Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

dự báo lạm phát ,lãi suất , tỷ giá năm 2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.95 KB, 18 trang )

Tài chính quốc tế

CH20S

MỤC LỤC

MỤC LỤC.....................................................................................................................................................1
LỜI NÓI ĐẦU................................................................................................................................................2
I. Chính sách lạm phát, lãi suất, tỷ giá năm 2011.........................................................................................2
1.Chính sách lạm phát..............................................................................................................................3
2.Chính sách lãi suất................................................................................................................................5
3.Chính sách tỷ giá.................................................................................................................................10
II. Dự báo lạm phát, lãi suất, tỷ giá năm 2012............................................................................................15
1.Lạm phát.............................................................................................................................................15
2.Lãi suất................................................................................................................................................16
3.Tỷ giá...................................................................................................................................................16
KẾT LUẬN...................................................................................................................................................18

Mai Thị Huyền Trang

1


Tài chính quốc tế

CH20S

LỜI NÓI ĐẦU

Năm 2011 được xem là một năm đầy khó khăn cả trên phương diện kinh tế vĩ mô và góc
độ vi mô ngành, doanh nghiệp. Trong những tháng đầu năm, nền kinh tế phải đối mặt với


tình trạng lạm phát leo thang, thâm hụt thương mại gia tăng, thị trường ngoại tệ biến
động mạnh, thanh khoản ngân hàng gặp khó khăn và mặt bằng lãi suất tăng cao. Trước
tình hình đó, Chính phủ ban hành Nghị quyết 11 với những giải pháp quyết liệt kết hợp
cả chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ tập trung ổn định kinh tế vĩ mô. Chính sách
ưu tiên chống lạm phát, ổn định vĩ mô trong khuôn khổ của một chiến lược dài hạn, một
sự chuẩn bị cần thiết cho quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ phát triển theo
chiều rộng, phân bổ nguồn lực chưa hợp lý sang ưu tiên mục tiêu hiệu quả. Chính sách
tiền tệ thắt chặt cũng vào cuộc mạnh mẽ nhất quán với mục tiêu kiềm chế lạm phát và
không đặt nặng mục tiêu tăng trưởng: Hạn chế tăng trưởng tín dụng dưới 20%, hạn chế
tăng trưởng tín dụng phi sản xuất cuối năm ở mức 16%, tăng các lãi suất chủ chốt, kiểm
soát chặt chẽ các hệ số an toàn ngân hàng (Nghị quyết 11/NĐ-CP). Tuy nhiên, ổn định vĩ
mô là một lộ trình dài và sự khởi đầu có lẽ không tránh khỏi những khó khăn, bất cập.
Cái giá phải trả trong ngắn hạn đang được bộc lộ rõ bởi những rủi ro vĩ mô thường trực
áp lực lạm phát lớn, lãi suất và diễn biến thị trường tiền tệ vẫn còn diễn biến bất thường,
thanh khoản ngân hàng suy giảm, doanh nghiệp khó khăn, sự vận động của hầu hết các
thành phần kinh tế bị tác động không thuận chiều. Ba cụm từ được nhắc đến nhiều nhất là
lạm phát, lãi suất và tỷ giá với những diễn biến bất thường và gây sốc.

I. Chính sách lạm phát, lãi suất, tỷ giá năm 2011

Mai Thị Huyền Trang

2


Tài chính quốc tế

CH20S

1. Chính sách lạm phát

Lạm phát được xem là biến số vĩ mô được giới đầu tư đặc biệt quan tâm bởi những diễn
biến phức tạp của nó trong năm 2011 Lạm phát cao đã ảnh hưởng tiêu cực đến nhiều lĩnh
vực khác nhau trong nền kinh tế, không chỉ các doanh nghiệp sản xuất phải chịu lãi suất
cao, người tiêu dùng cảm thấy túi tiền bị co hẹp trước tốc độ tăng giá chóng mặt, lạm
phát cao còn ảnh hưởng tới sự ổn định của môi trường kinh tế và do đó ảnh hưởng tới
dòng vốn đầu tư cả trong nước và nước ngoài.
Trong năm 2011, mục tiêu kiểm soát CPI tăng dưới 7% của Chính phủ ngay từ đầu năm
đã có nguy cơ khó thực hiện khi chỉ sau quý 1 mức tăng đã là 6,12% trong đó Chỉ số giá
tiêu dùng (CPI) các tháng 1, 2 và 3 có mức tăng phần trăm theo tháng lần lượt là 1,74%
2,09% và 2,17%. Sở dĩ quý I, lạm phát tăng cao như vậy là do ảnh hưởng từ những tháng
cuối năm 2010 chi đầu tư ngân sách và mức tăng trưởng tín dụng cao làm lượng tiền lưu
thông lớn gây áp lực lạm phát lên đầu năm 2011. Ngày 11/2, NHNN quyết định điều
chỉnh giảm giá đồng Việt Nam thêm 9,3% đã làm tăng giá nguyên, nhiên vật liệu nhập
khẩu trong điều kiện nước ta còn phụ thuộc quá nhiều vào nhập khẩu nguyên nhiên vật
liệu từ nước ngoài để sản xuất hàng xuất khẩu và tiêu dùng trong nước. Việc tăng giá các
mặt hàng đầu vào cơ bản cũng là một trong những nguyên nhân gây lạm phát cao trong
quý 1: giá xăng A92 đã tăng 2900 đồng tương đương 17,68%, các loại xăng dầu khác
cũng tăng mạnh từ 17%-24% ngày 24/2, từ ngày 01/03/2011, giá điện đã được điều chỉnh
tăng 15,28%, tăng lên 1.220 đồng/kWh từ mức 1.058 đồng/kWh. Việc tăng giá xăng dầu,
giá điện vào cuối tháng 2 đầu tháng 3 đã tác động trực tiếp tới nhóm điện nước, chất đốt
và nhóm giao thông. Có thể thấy mức tăng đột biến của 2 nhóm này trong tháng 3.
Không những thế, giá xăng điện tăng còn tác động tới chi phí đầu vào của nhiều loại
hàng hóa dịch vụ khác trong nền kinh tế. Thêm vào đó là ảnh hưởng của Tết Âm lịch (từ
khoảng cuối tháng 1 đến đầu tháng 2). Theo đặc tính chu kỳ giá cả lương thực thực phẩm
và dịch vụ ăn uống nói riêng cũng như các mặt hàng khác nói chung sẽ tăng cao trước và
sau đợt nghỉ Tết do nhu cầu ăn uống và mua sắm của người dân đều tăng cùng yếu tố tâm
lý (cả người tiêu dùng và người bán lẻ) từ việc nhà nước điều chỉnh tăng tiền lương tối
thiểu cho khu vực doanh nghiệp nhà nước và khu vực hành chính sự nghiệp từ 1/1. Với
trọng số xấp xỉ 40% giỏ hàng tính CPI, giá lương thực, thực phẩm tăng cao đã tác động
rất lớn tới toàn bộ chỉ số CPI của quý I .Tháng 4 là tháng có tỷ lệ tăng CPI lớn nhất trong

cả năm với mức tăng 3,32% do tác động của một loạt chính sách tăng giá từ tháng 2,
tháng 3 và việc tăng giá xăng dầu thêm 10,36% vào cuối tháng 3.
Trước mức gia tăng lạm phát lớn như vậy, NHNN đã phải sử dụng chính sách tiền tệ thắt
chặt một cách mạnh mẽ (nghị định 11) để kiềm chế lạm phát trong năm 2011 bao gồm

Mai Thị Huyền Trang

3


Tài chính quốc tế

CH20S

các biện pháp: tăng lãi suất tái cấp vốn và chiết khấu lên mức 12%, hạn chế tăng trưởng
tín dụng năm 2011 dưới 20%, tăng trưởng cung tiền M2 duy trì mức 15-16%, giảm đầu
tư công 10%, áp dụng các biện pháp nhằm xóa bỏ tình trạng hai tỷ giá cũng như xóa bỏ
việc giao dịch vàng miếng trên thị trường .
Với những biện pháp mạnh mẽ của chính phủ, lạm phát vẫn tiếp tục tăng nhưng với tốc
độ chậm lại và duy trì trong 2 tháng liên tiếp. Sau khi tăng 2,21% trong tháng 5, chỉ số
CPI của cả nước trong tháng 6 đã tăng chậm lại, chỉ còn 1,09%. Tuy vậy, lạm phát tính
theo năm vào thời điểm cuối tháng 6 đã lên mức rất cao, đạt 20,82% và lạm phát tích lũy
6 tháng đầu năm (so với thời điểm cuối năm 2010) cũng đã lên ngưỡng 13,29%. Trong
tháng 6, nhìn chung không có thêm yếu tố đột biến nào tác động quá lớn đến giá cả tiêu
dùng khi giá điện vẫn được giữ nguyên sau ngày 1/6; giá xăng không thay đổi, thậm chí
còn có lúc được kỳ vọng giảm khi giá dầu thế giới trải qua một đợt điều chỉnh khá sâu
(khoảng 10%; từ mức 100 USD/thùng về sát 90-91 USD/thùng). Tuy vậy, sự bất thường
về thời tiết cũng như mất cân đối tại một số mặt hàng thực phẩm (đặc biệt là thịt lợn) vẫn
khiến nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng tới 1,79% và là tác nhân chủ yếu kéo lạm
phát tăng trong tháng 6; 10 nhóm hàng hóa còn lại đều có mức tăng dưới 1%; cá biệt

nhóm hàng bưu chính viễn thông còn giảm nhẹ (0,01%) so với tháng 5.
Sau khi cân nhắc tới tình hình giá cả các mặt hàng trong 6 tháng đầu năm, Chính phủ đã
nới mục tiêu kiểm soát lạm phát cho cả năm 2011 lên mức 17%. Sau khi lạm phát hình
thành xu thế giảm tốc trong 2 tháng cuối quý 2, xu thế này bị bẻ gãy trong tháng 7.
Nhưng nếu so với mức tăng mạnh 3,32% của CPI tháng 4, chỉ số giá tiêu dùng đã giảm
tốc. Lạm phát trong 3 tháng của quý 3 tiếp đà giảm tốc từ tháng 5 và tháng 6 sau những
nỗ lực ổn định hóa quyết liệt của Chính phủ. Tuy nhiên, do sự thiếu hụt nguồn cung thực
phẩm tạm thời trong tháng 7 và tháng 8, cùng ảnh hưởng của yếu tố thời vụ tựu trường
trong tháng 9 nên tốc độ tăng của chỉ số giá tiêu dùng (CPI) hàng tháng trong quý vẫn ở
mức cao. Tính đến hết tháng 9, CPI đã tăng 22,42% so với cùng kỳ năm trước, và đã lên
tới 16,63% so với cuối năm 2010.
Sang quý 4, Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) theo tháng hạ nhiệt nhanh nhưng lạm phát vẫn
cao. Diễn biến lạm phát vẫn còn ẩn chứa nhiều rủi ro. Sau khi chính thức đạt đỉnh vào
8/2011, lạm phát đã có trong xu thế hạ nhiệt. Mức tăng CPI tháng 10/2011 giảm mạnh từ
mức tăng 0.82% của tháng 9/2011 xuống còn 0.36%. Đây là tháng thứ ba liên tiếp mức
tăng chỉ số CPI dưới 1%. Nguyên nhân khiến chỉ số giá CPI tháng 10 sụt giảm là do mặt
hàng thực phẩm chỉ tăng nhẹ 0.06%. Trong khi đó, giá của ba ngành vật liệu xây dựng,
viễn thông và vận tải sụt giảm so với tháng trước khiến chỉ số CPI giảm mạnh. Trong
tháng 11/2011, CPI tăng nhẹ từ mức 0,36% của tháng 10 lên 0,39% và vẫn duy trì ở mức

Mai Thị Huyền Trang

4


Tài chính quốc tế

CH20S

thấp dưới 1% trong 4 tháng liên tiếp. Như vậy, lạm phát theo năm tính đến tháng 11 tiến

về mức 18%, khi tăng 19,83% so với cùng năm 2010 và tăng 17,5% so với đầu năm. CPI
tháng 12 tăng 0,53%, cao hơn hai tháng trước đó chủ yếu do yếu tố mùa vụ khi giá cả
hàng hóa có xu hướng tăng vào cuối năm. Đóng góp nhiều nhất vào đà tăng CPI tháng 12
là nhóm lương thực, thực phẩm, chiếm 52% tổng mức tăng CPI của tháng này. Tuy
nhiên, điểm tích cực là tháng 12 vẫn là tháng thứ tư có mức tăng CPI dưới 1%.
Lạm phát giảm tốc nhanh sau khi đạt đỉnh vào tháng 8/2011 chủ yếu do sự dồn ép của
chính sách thắt chặt tiền tệ kéo dài từ cuối năm 2010. Lượng tiền cung ứng được điều
hành chặt chẽ từ đầu năm, qua đó kiểm soát tăng trưởng tín dụng và tổng phương tiện
thanh toán ở mức thấp. Cả năm 2011, tổng phương tiện thanh toán tăng khoảng 10%, tín
dụng tăng khoảng 12%, góp phần đưa lạm phát tăng chậm lại đồng thời góp phần giảm
mạnh nhập siêu, cải thiện đáng kể cán cân thanh toán quốc tế.
2. Chính sách lãi suất
Như đã trình bày ở trên, năm 2011 là một năm khó khăn với nền kinh tế Việt Nam. Lạm
phát ở mức cao buộc chính phủ phải thực hiện thắt chặt tiền tệ để kiềm chế lạm phát, ổn
định vĩ mô. Một trong nhữngcông cụ của chính sách tiền tệ đó chính là lãi suất. Để thực
hiện được mục tiêu của chính sách tiền tệ, ngay ngày 17/2, NHNN đã ban hành Quyết
định số 271/QĐ-NHNN, nâng lãi suất tái cấp vốn và một số lãi suất chủ chốt khác lên
11% cùng với việc quy định trần lãi suất huy động 14% theo chỉ thị 02/CT-NHNN. Ngày
9/3, NHNN đã quyết định tăng lãi suất chiết khấu lên 12%. Việc tăng lãi suất tái chiết
khấu lên mức 12% đã hạn chế cơ chế nguồn vốn giá rẻ, một lợi thế riêng với các ngân
hàng lớn có nguồn Trái phiếu Chính phủ (TPCP) khi các ngân hàng này có thể mua
TPCP và mang cầm cố tại NHNN và chỉ phải chịu mức lãi suất chiết khấu thấp. Rõ ràng,
một lượng tiền lớn cung ứng ra từ NHNN được sử dụng để mua TPCP thay vì tăng nguồn
tín dụng cho doanh nghiệp. Do vậy với việc để lãi suất chiết khấu thấp, NHNN có thể đã
tạo sự ưu ái đặc biệt đối với nguồn vốn cho các dự án đầu tư công của chính phủ, lấn át
đầu tư của doanh nghiệp. Khi đã có sự ưu ái này, các NHTM lớn còn có thể tận dụng
TPCP cầm cố tại NHNN và dùng nguốn vốn này để cho vay trên thị trường liên ngân
hàng. Trong khi đó, các NHTM nhỏ, nắm giữ ít trái phiếu chính phủ muốn cải thiện tình
trạng thanh khoản phải thu hút tiền gửi dân cư bằng việc tăng lãi suất tiết kiệm, lãi suất
cho vay vì thế cũng bị đẩy lên, mặt bằng lãi suất cao dần một phẩn không nhỏ do sự tồn

tại của cơ chế vốn đầu vào giá rẻ. Vì thế, cung tiền tăng mà doanh nghiệp không tiếp cận
được vốn ngân hàng. Với lãi suất tái chiết khấu tăng lên mức 12% kết hợp với lãi suất thị
trường mở 12%, kênh tái chiết khấu giá rẻ hay sự ưu ái nguồn vốn đầu vào đã chính thức
được NHNN đóng lại. Cơ hội tìm kiếm và thu hút khách hàng để huy động vốn và cho

Mai Thị Huyền Trang

5


Tài chính quốc tế

CH20S

vay được chia đều giữa các NHTM lớn và NHTM nhỏ, cơ hội để tiếp cận vốn ngân hàng
của các doanh nghiệp cũng kỳ vọng sẽ được mở rộng hơn, theo đó lãi suất sẽ dần ổn
định. Chất lượng của cung tiền bơm ra đối với nền kinh tế sẽ được cải thiện. Hơn nữa,
tăng các lãi suất chủ chốt sẽ phát tín hiệu về sự đồng thuận các chính sách kiềm chế lạm
phát. Động thái tăng lãi suất tái chiết khấu đã thể hiện tính thống nhất và đồng thuận cao,
nằm trong gói giải pháp chung nhằm thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát ổn định kinh
tế vĩ mô của Chính phủ (Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/02/2011). Có lẽ, sự trễ trong
việc tăng lãi suất tái chiết khấu so với các lãi suất còn lại có thể được hiểu là để Chính
phủ có thời gian giải quyết những vấn đề còn tồn đọng với nguồn của đầu tư công là
TPCP. Sau khi các vấn đề này được giải quyết, việc tăng lãi suất chiết khấu là một tất yếu
trong chủ trương chống lạm phát ổn định kinh tế vĩ mô. Sự đồng thuận chính sách này có
tác dụng tích cực trong việc lấy lại niềm tin của người dân về khả năng ổn định nền kinh
tế vĩ mô trong nước nhất là đối với quan sát của nhà đầu tư nước ngoài.
Cùng với việc tăng lãi suất, NHNN cũng hạn chế tăng trưởng tín dụng dưới 20%, hạn chế
cung tiền M2 từ 15-16%. Trước yêu cầu đó, tình trạng thanh khoản của ngân hàng trở
nên rất khó khăn. Trong hơn 10 năm từ 2000 - 2011, tăng trưởng tín dụng trung bình của

hệ thống là 29,4%/năm, còn trong 5 năm qua là 33,5%/năm, nhưng năm 2011 tăng trưởng
tín dụng chỉ ở mức khoảng 12% - 13%. Bên cạnh tỷ lệ tăng trưởng tín dụng ở mức thấp,
tín dụng các lĩnh vực phi sản xuất (chứng khoán, tiêu dùng, bất động sản) còn giảm sút
mạnh do có sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ. Ngày 1/3/2011, Ngân hàng Nhà nước
ban hành Chỉ thị 01/CTNHNN về thực hiện giải pháp tiền tệ và hoạt động ngân hàng,
trong đó yêu cầu các tổ chức tín dụng giảm tỷ trọng tín dụng phi sản xuất trong tổng dư
nợ: xuống còn 20% vào 30/6/2011 và tiếp tục rút xuống còn 16% vào 31/12/2011. Những
biện pháp này đẩy lãi suất luôn duy trì ở mức cao. Tiếp theo đó cùng với việc liên tiếp
hút về một lượng vốn lớn qua thị trường mở từ tháng 2 đến tháng 7 (tổng cộng trên 150
nghìn tỷ đồng), các lãi suất chủ chốt như tái chiết khấu, tái cấp vốn và qua đêm cũng
được điều chỉnh tăng lên các mức lần lượt là 13%, 14% và 13%.
Có thể nói những biện pháp mạnh này đã khiến cho nhiều ngân hàng gặp khó khăn về
thanh khoản và cuộc đua lãi suất huy động vốn đã sớm xuất hiện từ tháng 1 tái diễn trên
diện rộng dưới nhiều hình thức với mức thực tế từ 18% - 19% thậm chí lên tới 20% (ngay
cả lãi suất không kỳ hạn giai đoạn này cũng tăng lên 12%). Tình trạng trên chỉ lắng
xuống sau khi NHNN tái lập mức trần 14% thông qua việc xử phạt nặng một số ngân
hàng như HD Bank, Đông Á Bank. Tuy nhiên cơn sốt thanh khoản lại chuyển sang thị
trường liên ngân hàng khiến cho lãi suất tăng cao, trầm trọng hơn là nhiều ngân hàng đã

Mai Thị Huyền Trang

6


Tài chính quốc tế

CH20S

không trả được nợ sau khi vay qua kênh này khiến cho các giao dịch trở nên thận trọng
và các ngân hàng cho vay thậm chí còn yêu cầu bên vay phải có tài sản đảm bảo.

Xét trong tương quan chặt chẽ với lạm phát, khả năng ổn định lãi suất là rất khó khi khả
năng đồng bộ hóa các công cụ chính sách tiền tệ chưa thể thực thi bởi rào cản về thanh
khoản ngân hàng. Trước hiện tượng tăng lãi suất “ngầm” trong hệ thống ngân hàng kéo
dài từ tháng 11.2010 dưới các hình thức khuyến mại, tặng thưởng, huy động tiết kiệm lãi
suất linh hoạt…ngày 10/3/2010, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã ban hành Thông tư số
04/2011/TT-NHNN quy định áp dụng lãi suất trong trường hợp tổ chức, cá nhân rút tiền
gửi trước hạn tại các tổ chức tín dụng. Theo đó, mức lãi suất áp dụng đối với các khoản
tiền rút trước hạn sẽ tối đa bằng với mức lãi suất tiền gửi không kỳ hạn thấp nhất của tổ
chức tín dụng theo từng đồng tiền.Với các NHTM duy trì hai mức lãi suất khác nhau áp
dụng với tiền gửi không kỳ hạn thì theo thông tư 04, lãi suất cho các khoản tiền rút trước
hạn sẽ được áp dụng ở mức lãi suất không kỳ hạn thấp hơn. Việc áp dụng thông tư trên
đã khiến việc huy động vốn của các NHTM thêm khó khăn, các khoản tiền gửi rút gốc
linh hoạt trước đây được chuyển thành các kỳ hạn 1 tuần, 2 tuần hoặc không kỳ hạn.
Theo đà cạnh tranh hút vốn, vô hình chung, lãi suất đã bị thay đổi khi lãi suất kỳ hạn
ngắn và lãi suất kỳ hạn dài không có sự chênh lệch thậm chí lãi suất ngắn hạn còn cao
hơn lãi suất dài hạn. Đặc biệt, hiện tượng lãi suất không kỳ hạn VNĐ đã được đẩy lên
cao bằng mức trần 14%/năm. Lãi suất liên ngân hàng cũng liên tục duy trì mức cao cho
vay qua đêm ở mức 16-17/năm, kỳ hạn một tuần 19-20%/năm và kỳ hạn tháng là 2223%/năm. Nguyên nhân chủ yếu vẫn bởi áp lực lạm phát song sự biến tướng của lãi suất
cho thấy sự bất cập về thanh khoản của các NHTM. Các khó khăn trong việc cung ứng
vốn của NHTM đã được tháo gỡ khi NHNN sửa đổi thông tư 13 cũng như lộ trình tăng
vốn lên 3000 tỷ đã được hoãn lại thêm 1 năm. Rõ ràng lạm phát là một thách thức chính
yếu với lãi suất. Lạm phát cao liên tục từ quý III/2010 và kéo dài đến 3 tháng đầu năm
2011 với con số gần 14% so với cùng kỳ năm 2010. Vì vậy, trước nhu cầu đảm bảo lãi
suất thực dương của người gửi tiền, lãi suất không thể ở mức thấp hơn 14% - mức trần
quy định. Lãi suất tín dụng vì thế cũng duy trì mức cao, khoảng19-23% và những khó
khăn với doanh nghiệp và thị trường chứng khoán. Vòng xoáy lãi suất, những hiện tượng
tiêu cực của thị trường tiền tệ và sự thiếu hụt thanh khoản của hệ thống NHTM là những
lý do khiến cho lộ trình ổn định lãi suất đã mất một khoảng thời gian dài.
Đến cuối quý 2, thanh khoản của NHTM đã được cải thiện khi lãi suất liên ngân hàng
qua đêm và kỳ hạn 1 tuần, 2 tuần giảm , lãi suất huy động và cho vay có dấu hiệu giảm

nhẹ từ cuối tháng 5. Bước sáng tháng 6, trên thị trường liên ngân hàng, mặt bằng lãi suất
tiếp tục duy trì những diễn biến tích cực với sự ổn định ở mức thấp tại hầu hết các kỳ

Mai Thị Huyền Trang

7


Tài chính quốc tế

CH20S

hạn. Lãi suất qua đêm thỏa thuận phổ biến ở mức 11-12,5%/năm, lãi suất kỳ hạn 1 tuần
dao động từ 12,7-13,5%/năm, lãi suất kỳ hạn 1 tháng từ 13,7-14%/năm. Điều này cho
thấy thanh khoản của hệ thống ngân hàng đã từng bước được cải thiện. Việc NHNN tiếp
tục cung ứng VND để mua vào USD nhằm tăng dự trữ ngoại hối (khoảng 1,2 tỷ USD đã
được NHNN mua vào trong tháng 6) cùng với việc thực hiện tái cấp vốn (khoảng 10.000
tỷ đồng) cho một số ngân hàng thương mạiđã tạm thời đáp ứng nhu cầu vốn của các
NHTM, từ đó giúp lãi suất liên ngân hàng duy trì được sự ổn định. Cùng với việc CPI
theo tháng giảm tốc, thanh khoản của hệ thống ngân hàng được cải thiện đáng kể, lãi suất
huy động và lãi suất cho vay đã hạ nhiệt. Một số ngân hàng đã giảm lãi suất huy động
xuống dưới 14%/năm hoặc niêm yết lãi suất kỳ hạn dài ở mức thấp hơn so với trước đó.
Việc chạy đua lãi suất để huy động bằng mọi giá cũng có dấu hiệu bớt căng thằng. Mặc
dù trên thực tế tình trạng huy động với lãi suất vượt trần cho những khoản tiền gửi có giá
trị lớn (từ 500 triệu đồng trở lên) vẫn diễn ra; tuy nhiên lãi suất thỏa thuận đã giảm
khoảng 1-1,5% xuống mức 16-18,5%/năm. Cùng với xu hướng trên, lãi suất cho vay
cũng giảm nhẹ từ 0,5% -1% dao động quanh mức 16-19% đối với cho vay sản xuất và
trên 20% đối với cho vay phi sản xuất .
Sang đến quý 3, lãi suất cho vay VND bình quân thực tế ổn định trong tháng 7 và tháng
8, và có xu hướng giảm nhẹ trong tháng 9. Cụ thể, lãi suất cho vay nông nghiệp, nông

thôn và xuất khẩu khoảng 17-19%/năm, lãi suất cho vay lĩnh vực sản xuất-kinh doanh
khác khoảng 17-21%/năm, lãi suất cho vay lĩnh vực phi sản xuất khoảng 22-25%/năm.
Trong khi đó, về mặt quy định, lãi suất huy động vốn tối đa bằng đồng Việt Nam của các
tổ chức tín dụng, theo Thông tư số 02/2011/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước ra ngày
03/03/2011, và sau đó được thay thế bằng Thông tư số 30/2011/TT-NHNN ra ngày
28/9/2011, vẫn được khống chế ở mức trần 14%/năm đối với tiền gửi có kì hạn từ 1 tháng
trở lên, và 6%/năm đối với tiền gửi không kì hạn và có kì hạn dưới 1 tháng.
Trên thị trường mở, lãi suất cho vay vẫn được duy trì ở mức 14%/năm trong suốt quý 3.
Trong khi đó, trên thị trường liên ngân hàng, lãi suất cho vay qua đêm đã tăng từ mức
11,52%/năm lên 12,83%/năm trong tháng 7, giảm xuống mức 10,25% trong tháng 8, tiếp
đó tăng lên đến 13,52%/năm trong tuần đầu của tháng 9, và đến tháng 10 đã giảm về mức
quanh 12%/năm. Ngày 26/8, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã trủ trì cuộc họp với 12
NHTM hàng đầu Việt Nam về các giải pháp triển khai hoạt động ngân hàng trong những
tháng cuối năm 2011. Tại cuộc họp, các ngân hàng cam kết thực hiện nghiêm túc trần lãi
suất huy động 14%/năm; và đồng thuận giảm lãi suất cho vay đối với lĩnh vực sản xuất
kinh doanh thông thường xuống 17-19%/năm từ giữa tháng 9/2011. Ngày 30/08/2011,
NHNN đã ban hành Thông tư số 22/2011/TT-NHNN về việc sửa đổi, bổ sung một số

Mai Thị Huyền Trang

8


Tài chính quốc tế

CH20S

điều của TT13/2010/TT-NHNN của NHNN quy định về tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt
động tín dụng, đây là một trong những giải pháp thực hiện trong lộ trình nhằm giảm lãi
suất của NHNN về mức 17-19%

Sau khi diễn biến khá ổn định trong quý 3, bước sang quý 4, lãi suất tiếp tục trở nên căng
thẳng lại cho thấy thanh khoản của hệ thống ngân hàng có vấn đề. Việc NHNN thắt chặt
trong việc thực hiện nghiêm trần lãi suất huy động đang tạo nên sự căng thẳng thanh
khoản trong hệ thống ngân hàng. Bên cạnh đó, chính sách thắt chặt tiền tệ càng gây nên
khó khăn khi NHNN hút ròng trên thị trường OMO 442 tỷ trong tháng 10. Sự yếu kém
của một số ngân hàng đã tạo nên rủi ro thanh khoản trong hệ thống. Vấn đề tái cấu trúc
hệ thống ngân hàng là vấn đề được bàn luận rất nhiều. Lãi suất cho vay qua đêm của
VND trong tháng 10 đã tăng lên đến 14%/năm. Các kỳ hạn khác, lãi suất tăng mạnh. Vào
giữa tháng 10, lãi suất cho vay liên ngân hàng kỳ hạn 1 tháng tăng lên mức 30%40%/năm. Xu hướng căng thẳng về lãi suất tiếp tục được thể hiện trong tuần đầu tháng
11. Vào ngày 7.11.2011, lãi suất liên ngân hàng kỳ hạn 12 tháng đã tăng vọt lên mức
36.58%/năm so với mức 16.18% so với ngày 3.11.2011. Thanh khoản tiền đồng trên thị
trường liên ngân hàng đã khá nóng với diễn biến lãi suất liên ngân hàng tăng mạnhvào
đầu tháng sau đó hạ nhiệt dần vào cuối tháng nhưng vẫn duy trì ở mức cao so với mức 910% vào tháng 12 năm 2010. Cụ thể, lãi suất qua đêm phổ biến ở mức 13-15%/năm
(giảm 2,5-3,5% từ mức đỉnh 18,5%/năm vào ngày 4/11), kỳ hạn 1 tuần dao động quanh
mức 15,5-16,5%/năm (giảm 1,5-2% so với đầu tháng), kỳ hạn 2 tuần trong khoảng 1617,5%/năm và kỳ hạn 1 tháng được chào vay ở mức 18-20%/năm. Đáng chú ý, lãi suất
liên ngân hàng vào ngày 07/11 đã lên đến 36,5% đối với kỳ hạn 12 tháng (theo số liệu
của Ngân hàng Nhà nước). Lãi suất liên ngân hàng tiếp tục duy trì ở mức cao xuất phát từ
việc huy động vốn trên thị trường 1 của một số ngân hàng tiếp tục khó khăn trong khi
nhu cầu tiền thanh toán thường tăng vào dịp cuối năm khiến các ngân hàng phải tăng
cường vay vốn trên thị trường liên ngân hàng, tình hình nợ xấu của các ngân hàng đang
có dấu hiệu gia tăng khiến các ngân hàng lớn thận trọng hơn trong việc cho vay. Hơn
nữa, cung tiền hạn chế hơn do các ngân hàng phải đảm bảo chỉ tiêu an toàn về vốn trong
tháng cuối năm.
Nhằm hỗ trợ thanh khoản cho hệ thống ngân hàng cũng như hạ nhiệt mặt bằng lãi suất
trên thị trường liên ngân hàng, NHNN đã bơm ròng gần 14.500 tỷ đồng trong bốn tuần
liên tiếp của tháng 11 qua thị trường OMO đồng thời yêu cầu các ngân hàng quốc doanh
tiếp tục hỗ trợ kèm điều kiện cho các ngân hàng nhỏ. Đây cũng chính là lý do giải thích
cho việc lãi suất liên ngân hàng có xu hướng giảm nhẹ và ổn định hơn vào cuối tháng. .
Trong khi đó, lãi suất huy động lại có dấu hiệu tăng. Tình hình huy động khó khăn do


Mai Thị Huyền Trang

9


Tài chính quốc tế

CH20S

việc tuân thủ quy định trần lãi suất 14%/năm dẫn đến nhiều ngân hàng rơi vào tình trạng
thiếu hụt thanh khoản. Bên cạnh đó, áp lực phải trả các khoản vay trên thị trường liên
ngân hàng đúng hạn cùng với nhu cầu vốn tăng vào dịp cuối năm khiến một số ngân hàng
đã đẩy lãi suất huy động thực tế lên mức 17- 18%/năm trong những ngày cuối tháng 11.
Tình trạng thanh khoản kém của hệ thống ngân hàng tiếp tục kéo dài, nợ xấu bắt đầu lây
lan lên thị trường liên ngân hàng khi nhiều ngân hàng đang có dấu hiệu mất khả năng chi
trả các khoản vay với các ngân hàng khác. Đặc biệt càng gần dịp Tết, thanh khoản của hệ
thống ngân hàng càng gặp khó khăn hơn khi nhu cầu vốn của doanh nghiệp dành cho sản
xuất, kinh doanh vào dịp cuối năm tăng cao. Diễn biến lãi suất liên ngân hàng vì vậy
cũng ít có những biến động mạnh so với tháng trước. Đáng chú ý là hai ngày cuối tháng
11, NHNN hút ròng mạnh hơn 8.400 tỷ đồng nhưng lãi suất liên ngân hàng giảm ở các kỳ
hạn ngắn duới 1 tháng
Mặc dù lãi suất liên ngân hàng trong tháng 12 ổn định với lãi suất qua đêm giao dịch
trong khoảng 12-15,5%/năm và lãi suất kỳ hạn 1 tuần giao dịch trong khoảng 1316,5%/năm, nhưng một số ngân hàng yếu kém vẫn phải đi vay có tài sản thế chấp trên thị
trường liên ngân hàng với lãi suất kỳ hạn một tuần là 19-21%/năm. Trong những tuần
cuối cùng của tháng 12, tình hình lãi suất VND, USD và vàng đều có xu hướng tăng. Một
số ngân hàng nhỏ đã đưa ra lãi suất huy động đàm phán áp dụng cho khách hàng VIP lên
tới 19-20% cho các kỳ hạn ngắn. Hiện tượng vượt trần lãi suất không chỉ là trường hợp
ngoại lệ ở các ngân hàng nhỏ. Một số ngân hàng lớn cũng tăng lãi suất huy động lên 1718%/năm. Lãi suất huy động bằng ngoại tệ đàm phán tăng lên 5%/năm áp dụng với
khách hàng VIP trong khi đó huy động vàng cũng tăng 4%/năm ở một số ngân
hàng.Trong tháng 12, NHNN đã bơm ròng 17.000 tỷ đồng (800 triệu USD) thông qua

kênh thị trường mở so với tháng 11 là 12.600 tỷ đồng (740 triệu USD).

3. Chính sách tỷ giá
Có thể nói, năm 2011 là năm thành công của NHNN trong việc điều hành tỷ giá. So với
làm phát và lãi suất thì tỷ giá năm 2011 diễn biến ổn định hơn rất nhiều.
Tỷ giá USD/VND năm 2011 đã có nhiều biến động trong những tháng đầu năm và sau đó
được duy trì khá ổn định trong suốt năm với mức điều chỉnh tăng giảm trong biên độ cho
phép +/-1%. Từ những tháng cuối năm 2010 tỷ giá USD/VND trên thị trường tự do tăng
mạnh và vượt xa khỏi tỷ giá chính thức khoảng 10% và dao động xung quanh mức
21.000 – 21.500 VND/USD. Trước sức ép giảm giá của VND, ngay sau Tết âm lịch, vào
ngày 11.2.2011, NHNN đã ra thông báo tăng tỷ giá USD/VND bình quân liên ngân hàng
lên mức 20.693 VND/USD và thu hẹp biên độ giao dịch từ +- 3% xuống +- 1%. Đây là
Mai Thị Huyền Trang

10


Tài chính quốc tế

CH20S

lần tăng tỷ giá mạnh nhất kể từ năm 2008 với mức phá giá lên tới 9,3%. Thị trường ngoại
hối tự do được quản lý chặt chẽ. Và NHNN tiếp tục có những động thái mạnh tay hơn với
vấn đề tỷ giá và thị trường ngoại hối nhằm hạn chế tình trạng đôla hóa nền kinh tế. Ngày
09/04/2011, thực hiện liên tiếp các biện pháp bài bản: tăng dự trữ bắt buộc USD trên tiền
gửi ngắn và dài hạn thêm 2%; khống chế trần ãi suất huy động USD 3% đối với cá nhân
và 1% với tổ chức Ngày 24/03 Ngân hàng Nhà nước đã chính thức ban hành thông tư
07/TT-NHNN hướng dẫn cơ chế mới về cho vay bằng ngoại tệ sẽ hạn chế nhu cầu ngoại
tệ trong các giao dịch trong nước. Những biện pháp này của chính phủ đã mang lại hiệu
quả bước đầu cho tỷ giá và thị trường ngoại hối. Tỷ giá tự do và liên ngân hàng tiến gần

nhau hơn. Tháng 3, mức chênhlệch tỷ giá giữa thị trường chính thức và thị trường tự do
giảm thấp, chỉ còn ở mức 1% so với mức 6% vào giữa tháng 2. Tỷ giá giao dịch nhìn
chung ổn định hơn theo hướng giảm. Nếu như cuối năm 2010, tỷ giá USD/VNĐ biến
động và có lúc lên tới 23.000 với khoảng dao động lớn thì hiện tại giá USD chỉ dao động
trong khoảng 20,900-21,000 VND. Số ngoại tệ thu đổi, gửi tại các ngân hàng thương mại
tăng nhanh đưa tăng trưởng huy động vốn đạt 1.56% (Quý I) tạo điểu kiện để NHTM
chuyển từ huy độngcho vay sang mua bán ngoại tệ. Nhờ đó, giữa hai thị trường tiền tệ và
ngoại hối đã có sự liên thông cần thiết. Cùng với sự ổn định của tỷ giá, lãi suất huy động
ngoại tệ cũng ổn định và hạ nhiệt dần trong hệ thống NHTM. Thêm vào đó, giá vàng
trong nước đã hạ nhiệt và chênh lệch giữa giá vàng trong nước và quốc tế cũng đã giảm
dần, góp phần giảm nhu cầu gom góp USD để nhập khẩu vàng.
Sức hấp dẫn và giá trị của đồng VN cũng tăng lên so với đồng USD khi chênh lệch lãi
suất huy động VNĐ và USD tăng cao nhằm gia tăng nguồn vốn nội tệ, NHTM tăng lên,
cầu tiền đồng sẽ giảm xuống và dẫn đến áp lực trên thị trường tiền tệ giảm và tạo điều
kiện để giảm lãi suất.
Sự ổn định của tỷ giá trong những thángđầu năm 2011 đã cho thấy phần nào tác dụng của
các chính sách quản lý của NHNN nhằm giảm nhu cầu nắm giữ, đầu cơ USD. Khi tỷ giá
liên ngân hàng và tỷ giá thị trường tự do đã tiến sát gần nhau hơn, ở mức 20.900-20950
VNĐ, áp lực điều chỉnh đã phần nào giảm bớt.
Thị trường ngoại hối trong quý 2 khá ổn định nhờ các biện pháp mạnh tay của chính phủ.
Trong quý 2, NHNN đã tăng dự trữ bắt buộc dối với tiền gửi ngoại tệ không kỳ hạn và có
kỳ hạn dưới 12 tháng lên 7%. Các khoản tiền gửi ngoại tệ bởi khách hàng cá nhân và tổ
chức tại NHTM cũng đươch áp dụng mức lãi suất trần tối đa lần lượt là 2% và 0.5 %.
Ngoài ra, NHNN còn quy định Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà nước phải bán ngoại
tệ cho TCTD từ 1/7 theo thông tư 13/2011/TT-NHNN. Có thể nói, các biện pháp bình ổn
tỷ giá và thị trường ngoại hối đã phát huy những tác dụng tích cực. Các giao dịch trên thị

Mai Thị Huyền Trang

11



Tài chính quốc tế

CH20S

trường tự do được hạn chế tối đa, chênh lệch tỷ giá giữa các NHTM và thị trường tự do
tiếp tục thu hẹp. nhờ sự hạ nhiệt của tỷ giá, nguồn cung của các NHTM tăng lên, đáp ứng
tốt hơn những nhu cầu ngoại tệ của cá nhân và doanh nghiệp. Thị trường ngoại hối ổn
định là điều kiện tốt để NHNN mua vào USD để cải thiện dự trữ ngoại hối. theo số liệu
của ÌM, đến tháng 5/2011, dự trữ ngoại hối của VN đã đạt 13,5 tỷ USD.
Việc điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ, kết hợp với việc thu hẹp đối tượng được vay
ngoại tệ trong nước, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ, quy định mức lãi suất huy
động vốn tối đa bằng đô-la Mỹ của tổ chức và cá nhân tại TCTD đã góp phần giảm tình
trạng đô la hóa, tăng niềm tin vào đồng Việt Nam. Các biện pháp nhằm bình ổn thị
trường ngoại hối đã góp phần cải thiện thanh khoản ngoại tệ, tái lập thế cân bằng trên thị
trường ngoại hối cũng như thúc đẩy xuất khẩu. Đối với việc nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc
đối với ngoại tệ, động thái này nhằm tăng lãi suất cho vay USD, tiến tới thu hẹp lãi suất
với tiền đồng và giảm các khoản vay bằng ngoại tệ (USD). Trong 8 tháng đầu năm 2011,
tăng trưởng tín dụng ngoại tệ đạt 23,91% trong khi huy động ngoại tệ trong tháng 6 và 7
liên tụt sụt giảm, điều này tạo nên rủi ro thanh khoản USD cục bộ trong thời điểm cuối
năm và quý I/2012 khi các khoản nợ đáo hạn và do đó gây hệ lụy bất ổn tỷ giá. Do đó,
động thái tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc của NHNN là bước đi hợp lý nhằm thu hẹp lãi suất
vay giữa VND và USD, qua đó giảm cầu đối với các khoản vay ngoại tệ.
Sự biến động của thị trường Vàng thế giới trong tháng 8 đã khuấy động thị trường vàng
Việt Nam đặc biệt trong những đợt giá vàng thiết lập mức cao kỷ lục, lượng tiền rất lớn
của người dân đã đổ vào thị trường vàng. Thị trường Vàng tăng nóng còn gây áp lực lên
tỷ giá như đã từng xảy ra trong năm trước, nhu cầu USD tăng cao để nhập khẩu vàng đã
đẩy tỷ giá tăng nhẹ vào cuối tháng 8.
Tỷ giá VND/USD quý 3 vẫn duy trì sự ổn định. Trên thị trường ngoại hối, cả tỷ giá liên

ngân hàng và tỷ giá tự do đều không có nhiều biến động. Xu hướng tích cực vẫn được
duy trì với việc tỷ giá VND/USD được giao dịch ở mức thấp, khoảng 20.600 – 20.750
VND/USD. Tỷ giá mua-bán của các ngân hàng thương mại trong tháng 7 có nhiều thời
điểm thấp hơn tỷ giá bình quân liên ngân hàng. Tỷ giá trong quý 3 chủ yếu chịu áp lực từ
tình hình tăng trưởng tín dụng ngoại tệ đột biến trong các tháng đầu năm, từ diễn biến giá
vàng và từ chủ trương hạ mức lãi suất đồng nội tệ của Chính phủ trong bối cảnh lạm phát
vẫn ở mức cao. Tuy nhiên, tính trong toàn quý, đồng nội tệ chỉ giảm giá chính thức
0,05% so với đồng USD. Việc giữ vững được tỷ giá được hỗ trợ bởi tình hình cán cân
thanh toán tổng thể của đất nước luôn trong trạng thái thặng dư: mặc dù cán cân thương
mại thâm hụt, nhưng cán cân vốn đạt thặng dư lớn. Ngoài ra, kết hợp với các động thái
quản lý mạnh tay đối với thị trường ngoại hối tự do lẫn chính thức như việc tăng tỷ lệ dự

Mai Thị Huyền Trang

12


Tài chính quốc tế

CH20S

trữ bắt buộc bằng ngoại tệ, hạ thấp trần lãi suất tiền gửi USD đều là những biện pháp hiệu
quả của NHNN trong việc ổn định thị trường ngoại hối. Thông tư 22 nâng tỷ lệ rủi ro đối
với các khoản phải đòi liên quan đến ngoại tệ đối với các cơ quan, tổ chức thuộc Chính
phủ cùng với quyết định tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc 1% mới đây cho thấy NHNN phát đi
thông điệp rất mạnh mẽ và rõ ràng đối với việc hạn chế tín dụng và các khoản vay liên
quan đến ngoại tệ. Mặc dù tín dụng ngoại tệ tăng mạnh, nhưng với việc bổ sung 6 tỷ
USD trong vài tháng NHNN có thể sẵn sàng can thiệp nhằm tránh tình trạng căng thẳng
tỷ giá ở các thời điểm thích hợp khi nhu cầu các doanh nghiệp tăng cao cục bộ. Hơn nữa,
Chính phủ còn thành công trong thực hiện công tác tuyên truyền. Có thể nói, việc quan

tâm và tính toán đến những ảnh hưởng xuất phát từ yếu tố kì vọng của người dân trong
các quá trình diễn biến kinh tế-tài chính đang là một bước tiến mới trong việc thiết kế và
thực thi chính sách của Chính phủ, bởi trên thực tiễn, vận hành nền kinh tế không chỉ có
các biến số kinh tế vĩ mô mà còn cần hòa hợp được tác động của các yếu tố kì vọng và
hành vi cá nhân. Đáng chú ý, vào cuối tháng 9/2011 Thống đốc NHNN cam kết bình ổn
tỷ giá và phá giá tối đa 1% vào cuối năm
Trong tháng 10, tỷ giá trên thị trường phi chính thức biến động mạnh Tỷ giá tự do tiếp
tục xu hướng tăng trong tháng 10.2011. Mức đỉnh được thiết lập trong tháng 10 của tỷ
giá VND/USD trên thị trường tự do là 21,700 cùng với việc NHNNcơ quan này liên tục
điều chỉnh tỷ giá 14 lần trong tháng 10, tổng mức tăng tỷ giá 185USD/VND (tương
đương 0,85% so với cuối tháng 9). đã khiến nhiều người lo ngại về tính khả thi của
những tuyên bố nói trên. Tính đến ngày 31/10 tỷ giá đã tăng lên mức 20.803 đồng, tương
đương khoảng 0,85% và chỉ còn cách mốc mục tiêu 31 đồng. Sự căng thẳng trên thị
trường ngoại hối đến từ hai yếu tố: Thứ nhất, các ngân hàng tham gia bình ổn thị trường
vàng phải nhập khẩu để bù đắp cho lượng bán ra chứ không mua lại đủ từ thị trường nội
địa và đóng tài khoản vàng nước ngoài như dự tính đã làm gia tăng nhu cầu về ngoại tệ.
Theo con số thống kê NHNN trong tháng 10 đã cấp phép nhập khẩu khoảng 15 tấn vàng
để bù đắp cho sự thiếu hụt nói trên. Thứ hai là nhu cầu trả nợ cho các khoản vay ngoại tệ
trước đây của doanh nghiệp. Theo số liệu được đưa ra thì mức chênh lệch giữa huy động
và cho vay ngoại tệ thời gian đó lên tới 7,5 tỷ USD rõ ràng là một áp lực lớn tới cung cầu
trên thị trường .
Năm 2011 cũng ghi dấu ấn một cách làm mới trong điều hành tỷ giá, linh hoạt và uyển
chuyển hơn với sự xuất hiện của hợp đồng kỳ hạn và ngoại tệ thứ ba. Trong tháng 9 và
tháng 10, NHNN liên tiếp bán ngoại tệ can thiệp thị trường, ước tính khoảng 2 tỷ USD,
nhằm thu hẹp khoảng cách giữa tỷ giá thị trường tự do và tỷ giá chính thức. Sau đó,
NHNN bắt đầu tiến hành điều hành tỷ giá linh hoạt bằng 15 lần điều chỉnh tỷ giá công bố

Mai Thị Huyền Trang

13



Tài chính quốc tế

CH20S

hàng ngày. Đồng thời, các giao dịch ngoại tệ qua một đồng tiền thứ ba được mở lại, trong
khi hai năm trước việc này hoàn toàn bị cấm. Giải pháp này đã đẩy nguồn cung ngoại tệ
tăng lên và tỷ giá giao dịch thực sự trở nên uyển chuyển. Trong khi đó, trước sự hấp dẫn
của lãi suất huy động VND, ở mức 14%, những doanh nghiệp có nguồn thu ngoại tệtệ
không găm giữ như trước đây mà có xu hướng sử dụng các hợp đồng kỳ hạn bán ngoại tệ
cho ngân hàng trước khi ngoại tệ về để lấy tiền đồng. Thêm vào đó, các doanh nghiệp
còn quay vòng trên thị trường bằng các hợp đồng giao ngay thông qua ngân hàng. Từ đó,
cung cầu ngoại tệ đã được cân bằng hơn
Thành công lớn nhất của NHNN là việc kìm hãm được đà tăng của tỷ giá thông qua việc
Nghị định 95/NHNN bao gồm các xử lý hành chính trong việc huy động và giao dịch
ngoại tệ. Do đó, diễn biến tỷ giá ở thị trường tự do và liên ngân hàng trong tháng 11 khá
ổn định. Theo đó, tỷ giá trên thị trường tự do giảm mạnh so với mức đỉnh lập nên từ
trong tháng 10/2011 và tỷ giá liên ngân hàng không đổi kể từ cuối tháng 10.
Trong tháng 12, tiền đồng trên thị trường tự do giảm giá 0,09% so với USD trong khi
tăng giá 0,38% trên thị trường liên ngân hàng, do sự kết hợp của các biện pháp hành
chính, chính sách thắt chặt tiền tệ và các tin tức tốt về cán cân thương mại và cán cân
thanh toán. Khoảng cách giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá liên ngân hàng cuối tháng 12
giảm xuống còn 0,87% so với 1,3% vào tháng 11. Khoảng cách giữa tỷ giá thị trường tự
do và trần tỷ giá chính thức vẫn chỉ ở mức khoảng 1%. Khoảng cách giữa các tỷ giá này
giảm gợi ý cho thấy được kiểm soát, như vậy sẽ giúp giảm áp lực tiền tệ. Sau khi Chính
phủ ban hành nghị định 95/2011/ND-CP ngày 20 tháng 10, tăng mức phạt từ 70 triệu
đồng lên 500 triệu đồng cho hoạt động giao dịch ngoại hối trái phép và cho phép tịch thu
tang vật, tỷ giá tiền đồng đã được cải thiện đáng kể. Để tránh rủi ro liên quan đến giao
dịch tự do, người dân chuyển sang bán ngoại tệ ở các ngân hàng thương mại và việc này

đã giúp nguồn cung đô la trong hệ thống ngân hàng được gia tăng đáng kể. Tỷ giá giao
dịch của đồng USD trên thị trường liên ngân hàng đang ở mức 21.160 đồng/đô la, giảm
đáng kể từ mức kỷ lục 21.880 đồng/ đô la trong ngày 24 tháng 10 năm 2011. Tương tự
như vậy, tỷ giá trên thị trường tự do cũng giảm mạnh từ 21.775 đồng/ đô la trong ngày 21
tháng 10 năm 2011 xuống còn 21.135 đồng/ đô la trong ngày 13 tháng 12 năm 2011.
Trong khi đó, trần tỷ giá chính thức tiếp tục được duy trì ổn định tại mức 21.011 đồng/ đô
la. Giá trị tiền đồng được cải thiện đáng kể một phần nhờ vào dự báo lượng kiều hối dồi
dào và sự sụt giảm của nhập siêu trong tháng 11.
Có thể thấy rằng, diễn biến tỷ giá trong năm đã chịu nhiều áp lực từ tình hình tăng trưởng
tín dụng ngoại tệ đột biến trong các tháng đầu năm, từ diễn biến giá vàng và từ chủ
trương hạ mức lãi suất đồng nội tệ của Chính phủ trong bối cảnh lạm phát vẫn ở mức cao.

Mai Thị Huyền Trang

14


Tài chính quốc tế

CH20S

Tuy nhiên, việc duy trì được tỷ giá tăng ở mức thấp dưới 1% từ tháng 9 đến hết năm
2011 được nhìn nhận mang nhiều ý nghĩa tích cực, trấn an dân chúng về khả năng ổn
định tỷ giá của NHNN, trong bối cảnh những sức ép của việc giảm lãi suất tiền đồng và
diễn biến của giá vàng và giá USD trên thị trường tự do vẫn còn cao.
II. Dự báo lạm phát, lãi suất, tỷ giá năm 2012
NHNN xác định định hướng, mục tiêu và các giải pháp lớn về điều hành chính sách tiền
tệ năm 2012 là tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ và linh hoạt để ưu tiên kiểm
soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức phù hợp; thị
trường tiền tệ, ngoại hối ổn định phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô; hoạt động hệ thống

TCTD an toàn, tuân thủ theo quy định của pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
Dựa vào định hướng của chính phủ và kết quả chính phủ đã đạt đươc trong năm 2011, có
thể dự đoan một số chỉ tiêu kinh tế trong thời gian tới như sau.

1. Lạm phát
Số liệu về CPI những tháng cuối năm 2011, diễn biến tỷ giá và giá các hàng hóa thiết yếu
đang cho thấy những tín hiệu khá tích cực đối với vấn đề lạm phát tại Việt Nam. Dựa trên
những thống kê :
Áp lực chi phí nguyên vật liệu: Theo thống kê dự báo của các chuyên gia trên
Bloomberg, giá cả hàng hóa một số mặt hàng cơ bản khó tăng trong năm 2012. Như vậy,
áp lực tăng giá hàng hóa do chi phí đẩy của năm 2012 sẽ không lớn như trong năm 2011,
điển hình như giá dầu thô bình quân đã tăng 20% trong năm 2011
Áp lực cầu kéo lên lạm phát giảm: Tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu
dùng năm 2011 ước tính đạt 2.004,4 nghìn tỷ đồng, tăng 24,2% so với năm trước. Tuy
nhiên nếu loại trừ yếu tố giá thì con số này chỉ tăng 4,7%, sự sụt giảm mạnh so với mức
tăng trưởng trên 30% trong các năm truớc. Điều này phản ánh sự yếu đi trong sức cầu nội
địa trong năm vừa qua và dự báo sẽ khó tăng mạnh trong năm tới do Chính phủ tiếp tục
ưu tiên thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt thông qua việc giảm tổng cầu.
Các yếu tố khác:
Năm 2012, chính phủ sẽ chi 59.300 tỷ đồng để tăng lương tối thiểu. Theo đó mức lương
tối thiểu có thể tăng 26% so với năm 2011. Chúng tôi cho rằng, áp lực trực tiếp từ việc
tăng lương lên lạm phát là không nhiều bởi vì đa số mức lương của cán bộ công nhân

Mai Thị Huyền Trang

15


Tài chính quốc tế


CH20S

viên chức hiện tại đều cao hơn mức lương tối thiểu. Mục tiêu tăng trưởng tín dụng cao
hơn nhưng nguồn vốn tín dụng sẽ ưu tiên vốn cho lĩnh vực nông nghiệp, sản xuất và xuất
khẩu. Điều này không những kiểm soát được nguồn cung tiền nhằm tránh những ảnh
hưởng lên lạm phát lại vừa tăng thêm nguồn cung hàng hóa. Tất nhiên, chúng tôi đưa ra
quan điểm này dựa trên giả định nguồn vốn được đầu tư vào những dự án thực sự hiệu
quả. Áp lực tăng giá xăng dầu trong nước dự kiến sẽ giảm so với năm ngoái dựa trên kỳ
vọng giá dầu thế giới ổn định trong năm 2012. Giá than dự báo sẽ tăng tối thiểu 5%; giá
điện tăng 10-15,4 15,4% (đóng góp khoảng gần 0,6-0,9% vào lạm phát năm 2012); giá
dịch vụ y tế dự kiến có điều chỉnh tăng trong năm 2012. Năm 2012, Chính phủ đặt mục
tiêu bội chi ngân sách ở mức 4,9% thấp hơn mức 5,3% trong năm 2011. Theo đó chính
sách thắt chặt tiền tệ sẽ tiếp tục được triển khai trong năm 2012. hi vọng là Chính phủ sẽ
có những biện pháp quyết liệt hơn trong việc cắt giảm những dự án đầu tư không hiệu
quả từ đó sẽ tránh được những áp lực lên ngân sách nhà nước cũng như áp lực lên lạm
phát trong năm 2012.
Như vậy có thể dự báo lạm phát năm 2012 sẽ dao động trong khoảng 8-9%. Đây là mức
lạm phát tích lực nếu so với diễn biến lạm phát năm 2011 và đây cũng là cơ sở để NHNN
điều hành chính sách tiền tệ, tiến tới giảm lãi suất trên thị trường
2. Lãi suất
Với mức dự báo lạm phát khoảng 8-9 % trong năm 2012 thì chính sách tiền tệ của chính
phủ có thể sẽ nới lỏng hơn một chút và theo định hướng của chính phủ là lãi suất sẽ chỉ
hạ nhiệt khi sang quý 2/2012. Lãi suất hạ, nhu cầu đầu tư tăng. Có khả năng mặt bằng lãi
suất huy động có cơ sở để giảm xuống 14% từ cuối quý I/2012 sau đó nhiều khả năngsẽ
tiếp tục giảm dần và đến cuối năm dao động quanh mức 11-12%. Khi đó nhà đầu tư và
các doanh nghiệp có thể được tiếp cận với lãi suất cho vay ở vùng từ 15-16% trên diện
rộng.
3. Tỷ giá
Đặc thù của nền kinh tế Việt Nam gia công nhiều, do vậy tốc độ tăng trưởng của nhập
khẩu thường sẽ đi đôi với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu. Với tình hình xuất khẩu được dự

báo chỉ tăng trưởng 10% trong năm 2012 và cơ cấu cũng như giá trị nhập khẩu không có
sự thay đổi đáng kể trong năm 2012. Khả năng mức thâm hụt của Việt Nam năm 2012 sẽ
vào khoảng 10 tỷ USD, FDI giải ngân trong năm 2012 có thể đạt mức 9-10 tỷ USD, thấp
hơn so với năm 2010 (11 tỷ). Nguyên nhân là do dòng vốn đăng ký năm 2009 và 2010
đều ở mức cao và độ trễ triển khai các dự án này sẽ rơi vào năm 2011 cũng như các năm
sau đó. Ngoài ra, sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư vào các ngành Việt Nam có lợi thế cạnh
tranh và giá trị gia tăng cao cũng sẽ đảm bảo tốc độ giải ngân trong thời gian tới. Cụ thể,

Mai Thị Huyền Trang

16


Tài chính quốc tế

CH20S

giảm đầu tư vào bất động sản (từ mức 37% trong năm 2010 xuống mức thấp dưới 3%) và
tăng đầu tư vào các ngành sản xuất (từ mức 27% trong năm 2010 lên mức 50% trong
năm 2011). Dòng vốn FII có thể vẫn duy tri ở mức dương 1 tỷ USD tương đương với
năm 2011. Dự báo năm 2012 sẽ là một năm khó khăn cho nguồn kiều hối do ảnh hưởng
của suy thoái kinh tế nên lượng kiều hối trong năm 2012 có thể giảm nhẹ so với năm
2011, đạt 8 tỷ USD. Lý do là các kênh đầu tư truyền thống như bất động sản và lãi suất
ngoại tệ cao đang giảm mức hấp dẫn tại Việt Nam. Với bối cảnh vĩ mô toàn cầu được dự
báo sẽ khó khăn trong năm sau, dự báo mức giải ngân đối với nguồn vốn ODA sẽ ở mức
3,5 tỷ trong năm 2012.
Như vậy dự báo mức thặng dư của cán cân thanh toán tổng thể ở mức dương 0.5 tỷ USD
trong năm 2012. Mặc dù mức thặng dư có thể giảm song theo quan điểm của chúng tôi,
cán cân thanh toán tổng thể của Việt Nam có thể vẫn ở mức an toàn do nợ ngắn hạn nước
ngoài hiện nay của Chính phủ tương đối thấp. Tuy nhiên, mức giảm thặng dư này kết hợp

với tình trạng thâm hụt ngân sách và chính sách tài khoá mở rộng nhằm kích cầu của
Chính phủ vẫn sẽ gây áp lực rất lớn lên tỷ giá của Việt Nam trong năm 2012.
Theo dự báo, tỷ giá USD/VND sẽ có xu hướng tiếp tục tăng trong năm tới. Tuy nhiên,
không giống với diễn biến trong năm 2011, tỷ giá nhiều khả năng sẽ tăng trong vòng
kiểm soát và chủ động của NHNN bới thứ nhất NHNN sẽ không có áp lực điều hành tăng
tỷ giá nhằm hỗ trợ xuất khẩu. Trên thực tế, trong năm 2011 vừa qua, VND đã suy yếu
10% so với USD, trong khi các nước các đặc thù xuất khẩu tương tự như Việt Nam đã
tăng giá đáng kể trong năm qua (Rupee của Ấn Độ tăng giá 19%, Rupiah của Indonesia
tăng giá 5%).
Thứ hai, trong năm 2011 vừa qua, NHNN đã đẩy mạnh việc quản lý giao dịch ngoại hối
và vàng. Tuy đây chỉ là chính sách mang tính chất hành chính, nhưng trên thực tế các
chính sách này đã phần nào giảm sức hấp dẫn của việc đầu cơ, đặc biệt đối với vàng.
Thứ ba, việc xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân hàng (chủ yếu với các khoản cho vay bất
động sản trước đây) sẽ góp phần làm đồng VND yếu đi một cách tương đối. Việc NHNN
có thể phải hỗ trợ vốn cho các NHTM trong việc xử lý hoặc thanh lý các khoản vay
không có khả năng trả nợ. Việc này sẽ làm VND yếu đi so với các ngoại tệ khác. Năm
2011, dự báo thị trường BĐS vẫn khó có thể ấm lên, và tổng dự nợ BĐS còn tồn đọng
được dự báo vẫn ở mức khá cao.
Thứ tư, áp lực rút vốn của nhà đầu tư nước ngoài vẫn còn rất lớn. Khủng hoảng tài chính
thế giới khó có thể phục hồi trong ngắn hạn, nhu cầu khối ngoại rút vốn đầu tư vào các
thị trường trọng yếu, có độ rủi ro thấp ũng có thể là một áp lực làm tỷ giá tăng.

Mai Thị Huyền Trang

17


Tài chính quốc tế

CH20S


Thứ năm, hâm hụt thương mại sẽ duy trì ở mức 9-10 tỷ, tuy nhiên do Việt Nam vẫn là địa
chỉ hấp dẫn trong việc thu hút được nguồn vốn ODA, FDI hay kiều hối nên cán cân thanh
toán tổng thể không rơi vào tình trạng quá lo ngại.
Vấn đề thiếu hụt ngoại hối và tâm lý có thể sẽ không còn là vấn đề trọng tâm trong năm
2012. Tuy nhiên, áp lực về nguy cơ lạm phát tăng trở lại vào thời điểm cuối năm 2012 sẽ
khiến việc nâng tỷ giá sẽ diễn ra theo kịch bản thận trọng. Dự báo tỷ giá USD/VND vào
cuối năm tăng 3% có thể đạt mức 21.700-22.100 VND/USD.

KẾT LUẬN

Năm 2011 đã qua đi với nhiều khó khăn, trong năm 2012, một chính sách tiền tệ nới lỏng
cùng với việc hạ lãi suất, tỷ giá ổn định là điều mà doanh nghiệp mong đợi. Cách điều
hành của chính phủ đã có những thay đổi so với các năm trước, không chỉ ở sự mạnh tay
thay đổi mà cách điều hành cũng linh hoạt hơn chứ không cứng nhắc như trước. Điều này
mang đến những kỳ vọng mới cho các doanh nghiệp cũng như nhà đầu tư về một nền
kinh tế ổn định hơn trong tương lai.

Mai Thị Huyền Trang

18



×