BẢNG PHỤ LỤC TỪ VIẾT TẮT
1. TNK
2. TXK
3. GTGT
4. TTDB
5. TNDN
6. TMQT
7. WTO
8. ASEAN
9. WB
10. IMF
11. AFTA
12. ACFTA
13. IFC
14. APEC
: Thuế xuất khẩu
: Thuế nhập khẩu
: Giá trị gia tăng
: Tiêu thụ đặc biệt
: Thu nhập doanh nghiệp
: Thương mại quốc tế.
: Tổ chức Thương mại Thế giới.
: Hiệp hội các nước Đông Nam Á.
: Ngân hàng thế giới.
: Quỹ tiền tệ quốc tế.
: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN.
: Khu vực mậu dich tự do ASEAN-Trung Quốc.
: Tổ chức Tài chính quốc tế.
: Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình
Dương.
15. CEPT
16. GATT
17. MFN
18. NT
: Chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung.
: Hiệp định chung về thuế quan và thương mại.
: Tối huệ quốc.
: Đãi ngộ quốc gia.
MỞ ĐẦU
Chính sách thuế nhập khẩu của Việt Nam trong quá trình đổi mới đã có những thay đổi
đáng kể và đang chuyển từ chế độ Nhà nước độc quyền ngoại thương sang cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước. Từng bước thực hiện tự do hóa thương mại chính sách thuế
nhập khẩu trong thời kỳ này đã có những bước tiến phù hợp với mục tiêu chiến lược phát
triển kinh tế xã hội, gắn với những thay đổi trong nước và quốc tế trong từng giai đoạn cụ
thể. Nhờ đó mà hoạt động nhập khẩu của Việt Nam trong thời gian qua đã đạt được nhiều kết
quả đáng khích lệ, cũng như các khoản thu từ nhập khẩu cũng đóng góp đáng kể vào ngân
1|Page
Bài tập học kỳ
Sv. Phạm Quang Đại-351722
sách nhà nước. Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu nhưng nền kinh tế của Việt Nam vẫn ở
tình trạng thấp kém, chính sách pháp luật thuế xuất nhập khẩu còn nhiều hạn chế. Trong xu
thế hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực như hiện nay, Việt Nam sẽ phải cắt giảm đáng kể
hàng rào thuế nhập khẩu. Trong bối cảnh đó việc tìm hiểu các quy định về thuế nhập khẩu
cũng như yếu tố ảnh hưởng tới việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu là vô cùng cần thiết.
Chính vì thế em xin chọn đề tài: “Phân tích những yếu tố ảnh hưởng tới pháp luật thuế nhập
khẩu ở Việt Nam hiện nay” để làm bài tiểu luận cuối kì của mình. Sau đây là những nội dung
cụ thể.
NỘI DUNG
I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THUẾ NHẬP KHẨU VÀ PHÁP LUẬT
THUẾ NHẬP KHẨU.
1. Khái niệm về thuế nhập khẩu.
Có nhiều cách hiểu về khái niệm TNK tuỳ thuộc vào góc độ tiếp cận, tuy nhiên dưới góc
độ pháp lý: “thuế nhập khẩu phát sinh giữa nhà nước (người thu thuế) và tổ chức, cá nhân
(người nộp thuế) về việc tạo lập và thưc hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý cho các bên trong
quá trình thu thuế nhập khẩu”. Quan hệ pháp luật này phát sinh từ cơ sở pháp lý là đạo luật
thuế nhập khẩu do Quốc hội ban hành mà hậu quả pháp lý chủ yếu của việc áp dụng đạo luật
đó trong thực tiễn là làm phát sinh quyền thu thuế cho Nhà nước và nghĩa vụ đóng thuế cho
các cá nhân, tổ chức là người nộp thuế.
Khái niệm thuế nhập khẩu cũng đồng nghĩa với khái niệm thuế quan được tổ chức thương
mại thế giới WTO định nghĩa: “thuế hải quan đánh vào hàng hoá nhập khẩu gọi là thuế
quan. Thuế quan tạo ra lợi thế về giá cả cho hàng hoá sản xuất trong nước so với hàng hoá
tương tự được nhập khẩu và đem lại nguồn thu cho các Chính phủ”.
Tuy nhiên trên thực tế chưa có một định nghĩa nào thống nhất hoàn chỉnh mang tính pháp
lý về TNK. Dựa trên Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2005 và Luật Hải quan sửa đổi bổ
sung 2005 thì TNK có thể được hiểu là: “loại thuế đánh vào hàng hoá được nhập khẩu vào
khu vực lãnh thổ của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong vùng đặc quyền kinh
tế, thềm kục địa của Việt Nam, nơi luật hải quan được áp dụng”.
2. Khái niệm pháp luật thuế nhập khẩu.
Pháp luật thuế nhập khẩu là danh từ pháp lý để chỉ tập hợp các quy phạm pháp luật do
nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình đăng ký, kê
khai, tính thuế, nộp thuế, quyết toán thuế, hoàn thuế,miễn giảm thuế, xử lý các vi phạm tranh
chấp về TNK phát sinh giữa nhà nước và ngưoiừi nộp thuế.
Xét về hình thức, pháp luật TNK bao gồm các văn bản quy phạm pháp luật: văn bản luật,
Nghị quyết của Quốc hội, Nghị định của Chính phủ, Quyết định, Thông tư, Chỉ thị của các
bộ….
Xét về nội dung, pháp luật TNK bao gồm các vấn đề chủ yếu, phạm vi áp dụng (được
thể hiện thông qua các quy định về chủ thể nộp thuế, đối tượng chịu thuế, hành thu TNK, chế
độ miễn giảm thuế, xử lý các vi phạm tranh chấp về TNK phát sinh giữa nhà nước và người
nộp thuế.
Ngoài ra trong bối cảnh tự do hóa thương mại, hội nhập kinh tế quốc tế đang trở thành xu
hướng toàn cầu thì việc hoàn thành, thực hiện các điều ước quốc tế có liên quan tới thuế
nhập khẩu là một tất yếu. Nội hàm khái niệm pháp luật về thuế nhập khẩu không chỉ được
quy định trong luật quốc gia mà còn bao hàm cả các quy định trong luật quốc tế có liên quan:
Hiệp định CEPT (Hiệp định ưu đãi thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung; Hiệp định thương
mại Việt Nam – Hoa Kỳ; Hiệp định WTO…Như vậy, nội hàm khái niệm “pháp luật về thuế
2
Bài tập học kỳ
Sv. Phạm Quang Đại-351722
nhập khẩu” phải hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm không chỉ các quy định trong pháp luật quốc
gia mà còn bao gồm cả trong các quy định của pháp luật quốc tế về thuế nhập khẩu.
3. Các đặc trưng cơ bản của thuế nhập khẩu.
So với các loại thuế khác, TNK có đặc điểm riêng biệt xuất phát từ bản chất của loại thuế
này. Có thể thấy TNK có những đặc điểm sau:
- Thứ nhất: đối tượng chịu thuế.
- Thứ hai: TNK không hoàn toàn là thuế trực thu hay gián thu.
- Thứ ba: TNK gắn liền với hoạt động kinh tế đối ngoại của mỗi quốc gia trong từng thời
kỳ.
- Thứ tư: TNK được quản lý bởi cơ quan chuyên trách là cơ quan hải quan.
- Thứ năm: TNK bị chi phối bởi nhiều yếu tố, đặc biệt là yếu tố hội nhập kinh tế quốc tế
của mỗi quốc gia.
4. Ý nghĩa của thuế nhập khẩu.
Vai trò quan trọng của TNK có thể khái quát ở một số khía cạnh sau:
*) Tạo nguồn thu cho NSNN.
Trong những năm gần đây, trong điều kiện hội nhập kinh tế, quốc tế, tự do hóa thương
mại, Việt Nam thực hiện cắt giảm TNK theo các cam kết quốc tế, nhưng TNK vẫn là nguồn
thu quan trọng cho NSNN. Theo số liệu công khai NSNN của Bộ Tài chính từ năm 20002005, thu hải quan luôn chiếm từ 20%-25% tổng thu NSNN.
*) Là công cụ điều tiết hoạt động ngoại thương, và hướng dẫn tiêu dùng.
Việc đánh thuế nhập khẩu cao hay thấp ảnh hưởng tới giá cả, từ giá cả ảnh hưởng tới sức
mua, qua đó Nhà nước điều tiết hoạt động ngoại thương, và hướng dẫn tiêu dung. Thuế nhập
khẩu đánh trên hàng nhập khẩu làm cho chúng đắt đỏ hơn so với hàng nội địa. Và như vậy,
chúng kém sức cạnh tranh so với hàng hóa trong nước. Ví dụ: Nhà nước muốn giảm bớt
nhập khẩu hàng hóa mà Nhà nước không khuyến khích vò nó ảnh hưởng tới đời sống, môi
trường, sức khỏe: rượu, bia, thuốc lá, ô tô…Nhà nước sẽ đánh thuế nhập khẩu cao vào hàng
hóa này, dẫn đến giá bán của hàng hóa đó cao, người tiêu dung không dễ dàng mua được,
nên sức tiêu dung hạn chế, sức mua giảm. Vì vậy nhà nhập khẩu hàng hóa đó phải hạn chế
nhaapk khẩu hàng hóa đó vì nhập nhiều sẽ không tiêu thụ được.
*) Là công cụ hỗ trợ, bảo hộ nền sản xuất trong nước.
Thông qua thuế nhập khẩu Nhà nước gián tiếp tác động vào việc điều tiết nền sản xuất
trong nước. Thuế nhập khẩu đánh ở mức khác nhau đối với từng loại hàng hóa nhập khẩu,
điều chỉnh khả năng cạnh tranh của hàng hóa chịu thuế trên thực tế, tạo ra sự phân bổ nguồn
lực trong các ngành sản xuất. Điều này được thể hiện như sau: khi một ngành sản xuất được
Nhà nước chú trọng đầu tư phát triển thì chính sách thuế nhập khẩu giành cho nguyên liệu,
máy móc, trang thiết bị sản xuất phải nhập khẩu từ nước ngoài sẽ thấp trong khi thuế nhập
khẩu đánh vào hàng hóa tiêu dùng lại cao.
So với các loại thuế khác, thuế nhập khẩu có vai trò khá đặc thù: bảo hộ nền sản xuất
trong nước, góp phần phát triển khả năng cạnh tranh của hàng hóa trong nước so với hàng
ngoại nhập. Điều này được thể hiện như sau: đối với hàng hóa nhập khẩu nên về lý thuyết
giá cả của loại hàng hóa này trên thị trường nhập khẩu sẽ tăng lên, trong khi đó hàng hóa
trong nước do không phải chịu thuế nhập khẩu nên giá cả có xu hướng rẻ hơn, có sức cạnh
tranh cao hơn so với thị trường ngoại nhập. Vì vậy việc đánh thuế nhập khẩu chính là một
biện pháp bảo hộ nền sản xuất trong nước.
Đối với những nước kinh tế phát triển, thuế nhập khẩu còn là mục tiêu chính trị: áp dụng
chính sách thuế quan ưu đãi với một số quốc gia thân thiện hoặc sử dụng nó như một biện
pháp trả đũa trong chính sách đối ngoại hoặc gây sức ép chính trị với quốc gia khác.
3
Bài tập học kỳ
Sv. Phạm Quang Đại-351722
II. NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC THỰC THI PHÁP LUẬT THUẾ
NHẬP KHẨU Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
1. Thực trạng thực thi pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay.
Trong những năm qua,nhất là từ khi thực hiện cải cách thuế bước 2 từ năm 1999 đến
nay,cùng với việc sửa đổi, bổ sung ban hành, áp dụng mới các sắc thuế nhằm đáp ứng yêu
cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, pháp luật về thuế nói chung và TNK nói riêng đã
từng bước được xây dựng và hoàn thiện.
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, Việt Nam sẽ phải cắt giảm đáng kể
hàng rào TNK. Ngoài WTO, Việt Nam còn phải thực hiện nhiều lộ trình cắt giảm thuế để
tham gia vào các khu vực mậu dịch tự do : khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA); khu
vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc (ACFTA); khu vực mậu dịch tự do ASEAN với
các đối tác khác: Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ...trong bối cảnh đó, pháp luật về TNK là một
vấn đề cần phải có sự quan tâm thích đáng.
Thực tiễn áp dụng TNK ở Việt Nam trong những năm qua đã được phản ánh cụ thể ở
những con số về quy mô NK, về cơ cấu mặt hàng, và về cơ cấu thị trường NK.
*) Về quy mô NK.
Tốc độ tăng trưởng NK bình quân giai đoạn 1991-2000 là 17,5%, giai đoạn 2001-2006 là
19%. Giai đoạn năm 2001-2006, nước ta đẩy mạnh hội nhập và công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Trong quí I năm 2007 tốc độ tăng của NK cao gần gấp đôi tốc độ tăng của XK 33,6% so
với 17,9% và nhập siêu mới chỉ trong một quý đó lên đến 1.315 triệu USD. Đó là vì quý đầu
tiên chúng ta thực hiện cam kết của Việt Nam về TNK trong khuôn khổ WTO.
*) Về cơ cấu mặt hàng NK.
Cơ cấu mặt hàng NK có sự biến động giữa hai nhóm ngàn tư liệu sản xuất và vật phẩm
tiêu dùng. NK hàng tiêu dùng có xu hướng giảm nhanh. Trước năm 1995,tỷ trọng hàng NK
tiêu dùng dao động 13-15%, từ năm 1996 đến nay tỷ lệ này đã giảm xuống đáng kể và ổn
định ở mức 7%-8%; giai đoạn 2000-2006,hàng tiêu dùng chiếm tỷ trọng bình quân 7%-11%
*) Về cơ cấu thị trường NK. Đến năm 2006, thị trường NK Việt Nam đã được mở rộng tới
hơn 170 quốc gia và vùng lãnh thổ. Châu Á là thị trường có kim ngạch Nk cao nhất, đạt trên
35,84 tỉ USD chiếm tỉ trọng 80,7% kim ngạch NK của các thị trường. Các khu vực châu Á:
chủ yếu là ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản,Hồng Công, Đài Loan là thị trường
NK lớn nhất của nước ta trong thời gian qua do có những vị thế địa lý thuận lợi nhất định,
giá cả. Đồng thời đây cũng là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ lệ cao. Khu vực
này cung cấp chủ yếu nguyên liệu,phụ liệu máy móc phụ tùng, hàng tiêu dùng...
*) Về việc thực thi các quy định của pháp luật thuế NK.
Từ 1/1/2006, khi thực hiện Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu và Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Luật hải quan, thủ tục kê khai thuế, nộp thuế đã được cải tiến, chuyển từ việc ấn
định số thuế phải nộp theo thông báo thuế sang cơ chế đối tượng nộp thuế tự kê khai, tự nộp
thuế vào ngân sách nhà nước, cơ quan hải quan chịu trách nhiệm thực hiện chế độ kiểm tra
việc chấp hành nghĩa vụ thuế.
Các thủ tục về thuế nhập khẩu đã từng bước được đơn giản, tạo điều kiện thuận lợi cho
cơ sở kinh doanh, ý thức tuân thủ pháp luật thuế nói chung và thuế nhập khẩu nói riêng ngày
càng được nâng cao. Năm 2006, với tổng số 1.315 cuộc đối thoại về thuế với doanh nghiệp,
4.499 lượt bài viết về thuế đăng tải trên các báo, tạp chí, 30.484 buổi phát thanh, 3.744 buổi
truyền hình, 823.628 ấn phẩm tuyên truyền, 92.092 lượt tố chức, cá nhân được tập huấn về
chính sách thuế, v.v… đã góp phần nâng cao ý thức và trách nhiệm của cán bộ thuế, của đối
tượng nộp thuế, tạo điều kiện để họ thực hiện nghĩa vụ của mình.
4
Bài tập học kỳ
Sv. Phạm Quang Đại-351722
Ngay từ khi bắt đầu chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường
(1986), thực hiện mở cửa hội nhập và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, cùng với việc cải
cách chính sách thuế Việt Nam nói chung (1990) đến nay, chính sách thuế nhập khẩu luôn
được quan tâm xây dựng và hoàn thiện cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế đất nước
từng thời kỳ. Chính vì thế, thuế nhập khẩu đã góp phần to lớn trong việc đảm bảo nguồn thu
ngân sách, bảo hộ và tạo điệu kiện cần thiết cho một số ngành công nghiệp non trẻ như: Sắt
thép, xi măng, điện tử, hoá chất, v.v…. có cơ hội đứng vững và từng bước chiếm lĩnh thị
trường trước hàng nhập khẩu.
Theo thống kê của cơ quan hải quan, bình quân có khoảng 70% kim ngạch nhập khẩu
áp dụng thuế suất ưu đãi, 27% áp dụng thuế suất ưu đãi đặc biệt và 3% áp dụng thuế suất
thông thường.
*) Về việc thực hiện các cam kết quốc tế.
- Tình hình thực hiện CEPT/AFTA.
- Năm 1996, là năm đầu tiên Việt Nam thực hiện cắt giảm thuế theo chương trình CEPT,
theo Nghị định số 91/CP ngày 18/12/1995 của Chính phủ, 875 mặt hàng đã được đưa vào
danh mục mặt hàng tham gia CEPT của Việt Nam. Danh mục này đã có thuế suất thông
thường 0-5% hoặc nhỏ hơn 20%. Đây mới chỉ là bước đưa các mặt hàng vào thực hiện CEPT
chứ chưa thực hiện cắt giảm thuế trên thực tế.
- Năm 1998, chương trình CEPT của Việt Nam được thực hiện theo Nghị định số 15/1998/
NĐ-CP ngày 12/3/1998 của chính phủ. Danh mục CEPT 1998, gồm: 1733 mặt hàng, trong
đó có 1496 mặt hàng đã được vào từ năm 1996-1997 và 137 mặt hàng mới. Do đó, việc tách
mã số của một số mặt hàng được thực hiện trong năm 1998, tổng số mặt hàng của danh mục
này được nâng lên 1719, chiếm 1/2 toàn bộ biểu thuế nhập khẩu của Việt Nam.
- Năm 1999, Danh mục hàng hoá của Việt Nam thực hiện CEPT năm 1999 được ban hành
kèm theo Nghị định số 14/1999/NĐ-CP ngày 23/3/1999 của chính phủ. Danh mục CEPT
1999 gồm 3591 mặt hàng, tăng 1949 mặt hàng bao gồm cả các mặt hàng được chuyển từ
danh mục TEL theo quy định và những mặt hàng tăng lên do việc chi tiết hoá một số mặt
hàng trong biểu thuế nhập khẩu vừa qua.
- Năm 2000, Danh mục hàng hoá của Việt Nam thực hiện CEPT năm 2000 được ban hành
kèm theo Nghị định số 9/2000/NĐ-CP ngày 21/3/2000 của chính phủ. Danh mục CEPT năm
2000 gồm 4234 mặt hàng trong đó co 3591 mặt hàng đã được thực hiện CEPT từ năm 1999
trở về trước và 643 mặt hàng mới chuyển từ danh mục TEL sang danh mục IL để thực hiện
CEPT.
- Tính đến 5/2/2002, Việt Nam thực hiện cắt giảm 5500 mặt hàng, đạt gần 90% tổng các mặt
hàng Việt Nam cam kết, trong số này có 2/3 mặt hàng có thuế suất 0-5%.
- Năm 2003, được xem là một năm sự kiện với tiến trình hội nhập AFTA của Việt Nam vì:
đã đưa 750 mặt hàng còn lại vào danh mục cắt giảm thuế theo AFTA, đưa các mặt hàng có
mức bảo hộ cao, thuế suất 30%-100% giảm xuống còn 20% vào1/1/2003 và tiếp tục giảm 05% vào năm 2006, đưa 20% danh mục loại trừ tạm thời sang danh mục cắt giảm thuế.
Trên thực tế, năm 2003, Việt Nam đã thực hiện được 80% nghĩa vụ của mình. Mức thuế
nhập khẩu áp dụng đối với hàng ASEAN là 9.3%.
Cho đến thời điểm hiện nay, đã có đến 90% số dòng thuế trong biểu thuế có mức thuế suất
CEPT trong khoảng 0-5%, mức thuế suất bình quân CEPT/AFTA năm 2006 là 4,7% so với
mức thuế suất bình quân trong biểu thuế MFN là 17,4 %.
Bảng 2.7: Lộ trình cắt giảm thuế nhập khẩu theo CEPT/AFTA 2003-2006
Đơn vị: Dòng thuế
5
Bài tập học kỳ
Thuế suất
0%
1%
3%
5%
2003
3.257
239
607
3.372
Tổng 0-5%
7.475
10%
89
15%
125
20%
2.454
Tổng 10-20%
2.668
Tổng
10.143
Nguồn: Bộ Tài chính.
Sv. Phạm Quang Đại-351722
2004
3.257
239
607
3.392
7.495
130
2.127
391
2.648
10.143
2005
3.257
239
607
4.356
8.459
1.315
16
353
1.684
10143
2006
5.427
2
150
4.564
10143
0
0
0
0
10.143
Tình hình thực hiện cam kết trong WTO.
Theo công bố, Biểu cam kết về hàng hoá của Việt Nam khi vào WTO có 3800 dòng
thuế sẽ phải cắt giảm. Cụ thể, Việt Nam cam kết ràng buộc với toàn bộ biểu thuế nhập khẩu
hiện hành gồm 10600 dòng thuế. Thuế suất cam kết cuối cùng sẽ giảm còn 13.4% so với
mức thuế hiện hành là 17.4 %.Trong 10600 dòng thuế, có 35% số dòng thuế thực sự bị cắt
giảm, 35% số dòng thuế vẫn giữ nguyên và 30% số dòng thuế bị cam kết cao hơn mức thuế
suất hiện hành (sắt thép, xăng dầu, hoá chất, một số phương tiện vận tải). Ngoài ra, Viện
Nam còn cam kết tham gia một số Hiệp định tự do hoá theo ngành hàng, theo đó, các mặt
hàng theo Hiệp định sẽ được cắt giảm thuế quan xuống mức cực thấp với lộ trình 3-5 năm.
Trước mắt, các mặt hàng được giảm thuế ngay từ đầu năm 2007 gồm 1812 dòng thuế,
chiếm 17% biểu thuế, mức cắt giảm bình quân 44% so với hiện hành. Đây là các mặt hàng
có thuế suất cao và chủ yếu là các hàng tiêu dùng nên đa số người dân sẽ hưởng lợi.
Việc thực hiện các cam kết trên đây sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam có vị thế hội nhập đầy đủ
với kinh tế thế giới, khẳng định nền kinh tế Việt Nam đáp ứng các tiêu chuẩn và nguyên tắc
chung của nền kinh tế thị trường,
2. Những yếu tố ảnh hưởng tới việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam
hiện nay.
Việc thực thi pháp luật TNK ở Việt Nam hiện nay chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố
khác nhau. Những yếu tố này tác động cả mặt tích cực và tiêu cực tới việc thực thi pháp luật
TNK ở nước ta.
2.1. . Hoàn cảnh thực tế của đất nước trong giai đoạn hiện nay.
Pháp luật bao giờ cũng là sự phản ánh dưới hình thức pháp lí các quan hệ xã hội, sự
phản ánh lệ thuộc vào sự biến đổi của xã hội. Để phát huy vai trò, tác dụng của mình trong
đời sống xã hội, pháp luật phải phản ánh đầy đủ hiện thực khách quan với những tiến trình
đang diễn ra trong xã hội.
Pháp luật TNK có mục tiêu quan trọng là công cụ khuyến khích hỗ trợ bảo vệ nền sản
xuất trong nước. Việc ban hành, sửa đổi, bổ sung bộ phận pháp luật này là cần thiết.
Các yếu tố về hoàn cảnh thực tế của đất nước trong giai đoạn hiện tại là một vấn đề vừa có
tính lý luận vừa có tính thực tiễn trong hoàn thiện pháp luật thuế nói chung, pháp luật TNK
nói riêng, bởi lẽ không một quy phạm pháp luật nào lại không được xây dựng và áp dụng gắn
liền với hoàn cảnh nhất định của quốc gia – nơi các quy định đó được ban hành hay áp dụng.
Bản chất của nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là nền kinh tế thị trường có sự
điều tiết của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự tác động trực tiếp này đến nội
6
Bài tập học kỳ
Sv. Phạm Quang Đại-351722
dung pháp luật về TNK thể hiện: một mặt, nền kinh tế thị trường đỏi hỏi chính sách thuế nói
chung và chính sách TNK nói riêng phải đáp ứng nhu cầu huy động khoảng 24-25% GDP
vào NSNN để phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế, ổn định xã hội; mặt khác, sự chuyển đổi
nền kinh tế thị trường lại đòi hỏi hệ thống thuế nói chung, TNK nói riêng phải là công cụ
điều tiết tích cực, hợp lý đối với đời sống kinh tế và đời sống tiêu dùng, góp phần thúc đẩy
các hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động XNK và định hướng tích cực đối với các hoạt
động tiêu dùng trong xã hội. Dù muốn hay không, các yêu cầu đòi hỏi khách quan này cũng
tác động trực tiếp đến việc điều chỉnh hệ thống thuế suất, phạm vi đối tượng chịu thuế, chủ
thể nộp thuế, cơ chế hành thu thuế NK.
2.2. Cơ sở chính trị - pháp lý.
Cơ sở chính trị - pháp lý là quan điểm đường lối chính sách phát triển kinh tế xã hội
của Đảng và chiến lược xây dựng pháp luật của Nhà nước. Điều này ngày càng trở nên quan
trọng và cần thiết đối với một quốc gia có một chính đảng duy nhất như Việt Nam. Môi
trường chính trị-pháp là yếu tố cơ bản điều chỉnh hành vi và tác động sâu sắc đến kết quả
hành động của con người trong đó có hoạt động sản xuất kinh doanh, Một chế độ chính trị ổn
định tiến bộ, phù hợp với xu thế thời đại và một hệ thống thể chế nhất quán, minh bạch đồng
bộ, khả thi sẽ là điều kiện đảm bảo cho mọi thành viên phát huy năng lực lao động và sáng
tạo.
Những quy định của pháp luật và điều hành của Chính phủ đóng vai trò quan trọng
không những giữ nghiêm kỉ cương phép nước mà còn tạo môi trường kinh doanh lành
mạnh. Bằng quyền uy của mình Nhà nước ban hành các biện pháp nhằm kiểm soát hoạt động
nộp thuế NK, ngăn cấm không cho phép hoặc cho phép NK, bắt buộc NK phải có giấy phép,
hạn chế định lượng hoặc đưa ra các chính sách thuế quan hoặc hàng rào phi thuế quan để
ngăn cản hàng hóa NK vào nước mình vào bảo hộ nền sản xuất trong nước. Mặt khác những
quyết sách của Chính phủ có tác dụng hướng dẫn, thúc đẩy ngăn cản hoạt động xã hội hoặc
tạo ra môi trường cạnh tranh trong hoạt động NK, từ đó tác động đến việc thực thi TNK.
Cùng với đó, chính sách quản lý ngoại hối, sự điều tiết về tỉ giá hối đoái cũng làm hạn chế
hoặc thúc đẩy NK phát triển, cũng như việc thực thi TNK trong thực tế.
Môi trường chính trị pháp lý được tạo lập từ hệ thống các luật lệ, các cơ quan quyền lực
nhà nước và tác động mạnh mẽ đến hoạt động của mọi tổ chức cá nhân trong xã hội. Vì vậy
các tổ chức kinh tế, các nhà sản xuất kinh doanh trong đó có kinh doanh XNK đều phải xem
xét môi trường và những xu hướng tiến triển của nền chính trị pháp lý để đưa ra những quyết
định sản xuất kinh doanh phù hợp và có hiệu quả.
Đối với hoạt động của doanh nghiệp, pháp luật không những điều tiết, bảo vệ quan hệ
giữa các bên tham gia giao dịch mà còn ngăn ngừa sự thỏa hiệp giảm giá hoặc chuyển giá
giữa người XK và NK để gian lận trong thương mại cũng như hoạt động nộp thuế. Rõ ràng
hệ thống pháp luật có ảnh hưởng rất lớn đến các hoạt động XNK. Vì vậy các nhà kinh doanh
phải quan tâm nghiên cứu, hiểu biết thấu đáo các đạo luật, những chính sách liên quan đến
hoạt động của doanh nghiệp, nhất là những quy định của pháp luật về XNK, thuế quan, phi
thuế quan, bảo vệ sự cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng và những lợi ích rộng lớn của xã hội
để tránh khỏi sai lầm trong việc hoạch định kế hoạch hành động.
Ở Việt nam trong hơn 10 năm trở lại đây, chính sách thuế nói chung và chính sách thuế nhập
khẩu nói riêng đã có nhiều thay đổi, theo hướng phù hợp hơn với điều kiện kinh tế thị
trường, và từng bước tiếp cận gần hơn với chuẩn mực quốc tế. Trong một Báo cáo chính trị
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X khẳng định: “tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về
thuế theo nguyên tắc công bằng, thống nhất và đồng bộ ,bảo đảm môi trường thuận lợi,
khuyến khích sản xuất kinh doanh. Điều chỉnh các chính sách thuế theo hướng giảm và ổn
7
Bài tập học kỳ
Sv. Phạm Quang Đại-351722
định thuế suất, mở rộng đối tượng thu,điều tiết hợp lý thu nhập, không lồng ghép chính sách
xã hội trong chính sách thuế. Từng bước thực hiện phương pháp tính thuế,quản lý thu thuế,
xử lý vi phạm về thuế theo thông lệ quốc tế” Như vậy, tuy Báo cáo chính trị không trực tiếp
nêu ra đường lối cụ thể cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật TNK nhưng sự tuyên bố
về chính sách về môi trường cho hệ thống thuế đã đặt ra những pháp lý nền tảng ban đầu
vững chắc cho việc hoàn thiện pháp luật thuế nói chung pháp luật thuế NK nói riêng.
2.3.Yêu cầu trong điều kiện hội nhập nền kinh tế quốc tế.
Hội nhập nền kinh tế quốc tế là xu hướng tất yếu của các quốc gia, trong đó có Việt
Nam. Quá trình toàn cầu hóa có thể được định nghĩa là sự kết nối trên toàn cầu. Quá trình
toàn cầu hóa đã được đẩy mạnh khi các rào cản tại quốc gia đối với thương mại đang dần
được loại bỏ, các thể chế thị trường trong nước được củng cố và các công nghệ mới được áp
dụng nhằm thúc đẩy thương mại và đầu tư xuyên biên giới quốc gia (MUTRAP II- Dự án hỗ
trợ thương mại đa biên, Việt Nam gia nhập tổ chức thươn mại thế giới – giải thích các điều
kiện khi gia nhập, tragn 11). Như vậy các quốc gia không thể đứng ngoài xu hướng toàn cầu
hóa mà phải nắm bắt cơ hội của nó đề đưa đất nước hội nhập nền kinh tế quốc tế. Tổ chức
Thương mại thế giới WTO ra đời đã và đang tạo ra một môi trường thương mại quốc tế lành
mạnh và hiệu quả. 1995 Việt Nam nộp đơn gia nhập WTO, và tới năm 2007 thì trở thành
thành viên thứ 170 của WTO. Từ đó đã đưa quá trình phát triển kih tế của Việt Nam lên một
tầm cao mới, thông qua việc thực thi các cam kết gia nhập WTO. Với việc gia nhập WTO,
Việt Nam có thể tiếp cận các thị trường NK một cách ổn định, dễ dự đoán hơn, từ đó số
lượng và chất lượng hàng hóa NK sẽ tăng theo. Việc gia nhập WTO cũng thúc đẩy quá trình
tự do hóa NK, từ đó cho phép tiếp cận với các đầu vào NK: công nghệ, trang thiết bị, các
phương pháp quản lý hiện đại....cũng như hàng tiêu dùng đa dạng và rẻ hơn. Với dân số hơn
80 triệu người, các thành viên WTO coi Việt Nam là một nước đang phát triển với thị trường
có tiềm năng lớn. Vì vậy trong quá trình đàm phán,gia nhập, Việt Nam đã bị yêu cầu phải
mở cửa mạnh mẽ thị trường cho hàng hóa dịch vụ nước ngoài . Vấn đề thuế quan và lộ trình
cắt giảm thuế quan NK đã trở thành một trong những tâm điểm qua các vòng đàm phán
WTO. Điều đó đồng nghĩa với việc Chính phủ và Quốc hội luôn quan tâm đến việc sửa đổi
bổ sung điều chỉnh các văn bản quy phạm pháp luật, các quy định về TNK để phù hợp với
các cam kết gia nhập WTO. Vì phạm vi bài viết có hạn nên người viết chỉ đề cập tới một số
quy định cốt lõi về thuế quan và thương mại ảnh hưởng đến pháp luật TNK ở Việt Nam hiện
nay.
WTO quản lý các Hiệp định thương mại do các thành viên kí, đặc biệt là Hiệp định
chung về thuế quan và thương mại (GATT). Hiệp định chung về thương mại dịch vụ
(GATS), Hiệp định về quyền sở hữu trí tuệ (TRIPs). Các quy định và thủ tục của WTO tạo ra
khuôn khổ cho việc trao đổi hàng hóa dịch vụ và sở hữu trí tuệ.
*) Các nguyên tắc chung về thuế quan và thương mại.
Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (General Agreement on Tariffs and Trade GATT) có đặt 3 nguyên tắc nền tảng:
- chỉ cho phép bảo hộ sản xuất trong nước bằng thuế quan, không cho phép hạn chế định
lượng trừ những trường hợp đặc biệt (chỉ áp dụng thuế quan để kiểm soát thương mại). Việc
bảo hộ thông qua thuế quan để đảm bảo tính minh bạch và dễ đoán trước. Thuế quan thể hiện
đại lượng rõ ràng là những con số, do đó người khác dễ nhận thấy được mức độ bảo hộ
giành cho một mặt hàng, ngành hàng. Thuế quan cao tức mức độ bảo hộ cao và như vậy
hàng hóa tương tự của nước ngoài khó xâm nhập vào thị trường.
- Thuế quan phải giảm dần và bị ràng buộc không tăng trở lại. Sau mỗi vòng đàm phán,
thuế suất mà các nước thỏa thuận với nhau được ghi vào 1 bản gọi là danh mục thuế
8
Bài tập học kỳ
Sv. Phạm Quang Đại-351722
quan.Thuế suất ghi trong bản danh mục này được gọi là thuế suất ràng buộc tức là sau này
nước đó không được phép tăng thuế suất cao hơn mức thuế suất đã ghi trong danh mục. Tuy
nhiên các bên cũng có thể thỏa thuận với nhau mức thuế suất trần (mức thuế cao hơn mức
đang áp dụng) nhằm giảm bớt rủi ro trong việc điểu chỉnh tăng,giảm thuế.
- Nguyên tắc không phân biệt đối xử bao gồm đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia.
+ Đối xử tối huệ quốc (MFN): Nguyên tắc này quy định rằng việc NK hàng hóa và
dịch vụ từ một thành viên WTO sẽ được đối xử không kém thuận lợi hơn việc NK hàng hóa
và dịch vụ từ bất kì thành viên nào khác. Đối xử MFN là vô điều kiện. Trên thực tế, trong
hầu hết các trường hợp, điều này có nghĩa một nước không thể áp dụng mức thuế NK đối với
sản phẩm NK từ một thành viên cao hơn so với mức thuế áp dụng tương tự từ bất kỳ thành
viên nào khác.
+ Đối xử quốc gia (NT): sản phẩm dịch vụ NK sẽ được hưởng đối xử không kém
thuận lợi hơn đối xử giành cho sản phẩm tương tự trong nước. Trên thực tế, nguyên tắc này
quy định các Chính phủ không được phân biệt đối xử với hàng NK khi áp dụng các luật lệ
và quy định trong nước; quy định về thuế hay bảo vệ người tiêu dùng và môi trường.
*) Các quy định về xác định trị giá hải quan.
Sau vòng đàm phán Tokyo 1979, Hiệp định xác định trị giá hải quan ra đời (ACV).Mục
đích của Hiệp định này là đảm bảo rõ ràng rằng những nhân viên hải quan của các nước
thành viên WTO có thể có những cách tiếp cận giống nhau để xác định giá trị của một loại
hàng hóa với mục đích áp dụng thuế quan. Hiệp định này quy định sự thống nhất hơn trong
phương pháp xác định trị giá chứ không cần thiết phải có sự thống nhất về giá trị. Số thuế
quan phải trả = Thuế suất x giá trị của hàng hóa.
*) Các quy định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng:
Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng (SCM) tăng cường kỷ luật đối với các
trợ cấp làm biến dạng, bóp méo hoạt động thương mại mà Chính phủ các nước sử dụng để
tạo ra những lợi thế so sánh không lành mạnh cho các doanh nghiệp của họ. SCM không bắt
buộc các nước phải bỏ toàn bộ các khoản trợ cấp mà chỉ cấm hoặc hạn chế những loại trợ
cấp gây tác động tiêu cực đến thương mại của những nước khác trong WTO. Có sự phân loại
trợ cấp thành 3 loại:
- Trợ cấp bị cấm sử dụng (trợ cấp đèn đỏ): gồm các hình thức trợ cấp XK, để sử dụng hàng
hóa trong nước thay thế hàng NK.
- Trợ cấp được phép sử dụng nhưng có thể bị kiện (trợ cấp đèn vàng): mang tính đặc trưng
không phổ biến.
- Trợ cấp được phép sử dụng (trợ cấp đèn xanh):mang tính phổ cập, không phân biệt giữa
các ngành hay dịch vụ dựa trên những tiêu chí khách quan; hoặc dạng trợ cấp không tính
phổ cập nhưng được tự do sử dụng...
*) Các quy định về phá giá và thuế chống bán phá giá.
Các biện pháp chống bán phá giá theo quy định của WTO cũng như các thông lệ quốc
tế được tiến hành khi có các điều kiện sau:
- Sản phẩm đang bán phá giá có nghĩa là sản phẩm của nước xuất khẩu đang bán ở thị
trường của nước NK với mức giá thấp hơn bán thông thường của sản phẩm đó ở trên thị
trường của nước XK.
- Có sự tổn thương vật chất do hành động bán phá giá gây ra hoặc đe dọa đối với công
nghiệp nội địa sản xuất các sản phẩm tương tự sản phẩm bán phá giá; hoặc gây ra trì hoãn về
vật chất đối với sự thành lập của một ngành công nghiệp trong nước.
- Phải có mối quan hệ nhân quả giữa bán phá giá và tổn thương vật chất hoặc đe dọa gây
tổn thương phải do chính hành động bán phá giá đó gây ra.
9
Bài tập học kỳ
Sv. Phạm Quang Đại-351722
- Hành động chống bán phá giá chỉ được tiến hành khi ảnh hưởng của nó bao trùm lên
cộng đồng.
Khi nước NK chứng minh được các điều kiện nói trên thì họ có quyền tiến hành các
biện pháp chống bán phá giá. Phương pháp thông thường nhất là áp đặt mức thuế đặc biệt
đánh vào hàng hóa bán phá giá gọi là thuế chống bán phá giá. Thuế chống bán phá giá làm
tăng giá hàng NK “giá sàn” dự kiến. Theo quy định “giá sàn” không cao hơn giá thông
thường ở trong nước XK và không gây tổn hại đến ngàng sản xuất hàng hóa tương tự của
nước NK.
2.4. Nhu cầu Ngân sách nhà nước
Để phục vụ nhu cầu chi tiêu về hàng hóa, dịch vụ công cộng của nhà nước, nguồn thu
ngân sách chủ yếu hình thành từ thuế - những khoản thu này mang tính bắt buộc. Mặc dù
hiện nay TNK được sử dung chủ yếu với ý nghĩa bảo vệ nền sản xuất cụ thể trong cạnh tranh
với NK, nhưng TNK vẫn là nguồn thu chủ yếu, quan trọng của NSNN. Việc cắt giảm thuế
quan cso thể tạo ră ảnh hưởng trực tiếp đến nguôn thu NSNN và quaddos là các vấn đề vĩ mô
khác của Việt nam. Vấn đề này buộc Việt Nam phải nghiên cứu, đánh giá tác động của thực
hiện các biện pháp hữu hiệu nhằm giảm thiểu những tác động không mong muốn của xu
hướng tự do hóa thương mại. Trong một số nghiên cứu kinh tế gần đây của Việt Nam cho
thấy việc cắt giảm TNK làm giảm cơ cấu nguồn thu ngân sách, nhưng tổng số thu thay đổi
không đáng kể. Việc cắt giảm TNK thường gây ra những tác động hai chiều:
Tác động làm tăng thu NSNN. Việc cắt giảm thuế quan của các nước hữu quan là nhân tố
làm tăng kim ngạch XK nên sẽ làm tăng thu ngân sách từ oạt đọng ngoại thương, cắt giảm
TNK làm giảm giá máy móc, thiết bị nguyên vật liệu NK, do đó góp phần làm giảm giá
thành sản phẩm trong nước và phát triển lượng sản xuất trong nước những ngành đó. Điều
này dẫn đến phát triển nguồn thu NSNN từ một số loại thuế khác: thuế GTGT, thuế TNDN..
Tác động làm giảm thu NSNN thể hiện trực tiếp ở việc giảm sút trong các nguồn thu từ
thuế NK. Bên cạnh đó, giảm TNK còn làm giảm thu từ một số loại thuế khác có kiên quan:
thuế GTGT, thuế TTĐB (thu từ khâu nhập khẩu). Cùng với việc cắt giảm TNK, mức cung
hàng hóa NK tăng lên, tác động lên khả năng cạnh tranh của hàng hóa cùng chủng loại được
sản xuất trong nước với hàng NK. Trong nhiều trường hợp, mức cung sản phẩm trong nước
sẽ giảm đi do chi phí sản xuất trong nước cao hơn, và như vậy làm thu hẹp phạm vi, quy mô
của những doanh nghiệp trong nước do không có khả năng cạnh tranh. Nguồn thu từ các
doanh nghiệp này vì thế cũng giảm đi tương ứng.
2.5. Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ trên thế giới.
Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ trên thế giới tiếp tục phát triển với tốc
độ ngày càng cao, tăng nhanh lực lượng sản xuất và tạo nên những đột biến trong tăng
trưởng kinh tế và thương mại làm cho cơ cấu kinh tế và tiềm năng quốc gia của các nước
biến đổi sâu sắc, đồng thời thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới,quốc tế hóa
nền kinh tế và đời sống xã hội. Cùng với sự phát triển của khoa học và kinh tế tri thức, các
ngành sản xuất ra của cải vật chất phát triển rất sôi động,kinh tế thế giới trải qua những biến
đổi về chất, các ngành công nghệ cao, đặc biệt là những lĩnh vực có hàm lượng chất xám cao
nhất là công nghệ thông tin, sinh học, vật liệu mới phát triển nhanh chóng làm thay đổi cơ
cấu sản xuất, tiêu dùng, ... cũng như phương thức kinh doanh, quản lý. Sản xuất hàng hóa
phát triển tất yếu dẫn đến lưu thông hàng hóa phát triển. Quy mô đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài và tác dụng của các công ty xuyên quốc gia ngày một lớn. Sự quốc tế hóa nguồn vốn
và sản xuất đã đem lại sức sống cho TMQT. TMQT vẫn là phương thức chủ yếu mà các
quốc gia sử dụng để trao đổi hàng hóa trực tiếp trên phạm vi toàn cầu. Đặc biệt chỉ số XK
tăng liên tục và luôn cao hơn so với tốc độ tăng trưởng kinh tế của thế giới...
10
Bài tập học kỳ
Sv. Phạm Quang Đại-351722
2.6. Pháp luật nội dung về thuế nhập khẩu.
Các nội dung về quản lý thuế nhập khẩu đã được quy định trong các văn bản pháp luật
thuế nhập khẩu tạo có sở pháp lý cho việc thực thi pháp luật trong thực tiễn. Điều này được
thể hiện:
- Thủ tục hành chính thuế nhập khẩu đã từng bước được cải tiến. Các thủ tục về thuế nhập
khẩu đã đơn giản hơn, thời gian giải quyết các công việc nhanh chóng hơn. Các cơ sở kinh
doanh tự xác định các điều kiện ưu đãi, mức thuế suất ưu đãi, điều kiện miễn giảm thuế mà
theo quy định của các văn bản pháp luật và thông báo cho cơ quan thuế biết mà không cần
làm thủ tục xin miễn giảm thuế nhập khẩu.
- Cơ chế quản lý thuế nhập khẩu ngày càng được hoàn thiện phù hợp với sự phát triển của
nền kinh tế, phù hợp với trình độ quản lý của cơ quan thuế và hải quan, của cán bộ thuế và
hải quan. Đó là cơ chế người nộp thuế tự tính, tự kê khai, và tự nộp thuế theo thông báo.
Việc kiểm tra hàng hoá nhập khẩu được phân loại theo mức độ tín nhiệm, có trường hợp
không cần phải kiểm tra, có trường hợp phái kiểm tra mẫu, có trường hợp phải kiểm tra
100%.
- Xây dựng các quy trình quản lý thuế nhập khẩu: Đó là quy trình thủ tục hải quan đối với
hàng nhập khẩu theo Quyết định số 928/QĐ-TCHQ của Tổng cục hải quan-Bộ Tài chính;
Quy trình kiểm tra xác định giá tính thuế nhập khẩu theo Quyết định số 640/QĐ-TCHQ của
Tổng trưởng Tổng cục hải quan ban hành và Công văn số 2417/TCHQ-KTTT của Tổng cục
hải quan-Bộ Tài chính hướng dẫn một số điểm của quy trình kiểm tra giá tính thuế.
Tuy nhiên, vẫn còn có nhiều quy định còn chồng chéo giữa các văn bản luật. Một số quy
định còn nhiều bất cập.
Thứ nhất, thuế suất TNK: TNK hiện nay với chức năng bảo vệ nền sản xuất trong nước
nên thuế suất được thay đổi thường xuyên cho phù hợp với từng mặt hàng trong nước đã sản
xuất được. Nhưng cũng chính điều này tạo ra những lệch lạc trong xu hướng đầu tư trong
nước, đặc biệt là trong thu hút đầu tư nước ngoài. Trong những năm qua đầu tư nước ngoài
đã được thu hút vào những ngành sản xuất ra các sản phẩm có mức thuế bảo hộ cao,phục vụ
chủ yếu vào thị trường trong nước chứ không nhằm vào XK. Do tính chất quản lý điều hành
XK còn nhiều yếu kém nên có tình trạng có khoảng 50% sản phẩm của các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài không XK mà cung ứng vào thị trường trong nước, đây là việc làm dễ
gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc tiêu thụ sản phẩm.
Thứ hai, biểu thuế NK hiện nay còn quá nhiều mức: quy định này có ưu điểm là bảo hộ
đến từng doanh nghiệp nhưng lại làm cho biểu thuế phức tạp, gây khó khăn cho việc quản lý
TNK, làm cho biểu thuế mất tính trung lập.
Thứ ba, luật TXK,TNK hiện nay còn quy định về giá tính thuế là giá CIF đối với hàng
NK, đồng thời cũng quy định áp dụng giá tính thuế tối thiểu đối với một số mặt hàng thuộc
diện nhà nước quản lý giá (hiện nay còn 15 mặt hàng) trong trường hợp NK hàng hóa có giá
trị ghi trên hợp đồng nhỏ hơn giá tối thiểu do nhà nước quy định hoặc trong trường hợp
XNK hàng hóa theo các phương thức không thông qua hợp đồng mua bán: biếu tặng, xuất
nhập khẩu phi mậu dịch. Việc áp dụng giá tính thuế tối thiểu như hiện nay là không phù hợp
với quy định quốc tế mà Việt Nam đã gia nhập WTO, ASEAN cũng như hiệpđịnh với Mỹ.
Theo quy định của Hiệp định này thì trị giá hải quan sẽ là giá mua bán theo hợp đồng trong
điều kiện mua bán thông thường với những quan hệ thực chất giữa người bán và người mua
và các điều kiện so sánh giá khác nếu không thể xác định được giá mua bán thực của hàng
hóa trong điều kiện thông thường.
Thứ tư, luật TXK, TNK hiện hành có quy định về xét miễn thuế NK đối với hàng chuyên
dùng phục vụ trực tiếp cho an ninh quốc phòng, nghiên cứu khoa học, giáo dục. Tuy nhiên
11
Bài tập học kỳ
Sv. Phạm Quang Đại-351722
thực tế cho thấy rất khó xác định, trừ một số hàng đặc biệt như vũ khí quân sự còn các mặt
hàng khác có thể dùng cho đối tượng khác nhau, làm cho thủ tục xét miễn thuế nhưng vẫn
không bảo đảm chính xác, chặt chẽ dẫn đến trốn lậu thuế.
2.7. Đội ngũ cán bộ và nguồn nhân lực quản lý hoạt động thu thuế nhập khẩu.
Trình độ chuyên môn, năng lực cán bộ và nguồn nhân lực là một trong những yếu tố
quan trọng tổ chức thực hiện đường lối chính sách của Đảng pháp luật của Nhà nước nói
chung và thực hiện hoạt động hành thu thuế NK nói riêng. Đặc biệt trong điều kiện hội nhập
tham gia sâu vào tiến trình TMQT, vai trò của những người làm công tác hoach định chính
sách, chỉ huy điều hành đến trực tiếp tổ chức thực hiện ở cơ sở đóng vai trò quyết định. Trình
độ, năng lực, phẩm chất đạo đức cán bộ là nhân tố tích cực song cũng là nhân tố tiêu cực ảnh
hưởng đến hoạt động hành thu thuế có công bằng, khách quan, nghiêm minh đúng pháp luật
hay không.
Trong tổ chức thực hiện luật TXK, TNK cũng còn bất cập như việc tính thuế đôi lúc
còn tùy tiện ở các cửa khẩu biên giới, công tác quản lý nhiều khi còn buông lỏng cộng với
tình trạng thuế quá cao đối với một số mặt hàng dẫn đến tình trạng nhập lậu gia tăng, hàng
ngoại lấn át hàng nội, làm cho hàng hóa sản xuất trong nước không thể cạnh tranh với hành
hóa ngoại nhập và gây thiệt hại nhiều cho các doanh nghiệp.
Về mô hình quản lý thuế: hiện nay ở nước ta có một bộ máy quản lý thuế theo hệ thống
dọc,thống nhất từ trung ương đến quận, huyện trong cả nước chịu sự lãnh đạo song trùng của
Bộ Tài chính và UBND các cấp đó là: Tổng cục thuế (ở trung ương); Cục thuế ở cấp tỉnh và
Chi cục thuế ở cấp huyện. Kể từ khi thành lập đến nay hệ thống cơ quan thuế đã không
ngừng được cải cách cả về cơ cấu tổ chức và nhân sự, song nhìn chung bộ máy quản lý thuế
vẫn còn nhiều điểm bất hợp lý: sự cồng kềnh phức tạp trong bộ máy tổ chức; sự hạn chế về
trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ công chức ngành thuế và sự yếu kém trong quản
lý nhân sự.
Về nghiệp vụ quản lý thuế: về cơ bản quy trình quản lý thuế mới vẫn dựa trên chủ yếu 3
khâu: quản lý đối tượng nộp thuế; tính thuế và thanh tra thuế. Có thể nhận thấy quy trình
quản lý thuế trong điều kiện hiện nay ở nước ta còn nhiều hạn chế là chưa thật đơn giản hóa
các thủ tục quản lý kê khai thuế và thu nộp thuế, do thủ tục pháp lý được quy định trong
nhiều văn bản.
Về công tác tuyên truyền chính sách pháp luật thuế chưa thực sự đi vào chiều sâu, chưa
đạt hiệu quả như mong muốn. Việc nghiên cứu các hình thức tuyên truyền với chất lượng
cao và mang tính thống nhất trong cả nước còn tiến hành chậm. Cán bộ làm công tác tuyên
truyền chính sách pháp luật thuế còn nhiều hạn chế cả về số lượng, trình độ đặc biệt ở các
vùng nông thôn,các địa phương có trình độ dân trí thấp..
III. MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT THUẾ NHẬP KHẨU
TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY.
Mục tiêu của chiến lược NK của nước ta trong thời gian tới đó là: cân bằng với XK,
chủ yếu để phục vụ sản xuất XK, đáp ứng những lĩnh vực trọng yếu của đất nước và nhu cầu
cần thiết của nhân dân. Vì vậy chính sách NK trong thời gian tới đó là:
Ưu tiên NK máy móc thiết bị, công nghệ mới tiên tiến để phục vụ cho mục tiêu
công nghiệp hóa, hiện đại hóa;
Tập trung XK hàng hóa dịch vụ vào những thị trường mà Việt Nam đang nhập
siêu nhằm tăng kim ngạch XK, giảm dần tỉ lệ nhập siêu.
12
Bài tập học kỳ
Sv. Phạm Quang Đại-351722
Ưu tiên phát triển nguồn nguyên liệu trong nước để thay thế từng phần NK trên cơ
sở xây dựng chiến lược cơ cấu tổng thể nền kinh tế. Đồng thời phải tiết kiệm tiêu dùng, cắt
giảm mạnh mẽ các khoản chi tiêu không cần thiết để giảm thiểu chi tiêu ngân sách.
Tiết kiệm ngoại tệ, chỉ nhập khẩu đầu vào phục vụ trực tiếp cho sản xuất XK và
hàng hóa tiêu dùng thay thế hàng NK. Điều chỉnh TNK một số mặt hàng và xử lý vấn đề thu
chênh lệch giá thích hợp; bảo đảm tính linh hoạt cần thiết trong điều hành tỉ giá..
Có chính sách bảo hộ nội địa phù hợp; chú trọng xây dựng các rào cản thương mại
đối với các mặt hàng cần hạn chế NK; đồng thời triển khai những công cụ quản lý NK mới
theo quy định của WTO: hạn ngạch thuế quan, thuế tự vệ, thuế tăng cường...
Để thực hiện có hiệu quả các mục tiêu trên cần hoàn thiện các quy định sau:
1. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế nhập khẩu hiện hành.
Luật thuế nhập khẩu, xuất khẩu hiện hành nói chung (trong đó bao gồm pháp luật thuế
nhập khẩu và xuất khẩu nói riêng) hiện tại vẫn còn một số bất cập, những bất cập này sẽ là
một rào cản rất lớn khi áp dụng những quy định pháp luật này vào thực tiễn. Muốn áp dụng
pháp luật vào thực tiễn được tốt thì trước hết, bản thân những quy định pháp luật đó phải phù
hợp với thực tế, dễ hiểu, dễ áp dụng, tạo ra một khung pháp lý hoàn chỉnh. Có thể nói, năm
2010 Chính phủ ban hành nghị định 87/2010 đã khắc phục được khá nhiều hạn chế của Luật
thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2005. Tuy nhiên hiện nay, pháp luật thuế hiện hành và Nghị
định vẫn còn một số quy định chưa phù hợp với thực tiễn hiện nay của Việt Nam. Cần sửa
đổi một số quy định sau:
Giảm bớt số mức thuế NK và mức thuế cao nhất: Để phù hợp với yêu cầu hội nhập
ta phải giảm dần mức thuế cao nhất và giảm số lượng mức thuế.
Về vấn đề căn cứ xác định nghĩa vụ thuế nhập khẩu:
Không thể phủ nhận rằng nghĩa vụ thuế nhập khẩu có bản chất là một nghĩa vụ tài sản
của người nộp thuế đối với nhà nước. Do vậy, nghĩa vụ tài sản này cần được xác định dựa
vào những căn cứ cụ thể do pháp luật quy định, trên cơ sở đó nhằm bảo đảm quyền và lợi ích
chính đáng của người nộp thuế cũng như bảo đảm quyền và lợi ích chung của nhà nước và
xã hội. Nước ta quy căn cứ tính thuế nhập khẩu tại Điều 8 Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu 2005 và được hướng dẫn tại Điều 6 Nghị định 87/2010, theo đó, căn cứ tính thuế bao
gồm ba yếu tố: “Căn cứ tính thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là số lượng đơn vị từng mặt
hàng thực tế xuất khẩu, nhập khẩu ghi trong tờ khai hải quan, giá tính thuế, thuế suất theo tỷ
lệ phần trăm (%); đối với mặt hàng áp dụng thuế tuyệt đối thì căn cứ tính thuế là số lượng
đơn vị từng mặt hàng thực tế xuất khẩu, nhập khẩu ghi trong tờ khai hải quan và mức thuế
tuyệt đối quy định trên một đơn vị hàng hóa”.
Một vấn đề đặt ra là năm 2007, Nghị định 40/2007/NĐ-CP - Quy định về việc xác
định trị giá hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu đã được ban hành, tại điều 1 của
Nghị định này xác định: “Nghị định này quy định việc xác định giá trị hải quan nhằm mục
đích tính thuế”. Như vậy, việc ban hành nghị định 40/2007 của Chính phủ là một cố gắng
lớn.
Khi Chính phủ đã ban hành một nghị định chung quy định các xác định giá trị hải
quan nhằm mục đích tính thuế, thì thiết nghĩ ba căn cứ tính thuế được quy định tại Luật thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2005 nên sửa đổi lại thành hai căn cứ là dựa vào giá trị hải quan
và thuế suất để phù hợp với nội dung của Nghị định 40/2007 và hơn nữa, trong bối cảnh Việt
Nam đã chính thức gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO như hiện nay thì việc sửa đổi,
bổ sung luật thuế xuất nhập khẩu theo hướng chấp nhận nguyên tắc tính thuế xuất khẩu, nhập
khẩu dựa vào giá trị hải quan và thuế suất là phù hợp với thông lệ quốc tế và phù hợp với các
cam kết của Việt Nam về thuế quan và mậu dịch.
13
Bài tập học kỳ
Sv. Phạm Quang Đại-351722
- Về vấn đề thủ tục hành thu thuế nhập khẩu: Điểm hạn chế và bất cập nhất của pháp
luật thuế xuất nhập khẩu hiện hành mà ảnh hưởng rất lớn đối với việc thực thu loại thuế này
là có những điểm không tương đồng giữa Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu 2005 và Luật quản
lý thuế 2006.
Ví dụ về sự không thống nhất giữa hai đạo luật này là quy định tỷ lệ phạt chậm tiền
nộp thuế. Theo quy định tại khoản 1 Điều 23 Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2005 thì:
“Nộp chậm tiền thuế, tiền phạt so với ngày cuối cùng trong thời hạn quy định phải nộp hoặc
ngày cuối cùng trong thời hạn được ghi trong quyết định xử lý về thuế thì ngoài việc phải
nộp đủ tiền thuế, tiền phạt, mỗi ngày nộp chậm còn phải nộp phạt bằng 0,1% (một phần
nghìn) số tiền chậm nộp; nếu thời hạn chậm nộp là quá chín mươi ngày thì bị cưỡng chế
theo quy định tại khoản 4 Điều này”, tuy nhiên vấn đề này lại được quy định tại khoản 1
Điều 106 Luật quản lý thuế 2006 như sau: “Người nộp thuế có hành vi chậm nộp tiền thuế
so với thời hạn quy định, thời hạn gia hạn nộp thuế, thời hạn ghi trong thông báo của cơ
quan quản lý thuế, thời hạn trong quyết định xử lý của cơ quan quản lý thuế thì phải nộp đủ
tiền thuế và bị xử phạt 0,05% mỗi ngày tính trên số tiền thuế chậm nộp”. Rõ ràng một đạo
luật quy định người nộp chậm còn bị xử phạt 0,1% số tiền nộp chậm mỗi ngày, còn một đạo
luật lại quy định xử phạt 0,05% số tiền nộp chậm mỗi ngày. Như vậy nếu trên thực tế xảy ra,
người nộp chập sẽ bị xử phạt bao nhiêu phần trăm số tiền nộp chậm mỗi ngày?
Hay như quy định xử phạt đối với hành vi gian lận thuế, khoản 3 Điều 23 Luật thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2005 quy định: “Khai man thuế, trốn thuế thì ngoài việc phải nộp
đủ tiền thuế theo quy định của Luật này thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm còn bị phạt
tiền từ một đến năm lần số tiền thuế gian lận”. Trong khi đó, theo quy định tại khoản 6 Điều
108 Luật quản lý thuế 2006 lại quy định: “Người nộp thuế có một trong các hành vi trốn
thuế, gian lận thuế sau đây thì phải nộp đủ số tiền thuế theo quy định và bị phạt từ một đến
ba lần số tiền thuế trốn: 6. Khai sai với thực tế hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu mà không
khai bổ sung hồ sơ khai thuế sau khi hàng hóa đã được thông quan trong thời gian sáu mươi
ngày, kể từ ngày đăng ký tờ khai hải quan”. Như vậy cũng trong trường hợp này, nếu người
nộp thuế có hành vi khái báo thuế không đúng sự thật nhằm mục đích gian lận thuế thì một
đạo luật lại quy định người nộp thuế sẽ bị phạt từ 1 đến 5 lần số tiền trốn thuế, còn một đạo
luật lại quy định phạt từ 1 đến 3 lần số tiền trốn thuế. Như vậy nếu thực tế gặp vấn đề này thì
sẽ áp dụng mức phạt bao nhiêu lần?
Trên đây chỉ là hai trong số rất nhiều những quy định không thống nhất với nhau giữa
hai đạo luật, luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2005 và Luật quản lý thuế 2006. Từ những
quy định không thống nhất này sẽ dẫn đến vấn đề áp dụng những quy định này trên thực tế
còn có sự chồng chéo, không thống nhất. Một vấn đề tất yếu đặt ra là cần phải sửa đổi những
nội dung này trong hai đạo luật trên sao cho nó thống nhất và tương đồng.
2.
Một số biện pháp khác:
Thực hiện tốt công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về thuế nhập khẩu nói
riêng hay thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nói chung: Do thực hiện quy trình quản lý thu thuế
mới, đối tượng nộp thuế tự tính thuế, nên công tác tuyên truyền hiểu biết về thuế là rất quan
trọng. Cần tuyên truyền, hướng dẫn, giải thích thật cụ thể về nội dung chính sách thuế, quy
định quản lý thuế, cách kê khai thuế, công khai quy trình miễn thuế, hoàn thuế, giảm thuế tới
từng cơ sở tính thuế, nộp thuế. Phối hợp ngành thuế với các cơ quan thông tin đại chúng, các
tổ chức đoàn thể, xã hội trong tuyên truyền, giáo dục pháp luật về thuế.
- Đẩy mạnh hoạt động tư vấn thuế: Khó khăn hiện nay mà các đối tượng nộp thuế gặp
phải trong quá trình nộp thuế chủ yếu liên quan đến việc có những chính sách thuế chưa
đồng nhất, hoặc việc chủ thể nộp thuế không biết các quy định cụ thể về kê khai thuế, các
14
Bài tập học kỳ
Sv. Phạm Quang Đại-351722
trường hợp miễn thuế, giảm thuế, hoàn thuế nên nhiều trường hợp các chủ thể nộp thuế bị
mất quyền lợi của mình. Do vậy nếu hoạt động tư vấn thuế phát triển thì những chuyên gia tư
vấn thuế sẽ trợ giúp đối tượng nộp thuế vận dụng giải thích và thống nhất quan điểm xử lý
với cơ quan thuế một cách hài hòa, đảm bảo các chủ thể này thực hiện đúng, đủ nghĩa vụ của
mình, mà không ảnh hưởng đến lợi ích mà chủ thuể này được hưởng.thuế, chỉ ra cho các chủ
thể này cần phải làm gì, thực hiện các thủ tục gì, thực hiện kê khai đầy đủ, giảm thiểu rất
nhiều rủi ro khi xác định nghĩa vụ thuế và tránh các khoản phạt không đáng có về vi phạm
hành chính thuế hoặc có thể bị coi là có hành vi gian lận về thuế.
- Cần rà soát biểu thuế NK để phát hiện những điều bất hợp lý, trên cơ sở đó hiệu chỉnh
danh mục, mức TNK cho phù hợp, nhằm hạn chế việc áp dụng sai thuế suất.
- Việc hoàn thiện chính sách thuế quan…
Ngoài ra cũng cần hoàn thiện cơ chế điều hành quản lý TNK; đẩy mạnh ứng dụng công
nghệ thông tin trong công tác hành thu thuế; nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác
hành thu thuế; tăng cường thanh tra, kiểm tra, tránh gian lận, trốn thuế…
KẾT LUẬN
Trên đây là những tìm hiểu của cá nhân về việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu –
những yếu tố ảnh hưởng và giải pháp hoàn thiện, do kiến thức còn hạn chế và nội dung đề tài
có nhiều vấn đề phức tạp nên bài làm không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong sự
đóng góp của thầy cô để bài làm của em thêm hoàn thiện hơn.
Em xin chân thàn cảm ơn!
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Văn bản pháp luật.
1. Luật thuế xuất nhập khẩu 1991, 1993, 1998, 2005.
2. Luật doanh nghiệp 2005.
3. Luật thương mại 2005.
4. Nghị định 12/ 2006/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật thương mại
về hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế và các hoạt động đại lý mua, bán,
gia công và quá cảnh hàng hóa với nước ngoài.
5. Nghị định số 149/2005/NĐ-CP ngày 08/12/2005 của chính phủ quy
định chi tiết thi hành Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
6. Nghị định 155/2005/NĐ-CP của chính phủ quy định việc xác định trị
giá hải quan đối với hàng xuất khẩu, nhập khẩu.
7. Thông tư số 113/2005/TT-BTC hướng dẫn thi hành Luật thuế xuất
15
Bài tập học kỳ
Sv. Phạm Quang Đại-351722
khẩu, thuế nhập khẩu.
8. Nghị định 87/2010/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hàng
một số điều của pháp luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
Giáo trình, sách:
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thuế Việt Nam, NXB CAND
2005.
2. GS. TS Hoàng Văn Châu, Thương mại Việt Nam hậu WTO, NXB LĐXH, 2009.
3. Lương Văn Tự, Tiến trình gia nhập WTO, NXB Lao động, 2007.
4. Đoàn Hồng Lê, “Quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu ở
nước ta trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”, LAPTS KT, Đại học
Đà Nẵng, 2008.
5. Kiều Dương, “Pháp luật về thuế xuất khẩu, nhập khẩu trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế”, Luận v ăn Thạc sỹ Luật học 2005.
6. Đề tài khoa học cấp trường, “ Một số vấn đề lý luận và thực tiễn và hoàn
thiện hệ thống pháp luật thuế Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế.”
Tạp chí:
1. Tạp chí Thuế nhà nước. Số 21/2006; số 8/2006; số 1+2/ 2006; số kỳ
II/2005.
2. Tạp chí Thông tin tài chính. Số 18/2006; 21/2006.
3. Tạp chí Tài chính. Số 7/2005; 10/2005; 3/2005; 8/2006; 4/2006.
4. Tạp chí Thanh tra tài chính. Số 49/2006
16