Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG tín DỤNG NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP vừa và NHỎ tại NGÂN HÀNG TMCP QUÂN đội CHI NHÁNH HAI bà TRƯNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (388.92 KB, 65 trang )

ÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
HỌC VIỆN NGÂN HÀNG – KHOA NGÂN HÀNG
=========================

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG

KHOA NGÂN HÀNG

===========================

CHUYÊN ĐỀ
CHUYÊN
ĐỀTỐT
TỐTNGHIỆP
NGHIỆP
Đề tài : GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG,
PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI NGÂN HÀNG TMCP
QUÂN
(MB)
- CHINÂNG
NHÁNHCAO
HAI CHẤT
BÀ TRƯNG.
Đề
tài : ĐỘI
GIẢI
PHÁP
LƯỢNG TÍN DỤNG NGÂN



HÀNG PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI NGÂN
HÀNG TMCP QUÂN ĐỘI- CHI NHÁNH HAI BÀ TRƯNG.

Họ tên sinh viên: Nguyễn Thị Hà
Lớp : NHA- CĐ26
Khoa : Tài chính ngân hàng
Chuyên ngành: Ngân hàng thương mại
HÀ NỘI - 2012


MỤC LỤC


DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU

Biểu 1: Mô hình tổ chức của NH Quân đội- CN HBT

Trang
…………36

Bảng 1: Tình hình lợi nhuận của ngân hàng MB- CN HBT…………..37
Bảng 2: Tình hình huy động vốn của ngân hàng MB- CN HBT………38
Bảng 3.Cơ cấu DNV&N có quan hệ tín dụng chia theo loại hình doanh
nghiệp…………………………………………………………………… .40
Bảng 4. Cơ cấu DNV&N có quan hệ tín dụng chia theo ngành kinh tế.41
Bảng 5.Tình hình vay vốn của các DNV&N…………………………...42
Bảng 6. Tín dụng theo thời hạn………………………………………...43
Biểu đồ 2.………………………………………………………………..43
Bảng 7. Doanh số cho vay – thu nợ đối với DNV&N………………….44

Biểu đồ 3………………………………………………………………..45


MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Ký hiệu
NHNN
TPKT
DNVVN
DSTN
DSCV
DNTD
TCKT
TCTD

Tên đầy đủ
Ngân hàng nhà nước
Thành phần kinh tế
Doanh nghiệp vừa và nhỏ
Doanh số thu nợ
Doanh số cho vay
Dư nợ tín dụng
Tổ chức kinh tế
Tổ chức tín dụng


LỜI MỞ ĐẦU
Trong điều kiện toàn cầu hoá đang trở thành xu hướng phổ biến thì bên
cạnh quá trình hợp tác theo nguyên tắc hai bên cùng có lợi, giữa các quốc gia luôn
kèm theo quá trình cạnh tranh gay gắt, khốc liệt. Để có thể vực dậy và phát triển
một nền kinh tế với một cơ sở hạ tầng yếu kém về mọi mặt, để có thể thắng được

trong cạnh tranh, chúng ta cần có rất nhiều vốn. Kênh dẫn vốn trong nước, quan
trọng nhất cho nền kinh tế là hệ thống ngân hàng. Để có thể thu hút được nhiều vốn
thì một trong những điều cần phải làm là làm tốt công tác tạo đầu ra, tức là cấp tín
dụng cho nền kinh tế.
Tín dụng là chức năng quan trọng nhất của các tổ chức trung gian tài chính.
Là dịch vụ sinh lời chủ yếu (chiếm 60-70%lợi nhuận) và cũng là lĩnh vực chứa
đựng nhiều rủi ro nhất của các ngân hàng thương mại và các định chế tài chính
khác. Để củng cố và nâng cao chất lượng tín dụng là điều mà trước đây, bây giờ
và sau này đều được các nhà quản lý Ngân hàng cũng như các nhà chính sách và
các nhà nghiên cứu quan tâm. Nâng cao chất lượng tín dụng sẽ tạo điều kiện cho
ngân hàng thương mại làm tốt chức năng trung gian tín dụng trong nền kinh tế
và sẽ là cầu nối giữa phần tiết kiệm và đầu tư. Sẽ làm góp phần điều hoà nguồn
vốn trong xã hội, phân bố các nguồn vốn cho đầu tư một cách hợp lý, giảm lãng
phí ở những nơi thừa vốn trong xã hội, giảm khó khăn ở những nơi thiếu vốn,
tạo quan hệ tốt giữa cung và cầu vốn, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển hàng hoá và
tiền tệ.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNV&N) là một loại hình doanh nghiệp không
những thích hợp đối với nền kinh tế của những nước công nghiệp phát triển mà
còn đặc biệt thích hợp với nền kinh tế của những nước đang phát triển. Trước
đây, việc phát triển các DNV&N cũng đã được quan tâm, nhưng từ khi có
đường lối đổi mới kinh tế do Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng thì các doanh
nghịêp này mới thực sự phát triển nhanh cả về mặt lượng và chất. Trong điều
kiện của những bước đi ban đầu thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất
nước, có thể khẳng định việc đẩy mạnh phát triển DNV&N là bước đi hợp quy
luật đối với nước ta. DNV&N là công cụ góp phần khai thác toàn diện mọi
nguồn lực kinh tế đặc biệt là những nguồn tiềm tàng sẵn có ở mỗi người, mỗi
miền đất nước. Chúng ngày càng khẳng định vai trò to lớn của mình trong việc


giải quyết các mối quan hệ mà quốc gia nào cũng phải quan tâm chú ý đến đó là:

Tăng trưởng kinh tế - giải quyết việc làm - hạn chế lạm phát. Nhưng để thúc đẩy
phát triển DNV&N ở nước ta đòi hỏi phải giải quyết hàng loạt các khó khăn mà
các doanh nghiệp này đang gặp phải liên quan đến nhiều vấn đề. Trong đó khó
khăn lớn nhất, cơ bản nhất, phổ biến nhất, làm tiền đề cho các khó khăn nhất đó
là thiếu vốn sản xuất và đổi mới công nghệ. Vấn đề đặt ra là doanh nghiệp này
phải tìm vốn ở đâu trong điều kiện thị trường vốn ở Việt Nam chưa phát triển và
bản thân các doanh nghiệp này khó đáp ứng đủ điều kiện tham gia mà chúng ta
cũng chưa có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp này một các hợp lý. Vì vậy
phải giải quyết khó khăn về vốn cho các DNV&N đã và đang là một vấn đề cấp
bách mà Đảng, Nhà nước, bản thân các doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng cũng
phải quan tâm giải quyết.
Từ thực tế cho thấy nguồn vốn tín dụng ngân hàng đầu tư cho phát triển
DNV&N còn rất hạn chế vì các DNV&N khó đáp ứng đầy đủ điều kiện vay vốn
ngân hàng và khi tiếp cận nguồn vốn tín dụng thì các doanh nghiệp lại sử dụng
vốn chưa hợp lý và hiệu quả. Vì thế việc tìm ra giải pháp tín dụng nhằm phát
triển DNV&N đang là một vấn đề bức xúc hiện nay của các ngân hàng thương
mại.
Xuất phát từ quan điểm đó và thực trạng hoạt động của các DNV&N hiện
nay, sau một thời gian thực tập tại NH TMCP MB– CN HAI BÀ TRƯNG em đã
chọn đề tài:
“ Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và
nhỏ tại ngân hàngTMCP MB- CN HAI BÀ TRƯNG”
Nội dung chuyên đề bao gồm 3 chương:
Chương I: Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
Chương II: Thực trạng hoạt động tín dụng đối với DNV&N tại
NHTMCP MB- CN HAI BÀ TRƯNG
Chương III: Những giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với
DNV&N tại NHTMCP MB- CN HAI BÀ TRƯNG.
Bài chuyên đề của em được hoàn thành với sự hướng dẫn tận tình và sự chỉ
bảo, giúp đỡ nhiệt tình của các cán bộ, nhân viên ngân hàng thương mại cổ phần

MB- CN HAI BÀ TRƯNG, và bạn bè. Em xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới
toàn bộ thầy, cô giáo trong khoa Ngân hàng – Tài chính của Trường Học Viện


Ngân Hàng. Do kiến thức lý luận và hiểu biết thực tiễn còn hạn chế, thời gian
nghiên cứu chưa nhiều nên Chuyên Đề Tốt Nghiệp không tránh khỏi có những
khuyết điểm và thiếu sót. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến
của các thầy cô giáo và toàn thể các bạn đọc để bài viết được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh Viên
Nguyễn Thị Hà


CHƯƠNG I
HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường
1.1.1.Khái niệm và đặc trưng của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế
thị trường:
1.1.1.1 Khái niệm tín dụng ngân hàng.
Như chúng ta đã biết tín dụng là một phạm trù kinh tế và cũng là một sản
phẩm của nền kinh tế sản xuất hàng hóa, chính nó lại là động lực quan trọng
thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển lên giai đoạn cao hơn.
Qua nhiều giai đoạn tồn tại và phát triển, ngày nay tín dụng được hiểu theo
định nghĩa cơ bản sau: Tín dụng là một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ
kinh tế trong đó cá nhân (hay tổ chức) nhường quyền sử dụng một khối lượng
giá trị hay hiện vật cho cá nhân (hay tổ chức) khác với những ràng buộc nhất
định như: thời hạn hoàn trả (cả gốc lẫn lãi) lãi suất, cách thức vay mượn và thu
hồi. Tồn tại và phát triển qua nhiều hình thái kinh tế-xã hội, đã có nhiều khái
niệm khác nhau về tín dụng được đưa ra.
Tín dụng là quan hệ vay mượn, gồm cả đi vay và cho vay. Tuy nhiên khi

gắn với chủ thể là ngân hàng thì tín dụng ngân hàng nghĩa là ngân hàng cho vay.
Tín dụng là một chức năng cơ bản của ngân hàng
Vì vậy trên cở sở tiếp cận theo chức năng hoạt động của ngân hàng thì tín
dụng có thể dược hiểu như sau :
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa một bên là ngân hàng với một
bên là các tổ chức kinh tế, cá nhân, hộ gia đình trong xã hội trong đó ngân hàng
giữ vai trò vừa là người đi vay, vừa là người cho vay.
Đây là hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng, luôn chiếm tỷ trọng cao
nhất trong tổng tài sản nên tạo thu nhập từ lãi lớn nhất. Ở các nước trên thế giới
thì hoạt động tín dụng chiếm 50-60% lợi nhuận, còn ở Việt Nam thì chiếm tới
60-70%.Ngoài hoạt động huy động vốn thì tín dụng tạo ra nguồn lợi nhuận
chính duy trì hoạt động của ngân hàng. Hoạt động tín dụng ngân hàng được dựa
trên quyết định của thống đốc ngân hàng nhà nước số 1627/2001/QĐ-NHN ngày
31 tháng 12 năm 2001 về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng
đối với DN.


1.1.1.2.Đặc trưng của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường
Trong hoạt động kinh doanh tín dụng nói chung và tín dụng ngân hàng nói
riêng, đặc trưng của tín dụng đều dựa trên 3 đặc tính chủ yếu là: lòng tin, tính
hoàn trả và tính thời hạn
Thứ nhất, tín dụng là quan hệ vay mượn dựa trên cơ sở lòng tin. Việc
nghiên cứu khái niệm tín dụng cũng cho ta thấy tín dụng là sự cho vay có hứa
hẹn thời gian hoàn trả, sự hứa hẹn biểu hiện “mức tín nhiệm” hay “lòng tin” của
người cho vay vào người đi vay. Tuy yếu tố lòng tin là vô hình nhưng lại là yếu
tố không thể thiếu trong quan hệ tín dụng, đã bao trùm trong hoạt động tín dụng.
Điều kiện tiên quyết cho quan hệ tín dụng phát sinh.
Thứ hai, tín dụng là quan hệ vay mượn có thời hạn và có hoàn trả. Khác với
các quan hệ mua bán thông thường khác (khi trả tiền thì người mua trở thành
chủ sở hữu của vật mua hay còn gọi là “mua đứt bán đoạn”)

Lúc này quan hệ tín dụng chỉ trao đổi quyền sử dụng, giá trị các khoản vay
chứ không phải trao đổi quyền sở hữu khoản vay. Người cho vay giao giá trị
khoản vay dưới dạng hàng hoá hay tiền tệ cho người kia sử dụng trong một thời
gian nhất định. Khi đã khai thác hết giá trị sử dụng của khoản vay trong thời hạn
cam kết trong hợp đồng, thì người đi vay lúc này hoàn trả toàn bộ giá trị khoản
vay và một khoản lợi tức như cam kết trong hợp đồng với người cho vay.
Tất cả khoản vay dù ở dưới dạng hiện vật hoặc tiền tệ cũng đều là hàng
hoá. Nên nó đều mang giá trị và giá trị sử dụng nhất định. Trong kinh doanh tín
dụng người cho vay chỉ bán “giá trị (quyền) sử dụng của khoản vay” chứ không
bán “giá trị của khoản vay”.Nên sau khi hết thời gian sử dụng như đã cam
kết,các khoản vay sẽ được hoàn trả về với giá trị vẫn giữu nguyên.Phần lợi tức
như đã thoả thuận chính là “giá bán” quyền sử dụng khoản vay trong thời gian
nhất định.
Tín dụng được phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau, tùy theo đặc điểm
riêng của mỗi ngân hàng mà tín dụng được phân chia theo các hình thức phù
hợp.
1.1.2 Phân loại tín dụng
Có rất nhiều cách phân loại tín dụng khác nhau tùy theo mục đích quản lí
và yêu cầu của khách hàng.


Sau đây tín dụng được phân thành 4 loại: Theo thời gian, theo hình thức,
theo tài sản đảm bảo, theo rủi ro.
1.1.2.1 Theo thời gian: gồm Ngắn Hạn, Trung Hạn và Dài Hạn
Đây là loại có ý nghĩa rất quan trọng với ngân hàng do liên quan chặt chẽ
đến tính sinh lời và tính an toàn đặc biệt hơn là khả năng hoàn trả của khách
hàng.Thời hạn tín dụng thường được xác định cụ thể (ngày, tháng, năm) và ghi
trong hợp đồng tín dụng và ghi trong hợp đồng tín dụng, là thời hạn mà trong đó
ngân hàng cam kết cho khách hàng một khoản tín dụng. Thời hạn tín dụng có
thể được tính từ lúc đồng vốn đầu tiên của ngân hàng được phát ra đến lúc đồng

vốn và lãi cuối cùng phải thu về.
Thời hạn tín dụng có thể là thời gian mà khi kết thúc, ngân hàng sẽ xem xét
lại quan hệ tín dụng với khách hàng.
1.1.2.2.Theo hình thức
Bao gồm: chiết khấu, cho vay, bảo lãnh, cho thuê
Chiết khấu thương phiếu là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng
tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở
hữu một thương phiếu chưa đến hạn ( hoặc một giấy nợ). Về mặt pháp lí thì
ngân hàng không phải đã cho vay đối với chủ thương phiếu. Đây là hình thức
trao đổi trái quyền. NH ứng tiền cho người bán ,song thực chất là thay thế người
mua trả tiền trước cho người bán.
Cho Vay là việc NH đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải
hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định.
Bảo Lãnh là việc NH cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ khách
hàng của mình. Mặc dù không phải xuất tiền ra song ngân hàng đã cho khách
hàng sử dụng uy tín của mình để thu lợi.
Cho Thuê là việc NH bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê theo
những thỏa thuận nhất định. Sau thời gian nhất định, khách hàng phải trả gốc lẫn
lãi cho ngân hàng.
1.1.2.3 Theo tài sản đảm bảo
Tài sản đảm bảo các khoản tín dụng chi phép ngân hàng có được nguồn
thu nợ thứ hai bằng cách bán các tài sản đó khi nguồn thu nợ thứ nhất không có
hoặc không đủ.


Được phân thành tín dụng có đảm bảo bằng uy tín của chính khách
hàng, có đảm bảo bằng thế chấp ,cầm cố tài sản.
Cam kết đảm bảo là cam kết của người nhận tín dụng về việc dùng tài sản
mà mình đang sở hữu hoặc sử dụng hoặc khă năng trả nợ của người thứ ba để trả
nợ cho ngân hàng

Tín dụng không cần tài sản đảm bảo có thể được cấp cho các khách hàng
uy tín, thường là khách hàng làm ăn thương xuyên có lãi, tình hình tài chính
vững mạnh, ít xảy ra tình trạng nợ nần hoặc món vay tương đối nhỏ so với vốn
của người vay.
Tín dụng dựa trên cam kết đảm bảo yêu cầu ngân hàng và khách hàng phải
kí kết hợp đồng đảm bảo. Ngân hàng phải kiểm tra, đánh giá được tình trạng của
tài sản đảm bảo ( quyền sở hữu, giá trị, tính thị trường, khả năng bán…) có khả
năng giám sát việc sử dụng hoặc có khả năng bảo quản tài sản đảm bảo.
1.1.2.4 Theo rủi ro
Để phân loại ngân hàng phải dựa trên các mức độ. Ngân hàng lớn thường
chia tới 10 thang bậc rủi ro từ thấp đến cao cho các khoản mục tài sản bao gồm
cả nội và ngoại bảng, cho vay, bảo lãnh, chứng khoán.
Với cách phân loại này làm cho ngân hàng thường xuyên đánh giá lại tính
an toàn của các khoản tín dụng, trích lập dự phòng tổn thất kịp thời.
Tín dụng lành mạnh là các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao.
Tín dụng có vấn đề là các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh như
khách hàng chậm tiến độ tiêu thụ, tiến độ thực hiện kế hoạch bị chậm…
Nợ quá hạn có khă năng thu hồi là các khoản nợ đã quá hạn với thời hạn
ngắn và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá trị lớn..
Nợ quá hạn khó đòi là nợ quá hạn quá lâu, khả năng trả nợ rất kém, tài sản
thế chấp nhỏ hoặc bị giảm giá.
1.1.2.5 Theo phân loại khác
Theo ngành kinh tế ( công, nông nghiệp…)
Theo đối tượng tín dụng ( tài sản lưu động, tài sản cố định)
Theo mục đích (sản xuất, tiêu dùng)
Với các cách phân loại như trên cho ta thấy được tính đa dạng của hoặc
chuyên môn hóa trong cấp tín dụng của ngân hàng. Với xu hướng đa dạng hóa
các ngân hàng sẽ mở rộng phạm vi tài trợ. Phân loại như trên làm cho ngân hàng



theo dõi rủi ro và sinh lợi gắn liền với những lĩnh vực tài trợ cho chính sách lãi
suất, bảo đảm, hạn mức, chính sách mở rộng phù hợp.
1.1.3 Các hình thức tín dụng ngân hàng
Hầu hết tất cả các ngân hàng khi phân loại hình thức tín dụng đều chia theo
loại tín dụng ngắn hạn,trung hạn và dài hạn.Bởi mỗi hình thức đều có những lợi
thế giúp ngân hàng đem lại lợi nhuận
1.1.3.1 Tín dụng ngắn hạn: là nguồn tài trợ cho tài sản lưu động hoặc nhu
cầu sử dụng sử dụng vốn ngắn hạn của nhà nước, doanh nghiệp, hộ sản
xuất.Ngân hàng có thể áp dụng cho vay trực tiếp hoặc gián tiếp, cho vay từng
lần hoặc theo hạ mức, có hoặc không cần đảm bảo, dưới hình thức chiết khấu,
thấu chi, hoặc luân chuyển
1.1.3.2 Tín dụng trung và dài hạn
Tín dụng trung hạn: Theo quy định hiện nay của ngân hàng nhà nước Việt
Nam, tín dụng trung hạn có thời hạn từ 1 năm đến 3 năm, còn đối với các ngân
hàng thương mại trên thế giới loại tín dụng có thời hạn đến 7 năm. Tín dụng
trung hạn chủ yếu được đầu tư để mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới
thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có
quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh.
Còn tín dụng dài hạn thì theo quy định ở luật Việt Nam loại tín dụng có
thời hạn trên 3 năm, còn trên thế giới loại tín dụng này có thời hạn trên 7 năm.
Là loại tín dựng cung cấp để đáp ứng nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà ở, các
thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dung các xí nghiệp mới.
Có hai hình thức cho vay: cho vay bằng cách mua trái phiếu và cho vay
theo các dự án. Các doanh nghiệp mua các trái phiếu trung và dài hạn doanh
nghiệp nhằm tài trợ cho việc hình thành tài sản cố định
Khi khách hàng có kế hoạch mua sắm , xây dựng tài sản cố định nhằm thực
hiện dự án nhất định thì sẽ xin vay của ngân hàng. Nhưng khách hàng phải đưa
ra những dự án khả thi, đem lại lợi nhuận cao trong tương lai thì NH sẽ cho vay.
Lúc này NH bên người vay phải xây dựng dự án, thực hiện mục đích kế hoạch
đầu tư cũng như quá trình thực hiện dự án.

1.1.3.3. Các hình thức tài trợ tín dụng chuyên biệt
Một trong những nghiệp vụ của ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ bảo
lãnh cho khách hàng bằng chính uy tín của mình. Đây là nghiệp vụ đặc biệt mà


ngân hàng lại không phải cung cấp tiền, nhưng khi người bảo lãnh không thực
hiện được nghĩa vụ theo hợp đồng thì người bảo lãnh phải thay thế để thực hiện
nghĩa vụ thanh toán. Với đặc điểm khác biệt như thế , mà người ta gọi hành vi
cam kết bảo lãnh của ngân hàng là tín dụng bằng chữ ký.Cho thuê tài chính hình
thức cho thuê bằng tài sản rất phổ biến và đa dạng
1.2 Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển của Doanh
nghiệp vừa và nhỏ ( DNV&N)
1.2.1 Những vấn đề chung về DNV&N trong nền kinh tế thị trường
1.2.1.1 Khái niệm, đặc điểm và phân loại DNV&N
a. Khái niệm chung:
DNV&N là những cơ sở sản xuất kinh doanh có tư cách pháp nhân kinh
doanh vì mục đích lợi nhuận, có quy mô doanh nghiệp trong những giới hạn
nhất định tính theo các tiêu thức vốn, lao động, doanh thu, giá trị gia tăng thu
được trong từng thời kì theo quy định của từng quốc gia.
Khái niệm DNV&N ở Việt Nam “là những cơ sở sản xuất kinh doanh có tư
cách pháp nhân, không phân biệt thành phần kinh tế, có quy mô về vốn hoặc lao
động thoả mãn các quy định của Chính phủ đối với từng ngành nghề tương ứng
với từng thời phát triển của nền kinh tế”
Theo quy định tại Điều 3. Định nghĩa DNV&N của Nghị định số
90/2001/NĐ-CP ngày 23 tháng 11 năm 2001 có nêu :“DNV&N là cơ sở sản
xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có
vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không
quá 300 người”.
b. Phân loại
Căn cứ vào qui mô DNV&N có thể chia thành ba loại:

+ Doanh nghiệp siêu nhỏ: Theo tiêu chí của nhóm ngân hàng thế giới thì
doanh nghiệp siêu nhỏ là doanh nghiệp có số lượng lao động dưới 10 người.
+ Doanh nghiệp nhỏ: nghiệp nhỏ có số lượng lao động từ 10 đến dưới 50
người.
+ Doanh nghiệp vừa: có từ 50 đến 300 lao động. Tùy theo mỗi nước, có
những tiêu chí riêng để xác định DNV&N.
Tuy nhiên ở Việt Nam, không phân biệt lĩnh vực kinh doanh, các doanh
nghiệp có số vốn đăng ký dưới 10 tỷ đồng hoặc số lượng lao động trung bình


hàng năm dưới 300 người được coi là DNV&N (không có tiêu chí xác định cụ
thể đâu là doanh nghiệp siêu nhỏ, đâu là nhỏ, và đâu là vừa).
c. Đặc điểm
* Trên thị trường DNV&N có số lượng lớn
Theo luật DN quy định, việc thành lập yêu cầu số vốn nhỏ. Vì vậy số lượng
DNV&N chiếm một tỷ trọng lớn trong nền kinh tế. Với ưu điểm là vốn điều lệ
thấp, điều này đã tạo một động lực to lớn cho các tổ chức kinh tế tư nhân đứng
ra thành lập doanh nghiệp của mình.
Mặt khác, từ trước đó đã tồn tại không ít các doanh nghiệp nhà nước có
quy mô vốn nhỏ, lao động ít như các hợp tác xã, các doanh nghiệp nhà nước mới
thành lập hoặc được tách ra…Với đặc điểm là vốn pháp định nhỏ như vậy, số
lượng các DNV&N đã chiếm phần lớn về số lượng trong nền kinh tế và có tốc
độ gia tăng ngày càng cao
* Với quy mô vốn nhỏ mà lao động ít
Tuy tăng nhanh về số lượng nhưng nếu xét về quy mô vốn của các
DNV&N trong những năm gần đây thì lại rất thấp, chỉ dừng ở mức trung bình
trên 2 tỷ đồng/doanh nghiệp(năm 2007).
Với đặc điểm số vốn nhỏ làm cho các doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn
trong việc mở rộng thị trường và làm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Và
khó khăn hơn cả là trong việc cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn sản xuất

cùng một loại sản phẩm trong thị trường. Nhất là khi nền kinh tế có những biến
động lớn, ví dụ biến động về đầu vào sẽ DNV&N khó có khả năng chống đỡ dẫn
đến bị phá sản là điều tất yếu. Mặt khác, với đặc điểm số lao động ít, các
DNV&N sẽ gặp nhiều cản trở trong quá trình sản xuất kinh doanh và mở rộng
sản xuất kinh doanh.
Mặt khác tình trạng ít lao động như vậy , DNV&N sẽ khó tìm được các lao
động với tay nghề cao, có kinh nghiệm lâu năm dẫn đến khó mở các lớp đào tạo
nâng cao tay nghề nghiệp vụ cho những người có trình độ tay nghề còn yếu
kém.
Một vấn đề nữa là đa số người lao động, nhất là người lao động có tay nghề
nghiệp vụ, trình độ chuyên môn giỏi, khi tìm kiếm việc làm đều mong muốn và
có xu hướng muốn vào các doanh nghiệp lớn trên thị trường để có thu nhập cao
hơn. Tạo cơ hội cho họ có thể thể hiện năng lực của mình nhiều hơn. Vấn đề này


khiến các DNV&N gặp khó khăn trong quá trình tuyển dụng lao động và phải
đầu tư nhiều hơn cho công tác marketing tuyển dụng lao động.
* Hầu hết các DNV&N là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Do đặc điểm về quy mô vốn và số lượng lao động nhỏ nên DNV&N chủ
yếu là các doanh nghiệp tư nhân thường chiếm khoảng 80% đã tạo khó khăn cho
việc quản lý các DNV&N. Nhất là đối với các doanh nghiệp tư nhân hoạt động
linh hoạt nhưng kém hiệu quả.
Các doanh nghiệp tư nhân khi bắt đầu thành lập và trong quá trình hoạt
động chưa có một tầm nhìn chiến lược hoạt động cho doanh nghiệp. Trong khi
vận hành sản xuất kinh doanh, khi xảy ra biến cố thì không có kinh nghiệm
chống đỡ hoặc không đủ khả năng chống đỡ dẫn đến thua lỗ hoặc nặng hơn là
phá sản. Việc quản lý các doanh nghiệp tư nhân cũng rất khó khăn. Một khi đã
cố tình làm ăn phi pháp, có hành vi trốn thuế và không thực hiện đúng chế độ
kế toán thống kê. Để quản lý tốt các DNV&N, đòi hỏi một sự theo dõi sát sao
và thực sự có hiệu quả. Như vậy mới có thể kiểm soát được hoạt động của loại

hình doanh nghiệp này.
* Kinh nghiệm hoạt động còn chưa nhiều
Không kể các doanh nghiệp nhà nước vừa và nhỏ đã thành lập lâu đời và
hoạt động ổn định thì đa số các DNV&N đều là các doanh nghiệp tư nhân được
thành lập trong hoặc sau thời kỳ mở cửa nền kinh tế hay các doanh nghiệp Nhà
nước vừa được tách ra.
Với những DNV&N thành lập khá lâu nhưng hoạt động sản xuất kinh
doanh tốt, làm ăn có hiệu quả. Sẽ dần dần mở rộng nguồn vốn của mình và
đương nhiên sau một thời kì họ đứng vào hàng ngũ những doanh nghiệp lớn.
Như vậy, kinh nghiệm hoạt động của loại hình doanh nghiệp này chưa nhiều,
với đặc điểm số vốn lại ít, bề dày kinh nghiệm hạn chế. Các DNV&N gặp khó
khăn trong việc duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh, chống đỡ với những thay
đổi trong quá trình hoạt động của mình.
* Trình độ công nghệ và phương pháp quản lý lạc hậu
Với đặc điểm nền kinh tế chưa thực sự phát triển đây là vấn đề nổi cộm đối với
tổng thể các doanh nghiệp của nước ta. Một thực trạng phổ biến và đáng báo
động là trong các DNV&N hiện nay thì hệ thống máy móc, thiết bị lạc hậu.


Có khoảng 10-15 năm trong ngành điện tử, 15 năm đối với ngành cơ khí,
70% công nghệ ngành dệt may đã sử dụng được 15 năm. Nhưng trên thế giới thì
tỷ lệ đổi mới trang thiết bị trung bình hàng năm của chỉ ở mức 5-7% so với
20%. Công nghệ lạc hậu làm tăng chi phí tiêu hao 1,5 lần so với định mức tiêu
chuẩn của thế giới. Thực trạng này dẫn đến tăng chi phí đầu vào, cao hơn từ 30 50% so với các nước ASEAN, đồng thời dẫn đến chất lượng sản phẩm giảm, giá
thành cao và năng suất thấp.
Mà việc tiếp cận thông tin cũng như các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh lại còn
yếu kém. Một phần là do chất lượng nguồn nhân lực thấp, hạn chế về trình độ
chuyên môn, tin học, ngoại ngữ của giám đốc và đội ngũ quản lý doanh nghiệp.
Và hơn nữa lại là do đầu tư cho hệ thống thông tin thấp, chưa có phương tiện kỹ
thuật nên chưa theo kịp diễn biến của thị trường.

Vì thế, nhiều quyết định kinh doanh được đưa ra chỉ dựa vào kinh nghiệm
và phán đoán cảm tính, đây là điểm yếu nhất của các DNV&N trước áp lực cạnh
tranh quốc tế.
* Các DNV&N hoạt động linh hoạt, năng động
Các DNV&N là những thành phần hoạt động linh hoạt nhất trong nền kinh
tế. Kinh tế dù có thay đổi cái nhỏ nhất đi nữa thì các DNV&N đều chịu tác
động và phải điều chỉnh hoạt động của mình để phù hợp với mỗi biến đổi cho dù
ảnh hưởng tốt hay là xấu. Với tính năng động như vậy, các DNV&N đã đạt được
hiệu quả trong hoạt động cũng như đóng góp không nhỏ vào nền kinh tế. Sự đa
dạng về loại hình hoạt động, phương thức quản lý và sản phẩm của các DNV&N
giúp cho họ đứng vững được trong thị trường.
Với những đặc điểm nổi bật như trên thì DNV&N còn có những hạn chế
như:
* Vị thế trên thị trường thấp mà tiềm lực tài chính lại nhỏ nên khả năng
cạnh tranh thấp.
* Khả năng huy động vốn còn kém để đầu tư đổi mới công nghệ giá trị cao
tạo điều kiện để đào tạo nhân công, đầu tư cho nghiên cứu, thiết kế cải tiến công
nghệ, đổi mới sản phẩm còn kém
Trong nhiều trường hợp thường bị động vì phụ thuộc vào hướng phát triển
của các doanh nghiệp lớn và tồn tại như một bộ phận của doanh nghiệp lớn


1.2.1.2 Vị trí và vai trò của DNV&N trong nền kinh tế thị trường
Với bối cảnh hiện nay nền kinh tế Việt Nam đang chuyển đổi sang nền
kinh tế thị trường và hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới thì DNV&N đã và
đang đóng vai trò quan trọng về nhiều mặt: Đảm bảo nền tảng ổn định và bền
vững của nền kinh tế; đảm bảo phát huy động tối đa các nguồn lực cho đầu tư
phát triển; đáp ứng một cách linh hoạt nhu cầu của các ngành kinh tế quốc dân;
góp phần cải thiện thu nhập và giải quyết việc làm cho một bộ phận đông đảo
dân cư; xoá đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống và thu hẹp khoảng cách phát

triển giữa các vùng đất nước.
Với những hoạt động của các DNV&N đã và đang góp một phần không
nhỏ vào sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Nó đã và đang tạo ra một mạng
lưới liên kết giữa các thành phần kinh tế với nhau, thúc đẩy và lưu thông các
nguồn lực sẵn có trong xã hội như: vốn, nhân lực...
Gần đây thì vai trò của các DNV&N lại càng được nhấn mạnh trong việc
cộng đồng các nhà tài trợ. Cùng với vai trò tạo việc làm của mình, có thể nói
nhân tố chính trong việc giảm nghèo, đặc biệt là tại khu vực nông thôn là có sự
giúp đỡ nhiệt tình của DNV&N. Đây là mục tiêu phát triển chính yếu hiện được
ưu tiên của cộng đồng các nhà tài trợ, đang nhận được nhiều sự khích lệ trong
chính sách thúc đẩy sự phát triển DNV&N của mình.
Trong quá trình hoạt động và sản xuất các DN đã cung cấp hàng hoá và tạo
ra sự lưu thông hàng hoá trong thị trường. Nhưng để hoạt động sản xuất kinh
doanh một cách có hiệu quả thì các doanh nghiệp phải xây dựng và lập chiến
lược phát triển cụ thể trong quá trình kinh doanh. Ở Việt Nam các DNV&N chủ
yếu tập trung vào các ngành thương mại, sửa chữa thủ công nghiệp (chiếm
40,6% DN của cả nước), tiếp đến là các ngành chế biến (20,9%), xây dựng
(13,2%) và các ngành còn lại như kinh doanh bất động sản, tư vấn, khách sạn,
nhà hàng (25,3%).
Có nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau, nếu phân theo hình thức sở
hữu thì gồm có doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp
liên doanh, doanh nghiệp cổ phần… Theo quy mô nguồn vốn thì có doanh
nghiệp lớn và DNV&N.
Trong chuyên đề này tôi lựa chọn DNV&N vì đây là một bộ phận chiếm tỷ
trọng lớn trong hệ thống các doanh nghiệp và đóng góp một vai trò không nhỏ


trong phát triển nền kinh tế trong tương lai. Nếu chúng ta có một định hướng
đúng đắn đối với các DNV&N thì sẽ có một sự thúc đẩy phát triển kinh tế to
lớn, từ đó làm điểm tựa vững chắc để đưa đất nước phát triển.

Hiện nay, các DNV&N tập trung chủ yếu ở thành thị ,chủ yếu ở các thành
phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng ... và các
tỉnh thuộc khu vực đồng bằng bắc bộ.
1.2.1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển của
DNV&N
Thứ nhất là trình độ phát triển kinh tế xã hội. Đây là nhân tố quan trọng
ảnh hưởng trực tiếp đến DNV&N. Xã hội ngày càng phát triển cùng với sự tăng
trưởng kinh tế ngày càng mạnh mẽ sẽ làm nền tảng cho các doanh nghiệp phát
triển vượt bậc. Làm cho doanh nghiệp có nhiều cơ hội hội nhập với thị trường
nước ngoài mang lại nguồn thu rất lớn và học hỏi được những kinh nghiệm quý
báu trong làm việc với các nước bạn để áp dụng cho nước mình làm cho ngày
càng phát triển hơn.
Thứ hai, chính sách và cơ chế quản lí. Nếu chính sách càng thông thoáng
thì làm cho doanh nghiệp dễ làm ăn trong khuôn khổ cho phép. Với cơ chế quản
lí thích hợp sẽ tạo tiền đề cho doanh nghiệp phát triển nhanh chóng.
Thứ ba. Đội ngũ các nhà sáng lập và quản lý doanh nghiệp. Những người
sáng lập là những người quyết định đến định hướng làm việc của doanh nghiêp
như làm cái gi, làm như thế nào. Còn người quản lí lại là người quyết định đến
sự phát triển và thành công. Vì một người quản lí giỏi sẽ có những quyết định
thật sang suốt và tìm ra những giải pháp hữu hiệu nhất.
Thứ tư, Sự phát triển và khả năng ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ.
Đây là điều kiện cần cho doanh nghiệp nếu muốn được phát triển, sản phẩm làm
ra đang tiêu thụ tốt trên thị trường
Thứ năm,Tình hình thị trường: Khi tình hình thị trường tốt nghĩa là doanh
nghiệp có thể phát triển theo chiều hướng thuận lợi, nhưng khi thị trường chững
lại thì doanh nghiệp sẽ bị giảm lợi nhuận làm cho doanh nghiệp có thể có nguy
cơ phá sản. Vì thế yếu tố thị trường là rất quan trọng. Các doanh nghiệp cần phải
có đội ngũ cán bộ có kinh nghiệm để phân tích thị trường để đưa ra những quyết
định đúng đắn làm cho doanh nghiệp ngày càng phát triển.



1.2.2 Vai trò của tín dụng ngân hàng trong phát triển DNV&N
- Tín dụng ngân hàng góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn để tránh
tình trạng sử dụng vốn sai mục đích. Khi các doanh nghiệp đi xin vay tín dụng
của các ngân hàng thì đầu tiên doanh nghiệp cần phải lập dự án có tính khả thi
cao thì mới có thể được chấp nhận và đòi hỏi thủ tục pháp lí rất nghiêm ngặt
- Tín dụng ngân hàng góp phần bảo đảm cho hoạt động của doanh nghiệp
được liên tục thuận lợi. Khi doanh nghiệp gặp khó khăn trong kinh doanh như
thiếu vốn để sản xuất thì ngân hàng có thể cho vay với một mức lãi suất hợp lí
để có thể sản xuất kịp tiến độ.
- Tín dụng ngân hàng góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của
DNV&N.
- Tín dụng ngân hàng giúp doanh nghiệp hạn chế rủi ro.
- Tín dụng ngân hàng góp phần hình thành cơ cấu vốn tối ưu cho DNV&N.
1.3 Tổng quan về chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
tại ngân hàng thượng mại
1.3.1 Tổng quan chất lượng tín dụng
Trong hoạt động ngân hàng thương mại, hoạt động tín dụng là một nghiệp
vụ mang lại phần lớn doanh lợi nhưng cũng là nơi ẩn chứa nhiều rủi ro có khả
năng xảy ra với tỷ lệ cao. Trên thực tế nhiều nhân viên ngân hàng quan niệm cho
vay có tài sản cầm cố thế chấp, nhưng không quá tỉ lệ qui định là an toàn nhất.
Trên thực tế cho thấy quan niệm này hết sức sai lầm bởi vì kết quả hoạt động
sản xuất kinh doanh và khả năng tài chính của khách hàng là vấn đề quan trọng
nhất để đảm bảo khả năng trả nợ của khách và khả năng thu hồi vốn gốc và lãi
của ngân hàng
Đối với các ngân hàng thương mại, cái được biểu hiện ra bên ngoài vừa cụ
thể, vừa trừu tượng của hoạt động tín dụng chính là chất lượng tín dụng. Chỉ khi
chất lượng tín dụng tốt tức là ngân hàng có nhiều khách hàng, uy tín ngân hàng
được nâng cao tạo điều kiện thúc đẩy cho ngân hàng phát triển.
Chất lượng tín dụng là sự đáp ứng yêu cầu tín dụng của khách hàng phù

hợp với sự phát triển kinh tế xã hội đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân
hàng, hay chất lượng tín dụng là kết quả tổng hợp của những thành tựu hoạt
động tín dụng thể hiện ở sự phát triển ổn định, vững chắc của nền kinh tế quốc
dân.


Để xem xét chất lượng tín dụng của ngân hàng nói chung và đối với
DNV&N nói riêng, cần tính đến ba nhân tố là ngân hàng thương mại, khách
hàng, và nền kinh tế.
Thứ nhất, chất lượng tín dụng xét từ giác độ khách hàng
Ngân hàng và khách hàng là hai chủ thể có mối quan hệ lâu dài với sự am hiểu
khách hàng sẽ làm cho hiểu rõ nhu cầu tín dụng của ngân hàng, đảm bảo thoả
mãn nhu cầu hợp lý về vốn cho họ. Trong bối cảnh cạnh tranh hiện nay, chất
lượng là yêu tố luôn cần thiết được đặt lên hàng đầu. Vì vậy chất lượng tín dụng
là sự đáp ứng yêu cầu hợp lý của khách hàng, lãi suất hợp lý, thủ tục đơn giản
không phiền hà, thu hút được khách hàng. Nhưng vẫn đảm bảo đúng nguyên tắc
và quy định của tín dụng phù hợp với tốc độ phát triển của xã hội, đảm bảo sự
tồn tại và phát triển của ngân hàng, góp phần làm lành mạnh tài chính khách
hàng.
Thứ hai, Xét từ giác độ ngân hàng thương mại
Được thể hiện ở phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp với khả
năng, thực lực theo hướng tích cực của bản thân ngân hàng cũng như phải đảm
bảo được sự cạnh tranh trên thị trường; đảm bảo nguyên tắc hoàn trả đúng hạn
và có lãi. Khi chất lượng hoạt động tín dụng phải thể hiện ở chỉ tiêu lợi nhuận
hợp lý và dư nợ ngày càng tăng trưởng, tỷ lệ nợ quá hạn đảm bảo đúng quy định
và hợp lý. Sẽ đảm bảo cơ cấu nguồn vốn giữa ngắn hạn, trung và dài hạn trong
nền kinh tế. Đối với một ngân hàng nhỏ thì nên cấp tín dụng với mức độ và
trong phạm vi nhất định để thoả mãn một cách tốt nhất khách hàng của mình.
Thứ ba, Xem xét từ giác độ nền kinh tế
Khi nền kinh tế khi chuyển sang cơ chế thị trường thì tín dụng ngân hàng cần

phải có sự năng động. Tín dụng phải huy động mức tối đa vốn tiền tệ tạm thời
nhàn rỗi trong nền kinh tế xã hội để cung ứng cho các doanh nghiệp, hỗ trợ các
doanh nghiệp phát triển.
Chất lượng tín dụng thể hiện ở tính an toàn cao của hệ thống ngân hàng.
Khi tín dụng thể hiện chất lượng cao thì làm nâng cao khả năng thanh toán chi
trả, rủi ro hệ thống được giảm thiểu. Nâng cao chất lượng tín dụng làm cho hệ
thống ngân hàng lớn mạnh sẽ đáp ứng yêu cầu quản lí kinh tế vĩ mô làm cho
thúc đẩy nền kinh tế phát triển hòa nhập với cộng đồng quốc tế.


Tóm lại, chất lượng tín dụng là một khái niệm vừa cụ thể vừa trừu tượng,
nhưng lại là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp. Muốn vậy thì hoạt động tín dụng phải
có hiệu quả và quan hệ tín dụng phải được thiết lập trên cơ sở sự tin cậy và uy
tín của ngân hàng. Cần tìm hiểu bản chất cũng như phân tích và đánh giá đúng
chất lượng tín dụng và xác định chính xác các nguyên nhân tồn tại sẽ giúp ngân
hàng tìm được giải pháp quản lý thích hợp để có thể đứng vững trong nền kinh
tế thị trường có sự cạnh tranh gay gắt hiện nay.
1.3.2 Các tiêu thức đánh giá chất lượng tín dụng
Đây là một chỉ tiêu tổng hợp, phản ánh độ thích nghi của Ngân hàng
thương mại với sự thay đổi của môi trường bên ngoài của chất lượng tín dụng.
Thể hiện sức mạnh của một ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại và
phát triển. Muốn đánh giá được ngân hàng đó mạnh hay yếu thì phải thông qua
đánh giá chất lượng tín dụng như thế nào. Có rất nhiều chỉ tiêu đánh giá, mỗi
cách mang một góc nhìn khác nhau về chất lượng tín dụng. Nhưng trong chuyên
để này chỉ đề cập đến 2 chỉ tiêu: Chỉ tiêu mang tính định tính và chỉ tiêu mang
tín định lượng
1.3.2.1 Các tiêu thức định tính
Nếu chúng ta đến một ngân hàng nào đó, đầu tiên khi ta vào bãi gửi xe
được nhân viên trông giữ xe tiếp đón một cách vui vẻ, nhiệt tình và gửi xe
không mất phí thì ấn tượng đầu tiên của bạn về ngân hàng sẽ rất tốt đẹp

Khi vào làm việc với ngân hàng, để khách hàng không khỏi bỡ ngỡ, đỡ tốn
thời gian thì đã có sơ đồ chỉ dẫn các phòng ban làm việc rõ ràng giúp cho công
việc diễn ra nhanh chóng. Điều đó làm cho bạn có ấn tượng tốt về ngân hàng
Cách bố trí sắp sếp trong phòng làm việc của ngân hàng, trang phục của
nhân viên, đặc biệt là thái độ của cán bộ tín dụng ảnh hưởng rất lớn tới chất
lượng tín dụng của ngân hàng. Nếu chất lượng tín dụng cao thì chắc chắn Ngân
hàng sẽ có nhiều khách hàng mới. Uy tín của ngân hàng cũng góp phần làm nên
chất lượng tín dụng của Ngân hàng.
Như vậy, dựa vào các chỉ tiêu định tính có thể đánh giá được phần nào chất
lượng tín dụng của các ngân hàng thương mại.


1.3.2.2 Các tiêu thức định lượng
a. Tổng dư nợ và kết cấu dư nợ
Tổng dư nợ là một chỉ tiêu phản ánh khối lượng tiền ngân hàng cấp cho nền
kinh tế tại một thời điểm nhất định
Tổng dư nợ bao gồm dư nợ cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn.
Nếu tổng dư nợ thấp chứng tỏ hoạt động của ngân hàng yếu kém sẽ không
có khả năng mở rộng làm cho khả năng tiếp thị của ngân hàng kém, trình độ cán
bộ công nhân viên thấp.
Nhưng lại không có nghĩa là chỉ tiêu này càng cao thì chất lượng tín dụng
càng cao bởi vì đằng sau những khoản tín dụng đó còn những rủi ro tín dụng mà
ngân hàng phải gánh chịu có nhiều khi không thể dự đoán chính xác được.
Nó phản ánh quy mô tín dụng của ngân hàng, sự uy tín của Ngân hàng đối
với doanh nghiệp. Tổng dư nợ của ngân hàng khi so sánh với thị phần tín dụng
của ngân hàng trên địa bàn sẽ cho chúng ta biết được dư nợ của ngân hàng là
cao hay thấp.
Mặt khác, Kết cấu dư nợ lại phản ánh tỷ trọng của các loại dư nợ trong tổng
dư nợ. Khi phân tích kết cấu dư nợ sẽ giúp ngân hàng biết được cần đẩy mạnh
cho vay theo loại hình nào để cân đối với thực lực của ngân hàng. Kết cấu dư nợ

khi so với kết cấu nguồn huy động sẽ cho biết rủi ro của loại hình cho vay nào là
nhiều nhất.
x 100% ≤ 5%
b. Chỉ tiêu tỉ lệ nợ xấu
Tỷ lệ nợ xấu là tỷ lệ phần trăm giữa nợ xấu và tổng dư nợ của NHTM ở
một thời điểm nhất định, thường là cuối tháng, cuối quý, cuối năm. Chỉ tiêu này
được tính theo công thức dưới đây:

Tỷ lệ nợ xấu

=

Nợ xấu
Tổng dư nợ

Nếu chỉ dựa vào chỉ tiêu nợ quá hạn thì chưa đánh giá chính xác về chất
lượng tín dụng của các NH. Theo quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày
22/04/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà Nước “ V/v Ban hành quy định về
phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt
động NH của TCTD” đã đánh giá chính xác hơn chất lượng tín dụng của các


TCTD. Theo Quyết định 493 thì nợ xấu là nợ thuộc nhóm 3,4,5 theo cách phân
loại nợ dưới đây.
Chỉ tiêu này phản ánh nợ xấu của một ngân hàng, tỷ lệ này càng thấp càng
tốt. Trên thực tế chúng ta cũng biết rủi ro trong kinh doanh điều là không tránh
khỏi, nên ngân hàng thường chấp nhận một tỷ lệ nhất định được coi là giới hạn
an toàn. Mức giới hạn này ở mỗi nước là khác nhau, riêng ở hiện nay chấp nhận
tỷ lệ là 5%.
Nợ chia làm 5 nhóm:

Nợ nhóm 1( nợ đủ tiêu chuẩn) là Các khoản nợ trong hạn và tổ chức tín
dụng đánh giá là có khả năng thu hồi đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn; Các khoản
nợ quá hạn dưới 10 ngày và tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng thu hồi đầy
đủ gốc và lãi bị quá hạn và thu hồi đầy đủ gốc và lãi đúng thời hạn còn lại
Nợ nhóm 2 (nợ cần chú ý) bao gồm Các khoản nợ quá hạn từ 10 ngày đến
90 ngày; Các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu (đối với khách hàng là
DN, tổ chức thì tổ chức tín dụng phải có hồ sơ đánh giá khách hàng về khả năng
trả nợ đầy đủ nợ gốc và lãi đúng kỳ hạn được điều chỉnh lần đầu).
Nợ nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm Các khoản nợ quá hạn từ 91
ngày đến 180 ngày; Các khoản nợ cơ cấu lại có thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các
khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu phân loại vào nhóm 2; Các khoản nợ
được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi đầy đủ theo
hợp đồng tín dụng.
Nợ nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) là Nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày; Các
khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn trả nợ
được cơ cấu lại lần đầu; Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai.
Nợ nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm Các khoản nợ quá hạn trên
360 ngày; Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày
trở lên theo thời hạn trả nợ đã được cơ cấu lại lần đầu; Các khoản nợ cơ cấu lại
thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần thứ
hai; Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị quá
hạn hoặc đã quá hạn; Các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý.
Các khoản nợ nếu có đủ cơ sở để đánh giá là khả năng trả nợ của của khách
hàng bị suy giảm thì phải phải tính một cách chính xác, minh bạch để phân loại
nợ vào các nhóm nợ phù hợp với mức độ rủi ro, cụ thể:


Nhóm 2: Các khoản nợ tổn thất tối đa 5% giá trị nợ gốc.
Nhóm 3: Các khoản nợ tổn thất từ trên 5%-20 % giá trị nợ gốc.
Nhóm 4: Các khoản nợ tổn thất từ trên 20% - 50% giá trị nợ gốc.

Nhóm 5: Các khoản nợ tổn thất trên 50% giá trị nợ gốc.
Việc phân loại nợ theo Quyết định 493và quyết định 18 của Ngân hàng
Nhà nước vừa dựa vào tiêu chí thời gian quá hạn của khoản vay, vừa dựa vào
tiêu chí rủi ro của khoản vay đã làm cho các NH phải đánh giá lại thực sự các
khoản nợ đã cho khách hàng vay và có thể đánh giá chính xác hơn về chất lượng
tín dụng của mình.
c. Chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng
Đây là chỉ tiêu thường được các ngân hàng thương mại tính toán hàng năm.
Dùng để đánh giá khả năng tổ chức quản lý vốn tín dụng và chất lượng tín dụng
trong việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
Doanh số thu nợ
Vòng quay vốn tín dụng =
Dư nợ bình quân
Dùng để phản ánh số vòng chu chuyển của vốn vay (thường là 1 năm). Chỉ
tiêu này càng tăng thì tính tổ chức, quản lý tín dụng càng tốt, chất lượng cho vay
càng cao.
Tuy nhiên, chỉ tiêu này chỉ phản ánh một cách tương đối. Khi một ngân
hàng thương mại cho vay các doanh nghiệp sản xuất chiếm tỷ trọng lớn dư nợ,
thì chỉ tiêu này thấp hơn ngân hàng thương mại khác cho vay các doanh nghiệp
thương mại. Như vậy, không vì thế mà chất lượng cho vay của ngân hàng
thương mại này kém hơn. Từ thực tế trên, để có nét tương đối chính xác về chất
lượng tín dụng thì các tiêu thức tính toán phải thống nhất, vòng quay tín dụng
phải tính toán cho từng loại vay, thời hạn vay và từng đối tượng vay cụ thể.
d. Chỉ tiêu doanh số cho vay
Để phản ánh quy mô cấp tín dụng của ngân hàng đối với nền kinh tế. Đây
là chỉ tiêu phản ánh chính xác, tuyệt đối về hoạt động cho vay trong một thời
gian dài, thấy được khả năng hoạt động tín dụng qua các năm
e. Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn
Tổng dư nợ
Hiệu suất sử dụng vốn

=
Tổng vốn huy động


Các nhà phân tích thường dùng để so sánh khả năng cho vay của ngân hàng
với khả năng huy động vốn, đồng thời xác định hiệu quả của một đồng vốn huy
động. Nhiều người thường xem chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ ngân hàng sử
dụng nhiều vốn huy động và hoạt động của ngân hàng sẽ hiệu quả hơn, như vậy
có liệu có đúng không và liệu tỷ lệ này lớn hay bé là tốt.
Điều này chưa thể khẳng định được, vì nếu tiền gửi ít hơn tiền cho vay thì
ngân hàng phải tìm kiếm nguồn vốn có chi phí cao hơn nhưng nếu tiền gửi nhiều
hơn tiền cho vay thì ngân hàng sẽ rơi vào tình trạng thừa vốn.
Qua đó chỉ tiêu này chỉ mang tính tương đối giúp chúng ta so sánh khả
năng cho vay và huy động vốn của một ngân hàng
f. Chỉ tiêu thanh toán nợ do bán tài sản thanh toán cho người vay
Về nguyên tắc, nguồn trả nợ cho ngân hàng chính là tiền bán hàng (với tín
dụng ngắn hạn) cũng là khấu hao tài sản cố định của tài sản cố định được đầu tư
bằng nguồn vốn vay đó, lợi nhuận sau thuế có thể từ tài sản đó hoặc tất cả hoạt
động sản xuất kinh doanh (đối với tín dụng trung và dài hạn).
Tuy vậy, có nhiều trường hợp do sử dụng vốn kém hiệu quả, sản xuất kinh
doanh thua lỗ, phá sản. .. nên người vay phải bán tài sản thế chấp (có thể do tự
nguyện hoặc bắt buộc) để trả nợ Ngân hàng. Tỷ lệ này được xác định bằng cách
lấy số tiền thu nợ do (bán tài sản thế chấp / tổng doanh số thu nợ) .100%
g. Chỉ tiêu lãi treo
Lãi treo là lãi tính trên nợ gốc và các khoản cho vay của ngân hàng nhưng
chưa thu hồi được.
Tổng các khoản lãi treo trên các món nợ càng thấp càng tốt. Vì vậy lãi treo
càng cao phản ánh rủi ro mất vốn của ngân hàng càng lớn làm cho ngân hàng có
khả năng mất cả vốn lẫn lãi dẫn đến hậu quả làm chất lượng tín dụng giảm và
ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng.

h.Chỉ tiêu lợi nhuận
Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng
Lợi nhuận =
Tổng dư nợ tín dụng
Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại chiếm từ 70%85% tổng lợi nhuận. Nếu lợi nhuận của một ngân hàng nào đó tăng lên hàng
năm, điều đó chứng tỏ chất lượng tín dụng được nâng lên.
Dùng để phản ánh khả năng sinh lời của tín dụng. Lợi nhuận ở đây phản
ánh chênh lệch giữa chi phí đầu vào (lãi suất huy động) và thu lãi đầu ra.


×