói chung.





4. Những giải pháp
Đưa ra các chính sách tiền tệ nhằm kích cầu đầu tư và tiêu dùng.
Với các nước đang lâm vào khủng hoảng nợ công thì thắt chặt chi tiêu
công, “thắt lưng buộc bụng”.
Ổn định chính trị.
Ngoài ra còn phải dựa vào các gói cứu trợ từ ngoài và trong khối (với
Liên Minh Châu Âu).

6


III.


Bài học kinh nghiệm











Điều chỉnh sự can thiệp của chính phủ theo hướng làm
tăng hiệu quả của cơ chế thị trường: giảm tỷ trọng chi tiêu
của Nhà nước, giảm thâm hụt ngân sách chính phủ, hạn
chế mức cung tiền, ngăn chặn lạm phát.
Đầu tư có hiệu quả, tránh đầu tư dàn trải, tăng cường
chính sách thu hút vốn, đầu tư nước ngoài, mở rộng hợp
tác quốc tế.
Nâng cao trình độ dân tri, tăng cường tích lũy tri thức
khoa học công nghề, nâng cao tay nghề và trình độ cho
người lao động, rèn luyện đạo đức và tác phong công
nghiệp, đặt vấn đề năng suất chất lượng lên hàng đầu.
Vai trò của công tác thông tin, dự báo giám sát và cảnh
báo an toàn, nhất là an toàn hệ thống ngân hàng, tài chính.
Chấp nhận sân chơi lớn,rủi ro lớn, không có ngoại lệ và
miễn dịch phá sản cho bất kỳ doanh nghiệp nào trong cuộc
chơi trên sân kinh tế thị trường.
ổn định chính trị, nâng cao sự tin tưởng của người dân đối

với nhà nước, lòng tin của người dân là sức mạnh và
nguồn động lực mạnh mẽ cho bất kì quốc gia nào trong sự
nghiệp phát triển kinh tế-xã hội.

Các nguồn tham khảo:








Giáo trình lịch sử kinh tế, Nxb Đại học KTQD
www.wikipeidia.com


www.imf.org/
/>

KINH TẾ NƯỚC MỸ (1983-NAY)
I.

Bối cảnh

Giống như các nước tư bản trên thế giới nói chung, trong thập niên 70 đến
đâu những năm 80, kinh tế Mĩ lâm vào tình trạng khủng hoảng, trì trệ phát
triển chậm và bất ổn định. Sau giai đoạn đó, nền kinh tế Mỹ dần bước vào
hồi phục và tăng trưởng, bên cạnh đó là sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống
7



xã hội chủ nghĩa, làm cho Mỹ tạm thời đứng ngôi đầu đơn cực trong vai trò
bá chủ thế giới, tuy nhiên cuộc chiến tranh lạnh đã làm suy yếu nước Mỹ,
đồng thời là sự nổi lên của nhiều cường quốc kinh tế như EU, Nhật, Nga,
Trung Quốc,… làm cho tham vọng bá chủ của Mỹ này càng xa rời thực tế.
Một trật tự thế giới mới đang dần hình thành, đa cực, xu hướng toàn cầu
hóa và đặt trọng tâm phát triển kinh tế đang hình thành và phát triển, đặt
nước Mỹ trước những thời cơ và thách thức mới.
II.

Kinh tế nước Mỹ giai đoạn (1983-nay)
1. Kinh tế Mỹ dưới thời R. Reagan (1981-1989)

Reagan đắc cử tổng thống năm 1980, phải đối phó với tình hình kinh tế suy
thoái trầm trọng với tỷ lệ lạm phát ở mức 13.5%.
Sau khi tuyên thệ nhậm chức, Reagan bắt tay thuyết phục người dân Mỹ về
lợi ích của kinh tế học trọng cung: hạ thấp thuế, bãi bỏ những thủ tục hành
chính phiền hà và giảm chi tiêu công, đi kèm với chính sách tiền tệ tập trung
vào chữa trị căn bệnh lạm phát phi mã tưởng chừng nan y bằng đạo luật
khôi phục kinh tế năm 1981.
Chính sách đó đã đem lại hiệu quả lớn, mặc dù Tổng sản phẩm quốc nội
(GDP) giảm khoảng 2% trong năm 1982, nhưng nó đã bắt đầu phục hồi trở
lại, trong suốt năm năm sau khi kinh tế được phục hồi, tổng sản phẩm quốc
dân đã tăng 4,2% một năm,bình quân tăng trưởng kinh tế Mỹ giai đoạn này
đạt 3.2%. Tỷ lệ lạm phát hàng năm duy trì ở mức từ 3-5% trong những năm
từ 1983 đến 1987, ngoại trừ năm 1986, tỷ lệ này đã giảm tới dưới 2% - đạt
mức thấp nhất trong suốt những thập niên vừa qua. Tổng sản phẩm quốc
nội tăng trưởng bền vững trong suốt những năm 1980. Từ năm 1982 đến
năm 1987, nền kinh tế Mỹ đã tạo ra hơn 13 triệu việc làm mới, vào năm

1988 đã đạt mức tăng trưởng tổng cộng là 31% kể từ khi Reagan được bầu.
Tuy nhiên, chính sách này cũng khiến cho nền kinh tế Mỹ có tỷ lệ thất nghiệp
cao,đồng thời là sự thâm hụt ngân sách cao do chi tiêu mạnh tay của chính
phủ Mỹ mà nguồn thu từ thuế lại giảm sút. Năm 1986, thâm hụt ngân sách
vọt lên đến 221 tỷ USD, chiếm hơn 22% tổng chi tiêu của liên bang.
2. Kinh tế Mỹ dưới thời G. Bush (cha) (1989-1992)
G. Bush (cha) lên nắm quyền năm 1989 và tiếp tục duy trì những chính sách
kinh tế của tổng thống Reagan, tuy nhiên, kinh tế Mỹ giai đoạn này lại
không phát triển thuận lợi, vào những năm 1990-1991 tốc độ phát triển
kinh tế Mỹ lại giảm sút, năm 1990:1.3%; năm 1991:-1%, sang dến năm
1992, kinh tế khởi sắc trở lại với tốc độ tăng trưởng 2.7%.
8


Giai đoạn này, tổng thống Bush mắc kẹt giữa sự phát triển kinh tế và những
khoản thâm hụt ngân sách rất sâu do việc giảm thuế và không cân đối được
thu chi.
3. Kinh tế Mỹ dưới thời B. Clinton (1992-2001)

Kinh tế nước Mỹ dưới thời tổng thống B. Clinton bước vào thời kì bùng nổ
và phát triển thịnh vượng.
Ở giai đoạn nàynhững tiến bộ về công nghệ mang lại một loạt các sản phẩm
điện tử mới hết sức tinh vi. Những đổi mới trong thông tin viễn thông và hệ
thống mạng máy tính đã sản sinh ra một ngành công nghiệp lớn về phần
cứng và phần mềm máy tính và cách mạng hóa phương thức hoạt động của
nhiều ngành công nghiệp. Nền kinh tế tăng trưởng nhanh chóng và lợi
nhuận của các tập đoàn cũng tăng mạnh.

Tông sản phẩm trong nước (1988-1999)
Nguồn: 20:00 ngày 1/4/2012

Cùng với lạm phát và thất nghiệp ở mức thấp, những khoản lợi nhuận lớn
được đưa vào thị trường chứng khoán đang dấy lên sôi động; chỉ số bình
quân công nghiệp Dow Jones chỉ ở mức 1.000 điểm vào cuối thập kỷ 1970
thì năm 1999 đã lên đến 11.000 điểm

9


Việc làm, thất nghiệp và tiền lương
Nguồn: 20:15 ngày 1/4/2012
Thâm hụt ngân sách và hạn chế lạm phát. Thâm hụt ngân sách liên bang
năm 1980 là 71tỷ USD, năm 1990 lên đến 220 tỷ USD và lên đến đỉnh cao
vào năm 1993 khi Clinton lên năm quyền là 293 tỷ USD, sau đó giảm xuống,
năm 1994 còn 292 tỷ USD, dến 1997 là 22 tỷ USD, năm 1998 lần đầu tiên
sau hơn 3 thập kỉ ngân sách liên bang Mỹ đạt thặng dư 70 tỷ USD, năm
1999 là 122 tỷ USD, năm 2000 thặng dư ngân sách của nước Mỹ là 237 tỷ
USD, lạm phát duy trì ở mức ổn định.
Trong giai đoạn này, Mỹ cũng tăng cường mở rộng hoạt động đầu tư và
xuất khẩu sang khu vực châu Á (40% giá trị tương mại của Mỹ). Kết quả
kinh ngạch ngoại thương của Mỹ tăng nhanh qua các năm: năm 1995 tổng
kim ngạch xuất nhập khẩu của Mỹ đạt 1355 tỷ USD, năm 2000 là hơn 2502
tỷ USD.
4.

Kinh tế Mỹ dưới thời G. Bush (2001-2009)
Ở nhiệm kì đầu của mình, tổng thống Bush tiếp tục duy trì những chính sách
của tổng thống Clinton, nên kinh tế tiếp tục tăng trưởng, tuy không bùng nổ
như thời kì trước nhưng vẫn tiếp tục đà tăng trưởng ổn định. Năm 2002,
10



GDP tăng 2.2%, năm 2003 là 3%, năm 2004 là 4.3% và năm 2005 là 3.5%.
Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2005 là 3289 tỷ USD.

Nguồn: www.world-Crisis.net 21 :30 ngày 1/4/2012
Tuy nhiên ở nhiệm kì thứ hai của mình, Bush phải đối mặt với nền kinh tế
Mỹ bắt đầu bước vào thời kì suy thoái với điểm bắt đầu là khủng hoảng tín
dụng nhà thứ cấp, bong bóng nhà ở bắt đầu vỡ vào cuối năm 2005, nền kinh
tế bắt đầu tăng trưởng chậm lại. Cho đến nửa cuối năm 2007, một số công
ty tài chính bắt đầu phá sản, sự đổ vỡ tài chính lên đến cực điểm vào tháng
10 năm 2008 khi ngay cả những ngân hàng khổng lồ và lâu đời từng sống
sót qua những cuộc khủng hoảng tài chính và kinh tế trước đây, như
Lehman Brothers, Morgan Stanley, Citigroup, AIG, … cũng lâm nạn. Giá
chứng khoán liên tục sụt giảm.Chỉ số bình quân công nghiệp Dow Jones lúc
đóng cửa ngày 9 tháng 3 năm 2009 là 6.547,05, mức thấp nhất kể từ tháng
4 năm 1997.Chỉ trong vòng 6 tuần lễ, chỉ số này sụt tới 20%. Phiên đóng cửa
giao dịch ngày 1/12/2008 là phiên giao dịch tồi tệ nhất của chỉ số Dow
Jones trong 2008 - giảm tới gần 700 điểm, tức 7,70%. Chỉ số Standard &
Poor's 500 giảm 80,03 điểm (8,93%) và Nasdaq Composite Index mất
137,50 điểm (8,95%). Tình trạng đói tín dụng xuất hiện làm cho khu vực
kinh tế thực của Hoa Kỳ cũng rơi vào tình thế khó khăn, điển hình là cuộc
Khủng hoảng ngành chế tạo ô tô Hoa Kỳ 2008-2010.
5. Kinh tế Mỹ hiện nay ( B. Obama)
B. Obama bước vào nhiệm kì của mình với đầy rẫy những khó khăn từ cuộc
khủng hoảng tài chính từ thời tổng thống Bush, cuộc khủng hoảng đó cũng
đã lan ra toàn cầu, gây khủng hoảng và lạm phát trên toàn thế giới. Trong
11


quý thứ ba năm 2009, GDP của Mỹ tăng 3.3%, GDP thực (so với 2005) tăng

2.8%. Tổng kết 2009, kinh tế Mỹ tăng trưởng -2.6%. Nền kinh tế suy thoái
trầm trọng.

GDP giai đoạn 2002-2010
Nguồn: 21:45 ngày 1/4/2012
Năm 2010, kinh tế Mỹ có sự khởi sắc nhờ việc người Mỹ mạnh tay chi tiêu
hơn, theo thống kê công bố ngày 28/1/2011, GDP của Mỹ tăng trưởng 3,2%
trong quý cuối cùng của năm 2010, sau khi tăng 2,6% trong quý trước
đó,tính chung cả năm 2010, kinh tế Mỹ tăng trưởng 2,9%, sau 3 năm, nền
kinh tế Mỹ cũng đã trở lại với tốc độ tăng trưởng của thời kỳ trước suy
thoái. Tuy nhiên Tỉ lệ thất nghiệp hiện nay của Mỹ là 9,6%,cao nhất trong
27 năm qua. Bước sang 2011 kinh tế Mỹ tăng trưởng kém hơn, năm 2011
được đánh giá là năm u ám với nền kinh tế Mỹ nói riêng và thế giới nói
chung.Tính cả năm 2011, kinh tế Mỹ tăng trưởng 1,7%, thấp hơn nhiều so
với con số 2.9% của năm 2010.
Tiêu dùng người Mỹ tăng trưởng 2% trong quý 4/2011, không thay đổi
nhiều so với mức tăng trưởng 1,7% của quý trước đó.
Thu nhập sau thuế của người Mỹ sau khi điều chỉnh với lạm phát tăng
trưởng 0,8% trong quý 4/2011 sau khi hạ 1,9% trong quý trước đó. Tính cả
năm 2011, thu nhập sau thuế của người Mỹ hạ 0,1%.
Tỷ lệ tiết kiệm giảm xuống 3,7%, thấp nhất tính từ quý cuối năm 2007; tỷ lệ
tiết kiệm quý 3/2011 là 3,9%.
Thêm vào đó là tỷ lệ nợ công của Mỹ rất cao, chiếm khoảng 62% GDP năm
2011. Chính phủ Mỹ đã từng đứng trước nguy cơ vỡ nợ vào đầu quý II năm
2011 khi vào ngày 31/3, nợ công của Mỹ đã ở mức 14,214 nghìn tỷ đôla và
mức trần 14,294 nghìn tỷ đôla.

III.

Bài học kinh nghiệm

12


 Tận dụng và khai thác những điều kiện thuận lợi để đẩy nhanh phát








triển kinh tế, luôn tìm cách thu hút nguồn lao động có trình độ cao ở
trong nước và ngoài nước.
Nắm bắt kịp thời và vận dụng, tiếp thu và áp dụng các thành tựu
khoa học kĩ thuật để hiện đại hóa nên kinh tế, nâng cao cơ sở hạ
tầng, vật chất kĩ thuật
Đề cao cạnh tranh tự do, hạn chế can thiệp quá sâu của nhà nước
vào nền kinh tế, chấp nhận rủi ro và đầu tư mạo hiểm.
Mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại, thúc đẩy tăng trưởng, mở rộng
quy mô kinh doanh.
Tăng cường đào tạo con người khoa học , nâng cao trình độ người
lao động, rèn luyện tác phong công nghiệp.
ổn định chính trị, luật pháp nghiêm minh.

Nguồn tham khảo:
 giáo trình Lịch sử kinh tế, NXB đại học KTQD
 www.imf.org
 www.cia.gov
 www.gpo.gov

 www.worldbank.com
 www.sbv.gov.vn
 www.world-Crisis.net

I.

KINH TẾ NHẬT BẢN (1980-NAY)
Bối cảnh

Nhanh chóng thoát ra khỏi khủng hoảng 1973-1975, nền kinh tế Nhật khôi
phục và phát triển mạnh vào thập niên dù không còn thần kì như giai đoạn
1952-1973 nữa. Tuy nhiên, do nên kinh tế Nhật phụ thuộc nhiều vào xuất
khẩu hàng và nhập khẩu nguyên, nhiên liệu từ nước ngoài nên nên kinh tế
Nhật rất dễ xảy ra tổn thương khi có những biến động không tốt từ thị
trương và kinh tế thế giới. Trong thập niên 90 và giai đoạn hiện nay, Nhật
vẫn tiếp tục phát triển kinh tế mạnh nhưng vấp phải nhưng khó khăn từ
13


thiên tai, bất ổn định về chính trị, sự nổi lên của các nước BRICs (nhất là
Trung Quốc), và sự cạnh tranh gay gắt từ các thị trường Mỹ và EU.
II.
Thực trạng kinh tế Nhật giai đoạn (1980-nay)
1. Thời kì chuyển đổi (1980-1989)

Là nước phụ thuộc gần như hoàn toàn vào dầu lửa nhập khẩu (mà giá dầu
lại tăng vọt) và nhu cầu nước ngoài (mà thị trường nước ngoài cũng bị
khủng hoảng), nên cuộc khủng hoảng 1973-1975 đã làm kinh tế Nhật Bản
rơi vào tình trạng đình lạm sâu sắc. Mức độ khủng hoảng (căn cứ vào tốc độ
tăng trưởng GDP thực tế và sản lượng công nghiệp) của Nhật Bản nghiêm

trọng nhất trong các nước công nghiệp phát triển và nghiêm trọng hơn cả
hồi Đại khủng hoảng. Những ngành công nghiệp sử dụng nhiều năng lượng
như đóng tàu, luyện thép, hóa dầu, dệt, gia công kim loại bị khủng hoảng
nặng nề.
Tác động nghiêm trọng của cú sốc dầu lửa 1973-1975 đã khiến Nhật Bản
phải tích cực triển khai chương trình tiết kiệm năng lượng, đồng thời
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng của khu vực dịch vụ.
Trong khu vực chế tạo, giảm tỷ trọng của các ngành dùng nhiều năng
lượng, tăng tỷ trọng của các ngành có hàm lượng tri thức cao (như sản xuất
máy tính, máy bay, người máy công nghiệp, mạch tổ hợp,...), các ngành sản
xuất theo mốt (quần áo chất lượng cao, đồ điện dân dụng, thiết bị nghe
nhìn,...) và công nghiệp thông tin. Nhật Bản nhấn mạnh hơn nữa nghiên cứu
khoa học cơ bản để có thể chuyển sang các ngành kinh tế mới.
Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản ra nước ngoài tăng vọt với hai động lực
chính là tận dụng nguồn nguyên liệu và năng lượng ở các địa bàn đầu tư là
các nền kinh tế đang phát triển và chọc thủng hàng rào bảo hộ mậu dịch ở
các địa bàn đầu tư là các nền kinh tế phát triển.
Nhờ những cải cách tích cực, Nhật Bản đã hồi phục sau khủng hoảng 19731975 và chị bị ảnh hưởng nhẹ trong cuộc khủng hoảng 1979-1981. Tốc độ
tăng trưởng GDP thực tế của Nhật Bản vẫn cao hơn của các nước công
nghiệp phát triển khác.
Tính chung thập niên 1980, tốc độ tăng trưởng bình quân của Nhật Bản đạt
4.0%/năm, đầu tư trực tiếp nước ngoài từ 7.7 tỷ USD năm 1982 tới 47 tỷ
USD năm 1988, 67.54 tỷ USD năm 1989. Chỉ tính riêng khoảng thời
gian1985-1990, tăng trưởng kinh tế Nhật đạt 5.1%, cao nhất trong khối các
nước TB.Năm 1989 đánh dấu sự phát triển đỉnh điểm về tăng trưởng kinh
tế nhanh nhất trong lịch sử Nhật Bản. Với thế mạnh đồng yên và tỉ giá hối
đối phù hợp với Đô-la Mỹ, Ngân hàng Nhật Bản giữ lãi suất thấp, đầu tư
phát triển vượt bậc đã đưa giá trị tài sản Tokyo lên sáu mươi phần trăm
14



trong năm. Trong khoảng thời gian ngắn trước ngày đầu của Năm mới, chỉ
số Nikkei 225 đạt mức kỷ lục 39.000 điểm.
2. Thập kỉ mất mát (1990-2000)

Sau khi chỉ số Nikkei 225 đạt đỉnh vào năm 1989, thì ngay sau đó, thị trường
chứng khoán Nhật đã sụp đổ do bong bóng tài sản vỡ vào năm 1991. Tiếp
theo đó là tình trạng trì trệ kéo dài suốt thập kỉ 1990. Bình quân hàng năm
trong suốt thập niên 1990, tổng sản phẩm quốc nội thực tế của Nhật Bản
lẫn tổng sản phẩm quốc dân bình quân đầu người chỉ tăng 0,5%, thấp hơn
so với hầu hết các nước công nghiệp tiên tiến khác.Tốc độ tăng trưởng kinh
tế từ 1990-1995 chỉ có 1.4%. Tỷ lệ thất nghiệp gia tăng nhanh qua từng
năm.

So sánh tăng trưởng chung giai đoạn 1985-1990 và 1990-1995
Nguồn: 7:30 ngày 6/4/2012
Năng suất lao động giảm, số giờ lao động trung bình cũng giảm từ
44h/tuần xuống cón 40h/tuần,nợ đọng cao, đầu tư tư nhân giảm, thiếu
thanh khoản, kích cầu không phù hợp được đánh giá là những nguyên
nhân làm suy giảm kinh tế Nhật.

15


So sánh sự phát triển của tổng cung
Nguồn:7:40 ngày 6/4/2012
Đến năm 1998, mức tăng trưởng âm (-2.5%), tỷ lệ thâm hụt thương mại
ngân sách ở mức cao nhất trong nhóm G7 (54%). Từ mức gần bằng không
trước năm 1991, tỷ lệ thất nghiệp nhảy vọt lên 2,2% vào năm 1992, 3,2%
trong năm 1995, và 4,7% trong năm 1999.

Năm 1997 cuộc khủng hoảng tài chính châu Á (trong đó ảnh hưởng đến
Hàn Quốc, Hồng Kông, Thái Lan, Indonesia, Malaysia, và Singapore) là yếu
tố chính bên ngoài chịu trách nhiệm cho suy thoái kinh tế của Nhật Bản. Nó
ảnh hưởng đến nhiều thị trường quan trọng cho Nhật Bản và trở nên tồi tệ
hơn các nền kinh tế Nhật Bản bằng cách giảm nhu cầu xuất khẩu. Sự sụp đổ
của 3 ngân hàng lớn của Nhật Bản và giảm tiêu thụ tiếp tục làm suy giảm
nền kinh tế Nhật Bản, trong đó thể hiện sự suy giảm GDP 2,5% trong năm
1998, tăng nhẹ 0,2%, trong năm 1999 và 0,6% vào năm 2000..
3. Kinh tế Nhật Bản từ 2001 – nay.

Bước sang thế kỉ XIX, tình hình kinh tế Nhật cũng không khả quan hơn,
giảm phát liên tục khiến nền kinh tế nước này thêm trì trệ. Sự nổi lên về
kinh tế của Trung Quốc đã đẩy Nhật từ nền kinh tế lớn thứ 2 xuống thứ 3
toàn cầu.

m
GDP
thực

199
9

200
0

200
1

200
2


200
3

200
4

200
5

200
6

200
7

200
8

200
9

2010

0.3

1.3

-0.3


2.7

2.9

2.6

2.2

2

-0.7

-5.2

3.9

0.3

GDP thực của Nhật giai đoạn 1999-2000
Nguồn: CIA World Factbook.7:50 ngày 6/4/2012

16


Tốc độ tăng trưởng kinh tế Nhật giai đoạn 2002-2010
Nguồn:www.worldbank.org 8:00 ngày 6/4/2012
Theo bảng số liệu trên, nền kinh tế Nhật trong thập niên 2000 tăng trưởng
chậm, thậm chí còn tăng trưởng âm. Điển hình là 2001, GDP thực của Nhật
là -0.3, năm 2007 là-0.7 và mức âm kỉ lục là năm 2008 khi GDP lên đến -5.2.
Kinh tế Nhật rơi vào suy thoái nặng nề vào cuối năm 2008. Chính phủ chi

tiêu kích thích kinh tế đã giúp các nền kinh tế phục hồi vào cuối năm 2009
và 2010.
Tuy nhiên, một lần nữa, thiên tai đã làm suy sụp nước Nhật thêm một lần
nữa. Trận thảm họa kép động đất-sóng thần xảy ra ngày 11/3/2011 đã làm
rung chuyển Đông Bắc nước Nhật, trong đó có thủ đô Tokyo. Cơ quan Cảnh
sát Quốc gia Nhật Bản đã xác nhận số người thiệt mạng lên đến 15.854
người, 9.677 người bị thương và 3.155 người mất tích tại 18 tỉnh. Ước tính
thiệt hại lúc đầu tại những nơi bị ảnh hưởng của Nhật Bản vào khoảng từ
14,5 đến 34,6 tỉ USD.Cơn chấn động lập tức có tác động mạnh mẽ lên những
doanh nghiệp như Toyota, Nissan và Honda. Các tập đoàn này đều phải
ngừng toàn bộ hoạt động sản xuất tự động đến 14 tháng 3.Ngày 14 tháng 3,
với nỗ lực nhằm duy trì sự ổn định thị trường tài chính, Ngân hàng Nhật
Bản đã tiếp thêm 15 tỉ ¥ vào thị trường tiền tệ để đảm bảo ổn định tài chính
trong bối cảnh cổ phiếu sụt giảm và nguy cơ tín dụng gia tăng. Sau khi Ngân
hàng Nhật Bản thiết lập một nguồn lực đặc biệt khẩn cấp để đảm bảo khả
năng thanh toán cho những hậu quả của thiên tai, thống đốc Masaaki
Shirakawa và hội đồng quản trị của ngân hàng cũng mở rộng chương trình
mua trái phiếu chính phủ cho các quỹ giao dịch trao đổi với số tiền là 10
triệu ¥. Chỉ số Nikkei của thị trường cổ phiếu Nhật Bản đã trượt 5% giao
dịch kì hạn trong phiên giao dịch sau thị trường. Các nhà máy điện hạt nhân
Fukushima I, Fukushima II, Onagawa và Tōkai với tổng cộng 11 lò phản
17


ứng, đã tự ngưng hoạt động sau trận động đất. Nhà máy điện hạt nhân
Higashidōri, cũng trên bờ biển phía Đông Bắc, đã tạm ngưng để kiểm tra
chu kỳ hoạt động. Sóng thần tại Fukushima I và II đã vượt qua đê chắn đồng
thời phá hủy hệ thống máy phát điện diesel dự phòng, dẫn đến những vấn
đề nghiêm trọng tạo nên hai vụ nổ lớn tại nhà máy Fukushima I gây rò rỉ
phóng xạ. Hơn 200.000 người đã được sơ tán.

Sau động đất-sóng thần, Nhật bắt đầu công cuộc tái thiết đất nước, ý thức
và tinh thần con người Nhật bản đã làm thế giới phải nghiêng mình, các
nhà tư bản Nhật ở nước ngoài bán tài sản của mình để quay về tái thiết đất
nước, và sau khoảng một năm, dù vẫn còn bề bộn công việc, nền kinh tế
Nhật đang dần được phục hồi.
III.
Bài học kinh nghiệm
• Điều đầu tiên và quan trọng nhất khi rút kinh nghiệm từ Nhật Bản







chính là vấn đề đào tạo và phát triển con người. Nước Nhật đã rất
thàh công trong vấn đề này. Họ chú trọng vào nguồn tài nguyên chất
xám và các kinh vực giáo dục và đào tạo, rèn luyện tác phong công
nghiệp.
Thứ hai là chú trọng phát triền công nghệ, khoa học kĩ thuật, điều
này liên hệ mật thiết với việc phát triển kinh tế bền vững và theo
nhân tố chiều sâu.
Thứ ba là tránh việc tăng trưởng kinh tế quá nóng và bong bóng
kinh tế như đã diễn ra ở Nhật năm 1990-1991.
Có tư duy đổi mới và tránh quá bảo thủ ở một số chính sách kinh tế
của nhật
Tăng cường các hệ thống cảnh bào và phòng chống thiên tai nhằm
giảm thiệt hại về nhân lực vật lực.

Nguồn tham khảo:

Giáo trình lịch sử kinh tế, nxb Đại học kinh tế quốc dân
www.wikipeidia.com
www.imf.org

www.worldbank.org

I.

Bối cảnh

KINH TẾ TRUNG QUỐC

Sau 20 năm dưới chế độ chính trị tả khuynh của Mao Trạch Đông đã làm
cho đất nước suy sụp, 3 năm đại nhảy vọt và 10 năm đại cách mạng văn hóa
18


vô sản đã làm suy sụp đất nước Trung Quốc, khiến ít nhất 50 triệu người
chết, hạng chục triệu người bị bần cùng hóa, hàng ngàn cán bộ lão thành và
người tài bị đem ra đấu tố, giết hại. Nền kinh tế Trung Quốc bị lạc hậu và
suy sụp trầm trọng.
Trước tình hình đó, tháng 12/1978, hội nghị lần 3 khóa XI của ĐCS Trung
Quốc đã đưa ra và quyết định đưa ra con đường mới xây dựng chủ nghĩa xã
hội mang đặc sắc Trung Quốc, bắt đầu đưa ra công cuộc cải cách và mở cửa
kinh tế, đưa đất nước Trung Quốc thành cường quốc kinh tế.
II.

Thực trạng phát triển kinh tế từ cải cách mở của 1978 –
nay


Từ khi cải cách mở của đến nay, TQ đã đạt được những thành tựu vô cùng
to lớn trong phát triển kinh tế, nền kinh tế TQ liên tục tăng trưởng cao. Từ
1978-2007, tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm của TQ đạt 9,5%. Năm
2006, GDP của Trung Quốc tăng 10.5% và đạt 25000 tỷ NDT (xấp xỉ 2500 tỷ
USD), trở thành nền kinh tế đứng thứ 4 trên thế giới; năm 2010 Trung Quốc
vượt qua Nhật bản trở thành nền kinh tế đứng thứ 2 thế giới ( sau Mỹ) với
GDP đạt 5800 tỷ USD.
1. Kinh tế Trung Quốc giai đoạn (1978-1992)

Nông nghiệp
Trước cải cách kinh tế, nền nông nghiệp TQ vẫn là một nền nông nghiệp
nghèo nàn, lạc hậu, thậm chí người dân TQ còn thiếu đói nặng nề.
Ngay sau khi đưa ra chính sách cải cách mở của, chính phủ TQ, mà người
đứng đầu là Đặng Tiểu Bình đã bắt đầu cải cách kinh tế từ nông nghiệp, khu
vực mà ĐCS Trung Quốc đã lãng quên từ lâu.
Đầu tiên, đó là việc đưa ruông về tay người nông dân. Chỉ trong 5 đến 6
tháng 5,7 triệu đội sản xuất nông nghiệp đã chuyển thành 180 triệu đơn vị
sản xuất gia đình. Trong thời gian này, toàn bộ ruộng đất, gia súc, nông cụ
và các tài sản công hữu khác đã được chia cho các gia đình nông dân. Cuộc
cải cạch đã cải thiện đáng kể đời sống nông thôn, đồng thời cũng đã làm
nảy nhiều vấn đề cần giải quyết.
Sau cải cách, toàn bộ số ruộng trên cả nước đã được chia ra nhiều mảnh
nhỏ chia cho nông dân. Kết quả của cuộc cải cách là đáng mừng cho Trung
Quốc đã tìm ra cơ chế, chính sách quản lí nông nghiệp mới phù hợp với quy
luật phát triển kinh tế khách quan đi vào cải cách thực hiện khoán trách
nhiệm đến từng hộ nông dân đi đôi với cải cách chính sách giá cả và cơ chế
lưu thông nông sản, thúc đẩy nông nghiệp tăng trưởng và phát triển, đi đôi
với khoán hệ tạo điều kiện cho nông nghiệp hương trấn để phát triển công
nghiệp nông thôn, chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá.

19


Thời kỳ đầu cải cách, nông nghiệp Trung Quốc đã đạt được những thành
tựu to lớn, làm rung động cả nước, giá trị tổng sản lượng nông nghiệp tăng
bình quân 11,5%/năm trong giai đoạn 1980 - 1985, gấp 3,5 lần giai đoạn
1953 - 1980 nhưng từ 1985 sản xuất nông nghiệp bị chững lại. Nông thôn
xuất hiện nhiều vấn đề cấp bách làm tổn hại đến lợi ích của nông dân, tác
hại đến tính tích cực của sản xuất. Nhưng không phải tất cả các ngành kinh
tế ở nông thôn Trung Quốc đều gặp khó khăn, các ngành phi nông nghiệp ở
nông thôn lại đang rất phát đạt.Thương mại trong nông nghiệp cũng được
tự do hóa thúc đẩy nông nghiệp phát triển
Công nghiệp
Chính phủ TQ xác định hiện đại hóa công nghiệp là nhiệm vụ hàng đầu. Để
hiện đại hoá nền công nghiệp Trung Quốc trước hết tăng cường đầu tư cho
các cơ sở sản xuất bằng các nguồn vốn của Nhà nước, của tư bản nước
ngoài đưa vào và vốn đi vay của nước ngoài. Vốn của nước ngoài được sử
dụng trong thời gian từ 1979 đến 1982 đã lên tới khoảng 98 tỷ USD trong
đó có khoảng 34 tỉ USD là đầu tư trực tiếp, khoảng 60 tỉ USD là tín dụng.
Trung Quốc nhập nhiều thiết bị máy móc để thế cho các máy cũ, khuyến
khích phát triển các xí nghiệp vừa và nhỏ, xây dựng thêm nhiều công trình
mới, nhằm sản xuất ra nhiều sản phẩm có chất lượng cao để xuất khẩu.
Trung Quốc đã dùng 80% số vốn vay được, chủ yếu để phát triển các ngành
mũi nhọn và xây dựng cơ sở vật chất hạ tầng cho công nghiệp.
Để sử dụng vốn có hiệu quả, Trung Quốc cũng thay đổi cách quản lý trong
công nghiệp. Các xí nghiệp quốc doanh được nới rộng quyền hạn kinh doanh
(tự lập kế hoạch, tự tìm nguyên liệu và thị trường tiêu thụ...) Nhà nước chỉ
làm nhiệm vụ điều tiết, chỉ đạo ở cấp vĩ mô. Để có các mặt hàng có sức cạnh
tranh trên thị trường quốc tế, Trung Quốc một mặt hết sức coi trọng việc
nhập khẩu kỹ thuật từ nước ngoài, những mặt khác cũng ra sức phát triển

và nâng cao chất lượng những sản phẩm của các ngành công nghiệp truyền
thống, các mặt hàng tiêu dùng vốn có tiếng như: tơ lụa, dụng cụ gia đình...
với chính sách tận dụng nguồn nhân lực trong nước để chế biến và để bán
ra nước ngoài các thành phần với giá cao, Trung quốc vừa giải quyết được
tình trạng thừa lao động, vừa thu hút được nhiều ngoại tệ mạnh. Tuy nhiên
trong giai đoạn này, đặc biệt là các xí nghiệp quốc doanh không có gì thay
đổi nhiều, vẫn mang nặng tính quan liêu và cơ chế xin cho.

20


Nguồn: 20:00 này 7/4/2012
Trong giai đoạn 1979-1980, Nhà nước đã cải cách các nhà máy bằng cách
tăng lương cho công nhân nhưng biện pháp này đã ngay lập tức bị mất tác
dụng bởi lạm phát liên tục ở mức 6-7%. Nói cách khác, dù họ được trả nhiều
tiền lương hơn, giá trị thực của đồng tiền họ nhận được vẫn có giá trị thấp
và họ mua được ít hơn, đồng nghĩa với việc những công nhân nhà máy bị
nghèo đi. Nhà nước đã khắc phục vấn đề này từng phần bằng cách bao cấp
lương.
Thương mại và dịch vụ
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã thử giảm bớt độc quyền ngoại thương và
nỗ lực hội nhập với hệ thống ngoại thương thế giới. Tháng 11 năm 1991,
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã gia nhập hệ thống thương mại toàn cầu.
Tháng 11 năm 1991, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã gia nhập APEC, sự
gia nhập làm tăng cường tự do thương mại và hợp tác trong các vấn đề
kinh tế, thương mại, đầu tư và công nghệ.
Chính phủ Trung Quốc cũng mở cửa lại thị trường chứng khoán thượng hải
đã bị chính quyền Mao đóng của 40 năm về trước
Cơ cấu và thành phần kinh tế
Trung Quốc cũng quyết đinh xây dựng đất nước bằng một nền kinh tế (giai

đoạn này là kinh tế hàng hóa) nhiều thành phần, trong đó có xu hướng
giảm tỉ trọng khu vực kinh tế công, tăng cường phát triển khu vực kinh tế
21


ngoài nhà nước (nhất là kinh tế tư nhân) và khu vực kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài.
Về cơ cấu kinh tế của các khu vực cũng có sự dịch chuyển theo hướng hiện
đại hóa, công nghiệp hóa, trong đó tỷ trọng nông nghiệp trong nền kinh tế
giảm, tuy nhiên, giá trị kinh tế hàng hóa vẫn tăng, tăng tỷ trọng công
nghiệp và dịch vụ.
Đầu tư nước ngoài
Năm 1979, Trung Quốc quyết định xây dựng các đặc khu kinh tế, gồm ba
đặc khu kinh tế là Thâm Quyến, Chu Hải, Sán Đầu tại tỉnh Quảng Đông và
đặc khu kinh tế Hạ Môn tại tỉnh Phúc Kiến. Việc quyết định xây dựng đặc
khu nhằm mở rộng hợp tác kỹ thuật và giao lưu kinh tế với nước ngoài, tận
dụng FDI (vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài), đưa khoa học kỹ thuật tiên tiến
vào Trung Quốc. Năm 1989, chính quyền đã ban hành các đạo luật và nghị
định về khuyến khích nước ngoài đầu tư

Nguồn: 21:00 ngày 8/4/2012
Năm 1990, chính quyền đã xóa bỏ hạn chế thời gian thiết lập liên doanh,
đảm bảo không quốc hữu hóa và cho phép các đối tác nước ngoài trở thành
chủ tịch hội đồng quản trị. Năm 1991, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã
ban hành quy định đối xử thuế ưu đãi hơn cho các doanh nghiệp 100% vốn
nước ngoài và các dự án theo hợp đồng, và các công ty nước ngoài đầu tư
22


vào các khu kinh tế chọn lọc hay trong các dự án Nhà nước khuyến khích

như năng lượng, giao thông và vận tải. Chính quyền cũng cho phép một số
ngân hàng nước ngoài mở chi nhánh ở Thượng Hải và cho phép các nhà
đầu tư nước ngoài mua cổ phiếu đặc biệt "B" trong các công ty chọn lọc
niêm yết trên Sàn giao dịch chứng khoán Thượng Hải và Thẩm Quyến. Các
cổ phiếu "B" được bán cho người nước ngoài nhưng những người này
không được hưởng các quyền liên quan do sở hữu cổ phiếu mang lại
2. Kinh tế Trung Quốc giai đoạn (1992-2001)

Năm 1992, TQ bắt đầu xây dựng nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa.
Mở đầu thị trường hóa trong lĩnh vực y tế và nhà ở thị trường hóa từ năm
1992 - 1994. Kết quả điển hình của thị trường hóa là doanh thu trong lĩnh
vực kinh doanh ăn uống tăng gấp 225 lần; bình quân năm tăng 20,53%.
Năm 1993, Trung Quốc tiến hành cải cách chính sách thuế theo hướng thúc
đẩy doanh nghiệp phát triển và áp dụng chính sách giá theo giá thị trường.
Năm 1994: Trung Quốc thông qua Luật ngoại thương, bãi bỏ việc lập kế
hoạch theo chỉ thị hoạt động xuất nhập khẩu; trao cho doanh nghiệp quyền
hoạt động kinh tế đối ngoại, bãi bỏ việc cấp quota đối với một loạt hàng
hóa. Nhà đầu tư nước ngoài được hưởng ưu tiên và ưu đãi về thuế. Các khu
vực kinh tế tự do như khu Phố Đông ở thành phố Thượng Hải, Thâm
Quyến… trở thành trung tâm thu hút tư bản nước ngoài và là “trung tâm
phát triển”. Năm 1996, Trung Quốc áp dụng tỷ giá ngoại tệ thống nhất dựa
theo tỷ giá giao dịch trên thị trường liên ngân hàng. Năm 1999, kinh tế
ngoài quốc doanh được xác định là một bộ phận cấu thành quan trọng của
kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa.
Đến năm 1997-1998, mặc dù Châu Á lâm vào khủng hoảng kinh tế tài chính,
đặc biệt là khu vực Đông Á, nhưng Trung Quốc không bị ảnh hưởng mà vẫn
phát triển mạnh. Thu nhập của cư dân TQ tăng từ 379 NDT năm 1979 lên
6079 NDT năm 1997; dự trữ ngoại tệ của TQ cũng không ngừng tăng lên,
năm 1978 là 167 triệu USD lên 144,9 tỷ USD, đứng thứ 2 thế giới sau Nhật
Bản. Từ 1978 đến 1997, du lịch của TQ cũng không ngừng phát triển, nhịp

độ tăng trưởng bình quân của du lịch là 20%. Trung Quốc trở thành nước
thứ 8 thế giới về công nghiệp du lịch với thu nhập là 121,1 tỷ USD năm
1997.
Nông nghiệp Trung Quốc cũng phát triển nhanh chóng và tương đối ổn
định., năm 1997 sản lượng là 494,1 triệu tấn, tạo điều kiện cho phát triển
kinh tế, đóng góp nguyên liệu cho công nghiệp và thêm nguồn hàng xuất
khẩu.
23


Công nghiệp, dịch vụ và thương mại cũng không ngừng tăng trưởng và phát
triển. Nhìn chung sản xuất công nghiệp tăng trưởng với nhịp độ cao, giá trị
sản phẩm công nghiệp năm 1997 tăng 14 lần so với 1978, bình quân mỗi
năm tăng 14,9%. Kim ngạch ngoại thương của TQ cũng tăng nhanh, tính
đến năm 1998 đạt mức 323,9 tỷ USD, trong giai đoạn 1978-1997 kim ngạch
ngoại thương bình quân hàng năm tăng 15,6%, đứng thứ 10 trên thế giới.
Trung Quốc cũng đẩy mạnh và khuyến khích việc thu hút đầu tư nước ngoài.
Mức độ đầu tư qua các năm tăng nhanh, năm 1993 là 27,5 tỷ USD, năm
1997 là 45,2 tỷ USD. Nhờ đó TQ đã tiếp thu được nhiều công nghệ kĩ thuật
tiên tiến và kinh nghiệm quản lý hiện đại của phương Tây.
3. Kinh tế Trung Quốc từ 2001-nay
Năm 2001, TQ chính thức gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, mở
đầu cho một kỉ nguyên bùng nổ, phát triển mạnh mẽ và vươn lên không
ngừng của kinh tế TQ.Đến năm 2002, các ngân hàng nước ngoài đã mở 175
công ty với tổng số vốn 31,7 tỉ USD; chín công ty bảo hiểm nước ngoài thuộc
tám nước đã mở 12 công ty tại Trung Quốc. Các tổ chức tài chính thu hút
vốn FDI tập trung tại các thành phố và đặc khu như Bắc Kinh, Thượng Hải,
Quảng Châu, Thâm Quyến, Hạ Môn, Chu Hải, Thiên Tân…Năm 2004, Trung
Quốc cổ phần hóa các ngân hàng thương mại quốc doanh; đưa điều khoản
bảo hộ tài sản tư hữu vào Hiến pháp.Năm 2005, Trung Quốc bãi bỏ thuế

nông nghiệp; đưa ra nhiệm vụ lịch sử xây dựng nông thôn mới xã hội chủ
nghĩa. Nông dân chiếm hơn 70% dân số Trung Quốc thoát nghèo, một số
người và khu vực dần giàu lên. Từ năm 1978 – 2007, người nghèo ở nông
thôn từ 250 triệu người giảm còn 14,79 triệu người.Năm 2007, Luật về
quyền tài sản tư ra đời. Tốc độ tăng trưởng kinh tế Trung Quốc lại tăng tốc
một lần nữa trong đầu thế kỷ mới, đạt mức 9,1% năm 2003, 9,5% năm 2004
và 9,8% năm 2005. Trong 30 năm đổi mới, tốc độ tăng trưởng bình quân
hàng năm của Trung Quốc là 9,7%, GDP hàng năm trường xuyên tăng xấp
xỉ, thậm trí trên 10% năm.

24


Tốc độ tăng GDP giai đoạn 2002-2010 của TQ
Nguồn 16:00 này 13/4/2012
Nông nghiệp: phát triển theo hướng hiện đại hóa, kết hợp nông ngiệp với
khoa học kĩ thuật. Tính đến năm 2005, Tq sản xuất 46% thịt lợn, 24%bông,
15% ngũ cốc, 70% lê, 48% táo, 30% cà chu của toàn thế giới. TQ cũng đứng
đầu thế giới về xuất khẩu rau khô, chế biến nấm, tỏi, quả đóng hộp và thủy
sản.
Công ngiệp:Trung Quốc xếp thứ 3 thế giới về sản lượng công nghiệp.Sản
xuất công nghiệp tăng trưởng với nhịp độ cao, năm 2006, sẳn lượng gang
của TQ đạt 3,89 triệu tấn, sản lượng thép thô là 199,47 triệu tấn, sản lượng
ô tô đạt 2,89 triệu chiếc, tăng 53,2% so với 2005. Sự phát triển của công
nghiệp TQ luôn cao hơn các ngành khác và thúc đẩy công ngiệp hóa, hiện
đại hóa của TQ.
Thương mại và dịch vụ: Thương mại toàn cầu của Trung Quốc đạt tổng kim
ngạch 1.758 tỷ USD cuối năm 2006.Tổng kim ngạch đã vượt qua mốc 1.000
tỷ USD năm 2004 (1.150 tỷ USD, hơn gấp đôi kim ngạch năm 2001). Cuối
năm 2004, Trung Quốc đã trở thành quốc gia thương mại lớn thứ 3 thế giới

sau Mỹ và Đức. Tuy nhiên thặng dư thương mại vẫn ổn định ở mức 30 tỷ
USD. (trên 40 tỷ USD năm 1998, dưới 30 tỷ USD năm 2003). Các đối tác
thương mại hàng đầu của Trung Quốc bao gồm Nhật Bản, Hoa Kỳ, Hàn
Quốc, Đức, Singapore, Malaysia, Nga và Hà Lan. Theo số liệu thống kê của
Hoa Kỳ, thặng dư thương mại của Trung Quốc đối với Hoa Kỳ năm 2004 là
170 tỷ USD, hơn gấp đôi so với mức năm 1999.
Trung Quốc xếp thứ 9 thế giới về giá trị sản lượng dịch vụ. Tỷ trọng điện
năng và viễn thông cao đảm bảo xu thế tăng trưởng nhanh dài hạn trong
lĩnh vực dịch vụ.Với hai sở giao dịch chứng khoán (là Thượng Hải và Thâm
Quyến), thị trường chứng khoán Trung Hoa đại lục có một giá trị thị trường
1.000 tỷ USD tính đến tháng 1 năm 2007, trở thành thị trường chứng khoán
lớn thứ 3 châu Á, chỉ sau Nhật Bản và Hồng Kông .
25


×