Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

Sự tập trung hóa báo chí ở các nước tư bản chủ nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (947.69 KB, 87 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Đề tài:
Sự tập trung hóa báo chí ở các nước tư bản chủ nghĩa
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT VỀ TẬP TRUNG HÓA BÁO CHÍ
1. Khái niệm tập trung hóa báo chí
Hiện nay, vẫn có những quan điểm khác nhau về khái niệm tập trung hóa và
tập trung hóa báo chí. Theo từ điển Tiếng Việt thì từ “tập trung” có nghĩa là dồn lại,
tụ họp ở 1 nơi, hoặc là dồn sức lực, trí tuệ, hướng hoạt động vào việc gì” (trang
1444 Đại từ điển Tiếng Việt, Nguyễn Như Ý, NXB ĐHQG TPHCM, 2007). Còn
tập trung hóa thì được hiểu như quá trình dồn lại, tụ hợp lại tại một nơi, một điểm.
Hay nói cách khác hiểu một cách đơn giản nhất thì tập trung hóa báo chí là quá
trình tích tụ các cơ quan báo chí lại với nhau, tập hợp lại thành một cơ quan to nhất.
Theo Pierre Albert trong cuốn “Lịch sử báo chí” thì cho rằng: “Quá trình tập
trung hóa là quá trình mà các báo có số lượng phát hành lớn hơn nuốt hoặc loại bỏ
với các báo có số lượng phát hành thấp hơn để củng cố địa vị của mình”.
Xem xét trong quá trình hình thành và phát triển của báo chí trên thế giới ta
nhận thấy: thứ nhất, quá trình tập trung hóa diễn ra đầu tiên ở các nước TBCN, sau
đó phát triển mạnh và lan sang các nước khác trên toàn thế giới. Thứ hai quá trình
này gắn với những hoạt động mua lại hoặc sáp nhập giữa các công ty để hình thành
nên những công ty lớn hơn. Thứ ba là quá trình này vẫn còn tiếp diễn và phát triển
ở nhiều nước trên thế giới.
Tóm lại, “Tập trung hóa là quá trình sáp nhập, kết hợp, bắt tay giữa các
cơ quan báo chí, hoặc thôn tính, thâu tóm, bành trướng lẫn nhau giữa các cơ
quan báo chí để hình thành nên các tập đoàn báo chí”.
2. Quá trình tập trung hóa báo chí diễn ra như thế nào?
Đối với đa số các nước TBCN lớn thì hiện tượng tập trung hóa các phương
tiện thông tin đại chúng trên thị trường quốc gia là một hiện tượng tiêu biểu, phổ
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
biến. Quá trình này đang được mở rộng hơn bởi sự xâm nhập mạnh mẽ của các tập


đoàn xuyên quốc gia vào hoạt động kinh doanh thông tin. Quá trình tập trung hóa
báo chí vẫn tiếp tục diễn ra đến tận bây giờ không phụ thuộc vào các phương cách
hình thức sở hữu và các phương pháp điều hành doanh nghiệp.
2.1. Theo X.I.Bêglốp trong tác phẩm “Các tổ chức độc quyền ngôn luận”
chia quá trình tập trung hóa theo 5 hướng
- Hướng hợp nhất: thông qua sát nhập hoặc trên những nguyên tắc ký kết
đối tác với hình thức thành lập những phương tiện thông tin đại chúng mới cùng
loại và phụ thuộc. Ví dụ các mạng lưới báo, mạng lưới các đài phát thanh và truyền
hình… thuộc vào loại này còn có các phương tiện thông tin đại chúng quốc gia nào
đó bành trướng sang các nước khác. Trong một số trường hợp các doanh nghiệp
còn mang tính chất độc lập về phương diện tài chính, nhưng sự chỉ đạo chung lại
xuất phát từ một đại bản doanh. Các ấn phẩm “Reader’ Digest” (Mỹ), “Burda
Moden Magazine” (Đức) và những ấn phẩm tương tự khác đã cho thấy rõ xu hướng
này.
- Hướng hợp nhất các phương tiện thông tin đại chúng khác nhau
thành một tổ hợp thống nhất (báo – đài phát thanh – đài truyền hình…) Trong
trường hợp tiến hành những chiến dịch thông tin hoặc tuyên truyền, những tổ hợp
đa năng ấy cho phép ta tiết kiệm được nhiều tiền bạc và đồng thời còn đạt được
hiệu quả cao
- Hướng thôn tính, thâu tóm khi các tập đoàn công nghiệp – tài chính
mua lại các phương tiện thông tin đại chúng. Điều này cho phép các giới kinh
doanh lớn vận động hành lang cho các quyền lợi của mình trong quá trình chuẩn bị
đưa ra các quyết định quan trọng của nhà nước và hình thành công luận theo hướng
cần thiết. Ngoài ra điều này còn cho phép đạt được tình hình ổn định về tài chính
của toàn bộ tập đoàn và giảm phần nào mức độ lệ thuộc của các phương tiện thông
tin đại chúng và những đơn đặt hàng quảng cáo. Về phương diện này, ví dụ có ý
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nghĩa là các cơ sở báo chí của những hiệp hội ấy sát nhập vào cơ cấu nhà nước, để
tạo thành những hiệp hội báo chí chuyên ngành đóng vai trò tích cực trong quá

trình tự điều chỉnh của báo chí. Chẳng hạn, tạp chí Tín hiệu là ấn phẩm của Hội
công nghiệp và cục thông tin của quân đội Mỹ. Hiệp hội các nhà báo của công
nghiệp dầu lửa cũng hoạt động mạnh…Một ví dụ tiêu biểu nữa là tập đoàn báo chí
News Corportion và các hoạt động thôn tính các công ty khác của tập đoàn này.
- Các công ty thông tin đại chúng hùng mạnh mua lại các xí nghiệp công
nghiệp không có liên quan đến hoạt động kinh doanh, biên tập – xuất bản hoặc
hoạt động phát thanh – truyền hình. Nếu như trước kia các tờ - rớt báo chí mua lại
các cánh rừng và các xí nghiệp sản xuất giấy hoặc ký kết các thỏa thuận đối tác với
các xí nghiệp ấy thì giờ đây những tờ - rớt ấy xâm nhập vào khắp nơi: từ công
nghiệp rừng xenluylô- giấy cho đến các ngành dịch vụ, hoạt động kinh doanh giải
trí, xâm nhập vào những ngành điện tử mới nhất và vật lý hạt nhân. Trên cùng một
mức độ đó có thể phác họa kiểu hoạt động như vậy của phương tiện thông tin đại
chúng thông qua ví dụ về tập đoàn “The New York Times Corporation” cùng với
các các tổ chức và các hang con của nó. Tập đoàn ày có những cánh rừng của mình
ở Canada, có những xí nghiệp xenluylô –giấy, các nhà xuất bản, các mạng lưới phát
thanh và truyền hình, các tổ chức của những giới chuyên gia máy tính và các lập
trình viên…
- Cải tổ cơ cấu các tổ chức thông tin đại chúng độc quyền, phân phối lại
các luồng thông tin trên các kênh thông tin. Người ta thấy hiện tượng các luồng
thông tin kinh doanh được chuyển sang các hãng tin chuyên biệt và các máy tính
chuyên biệt. Chẳng hạn nguồn thu chủ yếu của hãng tin Reuters không phải từ
những người đặt mua thông tin quốc tế, mà là từ hoạt động đưa tin về các hoạt
động của sở giao dịch trong những thời điểm đã định… Hãng tin AP đã tổ chức ra
hình thức dịch vụ ấy của AP – Dow Jones và áp dụng hình thức dịch vụ này vào thị
trường dầu lửa của một số nước. Những bản tin của sở giao dịch đăng trên các báo
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
đã mất đi tính thời sự trước kia của mình. Những thông tin được chuyển tải nhanh
chóng qua các chương trình phát thanh và truyền hình (đặc biệt là qua các kênh
chuyên biệt của truyền hình cáp). Vì vậy các tờ báo và tạp chí tập trung chú ý vào

khâu phân tích, bình luận và dự báo. Xu hướng này cũng biểu hiện trong lĩnh vực
phát thanh. Ví dụ các tập đoàn phát thanh hàng đầu ở Thụy Sĩ đã dành cho khâu
bình luận rất nhiều thời lượng hơn trước kia.
2.2. Từ khái niệm định nghĩa ở trên ta có thể thấy quá trình tập trung
hóa diễn ra theo hai hướng chính
• Sáp nhập: đây là quá trình tập trung hóa được tiến hành trên nguyên
tắc hợp nhất, thông qua sáp nhập hoặc trên những nguyên tắc ký kết đối tác để
hình thành nên những tập đoàn báo chí lớn hoặc những công ty truyền thông lớn
dựa trên sức mạnh và tiềm lực của cả hai gộp lại.
Ví dụ lần sát nhập giữa AOL và Time Warner năm 2001:
 Time Warner
- Nền tảng: là sự sát nhập của Warner Communication và Time Inc, năm
1987.
- Trụ sở: New York, Mỹ.
- Những nhà lãnh đạo chủ chốt: Richard D.Parsons, chủ tịch Jeffiey
L.Bewkes; và tổng giám đốc điều hành Wayre Pace cùng các CFO khác.
- Lĩnh vực kinh doanh chủ yếu: phát thanh, xuất bản, in, viễn thông.
- Thu nhập: 50.48 tỉ $ (2008)
- Nhân viên: 86.000 (31/12/2007)
 AOL
- Là tên viết tắt của American Online, là một tập đoàn chuyên
cung cấp dịch vụ Internet trên toàn cầu.
- Thành lập năm 1985, có trụ sở tại Duless, Virginia, Mỹ.
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Những nhà lãnh đạo chủ chốt: Randy Falco, Ted Leoniss, Ronald Grant.
- Lĩnh vực kinh doanh chính: cung cấp dịch vụ Internet trên tòan cầu
- Khẩu hiệu: “See what’s here for you”
 Sự sát nhập của AOL và TIME WARNER
· Ngày 11/2/2000 : AOL và Time Warner chính thức sát nhập và mang tên

AOL TIME WARNER (A-T)
· Vào thời gian AOL và Time Warner hợp nhất, giá cổ phiếu của AOL tăng
cao do sự bùng nổ của các công ty dotcom. Tập đoàn sáp nhập AOL Time Warner
hiện có 135 triệu khách hàng; chỉ riêng AOL đã thu hút thêm được 1,3 triệu khách
hàng mới trong năm 2001. Tuy nhiên, sau khi bong bóng Internet xẹp xuống, giá cổ
phiếu của hãng này đã giảm rất mạnh
· Công việc thống nhất hoạt động kinh doanh của hai công ty cũng có rất
nhiều khó khăn. Có một khoảng cách văn hoá kinh doanh lớn giữa hai công ty bởi
AOL mới có thời gian hoạt động 20 năm, trong khi Time Warner đã có thâm niên
tới 78 năm, với những ấn phẩm báo chí uy tín từ Fortune tới Sports Illustrated. Đã
có những lời kêu ca, phàn nàn từ phía các phóng viên của Time và CNN tỏ ý lo
lắng việc xiết chặt chi phí hoạt động có thể ảnh hưởng tới chất lượng các bài báo.
· Năm 2001, sau khi sát nhập, hoạt động kinh doanh của tập đoàn này rất ảm
đạm. Cổ phiếu của AOL TIME WARNER đã giảm 9% mặc dù lợi nhuận trước
thuế đã tăng 20%, đạt 2.5 tỷ $.
· Tính riêng trong quý I/2001, A-T lỗ 1.8 tỉ $. Nguyên nhân chính gây ra sự
thất bại này là do doanh thu quảng cáo của hãng giảm sút tới 14%.
· Ngay việc sáp nhập AOL và Time Warner cũng đã có nhiều khó khăn. Với
số vốn 210 tỷ USD, giờ đây tập đoàn AOL Time Warner đã lớn gấp đôi đối thủ
cạnh tranh lớn nhất của mình là Viacom với số vốn gần 100 tỷ USD. Hai tổng hành
dinh cách nhau hơn 320 km: tổng hành dinh của AOL ở miền bắc Virginia, hiện là
văn phòng điều hành của ông Case, và tổng hành dinh của Time Warner tại
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Manhattan là văn phòng của ông Levin. Tổng số nhân viên của tập đoàn hiện lên
tới 90.000 người.
· Tháng 5/2002, ông Ted Turner (phó chủ tịch) quyết định ra đi, gây nhìêu
xáo trộn trong hoạt động kinh doanh của tập đòan. Chủ tịch AOL TIME
WARNER Steve Case cũng thôi giữ chức và tổng giám đốc điều hành Dick
Parsons sẽ thế chỗ.

· Báo chí đưa tin rằng Time Warner đã đàm phán căng thẳng trong suốt cả
năm qua về tương lai của AOL, không loại trừ cả khả năng bán tống bán tháo toàn
bộ gánh nặng này (AOL bắt đầu sáp nhập vào Time Warner từ tháng 1/2001).
Nhưng càng về đến cuối năm 2005, ý tưởng "hợp tác" càng được chú ý: nhiều khả
năng được đặt lên bàn: bắt tay cùng công cụ tìm kiếm MSN của Microsoft chăng,
hay siết chặt thêm quan hệ quảng cáo với Google, hãng đang cung cấp công nghệ
tìm kiếm cho AOL.
· Sự dùng dằng trong tương lai của AOL đang cho thấy một thực tế: đến giữa
thập kỷ đầu tiên của thiên niên kỷ thứ 3, khu vực online đang bị chia rẽ thành 2
tuyến: một bên là những hãng thành công trong việc kiếm tiền từ tìm kiếm và cung
cấp dịch vụ Web còn một bên là những kẻ "trâu chậm" không muốn uống nước
đục.
· Năm 2005-2006, tập đoàn này đã làm ăn khấm khá trở lại.
· Năm 2006, Công ty này nói lãi ròng trong quý ba năm nay (2006) tăng lên
thành 2,3 tỷ USD từ con số 853 triệu quý ba năm ngoái.Thu nhập của Time Warner
tăng 7% thành 10,9 tỷ USD, được đẩy mạnh nhờ việc hãng này mua lại công ty
Adelphia Communications. Tháng trước, Time Warner đã bán hoạt động tại Anh
của mình cho công ty Carphone Warehouse với giá 370 triệu bảng Anh. Tập đoàn
này, vốn sở hữu cả xưởng phim Warner Bros và kênh truyền hình CNN, cho hay
thu nhập từ AOL tăng tới 46%.Time Warner đã cải tổ hệ thống AOL hồi mùa hè để
tăng lợi nhuận, cắt giảm 5.000 việc làm. Sau việc hãng này mua lại công ty
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Adelphia hồi đầu năm, nay Time Warner trở thành tập đoàn dịch vụ truyền thông
cáp lớn thứ hai Mỹ, với trụ sở chính tại New York và Los Angeles. Cổ phiếu của
Time Warner cũng tăng tới mức cao nhất trong bốn năm nay vào tháng trước.
· Người ta cho rằng ban quản trị Time Warner muốn xóa chữ AOL trước tên
công ty này một vài lần nhưng kế hoạch chỉ được thực hiện khi giám đốc AOL
Jonathan Miller cho phép vào tháng trước. Ông Miller có quan điểm trung lập trong
mối cửu hận giữa AOL và ban điều hành Time Warner – như cách dùng từ của báo

chí Mỹ.
·Ngay từ quý I/2007, Time Warner – đứa con được cưng chiều và kỳ vọng
bậc nhất của làng truyền thông Mỹ đã được đón nhận niềm vui lớn: về nhất trong
cuộc bình chọn những tập đòan truyền thông hùng mạnh nhất hành tinh ( Top
Thirty Global Media Owners). Với 29.8 tỉ $ doanh thu đạt được trong năm tài chính
2005-2006, gấp đôi doanh thu của anh chàng News Corp, Time Warner đã trở
thành người đi đầu trong cuộc bầu chọn danh tiếng của Zenith Optimedia Group,
vượt mặt 30 anh tài khác một cách đầy thuyết phục.
• Thôn tính, thâu tóm: đây là quá trình tập trung hóa diễn ra bằng cách
một công ty hoặc một tập đoàn lớn mua lại các công ty khác và củng cố công ty
ban đầu thành những tập đoàn báo chí hùng mạnh.
Ví dụ: quá trình thâu tóm các công ty khác của tập đoàn báo chí News
Corporation – Rupert Murdoch:
Ông trùm truyền thông Rupert Murdoch sinh ngày 11/3/1931 tại Melbourne,
Australia. Trước đây, nhà tài phiệt này đã từng học ở Đại học Oxford danh tiếng và
làm việc cho tờ Daily Express trong hai năm. Năm 1952 ông trở về Australia và
thừa kế tờ The Adelaide News của Keith Murdoch, cha ông. Đó là một tờ báo tỉnh
lẻ hạng hai. Mục tiêu của ông lúc bấy giờ là mang tờ Tin tức Adelaide vươn ra
khỏi thị trấn Adelaide. Kể từ đó, cuộc đời của Rupert Murdoch luôn gắn liền với
những thành công mang tầm quốc tế, ông từng bước sở hữu hết tờ báo này đến tờ
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
báo khác ở khắp mọi nơi: ở Sydney là tờ Mirror, ở London là các hãng News of the
World và the Sun, ở New York là tờ New York Post.
Năm 1954-1965: mua tờ The Sunday Times, Tạp chí Perth và New Ideas.
Năm 1963: sở hữu Wollonggong Win4 TV. Sau đó, ông mua thêm Kênh 9
của đài truyền hình Sydney.
Năm 1977: Mua thời báo New York Post với giá 30 triệu USD, đến năm
1988 bán sang tay để có tiền mua đài truyền hình và cuối cùng lấy lại vào năm
1993. Murdoch đã vào thị trường truyền thông Mĩ bằng cách mua tờ San Antonio

News (1973), ngay sau đó sáng lập tờ National Star.
Năm 1979, Murdoch thành lập News Corporation trên đất Úc và bắt đầu thu
mua những tờ báo và tạp chí hàng đầu London (Anh) và New York (Mĩ), cũng như
thu mua nhiều tập đoàn truyền thông khác.
Năm 1985, Murdoch nhập quốc tịch Mỹ để có thể dễ dàng mua các đài
truyền hình Mỹ hơn. Cũng trong năm này, ông đã sở hữu 50% hãng phim 20
th
Century Fox.
Năm 1986: Ông tiếp tục mua hãng MetroMedia, hãng này sở hữu 7 đài
truyền hình lớn nhất nước Mỹ với giá 1,55 triệu USD. Ông phát triển sang
Hongkong và mua tờ The South China Morning Post. Kết hợp với 20th Century
Fox Studio, “bộ sậu” này đặt nền móng cho việc sáng lập kênh truyền hình Fox
Television Network.
Năm 1988: Chi 3 tỷ USD để mua TV Guide, sau đó sáp nhật với công ty
tương tác truyền hình Gemstar.
Năm 1989: Thành lập kênh truyền hình qua vệ tinh Sky TV với 4 kênh phát
sóng trên toàn nước Anh, một năm sau sáp nhập với công ty British Satellite
Broadcasting (lúc đó đang làm ăn thua lỗ) thành hãng BSkyB. Khối liên minh sau
đó lỗ tới 2 tỷ USD và rơi vào khủng hoảng tài chính, nhưng dưới bàn tay của
Murdoch đã trở thành BskyB hùng mạnh như ngày hôm nay.
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Khi đã thành lập News Corp, Murdoch bắt đầu “tiến công” sang lĩnh vực
phim ảnh (xưởng phim nổi tiếng nhất của News Corp là 20
th
Century Fox - Hãng
phim này đã được công ty News Corporation của Murdoch mua lại từ những nhà
sáng lập Star với giá 825 triệu đô la. 20th Century Fox nằm trong tập đoàn Fox
Entertainment Group Inc. (FEG). News Corporation sở hữu 85% cổ phần của tập
đoàn này) và phát thanh truyền hình. Hiện nay, mạng lưới truyền hình Fox (do

công ty con Fox Broadcasting Company điều hành) đã lan toả đến 96% hộ gia đình
Mĩ. Trong thập niên 1980, News Corp của Murdoch vươn tới lĩnh vực truyền hình
và phim ảnh: ở Hollywood ông sở hữu hãng phim 20
th
Century Fox và hãng truyền
hình Fox TV, ở Luân Đôn mua tờ Times và Sunday Times, ở châu Á ông mua đài
truyền hình Star Television. Hiện nay, tập đoàn này đang nắm giữ lượng cổ phần
khổng lồ của nền công nghiệp báo chí Australia, giữ 1/3 số tờ báo và BSkyB (hãng
truyền hình vệ tinh) ở Anh. Gần đây, Murdoch đã mua đội bóng chày Los Angeles
Dodgers.
Ở Anh, thông qua công ty con News International, News Corp của Murdoch
có ảnh hưởng mạnh mẽ trong làng báo Anh, đặc biệt là từ khi sở hữu hai hệ thống
báo Times Newspapers và News Group Newspapers (khoảng thời gian cuối thập
niên 80 của thế kỉ 20) và một phần hệ thống truyền hình trả tiền BskyB (năm
1990).
Vào năm 1993, News Corp mua 63,6% cổ phiếu của công ty Star TV có trụ
sở tại Hồng Kông với giá 525 triệu USD. Kênh truyền hình vệ tinh này hiện đang
giúp các chương trình của News Corp đến với trên 300 triệu người xem trên 53
quốc gia toàn thế giới với tham vọng tiến vào thị trường truyền thông Trung Quốc,
bởi đây là kênh truyền hình vệ tinh phát khắp khu vực châu Á. Ông trùm truyền
thông Rupert Murdoch rất tâm đắc với kế hoạch này, đặc biệt là khả năng chương
trình sẽ trở thành đòn bẩy cho hãng phim Twentieth Century Fox của tập đoàn
thâm nhập vào thị trường châu Á rộng lớn.
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Trong suốt thập niên 90 của thế kỉ 20, News Corp chiếm thị phần lớn trong
lĩnh vực truyền hình trả tiền ở cả 3 châu lục. Năm đầu thế kỉ 21, News Corp thành
công trong lĩnh vực kinh doanh Internet với AOL.
Năm 2003: Sau trận “hỗn chiến” với các đối thủ đấu thầu, Murdoch giành
quyền kiểm soát đối với 38% cổ phiếu (trị giá 6,8 tỷ USD) của công ty truyền hình

qua vệ tinh DirecTV.
Trong năm 2005, Rupert Murdoch đã từng chi 580 triệu USD để giành lấy
MySpace trước con mắt tiếc rẻ của những công ty truyền thông khác. Trang web
MySpace.com do InterMix Media sở hữu, mới chỉ hai năm tuổi nhưng chỉ riêng 1
tháng đã thu hút được 18 triệu lượt người tới để nghe hay xem hàng trăm ngàn
nghệ sĩ cho phép công chúng nghe thử các tác phẩm của họ trước khi chúng xuất
hiện tại các cửa hàng.Sau đó chỉ một năm, Google đã cam kết với News Corp về
việc phân chia số tiền 900 triệu USD là doanh số quảng cáo cho 3 năm sau khi thỏa
thuận trở thành công cụ tìm kiếm trên mạng đặc biệt cho trang web MySpace. Cũng
trong năm 2005, News Corporation mua tiếp trang web Scout.com, một trang web
thể thao trường học. Và vào tháng 09/2005, News Corp tiếp tục mua lại IGN
Entertainment, một trang web trò chơi video và giải trí, với giá 650 triệu đôla
Năm 2007: Nhà tài phiệt truyền thông Rupert Murdoch đã thắng trong cuộc
chiến giành quyền kiểm soát đối thủ cạnh tranh của mình là hãng truyền thông Mỹ
Dow Jones, chủ sở hữu của tờ nhật báo nổi tiếng phố Wall. Tin tức cho biết chủ sở
hữu News Corporation sẽ trả 5,6 tỉ USD cho Dow Jones sau khi hai bên đạt được
thoả thuận cuối cùng. Điều quan trọng nhất là ông trùm Murdoch đã thành công
trong việc đảm bảo sự hậu thuẫn của gia đình Bancroft hiện là chủ sở hữu 64% số
cổ phần trong Dow Jones. Tờ nhật báo phố Wall là một trong những tờ báo thành
công và có ảnh hưởng nhất trên thế giới. Trong những năm trở lại đây, tờ báo này
có số lượng phát hành lớn nhất trong số các tờ báo ở Mỹ là 1,7 triệu tờ mỗi ngày.
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Tờ nhật báo phố Wall được biết đến về các bài tường thuật và bình luận có
giá trị mặc dù không phải tất cả đều đồng ý với những quan điểm của tờ báo này
vốn được xem là rất bảo thủ. Giới chính trị và tài chính đánh giá đây là tờ báo "phải
đọc" và đến mức nó có biệt danh là "kinh thánh của công việc". Tờ nhật báo phố
Wall phát hành bản châu Á năm 1976 và bản châu Âu năm 1983. Hiện trang web
của tờ báo này có hơn 930 ngàn độc giả thuê bao.
Trong khi đó, tập đoàn truyền thông Dow Jones sở hữu nhiều công ty chuyên

cung cấp thông tin tài chính như hãng tin tài chính Dow Jones Newswires cùng
những tờ báo và kênh truyền hình khác.
Tập đoàn truyền thông News
Corp đã khiến nhiều nhà phân tích
ngạc nhiên khi quyết định đặt giá đầu
tiên đến 5 tỷ USD để mua Dow Jones
vào tháng 5 vừa qua. Được biết, ông
Murdoch trước đó đã chú ý tới tờ nhật
báo phố Wall vốn được đánh giá như
viên kim cương trên vương miện của
công việc kinh doanh của Dow Jones. Hầu hết các tờ báo của News Corp hoạt động
trong thị trường nội địa, trong khi tờ nhật báo phố Wall là một trong số ít các
thương hiệu báo chí mang tính toàn cầu. Việc sở hữu tờ nhật báo này đã đánh dấu
một thành công mới và góp phần làm cho thương hiệu News Corp ngày càng trở
nên nổi tiếng.
Mặc dù ban điều hành của Dow Jones đã ủng hộ thỏa
thuận về thương vụ này nhưng một trong những Giám đốc
của hãng, ông Dieter von Holtzbrinck đã từ chức để phản
đối vì lo lắng ảnh hưởng của thoả thuận đến sự độc lập trong
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
biên tập của tờ nhật báo phố Wall tuy News Corp đã hứa sẽ tôn trọng và bảo vệ vị
trí của tờ báo.
Theo nhiều chuyên gia phân tích, Rupert Murdoch bỏ ra hơn 5 tỉ USD để
mua tờ báo này bởi bốn bốn mối lợi được xem xét: mở rộng thị phần của tập đoàn
ra toàn cầu vì trước giờ báo của News Corporation chỉ là báo địa phương; nâng cao
thanh danh của vương quốc Murdoch nhờ vào uy tín nghề nghiệp của WSJ trong
giới kinh doanh toàn cầu; tìm thêm lợi tức trên thị trường cổ phiếu và cuối cùng,
hưởng lợi từ thị trường quảng cáo tăng mạnh sau thương vụ thắng lợi này.
Năm 2008: Rupert Murdoch “nhảy” vào tranh giành Newsday cùng hai ông

lớn khác trong ngành kinh doanh truyền thông ở New York. Đây là tờ báo in lớn
nhất của Long Island – hòn đảo ở phía Tây Nam thành phố New York thuộc tập
đoàn truyền thông Tribune.
Tập đoàn truyền thông Tribune, chủ nhân của tờ báo
in Newsday - vừa công bố bản báo cáo tài chính trong năm
2007. Chỉ tính riêng quý tư của năm 2007, tờ báo đã chịu lỗ
78.8 triệu USD. Con số này quả là không tưởng tượng được
nếu đem so với mức lợi nhuận 239 triệu đô cùng kỳ năm
trước đó. Cả năm 2007, Newsday chỉ thu lãi khoảng87 triệu
đô – giảm 594 triệu so với năm 2006.
Ba đại gia được điểm mặt đặt tên trong cuộc chiến
tranh giành Newsday lần này gồm có Rupert Murdoch, chủ
tịch tập đoàn News Corporation, ông chủ của tờ The New York Post; Mortimer
B.Zuckerman – nhà kinh doanh bất động sản và là chủ nhân của tờ The Daily
News; James L.Dolan - thành viên trong tập đoàn gia đình quản lý Cablevision –
một kênh truyền hình cáp.
Mùa thu năm 2007, Newsday đã từng báo cáo mức phát hành ấn phẩm mỗi
tuần đạt khoảng 387.000 tờ - đứng thứ 10 trong top những tờ báo in bán chạy nhất
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
trong cả nước (và là mức cao nhất dành cho một tờ báo chỉ phục vụ nhu cầu thông
tin cho người đân ở vùng ngoại ô chứ không hẳn trong nội vi thành phố). Trong khi
đó, The Daily News và The New York Post lần lượt chiếm vị trí thứ năm và sáu với
số lượng phát hành ở mức tương đương nhau, vào khoảng 681.000 và 667.000 tờ.
Điểm mạnh của The Daily News nằm ở số ấn phẩm phát hành dành riêng cho ngày
Chủ nhật đạt 726.000 tờ năm 2007. Đây cũng được xem là “ngày cuối tuần rực rỡ”
cho các hoạt động quảng cáo trên trang báo. Trong khi đó, đã nhiều năm nay tờ
New York Post không phát hành báo vào Chủ nhật.
Ông trùm truyền thông hoàn toàn không đề nghị “mua đứt” Newsday. Ngược
lại, ông ta chỉ đưa ra bản hợp đồng theo mô hình liên doanh giữa The Post và

Newsday. Bởi vì Murdoch cho rằng làm như thế cả hai bên đều được lợi và mối
quan hệ giữa hai nhà điều hành của hai tờ báo sẽ trở nên khăng khít hơn. Cả hai bên
đã bàn bạc một hợp đồng trong đó Tribune sẽ chịu trách nhiệm in ấn The Wall
Street Journal ở hai bang Florida và Los Angeles. Sở hữu Newsday có thể sẽ mang
lại cho ông trùm Murdoch một cơ hội vàng để gia tăng sức ép lên tờ The Daily
News.
Hiện nay, News Corporation đã vươn tầm thành một trong những tập đoàn
truyền thông báo chí hàng đầu của thế giới với gần 50 nghìn nhân viên làm việc tại
hơn 170 chi nhánh đặt tại khu vực châu Á, châu Âu, châu Mỹ. Theo số liệu thống
kê năm 2006, tổng thu nhập của News Corporation ước tính đạt 25,327 tỷ USD.
3. Nguyên nhân dẫn đến tập trung hóa
Quá trình tập trung hóa bắt đầu từ trước năm 1914, thực ra là vào khoảng
năm 1892, khi Scripps cùng bạn làm ăn của mình thành lập “chuỗi mắt xích” hay
còn gọi là “báo dây chuyền” đầu tiên trong số 5 tờ báo. Hiện tượng “báo dây
chuyền” ra đời nhằm “khai thác mối liên kết, mối quan hệ giữa nhiều tờ báo để hỗ
trợ nhau về phương diện nghề nghiệp”. Điều đó có thể coi là một nhu cầu tất yếu.
Sự liên kết này diễn ra trên cơ sở các tờ báo có chung một chủ sở hữu (ông trùm),
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hoặc thuộc về một liên minh báo chí nào đó (vương triều báo chí). Scripps cũng
chính là người đưa ra công thức để thành lập hệ thống báo chí:
- Người điều hành những tờ báo của dây chuyền phải là những người trẻ tuổi
và đứng tên đồng sở hữu (có chân trong liên minh báo chí), ở vai trò làm chủ bút,
hoặc chủ báo.
- Phối hợp hài hoà giữa hai hành vi sáp nhập (mua lại các tờ báo) và sáng
lập. Chỉ nên sáng lập và mua báo ở những thành phố hạng trung, để tránh tình trạng
cạnh tranh thua lỗ.
- Bán báo giá rẻ, phải trả tiền cho hệ thống phát hành. (Vào thời của Scripps,
báo có giá đồng loạt 1 xu.)
- Vận động cho những mục đích, những lợi ích chung của xã hội, đặc biệt là

tầng lớp người nghèo.
Đây chính là những điều căn bản mà các tập đoàn báo chí lớn trên thế giới
hiện nay vẫn thường ứng dụng trong chiến lược kinh doanh của mình. Hay nói cách
khác nó là những biểu hiện đầu tiên của quá trình tập trung hóa báo chí.
Những điều kiện tiền đề dẫn đến sự tập trung hóa báo chí có thể kể đến là:
• Những tiến bộ về khoa học kỹ thuật:
- Những tiến bộ khoa học kỹ thuật thời bấy giờ như: 1925: sự phát triển của
máy truyền ảnh (bélinographe) được sử dụng rộng rãi trong việc truyền ảnh đi xa.
Điện thoại xuất hiện trong những năm 1880 rồi cũng được sử dụng rộng rãi trước
đó làm thay đổi sâu sắc cung cách làm báo. In ty-pô vẫn là phương thức in phổ biến
của báo chí song lỹ thuật in hélio và ốp – xét tiến bộ rất nhanh. Hai kỹ thuật này
chủ yếu để in các tạp chí. Tiến bộ của hélio(in ảnh chìm) càng phân biệt rõ nhật báo
với những báo khác, nhất là kỹ thuật này cho phép in màu đẹp. Mỗi nhà in báo giờ
đây bao gồm những xưởng chuyên khắc ảnh, in ảnh; phần minh họa bằng tranh ảnh
tăng lên rất nhiều trên các trang báo. Sự chuyển biến này, đã khởi đầu từ hồi đầu
14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thế kỷ, làm biến đôi bộ mặt các báo, sự hấp dẫn của báo không còn chỉ ở phần
“đọc”.
- Thời kỳ này việc đòi hỏi ấn hành nhật báo hay báo chí định kỳ đòi hỏi
những phương tiện kỹ thuật và nguồn nhân lực lớn đến mức chỉ có những cơ sở báo
chí cỡ lớn mới đảm đương nổi. Từ những máy in quay đầu tiên cho đến máy in
linô, ngành in liên tục có những tiến bộ mới, tốc độ in báo rất nhanh mặc dù mỗi số
báo có số trang càng ngày càng tăng. Những vật tư đắt tiền và cồng kềnh đòi hỏi số
tiền đầu tư, cả động sản và bất động sản lớn.
• Những khó khăn về kinh tế:
- Sự tập trung hóa báo chí diễn ra còn do những cạnh tranh càng ngày càng
được đẩy nhanh qua các cuộc khủng hoảng kinh tế. Tiền sụt giá ở phần lớn các
nước buộc báo phải tăng giá bán, tự nhiên số người mua báo giảm đi và chỉ có
những cơ sở lớn, vững mạnh mới chống chọi lại được. Ví dụ: ở Nhật năm 1917 báo

bán 10xu, tăng lên 15 xu vào năm 1919, 20 xu năm 1920, 25 xu năm 1925, 30 xu
năm 1936, 40 xu năm 1937, 50 xu năm 1938 và 1 phrăng năm 1941. Mỗi lần tăng
giá là một lần sụt mạnh số phát hành; tương tự như vậy ở Paris (Pháp) số lượng các
đầu nhật báo giảm dần: giảm từ 40 xuống 32, vào năm 1920 báo ở các tỉnh là 220
tờ giảm xuống xuống 175 tờ vào năm 1939.
- Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1929 – 1930 có hậu quả tai hại đến báo chí,
làm giảm số lượng phát hành, giảm cả nguồn thu từ quảng cáo. Vật tư tăng giá,
việc nâng cao số lượng và chất lượng nội dung khiến giá thành in báo tăng lên,
lương trả cho nhà báo, phóng viên, nhân viên cũng tăng sức ép của công đoàn – mà
công nhân ngành báo chí là một tổ chức đặc biệt mạnh. Tất cả những sức ép đó dẫn
đến việc tập trung hóa để giải quyết những khó khăn này.
• Những cải cách có lợi từ chính trị:
- Từ năm 1871 đến 1879, báo chí vẫn bị các chính phủ đè nén dưới một quy
chế khá nặng nề. Ví dụ ở Pháp: trong cuộc khủng hoảng ngày 16/5/1877: chính phủ
15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Broglie tìm mọi cách có thể nhằm gây áp lực với cử tri và với những ứng cử viên
đối lập để mình được thắng cử. Các báo có xu hướng cộng hòa phải hứng chịu rất
nhiều biện pháp có khi rất độc đoán, chỉ trong vài tuần có tới hơn 2.000 vụ báo chí
ra tòa. Song kế hoạch đó bị thất bại, và đây là lần cuối cùng báo chí bị chèn ép.
- Sau đó mối quan hệ giữa chính phủ và báo chí dần dần được cải thiện. Phía
chính phủ cho rằng báo chí với sự cạnh tranh lẫn nhau, chia rẽ nhau, chỉ tác động
một cách mơ hồ vào dư luận, khả năng kích động những phong trào lớn như những
cuộc biểu tình cách mạng sẽ không cao. Sự thừa nhận tự do báo chí và sự bãi bỏ
những hạn chế về tính độc quyền góp phần thúc đẩy nhanh chóng quá trình tập
trung hóa. Trong thập kỷ cuối của thế kỷ XX các đạo luật chống độc quyền trong
lĩnh vực các phương tiện thông tin đại chúng đã mang tính chất tự do hóa đáng kể.
Những cải cách này diễn ra ở nhiều nước mà đầu tiên là ở Mỹ. Ví dụ, chính phủ
Mỹ đã hủy bỏ lệnh cấm các công ty cung cấp dịch vụ điện thoại không được phép
thành lập các trường quay của đài truyền hình cáp. Ở nhiều nước không còn hạn

chế về số lượng đài truyền hình thuộc quyền sở hữu của một cá nhân hoặc một
pháp nhân. Đã hủy bỏ những hạn chế đối với việc sở hữu cùng lúc các đài phát
sóng và các kênh truyền dẫn bằng cáp( Nếu như trước kia luật quy định một chủ
nhân không thể có nhiều hơn 50% số đài phát dành cho một t ầng lớp xã hội. một
chủ nhân mạng lưới truyền hình không thể phục vụ hơn 35% số khán giả trên cùng
một địa bàn ấy và chỉ có quyền sở hữu một đài phát(có thể tối đa là hai ở một số
nước) cho một tầng lớp xã hội). Đã có sự cho phép các đài phát thanh trên sóng cực
ngắn phát lại các chương trình phát sóng trên các đài phát thanh sóng trung.…. Nói
một cách khác, pháp luật đã ủng hộ, đồng tính, mở đường cho tập trung hóa phát
triển nhanh, mạnh tất yếu dẫn đến dự hình thành các tập đoàn báo chí hùng mạnh ở
các nước TBCN.
Tất cả những nguyên nhân trên chính là những tiền đề quan trọng để dẫn đến
sự tập trung hóa báo chí và sự hình thành nên các tập đoàn báo chí.
16
Website: Email : Tel : 0918.775.368
4. Những biểu hiện của tập trung hóa báo chí
- Quá trình giản bớt số lượng của những tờ báo độc lập:
+ Cả hai xu hướng phát triển theo chiều dọc và liên kết, bành trướng theo
chiều ngang của các tập đoàn báo chí đều dẫn tới một kết cục chung là tình trạng
tập trung, độc quyền ngày càng tăng. Nếu như vào năm 1892, “chuỗi mắt xích” đầu
tiên ra đời ở Mỹ với sự góp mặt của 5 tờ báo, thì ngày nay, 50 tập đoàn lớn đang
kiểm soát hầu hết các phương tiện truyền thông đại chúng của nước Mỹ. Theo một
nghiên cứu của tờ The Washington Post, trong những năm tới, chắc chắn toàn bộ
báo chí Mỹ sẽ tập trung trong 12 tập đoàn lớn nhất. Ở các nước châu Âu, tình trạng
cũng diễn ra tương tự. Nhiều tờ báo nhỏ hoặc là đóng cửa, hoặc là trở thành bộ
phận của các công ty lớn. Nhiều tờ báo nổi tiếng cũng không thể tồn tại độc lập mà
đã phải bán lại cho các tập đoàn xuyên quốc gia.
+ Năm 1999, ở Mỹ trong tổng số 1489 tờ báo hằng ngày thì chỉ có 269 tờ
nghĩa là 18% là những tờ báo độc lập còn lại thì đều thuộc quyền ở hữu của các tập
đoàn báo chí. Tổng số các tờ báo hàng ngày cũng tiếp tục giảm. Năm 1998 đã có 20

tờ báo hằng ngày đóng cửa, tính đến tháng 2/1999 chỉ còn 1489 tờ báo. Trong 10
năm trở lại đây đã có 153 tờ báo hằng ngày chấm dứt tồn tại.Một trong những
nguyên nhân dẫn đến việc này cũng phải kể đến sự thâu tóm của các tập đoàn báo
chí đối với các tờ báo độc lập.
- Sự ra đời của hàng loạt các tập đoàn báo chí lớn:
Tỉ lệ tài chính trong những phương tiện truyền thông đại chúng chính
Lượng tiền mặt khổng lồ cho
các hoạt động sáp nhập và
thôn tính gần đây
Giá của thị trường chứng
khoán với tư cách là lượng
tiền mặt tăng lên
Báo in 9.5 lên 14 7.9
Truyền hình 10.6 lên16.1 7 - 8
Hệ thống điện tín 9.4 lên 11.1 8.5
17
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Nguồn: Levingston, Steven and Terence O’Hara. “M cClatchy’s Paper
Chase: Family Owned Chain to by Knight, Plans to Sell off 12 Dailies.”
Washington Post, 14 March 2006, p. D1.
Bảng trên thể hiện rõ những số liệu tài chính được trích dẫn theo nguồn của
các tập đoàn báo chí thời gian gần đây mà hình thành trên con đường thôn tính,
mua lại, sáp nhập. Có thể nhận thấy trong cả lĩnh vực báo in và truyền hình thì các
công ty càng ngày càng có xu hướng thích “trở nên to ra” nếu như việc đó đem lại
lời ích thiết thực cho họ.(trích lời của Levingston, Steven and Terence O’Hara
trong “M cClatchy’s Paper Chase: Family Owned Chain to by Knight, Plans to
Sell off 12 Dailies.”)
+ Trong xu hướng tích tụ và tập trung tư bản ngày nay, các công ty báo chí
truyền thông ngày càng bành trướng mạnh mẽ bằng cách mua lại, sáp nhập, thôn
tính các công ty nhỏ hơn không đủ sức cạnh tranh để thành lập nên các tập đoàn

báo chí. Với việc bỏ ra hàng tỷ đô la, các ông chủ này đã đẩy nhanh những sự tập
hợp mới trong lĩnh vực báo chí, truyền thông đại chúng, tạo ra quy mô hoạt động,
sức mạnh ảnh hưởng vượt ra ngoài biên giới quốc gia, phạm vi khu vực. Điều này
dẫn đến sự ra đời của hàng loạt các tập đoàn báo chí lớn trên toàn thế giới đặc biệt
là ở các nước TBCN phát triển. Theo số liệu của Công ty nghiên cứu thị trường
Dialogic, trong 5 tháng đầu năm 2007, trên toàn thế giới đã ghi nhận 372 bản hợp
đồng sáp nhập, mua lại giữa các công ty, tập đoàn báo chí truyền thông với tổng giá
trị lên đến 93,8 tỷ USD. Đáng chú ý nhất là hợp đồng sáp nhập giữa Google và
Double Click, trị giá 3,1 tỷ USD hồi tháng 4-2007, hợp đồng sáp nhập giữa Yahoo
với Right Media trị giá 680 triệu USD.
+ Thế giới đang chứng kiến sự tập trung cuồng nhiệt các phương tiện truyền
thông. Từ nhiều năm nay, trong thế giới phương Tây, những ông trùm tư bản ngự
trị trong ngành truyền hình, báo chí và điện ảnh như Ruppert Murdoch, Chủ tịch
kiêm Tổng giám đốc News Corp; Gerald Levin, Chủ tịch Hãng American Online
18
Website: Email : Tel : 0918.775.368
(AOL) Time Warner; Thomas Middelhoff, đứng đầu Tập đoàn Bertelsmann; hay
Jean - Marie Messier, Chủ tịch Vivendi Universal, đã và đang tiến hành cái gọi là
“cuộc chạy đua bành trướng khổng lồ” bằng cách mua lại, sáp nhập, thôn tính các
công ty nhỏ hơn không đủ sức cạnh tranh. Bỏ ra hàng tỷ Đôla Mỹ, các ông chủ này,
phần lớn là người Mỹ, đã đẩy nhanh những sự tập hợp mới trong những ngành
chiến lược và do vậy, đã tương đồng hoá trên toàn hành tinh việc xuất bản âm nhạc,
các chương trình truyền hình và cả những bộ phim truyện dài trực tiếp xuất xưởng
từ Hollywood. Quyền lực chi phối của các tập đoàn này gần như mọi mặt của đời
sống văn hoá.
Ví dụ như: Công ty Điện lực General Electric năm 1986 đã mua mạng truyền
hình Mỹ NBC; Công ty Viễn thông khổng lồ Mỹ AT&T năm 1999 đã nắm quyền
kiểm soát hệ thống truyền hình “cáp” TCI, rồi đến năm 2004 là mạng Mediaone.
Từ năm 1995, Tập đoàn Viacom đã thôn tính Công ty Điện ảnh Paramount, và
Hãng Truyền hình CBS; Walt Disney đã mua các hãng TV, ABC, Tập đoàn Time

Warner đã hợp nhất với Turner Broadcasting; Tập đoàn Bertelsman và Audiofina
đã thành lập Tập đoàn CLT-UFA. Năm 2000, Tập đoàn AOL tuyên bố hợp nhất
với Time Warner. Còn Vivendi và Canal Plus, một tập đoàn tư bản Pháp đã hợp
nhất với Seagram, trở thành Mỹ hoá và là tập đoàn truyền thông lớn thứ hai thế
giới. Rupert Murdoch đã len chân vào ngành Truyền hình phải trả tiền theo yêu cầu
tại Italia và Đức.
Năm 2004, tính theo doanh số, trên thế giới có 7 tập đoàn truyền thông lớn
được xếp hạng như sau: AOL Time Warner: 38 tỷ USD; Vivendi Universal: 27 tỷ
USD; News Corporation: 25,5 tỷ USD; Walt Disney: 25 tỷ USD (Bao gồm hãng
ABC Network, Disney Channel, Walt Disney Pictures, Infoseck...) Viacom: 23 tỷ
USD; Comcast: 19 tỷ USD (Bao gồm CBS, MTV, Paramount....)
- Sự tập trung quyền lực báo chí vào tay một số ít nhân vật:
19
Website: Email : Tel : 0918.775.368
+ Quá trình tiến công vào các phương tiện thông tin đại chúng đã dẫn đến sự
tập trung tất cả các mạng lưới báo chí vào tay một số ít nhân vật. Theo tính toán
của các chuyên gia Mỹ thì có 50 tập đoàn lớn đang kiểm soát hầu hết các phương
tiện thông tin đại chúng ở Mỹ: 20 tập đoàn trong số đó nắm một nửa tổng số các tờ
báo trên cả nước, 4 tập đoàn kiểm soát ngành truyền hình, 10 tập đoàn kiểm soát
ngành phát thanh, 12 tập đoàn thống trị ngành xuất bản sách, 4 tập đoàn ngự trị
trong ngành điện ảnh. Đầu những năm 1980 nếu như tất cả các thành phố Mỹ đều
có những tờ báo ngày thì 98% trong số đó đặt dưới quyền kiểm soát của một trung
tâm. Trong tổng số 1700 tờ báo hằng ngày ở Mỹ có hơn 1000 báo thuộc sở hữu của
các tập đoàn báo chí.
+ Khi thâu tóm hoặc sáp nhập các tờ báo khác vào tập đoàn của mình,
thường thì tính chất, định hướng, sắc thái cũng thay đổi theo tùy thuộc vào quan
điểm, chính kiến của chủ sở hữu chúng. Ví dụ tiêu biểu là dưới đế chế báo chí của
Rupert Murdoch, sau khi ông mua lại các tờ báo như New York Post, Chicago, The
Sunday Times… thì ngay sau đó đã có những thay đổi chính sách của bạn biên tập
cũng như nội dung của tờ báo. Chính vì vậy, khi Rupert Murdoch quyết định mua

lại tờ nhật báo phố Wall thì một trong những Giám đốc của hãng, ông Dieter von
Holtzbrinck đã từ chức để phản đối vì lo lắng ảnh hưởng của thoả thuận đến sự độc
lập trong biên tập của tờ nhật báo phố Wall.Tờ nhật báo phố Wall được biết đến
với các bài tường thuật và bình luận có giá trị. Tuy News Corp đã hứa sẽ tôn trọng
và bảo vệ vị trí của tờ báo nhưng News Corp và Dow Jones đã thỏa thuận thành lập
một ủy ban đặc biệt gồm 5 người sẽ quyết định việc tuyển dụng hoặc sa thải Tổng
biên tập tờ nhật báo phố Wall, các biên tập viên và Tổng biên tập tờ Dow Jones
Newswires. Ủy ban này sẽ là một phần của những thỏa thuận sau cùng và được
quyết định dựa trên ý kiến thống nhất của cả hai phía News Corp và Dow Jones
trong thời gian sắp tới.
20
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Sự thống trị của các tập đoàn này đến thị trường báo chí trong nước và
quốc tế:
+ Hoạt động xuất bản các tờ báo và các tạp chí lớn nhất ở một số nước có
nền báo chí phát triển cao đều tập trung vào tay các tập đoàn báo chí lớn(các
côngxoocxiom xuất bản, các tờ - rớt báo chí…). Ví dụ: tập đoàn báo chí “Ganet”:
năm 1966 tập đoàn này sở hữu 26 tờ báo hàng ngày và 6 tờ báo chủ nhật. Trong
những năm 1980, nó có ảnh hưởng đối với 88 tờ báo hằng ngày và 23 tờ tuần báo,
13 đài phát thanh và 17 đài truyền hình. Chỉ riêng việc thôn tính “Evening News
Association” đã cho phép tập đoàn này mua lại hàng chục tờ báo, 2 đài phát thanh
và 5 đài truyền hình. Ngoài ra tập đoàn này còn có cổ phần trong một loạt công ty
điện ảnh, các tổ chức thăm dò công luận, các mạng lưới truyền hình, bao gồm cả
truyền hình cáp và truyền hình vệ tinh ở 35 nước. Cũng tương tự như vậy, tập đoàn
“Capital city communication” trước đây đã từng sở hữu 40 ấn phẩm định kỳ, 12 đài
phát thanh và 7 đài truyền hình, thì đến nay đã mua lại dãng truyền hình “BBC”.
Điều này đã đem lại cho tập đoàn này thêm 12 đài phát thanh và 5 đài truyền hình
cộng với hệ thống cung cấp các chương trình của mình cho 1596 đài phát thanh và
21
Tính đến năm 2004, ở Mỹ chỉ còn 5 tập đoàn truyền thông chi phối hệ thống

truyền thông Mỹ
Website: Email : Tel : 0918.775.368
214 đài truyền hình nữa. Qua các con số trên ta có thể phần nào hiểu được bàn tay
của các tập đoàn đã bao phủ gần như toàn bộ nền báo chí của một nước và bắt đầu
vươn ra các nước khác, các châu lục khác. Sự thịnh vượng của đế chế báo chí
Rupert Murdoch cũng là một bằng chứng rõ nét cho sự thống trị của các tập đoàn
báo chí đến với nền truyền thông.
+ Những tập đoàn báo chí lớn thường xuyên bắt tay với những tổ chức ngân
hàng độc quyền quốc gia hoặc xuyên quốc gia. Chính sự bắt tay, xâm nhập lẫn
nhau về quyền lợi giữa giới tư bản công nghiệp và các phương tiện thông tin đại
chúng đã đem lại những khoản lợi nhuận chưa từng thấy trước đây. Một nghiên cứu
của giáo sư Piter Phillips, trường Đại học Sonoma cho thấy 118 người là thành viên
hội đồng quản trị của 10 tập đoàn báo chí lớn nhất nước Mỹ cũng đồng thời có mặt
ở hội đồng quản trị của 288 tập đoàn kinh tế khác. Trong khi các tập đoàn The
tribune, New York Times và Gannett đều có thành viên ở hội đồng quản trị của tập
đoàn Pepsi, thì Coca Cola và J.P. Morgan lại có đại diện chia xẻ ghế hội đồng quản
trị của cả NBC và Washington Post. Thực tế này cho thấy sự liên kết rất chặt chẽ
giữa các tập đoàn báo chí với các tập đoàn kinh tế. Điều này khiến cho các trùm
truyền thông này dễ dàng mua lại lại sáp nhập với các công ty hoặc các tờ báo mà
họ muốn qua việc sử dụng những mối quan hệ chính trị cũng như thương mại của
mình trong việc đạt được những ấn phẩm, hay công ty mà họ muốn có.
22
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG II
TẬP ĐOÀN BÁO CHÍ
1. Khái niệm về tập đoàn báo chí
Đối với báo chí thế giới, các thuật ngữ như ngành báo chí newspaper
industry, ngành truyền thông media industry và kinh tế báo chí media economics
từ lâu đã trở thành quen thuộc. Đó là vì tiến trình lịch sử của báo chí thế giới đến
khoảng giữa thế kỉ 19 đã có một bước ngoặt lớn, những người làm báo bắt đầu chú

ý đến mục tiêu kinh tế trong hoạt động báo chí và biết cách tổ chức điều hành hoạt
động báo chí (Mặc dù vậy, ở thời buổi quảng cáo chưa phát triển, phương cách hữu
hiệu để đạt được mục tiêu kinh tế mới chỉ là cải tiến nội dung để tăng doanh số
phát hành.)
23
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Có thể thấy rõ bước ngoặt nêu trên khi nghiên cứu nền báo chí Mĩ – một
trong những nền báo chí mạnh nhất thế giới, đặc biệt là ở giai đoạn sau cuộc nội
chiến 1865 – 1867.
Thật vậy, đứng trên quan điểm lịch sử, chúng tôi nhận thấy thực trạng báo
chí ngày nay ở một số quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam, có nhiều
điểm tương đồng với thực trạng báo chí nước Mĩ hơn 100 năm về trước, nổi bật là
khuynh hướng báo chí làm kinh tế.
Bối cảnh đó cho phép chúng tôi nhận diện cái nôi hình thành các tập đoàn
báo chí – truyền thông ở Mĩ (nơi xuất phát của các tập đoàn truyền thông lớn nhất
thế giới hiện nay) thông qua ba hiện tượng: sự ra đời của nghề làm báo mới new
journalism (phân biệt với thuật ngữ new media trong thời đại Internet), sự giàu có
của nghề làm báo vàng yellow journalism, và sự hình thành các hệ thống báo dây
chuyền newspapers chains.
Nghề làm báo mới ở Mĩ ra đời đưa đến sự phát triển rầm rộ của báo chí Mĩ.
Vào thời kì đó, báo chí trở thành “những công ty hùng mạnh, giàu có, tự đảm bảo
được về phương diện kinh tế và nhờ đó, phát huy tốt hoạt động làm báo”. Đến cuối
thế kỉ 19, báo chí Mĩ đã trở thành một nền kinh doanh lớn, có tính độc lập tương
đối trong đời sống xã hội. Những nhận định trên cho thấy xuất phát điểm của các
tập đoàn báo chí truyền thông phải là những công ty hùng mạnh, tự chủ được về tài
chính.
Nghề làm báo vàng đánh dấu sự xuất hiện của những “Citizen Kane” trong
làng báo thế giới, những con người biết cách đem lại sự hùng mạnh cho các tờ báo
trên phương diện làm kinh tế. Báo chí Mĩ thời kì này đã “mấp mé”, “manh nha”
hoạt động theo mô hình tập đoàn. Bằng những tờ báo mạnh, W.Randolph Hearst –

ông vua của nghề làm báo vàng, đã “thật sự thành công, đem lại gia tài đồ sộ”.
Hearst không “dừng lại ở lĩnh vực làm báo, ông ta còn chuyển sang lĩnh vực xuất
bản, lĩnh vực tạp chí và ở bất kì lĩnh vực nào cũng thành công”, đặc biệt là với các
24
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tờ hướng đến nhóm đối tượng riêng biệt như Beautiful House (Nhà Đẹp), Good
House Keeping (Nội Trợ Giỏi), … Những nhận định trên cho thấy hướng phát triển
của các “công ty hùng mạnh” chính là từ việc gia tăng số lượng các ấn phẩm làm
ăn hiệu quả, đồng thời mở rộng kinh doanh sang các lĩnh vực có liên quan đến báo
chí.
Bước sang thế kỉ 20, một bước tiến gần hơn với mô hình tập đoàn báo chí, đó
chính là hiện tượng báo dây chuyền, nổi bật với tên tuổi của hai nhân vật
E.W.Scripps và Hearst. Hiện tượng báo dây chuyền ra đời nhằm “khai thác mối
liên kết, mối quan hệ giữa nhiều tờ báo để hỗ trợ nhau về phương diện nghề
nghiệp”. Điều đó có thể coi là một nhu cầu tất yếu. Sự liên kết này diễn ra trên cơ
sở các tờ báo có chung một chủ sở hữu (ông trùm), hoặc thuộc về một liên minh
báo chí nào đó (vương triều báo chí). Scripps cũng chính là người đưa ra công thức
để thành lập hệ thống báo chí:
- Người điều hành những tờ báo của dây chuyền phải là những người trẻ tuổi
và đứng tên đồng sở hữu (có chân trong liên minh báo chí), ở vai trò làm chủ bút,
hoặc chủ báo.
- Phối hợp hài hoà giữa hai hành vi sáp nhập (mua lại các tờ báo) và sáng
lập. Chỉ nên sáng lập và mua báo ở những thành phố hạng trung, để tránh tình trạng
cạnh tranh thua lỗ.
- Bán báo giá rẻ, phải trả tiền cho hệ thống phát hành. (Vào thời của Scripps,
báo có giá đồng loạt 1 xu.)
- Vận động cho những mục đích, những lợi ích chung của xã hội, đặc biệt là
tầng lớp người nghèo.
Đây chính là những điều căn bản mà các tập đoàn báo chí lớn trên thế giới
hiện nay vẫn thường ứng dụng trong chiến lược kinh doanh của mình.

Giả thuyết “ba hiện tượng” được kiểm nghiệm qua lịch sử (tự soạn thảo và
đăng tải trên Internet) của một số tập đoàn báo chí lớn trên thế giới. Cho đến nay,
25

×