ĐỀ TÀI
Sử dụng mô hình IS-LM để phân tích tác động các chính sách kinh tế vĩ mô
trong vấn đề giải quyết việc làm của Việt Nam trong thời gian qua.
(Lấy số liệu trong những năm gần đây)
Mã lớp học phần: 1127MAECO111
NHÓM: 6
1
LỜI MỞ ĐẦU
Giai đoạn 2006-2010, Việt Nam đang trên đà tăng trưởng kinh tế và thực
hiện toàn cầu hóa. Cùng với việc tập trung phát triển kinh kế, tăng cường đầu tư
phát triển… thì giải quyết việc làm cho người lao động vẫn đang là một trong
những nhiệm vụ trọng tâm mà Việt Nam cần tập trung nhằm ổn định, nâng cao
đời sống và giải quyết các vấn đề xã hội. Chính phủ đã và đang thực hiện nhiều
giải pháp tích cực để giải quyết vấn đề đó. Gia nhập Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO) là cơ hội tốt để hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới, được đối
xử bình đẳng trên “sân chơi chung” của thế giới. Hội nhập đem lại nhiều cơ hội
việc làm, đặc biệt là việc làm theo hướng công nghiệp với hàm lượng vốn, tri
thức cao; các rào cản pháp lý về di chuyển pháp nhân, thể nhân được nới lỏng,
các quan hệ kinh tế, đối ngoại, lao động… được thiết lập tạo điều kiện cho lao
động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. Bên cạnh những giải pháp đưa lao
động đi xuất khẩu nước ngoài , nhà nước còn đặc biệt quan tâm tạo công ăn việc
làm cho người lao động trong nước. Việt Nam luôn chú trọng và ưu tiên phần
vốn ngân sách nhà nước cho chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm.Chính
phủ sử dụng chính sách tiền tệ (CSTT) và chính sách tài khóa (CSTK) là hai
công cụ quản lý kinh tế vĩ mô chủ yếu để tác động lên vấn đề giải quyết việc
làm. Vậy để hiểu rõ hơn về vấn đề này chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu đề tài:
Sử dụng mô hình IS-LM để phân tích tác động của chính sách kinh tế vĩ
mô trong việc giải quyết việc làm của Việt Nam thời gian qua.
1. Mục tiêu thảo luận.
Tìm hiểu vấn đề việc làm và chính sách của nhà nước trong vấn đề giải quyết
việc làm của nước ta trong thời gian qua và đề ra một số ý kiến nhằm hạn chế
vấn đề thất nghiệp giải quyết việc làm cho người lao động.
2. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các chính sách kinh tế vĩ mô mà nhà nước
2
thực hiện để giải quyết vấn đề việc làm của nước ta trong thời gian qua.
3. Phương pháp nghiên cứu.
Sử dụng mô hình IS-LM để phân tích tác động của các chính sách kinh tế vĩ
mô của chính phủ để giải quyết vấn đề việc làm, thu thập số liệu lấy dẫn chứng
cụ thể những số liệu qua những năm gần đây.
I. Những vấn đề cơ bản về việc làm.
Đứng trên các góc độ nghiên cứu khác nhau, người ta đã đưa ra rất nhiều định
nghĩa nhằm làm sáng tỏ: “việc làm là gì?” Và ở các quốc gia khác nhau do ảnh
hưởng của nhiều yếu tố (như điều kiện kinh tế, chính trị, luật pháp…) người ta
quan niệm về việc làm cũng khác nhau. Chính vì thế không có một định nghĩa
chung và khái quát nhất về việc làm. Theo bộ luật lao động_ Điều 13: “Mọi hoạt
động tạo ra thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc
làm”.Việc làm gắn liền với nền kinh tế thị trường, khi không có việc làm sẽ trở
thành người thất nghiệp. Nạn thất nghiệp là một thực tế nan giải ở mọi quốc gia,
đó là sự giảm sút lớn về sản lượng và đôi khi còn kéo theo nạn lạm phát to lớn.
Vì vậy, giải quyết vấn đề việc làm cũng chính là giải quyết vấn đề thất nghiệp
hiện nay.
1.Một vài khái niệm cơ bản.
Người có việc là những người đang làm cho cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội….
Người thất nghiệp là người hiện chưa có việc nhưng mong muốn và đang tìm
kiếm việc làm.
Lực lượng lao động là số người trong độ tuổi lao động đang có việc hoặc
chưa có việc làm nhưng đang tìm kiếm việc làm.
Tỉ lệ thất nghiệp là % số người thất nghiệp so với tổng số người trong độ tuổi
lao động.
1.1 Phân loại thất nghiệp.
Theo nguồn gốc thất nghiệp thì thất nghiệp chia ra:
- Thất nghiệp cơ cấu: xảy ra khi có sự mất cân đối cung cầu giữa các loại lao
động.
- Thất nghiệp tạm thời: xảy ra khi có một số người lao động đang trong thời
gian tìm kiếm công việc hoặc nơi làm việc tốt hơn.
- Thất nghiệp do thiếu cầu (thất nghiệp chu kì): xảy ra khi mức cầu chung về lao
động giảm xuống.
- Thất nghiệp do yếu tố ngoài thị trường (thất nghiệp cổ điển): thất nghiệp do
tính cứng nhắc của tiền lương.
Cách phân tích hiện đại về thất nghiệp đưa ra khái niệm mới về thất nghiệp
gồm:
- Thất nghiệp không tự nguyện: là những người muốn đi làm ở mức lương hiện
hành nhưng không có việc làm.
- Thất nghiệp tự nguyện: là những người không muốn đi làm làm tại mức lương
thịnh hành.
- Thất nghiệp tự nhiên: là tổng số thất nghiệp tự nguyện khi thị trường ở trạng
3
thái cân bằng.
Theo loại hình thất nghiệp thì phân ra:
- Thất nghiệp chia theo giới tính.
- Thất nghiệp theo lứa tuổi.
- Thất nghiệp chia theo vùng lãnh thổ.
- Thất nghiệp chia theo ngành nghề.
- Thất nghiệp chia theo dân tộc, chủng tộc…
Theo lí do thất nghiệp:
- Mất việc: các hãng cho thôi việc do những khó khăn trong kinh doanh.
- Bỏ việc: Tự ý xin thôi việc vì những lí do khác nhau.
- Mới ra nhập lực lượng lao động: lần đầu bổ sung vào lực lượng lao động,
nhưng chưa tìm được việc.
- Tái nhập: những người đã rời khỏi lực lượng lao động nay muốn quay lại làm
việc.
1.2 Tác hại của thất nghiệp.
Không có việc làm đồng nghĩa với hạn chế giao tiếp với những người lao
động khác, tiêu tốn thời gian vô nghĩa, không có khả năng chi trả, mua sắm vật
dụng thiết yếu cũng như các hàng hóa tiêu dùng. Những nghiên cứu cụ thể chỉ
ra rằng, gia tăng thất nghiệp đi liền với gia tăng tỷ lệ tội phạm, tỷ lệ tự tử, và
suy giảm chất lượng sức khỏe. Về phía người sử dụng lao động thì sử dụng tình
trạng thất nghiệp để gây sức ép với những người làm công cho mình. Những
thiệt thòi khi mất việc dẫn đến trầm uất, suy yếu ảnh hưởng của công đoàn,
công nhân lao động vất vả hơn, chấp nhận thù lao ít ỏi hơn và sau cùng là chủ
nghĩa bảo hộ việc làm. Chủ nghĩa này đặt ra những rào cản với người muốn gia
nhập công việc, hạn chế di dân, và hạn chế cạnh tranh quốc tế. Cuối cùng, tình
trạng thất nghiệp sẽ khiến cán cân đàm phán điều kiện lao động nghiêng về giới
chủ, tăng chi phí khi rời công việc và giảm các lợi ích của việc tìm cơ hội thu
nhập khác.
Cái giá khác của thất nghiệp còn là khi thiếu các nguồn tài chính và phúc
lợi xã hội, cá nhân buộc phải làm những công việc không phù hợp với trình độ,
năng lực. Như vậy thất nghiệp gây ra tình trạng làm việc dưới khả năng. Với ý
nghĩa này, thì trợ cấp thất nghiệp là cần thiết.
Nếu xét trên tổng thể nền kinh tế quốc dân, tỷ lệ thất nghiệp cao đồng
nghĩa với Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thấp – các nguồn lực con người
không được sử dụng, bỏ phí cơ hội sản xuất thêm sản phẩm và dịch vụ. Thất
nghiệp còn có nghĩa là sản xuất ít hơn. Giảm tính hiệu quả của sản xuất theo
quy mô. Thất nghiệp dẫn đến nhu cầu xã hội giảm. Hàng hóa và dịch vụ không
có người tiêu dùng, cơ hội kinh doanh ít ỏi, chất lượng sản phẩm và giá cả tụt
giảm. Hơn nữa, tình trạng thất nghiệp cao đưa đến nhu cầu tiêu dùng ít đi so với
khi nhiều việc làm. Như vậy:
Đối với cá nhân người lao động thì thất nghiệp làm:
4
Giảm thu nhập
Kỹ năng, chuyên môn mai một .
Hạnh phúc gia đình bị đe dọa…
Đối với xã hội:
Sản lượng nền kinh tế giảm sút .
Chính phủ phải tăng chi tiêu cho trợ cấp.
Tệ nạn xã hội, tội phạm gia tăng .
2. Nguyên nhân thất nghiệp.
Thất nghiệp gia tăng do suy giảm kinh tế toàn cầu: Nguyên nhân khiến
người lao động bị mất việc chủ yếu do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn
cầu. Nhiều doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất, có doanh nghiệp phải đóng cửa
hoàn toàn do sản phẩm làm ra không tiêu thụ được, nhất là những doanh nghiệp
xuất khẩu. Chính vì vậy, họ phải “dãn thở” dẫn đến lao động mất việc làm. Đây
là nguyên nhân chủ yếu.
Bên cạnh lý do lạm phát, Việt Nam còn bị ảnh hưởng bởi tình trạng suy
giảm tăng trưởng toàn cầu, nhất là vì kinh tế Việt Nam vẫn phụ thuộc rất nhiều
vào đầu tư ngoại quốc và xuất khẩu ( đặc biệt là sang Hoa Kỳ và châu Âu ).
Nếp nghĩ có từ lâu trong thanh niên là thói quen đề cao việc học để "làm
thầy" mặc dù nếu bản thân học "làm thợ" sẽ tốt hơn hay "thích làm Nhà nước,
không thích làm cho tư nhân"; như vậy là thiếu thực tế bởi không dựa trên khả
năng của bản thân và nhu cầu xã hội. Một bộ phận LĐ trẻ có biểu hiện ngộ nhận
khả năng bản thân; một bộ phận khác lại tự ti, không đánh giá hết năng lực thực
sự của mình. Chọn nghề theo "nếp nghĩ" sẽ dễ mắc những sai lầm. Rất
nhiều LĐ trẻ "nhảy việc" để tìm kiếm thu nhập cao nên dẫn đến tình trạng dễ bị
mất việc.
Lao động Việt Nam có trình độ tay nghề thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu
mới, tính chuyên nghiệp chưa cao. Tỷ lệ lao động được đào tạo nghề rất thấp,
chỉ khoảng 26%. Lao động của chúng ta đúng là dồi dào thật nhưng vẫn không
tìm được việc làm, hoặc có việc làm nhưng không ổn định một phần do trình độ
chưa đáp ứng được yêu cầu. Do đó, lao động vẫn trong tình trạng bán chuyên
nghiệp, công việc chắp vá, không ổn định.
3. Thực trạng vấn đề việc làm của Việt Nam hiện nay.
Việt Nam luôn chú trọng và ưu tiên phần vốn ngân sách nhà nước cho
chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm. Kết quả đầu tư ngân sách nhà nước
đối với chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm như sau: Năm 2006 ngân
sách nhà nước đầu tư cho chương trình là 265 tỷ đồng; năm 2007 là 300 tỷ
đồng; năm 2008 là 327 tỷ đồng; năm 2009 là 413 tỷ đồng.
Vốn ngân sách nhà nước cho chương trình việc làm tăng đều qua các năm,
trong đó bổ sung quỹ vốn vay giải quyết việc làm hàng năm tăng khá: năm 2006
bổ sung quỹ vốn vay giải quyết việc làm là 235.000 triệu đồng; năm 2007:
5
250.000 triệu đồng; năm 2008: 250.000 triệu đồng; năm 2009: 313.000 triệu
đồng.
Năm 2006- 2007 tạo việc làm cho hơn 3,2 triệu lao động, ước tính năm
2008 tạo việc làm cho 1,615 triệu lao động (đạt 95% kế hoạch). Tỷ lệ thất
nghiệp ở thành thị hàng năm đều giảm (năm 2006: 5,1%; năm 2007: 4,91%,
năm 2008: ước đạt 4,9%). Tỷ lệ thiếu việc làm ở nông thôn giảm dần (năm
2006: 5,86%; năm 2007: 5,79%, năm 2008: ước đạt 5,75%).
Nguồn nhân lực Việt Nam chưa đạt yêu cầu và còn yếu so với các nước
trong khu vực. Tỷ lệ lao động được đào tạo của nước ta tuy vẫn tăng đều qua
các năm nhưng đến nay vẫn chỉ đạt 24% tổng lao động (tỷ lệ tương ứng của các
nước trong khu vực là 50%). Tỷ lệ đào tạo lao động có bằng cấp còn thấp (tăng
khoảng 7,3%/năm) và chưa tương ứng với nhu cầu lao động có đào tạo cho phát
triển kinh tế. Cơ cấu đào tạo theo ngành nghề, theo trình độ còn nhiều bất cập.
Chất lượng thấp làm lao động Việt Nam mất thế cạnh tranh, ngay cả ở thị
trường lao động nội địa. Với chất lượng nguồn nhân lực như hiện tại, khi hội
nhập với thị trường lao động quốc tế, lao động Việt Nam sẽ mất lợi thế và phải
chấp nhận nhiều thiệt thòi.
Năng suất lao động của Việt Nam hiện tại còn thấp, đóng góp vào tăng
trưởng kinh tế còn hạn chế. Trong các năm 2006- 2008, năng suất lao động
chung của nền kinh tế tăng từ 22,5 lên 26,5 triệu đồng/năm. Trong điều kiện tốc
độ tăng trưởng kinh tế trong 2 năm đầu của kế hoạch 2006- 2010 là tương đối
khả quan nhưng năng suất lao động của nền kinh tế vẫn không được cải thiện
nhiều thì sự chững lại của tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2008 và có thể cả
trong một vài năm tiếp theo sẽ còn làm chậm hơn nữa tốc độ tăng của năng suất
lao động.
Về xuất khẩu lao động: Trong 10 tháng qua, cả nước đã đưa được khoảng
72.500 lao động đi làm việc ở nước ngoài, đạt khoảng 85,0% kế hoạch năm.
Trong khi đó, rất nhiều người chuyển nguyện vọng sang các nước châu Âu, úc,
Canada, Mỹ, Hàn Quốc… Chưa bao giờ hoạt động xuất khẩu lao động lại ở
trong tình trạng phân hoá thị trường và nguồn lao động mạnh mẽ như hiện nay
số liệu tổng hợp của Tổng cục Thống kê, lực lượng lao động trong độ tuổi lao
động của cả nước sáu tháng đầu năm giảm so với con số bình quân của cùng kỳ
năm 2010.
Cụ thể, hiện cả nước đang có 46,4 triệu người trong độ tuổi lao động,
giảm 7,2 nghìn người so với số bình quân năm trước. Trong đó, lao động nam là
24,6 triệu người, tăng 42,6 nghìn người; lao động nữ là 21,8 triệu người, giảm
49,8 nghìn người.
Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi 6 tháng đầu năm ước tính là
2,58% (năm 2010 là 4,1%); trong đó khu vực thành thị là 3,96%; khu vực nông
thôn 2,02%. Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi ước tính 3,9%, khu
vực thành thị 2,15% và khu vực nông thôn 4,6%.
Hiện nay tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị vẫn còn cao, khoảng hơn 7%, vùng
6
nông thôn khoảng 11%. Như vậy số người hiện chưa có công ăn việc làm còn
khoảng 3,2 triệu người. Hàng năm có trên 1,7 triệu thanh niên bước vào độ tuổi
lao động và chỉ có trên 35 vạn người ra khỏi độ tuổi lao động, trong khi đó mỗi
năm chỉ giải quyết việc làm cho khoảng trên 1 triệu người đã tạo ra áp lực rất
lớn về đào tạo nghề và giải quyết việc làm.
Lý do lực lượng lao động giảm được giải thích, chủ yếu do một bộ phận
lao động đã tự giãn việc trước và sau kỳ nghỉ Tết Tân Mão 2011.
Không phải bao giờ thất nghiệp cũng có hại! - Nếu không có thất nghiệp thì
nhiều người sẽ không có động lực làm việc, đặc biệt là những lao động chân
tay. Nếu không có thất nghiệp doanh nghiệp phải trả các khoản lương cũng như
đáp ứng tất cả các đòi hỏi, đôi khi rất bất hợp lý của người lao động.
Nếu không có thất nghiệp doanh nghiệp không thực hiện được việc tái cơ
cấu tổ chức...
Vấn đề chính là ổn định tỷ lệ thất nghiệp là bao nhiêu % để xã hội không
bị biến động và kinh tế tăng trưởng. Theo 1 số lý thuyết kinh tế thì tỷ lệ thất
nghiệp tối ưu là từ 4-5%.
Thất nghiệp có cả ưu điểm lẫn nhược điểm chứ không phải hoàn toàn là
có hại!
3. Một số giải pháp của chính phủ nhằm giải quyết vấn đề việc làm.
Để giải quyết vấn đề việc làm chính phủ đã sử dụng một số chính sách như:
- Chính sách tài khóa.
- Chính sách tiền tệ.
- Sự phối hợp các chính sách tài khóa và tiền tệ.
- Một số giải pháp khác:
+ Xuất khẩu lao động.
+ Quỹ Quốc gia hỗ trợ việc làm.
+ Phát triển thị trường lao động…
II.Phân tích tác động một số chính sách cụ thể của chính phủ trong vấn đề
giải quyết việc làm qua mô hình IS-LM.
1.Tác động của chính sách tài khóa.
1.1.Khái niệm chính sách tài khóa.
Chính sách tài khóa là việc chính phủ sử dụng thuế khóa và chi tiêu công
cộng để tiết kiệm mức chi tiêu chung trong nền kinh tế quốc dân nhằm hướng
tới mục tiêu tăng trưởng kinh tế toàn dụng nhân công, bình ổn giá cả. Hai công
cụ chính của chính sách tài khóa là chi tiêu của chính phủ và hệ thống thuế.
1.2.Tác động của chính sách tài khóa để giải quyết vấn đề việc làm thông qua
mô hình IS-LM.
Khi nền kinh tế rơi vào suy thoái, nền kinh tế ở quá xa về bên trái hoặc về
bên phải mức sản lượng tiềm năng thì là lúc cần có tác động của chính sách tài
7
khóa để đưa nền kinh tế về mức sản lượng tiềm năng. Khi nền kinh tế đang
trong trạng thái lạm phát tăng, chính phủ có thể giảm chi tiêu, tăng thuế hoặc
kết hợp cả giảm chi tiêu và tăng thuế nhờ đó mức chi tiêu chung giảm đi, sản
lượng giảm theo và lạm phát sẽ chững lại.
Giả sử ban đầu nền kinh tế cân bằng tại E(Y0;i0), nền kinh tế trong thời kỳ suy
thoái (Y
i
LM
I1
I0
E1
E0
IS1
IS0
0
Y0
Y1
Thất nghiệp gia tăng dẫn đến mục tiêu của chính phủ là giảm thất nghiệp,ổn
định việc làm cho người dân
=>chính phủ sử dụng chính sách tài khóa lỏng (giảm I, tăng G) làm cho đường
IS dịch chuyển song song sang phải từ IS0 ->IS1=>E0 ->E1
Tại E1(Y1;I1)
=>lãi suất I tăng từ i0->i1 => hiện tượng tháo lui đầu tư
Sản lượng Y tăng từ Y0->Y1
=>thất nghiệp giảm, số người có việc làm tăng
Thực trạng thất nghiệp năm 2008 và tác động của chính phủ:
Do khủng hoảng kinh tế và suy thoái toàn cầu,số người mất việc năm 2008
khoảng 667000 người,3000 lao động nước ngoài phải trở về nước trước thời
hạn.Theo bộ lao động tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam khoảng 4.65% (khoảng
hơn 2 triệu lao động không có việc làm)
8
Y
Cuối năm 2008 hàng ngàn lao động mất việc làm,hàng vạn người bị nợ lương
,không có thưởng.
Tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ thiếu việc làm của lực lượng lao động trong độ tuổi
năm 2008 phân theo vùng (Theo thống kê của tổng cục thống kê Việt Nam:
Tỷ lệ thất nghiệp (%) Tỷ lệ thiếu việc làm (%)
Vùng
CẢ NƯỚC
Đồng bằng sông Hồng
Trung du và miền núi phía
Bắc
Bắc Trung Bộ và duyên hải
miền Trung
Tây Nguyên
Đông Nam Bộ
Đồng bằng sông Cửu Long
Chung
2,38
2,29
Thành Nông
Thành Nông
Chung
thị
thôn
thị
thôn
4,65 1,53 5,10
2,34 6,10
5,35
1,29
6,85
2,13
8,23
1,13
4,17
0,61
2,55
2,47
2,56
2,24
1,42
3,74
2,71
4,77
2,51
4,89
4,12
1,53
1,00
2,05
2,35
5,71
5,12
2,13
6,39
3,38
3,72
1,03
3,59
6,34
5,65
3,69
7,11
9
Theo báo cáo của bộ Thương binh và Xã hội,trong quý 3 năm 2009 số lao động
mất việc trong cả nước là khoảng 11198 người,giảm 68% so với quý 2.Một số
tỉnh trước đây tập trung số lao động mất việc cao thì đến quý 3 năm 2009 đã
giảm mạnh.
Đến năm 2010,tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi là 2.88% trong đó
khu vực thành thị là 4.43%,khu vực nông thôn là 2.27% (theo tổng cục thông kê
ngày 30/12/2010 tại Hà Nội cho biết).So sánh với năm 2009,tỷ lệ thất nghiệp
chung giảm 0.02%,thất nghiệp thành thị giảm 0.17%
Tuy nhiên chính sách tài khóa là công cụ vĩ mô tương đối cứng nhắc, thiếu
độ linh hoạt vì mỗi sự thay đổi dự toán chi ngân sách hay thay đổi thuế suất
từng sắc thuế đều phải thực hiện theo những quy trình tương đối phức tạp. Nhà
nước thực hiện chính sách tài khóa nới lỏng, đường IS sẽ dịch song song
10
sang phía phải. Phân tích IS-LM cho thấy lãi suất thực tế sẽ tăng lên, gây
khó khăn cho các hãng đi vay để đầu tư mở rộng sản xuất.
2. Tác động của chính sách tiền tệ.
2.1. khái niệm chính sách tiền tệ.
Chính sách tiền tệ là hệ thống các giải pháp và công cụ quản lý vĩ mô của
nhà nước và tiền tệ của nhà nước do ngân hàng trung ương khởi thảo và thực thi
nhằm ổn định giá trị đồng tiền và hướng nền kinh tế vào sản lượng và việc làm
mong muốn.Hai công cụ chính của chính sách tiền tệ là lãi suất và mức cung
tiền.
2.2 .Tác động của chính sách tiền tệ để giải quyết vấn đề việc làm thông qua
mô hình IS-LM.
Trường hợp nền kinh tế có mức Y nhỏ hơn Y*. Khi nền kinh tế bị áp lực
suy thoái, thất nghiệp tăng. Muốn chống suy thoái ngân hàng trung ương thực
hiện chính sách tiền nới lỏng, nghĩa là tăng cung ứng tiền tệ .Thực hiện chính
sách này có thể thông qua công cụ sau: Mua chứng khoán trên thị trường mở,
Giảm tỷ lệ dụng bắt buộc: Giảm lãi suất chiết khấu; tăng lãi suất tiền gửi sử
dụng.
Ban đầu nền kinh tế đạt TTCB tại E(Y0,i0)=IS∩LM.
i
IS
LM
LM1
i0
E0
i1
0
E1
Y0
Y1
Khi chính phủ thực hiện CSTT lới lỏng làm cho LM→LM1 kết quả là:
11
Y
Trong ngắn hạn: E1(Y1,i1)=IS∩LM1 và tại đây i1<i0, Y1>Y0
tại đây sản lượng tăng và tỉ lệ người thất nghiệp đã giảm.
Trong ngắn hạn chính sách tiền tệ lới lỏng làm tăng sản lượng nhưng kéo dài
trong nhiều năm sẽ làm tăng làm phát mất cân đối nề kinh tế vĩ mô. Khi sản
lượng Y>Y* thì do các nguồn lực kinh tế đã được sử dụng quá mức nền kinh tế
thực có. Nếu chính sách tiếp tục lới lỏng sẽ làm sản lượng không tăng mà lại
làm giá cả tăng gây tình trạng làm phát.
Từ các bài học và thực tiễn chính sách của các quốc gia khác, nhận thấy
chính sách tiền tệ trong thời gian tới cần điều hành theo hướng nới lỏng một
cách thận trọng. Nếu nới lỏng tiền tệ quá nhanh có thể dẫn đến lạm phát trong
tương lai, đặc biệt khi các yếu tố tiềm ẩn có thể làm gia tăng lạm phát vẫn còn
hiện hữu như hiệu quả đầu tư, năng suất lao động thấp, việc tăng giá điện,
nước.NHNN tiếp tục kết hợp hài hòa, linh hoạt giữa điều hành tỷ giá và lãi suất,
sử dụng thích hợp các công cụ dự trữ bắt buộc, tín phiếu, thị trường mở... trong
từng giai đoạn cụ thể; tăng cường phối hợp giữa các chính sách tiền tệ và chính
sách tài khóa.
Chính phủ đã dùng 9 tỷ USD cho gói kích cầu kinh tế (đứng thứ 3 thế giới
về tỷ trọng gói kích cầu/tổng GDP, chỉ sau Trung Quốc và Malaixia) trong đó
dành riêng 1 tỷ đô la (tương đương hơn 17 ngàn tỷ đồng) từ dự trữ ngoại hối
quốc gia để hỗ trợ giảm 4% lãi suất vay vốn lưu động ngắn hạn cho doanh
nghiệp, các tổ chức và cá nhân để sản xuất, kinh doanh nhằm giảm giá thành
hàng hoá và tạo việc làm. Đây là cách làm khá độc đáo và sáng tạo, “rất Việt
Nam” nhưng mang lại hiệu quả khá cao. Sau đó, vào ngày 04/04/2009, Chính
phủ tiếp tục hỗ trợ 4% lãi suất và kéo dài thời hạn hỗ trợ đến hết năm 2011 cho
các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân vay vốn trung dài hạn để đầu tư mới cho sản
xuất kinh doanh. Bằng việc hỗ trợ lãi suất, Chính phủ đã khuyến khích tăng
nhanh chóng nhu cầu đầu tư của các doanh nghiệp vốn đang rất thiếu vốn sản
xuất đồng thời mở đầu ra cho các NHTM vốn đang trong tình trạng dư thừa
vốn. Tính đến 12/11/2009, theo NHNN, tổng dự nợ trong chương trình hỗ trợ lãi
12
suất đã lên tới trên 414.460,21 tỷ đồng trong đó DNNN vay 62.605,20 tỷ đồng,
DN ngoài quốc doanh 285.290,27 tỷ đồng, hộ sản xuất 66.565,02 tỷ đồng.
Chính phủ cũng quyết định giảm thuế cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ 30% số
TNDN của quý IV/2008 và cả năm 2009. Đối với 70% số thuế còn lại của năm
2009, các doanh nghiệp được giãn thời hạn nộp trong 9 tháng. Các đơn vị sản
xuất hàng xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản, dệt may, da giày, linh kiện điện tử
được áp dụng thời hạn giãn thuế tương tự. Để thúc đẩy xuất khẩu, Chính phủ
cũng đã quyết định giảm 50% thuế suất thuế GTGT từ 01/02/2009 đến
31/12/2009 đối với một số hàng hóa, dịch vụ; tạm hoàn 90% thuế giá trị gia
tăng đối với hàng hóa thực xuất và hoàn tiếp 10% khi có chứng từ thanh toán.
Với những chính sách trên, chính phủ đã đưa nền kinh tế thoát khỏi suy
thoái, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển mở rộng kinh doanh sản xuất.
Nhờ đó và vấn đề việc làm của người lao động cũng được giải quyết đáng kể.
Chính sách tiền tệ là chính sách được áp dụng trong ngắn hạn, chính sách
tiền tệ được thực hiện linh hoạt và hiệu quả nhanh. Tuy nhiên, chính vì độ nhạy
cảm của chính sách cũng là nhược điểm của nó khi mà chính sách đưa ra không
đúng, chưa đủ hoặc quá liều sẽ gây ảnh hưởng đến nền kinh tế đặc biệt là lạm
phát.Do đó, để thực hiện chính sách tiền tệ cần xem rõ tình hình kinh tế đang
trong tình trạng nào, các yếu tố vĩ mô ra sao để áp dụng chính sách có hiệu quả.
3. Sự phối hợp chính sách tài khóa lỏng và tiền tệ lỏng.
Trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế lan rộng trên
phạm vi toàn thế giới, hầu hết Chính phủ các nước tập trung sử dụng công cụ
chính sách tiền tệ nới lỏng nhằm giảm tiết kiệm, tăng đầu tư, tăng chi tiêu và kết
hợp với chính sách tài khóa linh hoạt thông qua các gói kích cầu kinh tế. Đây
cũng là cách vực dậy sự phục hồi đối với một số nền kinh tế lớn.
Khi nền kinh tế vận hành dưới mức hoạt động tiềm năng, nền kinh tế rơi
vào suy thoái, thất nghiệp gia tăng. Mục tiêu của chính phủ là khôi phục nền
kinh tế, giảm tỉ lệ thất nghiệp. Khi đó chính phủ sử dụng chính sách tài khóa
13
lỏng: tăng chi tiêu công, giảm thuế, hoặc tăng chi tiêu công và giảm thuế.
i
IS1
i1
io
0
LM
IS
E1
LM1
Eo
E2
Y0 Y1
Y2
Y
Ban đầu nền kinh tế đạt trạng thái cân bằng tại E0 (Y0, i0). Khi thực hiện chính
sách tài khóa lỏng đường IS tịnh tiến song song sang phải thành đường IS1.
điểm cân bằng mới E1(Y1,i1), nền kinh tế có sự tăng trưởng Y1>Yo. tuy nhiên lãi
suất tăng từ i0 lên i1 dẫn đến hiện tượng tháo lui đầu tư. Để hạn chế thoái lui đầu
tư, chính sách phối hợp với chính sách tiền tệ lỏng (tăng cung tiền), đường LM
tịnh tiến song song sang phải thành LM1, điểm cân bằng mới E2(Y2, i2).
kết quả: đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng, giảm thất nghiệp và ổn định lãi suất với
mục tiêu ổn định sản lượng cân bằng.
Chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa đều theo hướng nới lỏng nhằm
đối phó với những tác động tiêu cực của suy thoái kinh tế và khủng hoảng tài
chính toàn cầu. Tuy nhiên, mức độ nới lỏng của hai chính sách dường như vẫn
còn khoảng cách. Với mức bội chi ngân sách có thể lên trên mức điều chỉnh
tăng của Chính phủ (8%), chính sách tài khóa gần như đã phát huy hết tác dụng,
trong khi lãi suất cơ bản mới được giảm tới mức 7%, vẫn còn biên độ để NHNN
có thể thực thi chính sách của mình. Từ tháng 10/2008, NHNN đã chuyển
hướng điều hành chính sách tiền tệ từ ”thắt chặt” sang ”nới lỏng” một cách thận
trọng bằng các biện pháp:
- Điều chỉnh giảm các mức lãi suất chủ đạo (lãi suất cơ bản giảm từ
13%/năm xuống 7%/năm, lãi suất tái cấp vốn giảm từ 14%/năm xuống 7%/năm,
lãi suất tái chiết khấu giảm từ 12%/năm xuống 5%/năm).
Diễn biến lãi suất huy động, cho vay bằng VND và lạm phát từ 2008-2009
Nguồn: NHNN Việt Nam
- Giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng VND từ 11% xuống 3%;
điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở và hoán đổi ngoại tệ để hỗ trợ
14
thanh khoản cho NHTM; điều chỉnh giảm lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc từ
10%/năm xuống 1,2%/năm.
- Điều hành linh hoạt tỷ giá USD/VND (điều chỉnh tăng tỷ giá giao dịch
USD/VND bình quân thị trường liên ngân hàng, tăng biên độ tỷ giá giữa VND
với USD từ +3% lên +5% đối với giao dịch mua bán của các NHTM); can thiệp
mua bán ngoại tệ và thực hiện các biện pháp chống đầu cơ ngoại tệ.
- Cho phép các TCTD được xin chiết khấu, tái chiết khấu và thanh toán
trước hạn 20.300 tỷ tín phiếu bắt buộc đã mua trước hạn. Thực hiện các phiên
giao dịch thị trường mở mua vào các GTCG nhằm cung thêm vốn cho nền kinh
tế thông qua các TCTD. NHNN tiến hành nghiệp vụ bán ngoại tệ làm giảm tỷ
giá để hỗ trợ nhu cầu nhập khẩu thiết yếu đảm bảo ổn định sản xuất và đời sống,
điều hoà cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng...
Nhờ những chính sách hỗ trợ của chính phủ mà các doanh nghiệp tăng
cường đầu tư phát triển sản xuất tạo công ăn việc làm cho người lao động, ổn
định nền kinh tế.
Một vấn đề quan trọng là cơ chế phối hợp giữa hai chính sách với nhau
như thế nào để góp phần ổn định giá cả và tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên hiện
nay, để phối hợp nhịp nhàng được với nhau cũng là một thử thách lớn của chính
phủ.
4. Một số chính sách khác mà chính phủ thực hiện nhằm giải quyết việc
làm.
Đảng và Nhà nước đã đề ra một loại chính sách chương trình phát triển
kinh tế xã hội. Trong đó có nhiều chính sách, chương trình tác động trực tiếp
đến việc tạo và giải quyết việc làm cho lao động xã hội như: Nghị quyết VI của
trung ương Đảng về chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp nông thôn, lập quỹ quốc
gia về giải quyết việc làm, chương trình 327 phủ xanh đồi trống - đồi trọc,
chương trình 773 khai thác mặt nước trồng, bói bồi. Chính sách giao đất, phân
bố lại lao động dân cư...
Phương hướng quan trọng nhất để giải quyết việc làm thời kỳ này, báo
cáo của ban chấp hành Trung ương tại Đại hội VIII của Đảng đó chỉ rõ “Nhà
nước cùng toàn dân ra sức đầu tư phát triển, thực hiện tốt kế hoạch và các
chương trình kinh tế - xã hội. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi công
dân, mọi nhà đầu tư mở mang ngành nghề, tạo nhiều việc làm cho người lao
động. Mọi công dân đều được tự do ngành nghề, thuê mướn nhân công theo
pháp luật. Phát triển dịch vụ việc làm. Tiếp tục phân bố lại dân cư và lao động
trên địa bàn cả nước, tăng dân cư trên các địa bàn có tính chất chiến lược và
kinh tế, an ninh quốc phòng. Mở rộng kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu lao
động. Giảm đáng kể tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn.
- Các chương trình phát triển kinh tế - xã hội đã tạo khoảng 74% tổng số việc
làm mới. Trong 5 năm qua các chương trình này tập trung vào: chương trình, dự
15
án phát triển nông nghiệp, nông thôn như: phát triển trang trại, mở rộng phát
triển làng nghề, xây dựng các vùng kinh tế mới, khai táhc các vùng đất trống đồi
núi trọc, khai thác mặt nước ao hồ nuôi trồng thủy sản… theo hướng chuyển
dịch cơ cấu kinh tế để phát triển sản xuất hàng hóa, dịch vụ; chương trình phát
triển công nghiệp và dịch vụ như: xây dựng và phát triển các khu công nghiệp,
khu công nghệ cao, các chương trình trọng điểm về xây dựng, phát triển giao
thông, các trung tâm văn hóa thể thao, các khu du lịch…
- Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm: Nguồn quỹ này đã tạo hơn 22% tổng việc làm.
Theo số liệu của Bộ Lao động – Thương bình và Xã hội trong 4 năm 2001 –
2004 Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm đã cấp được 3.700 tỷ đồng vốn cho trên 80
ngàn dự án, tạo việc làm cho 1,32 triệu người. Chương trình này cũng đã huy
động được một lượng vốn đối ứng ước tính khoảng 5.000 tỷ đồng để các gia
đình, các doanh nghiệp có cơ hội tự tạo việc làm cho mình và thu hút lao động
vào làm việc.
- Hoạt động xuất khẩu lao động: Hiện nay đối với nước ta đây là một hướng giải
quyết việc làm tương đối có hiệu quả: Vì: Thứ nhất, nó tạo nguồn thu nhập
tương đối cao và ổn định (so với lao động tự tạo việc làm trong nước). Thứ hai,
góp phần vào việc đào tạo tay nghề cho người lao động. Đối với lao động xuất
khẩu đó là cơ hội để họ có thể có điều kiện: học tập về kỹ thuật, tiếp cận công
nghệ hiện đaị, tích lũy kinh nghiệm, tạo ý thức chấp hành kỷ luật lao động… đó
là yêu cầu bắt buộc đối với người lao động trong nền sản xuất lớn.
Lao động – việc làm là vấn đề có tính xã hội cao, đòi hỏi sự kết hợp nỗ lực
giữa nhà nước, cộng đồng xã hội, gia đình và cá nhân người lao động khi giải
quyết
tháo
gỡ
các
khó
khăn.
III. Hiệu quả của các chính sách kinh tế vĩ mô trên đến giải quyết việc làm.
Thông qua các cơ chế hỗ trợ lãi suất vay tín dụng ngân hàng, miễn, giảm
hoặc giãn thuế… đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, cá nhân và hộ
gia đình tiếp tục duy trì sản xuất kinh doanh, tồn tại và phát triển trong điều kiện
khó khăn…
Như vậy việc Chính phủ triển khai thực hiện đồng bộ và tập trung các chính
sách tài khóa, tiền tệ như trên đã tạo ra hiệu ứng tích cực đối với nền kinh tế
nước. Về mặt định lượng, tác động này phản ánh trên mặt chủ yếu sau:
Thứ nhất duy trì sản xuất kinh doanh, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp lý
trong điều kiện khủng hoảng.Việc duy trì sản xuất kinh doanh, duy trì tốc độ
tăng trưởng kinh tế không chỉ đảm bảo cho kinh tế ổn định về mặt vĩ mô (là yêu
cầu cần thiết trong điều kiện khủng hoảng), mà còn đảm bảo an sinh xã hội, duy
trì mức sống cho nhân dân trong điều kiện khó khăn. Đây là kết quả quan trọng.
Thứ hai Đảm bảo an sinh xã hội, tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao
động: Tạo việc làm từ đó tăng thu nhập cho nhân dân: trong thời gian qua, mặc
dù gặp những khó khăn nhất định do một số doanh nghiệp thu hẹp sản xuất, cắt
giảm lao động. Song thông qua việc thực hiện các giải pháp của Chính phủ,
16
tiếp tục hạn chế được tỷ lệ mất việc làm do suy giảm kinh tế. Đồng thời tăng
cường tạo việc làm mới cho người lao động.
Giải pháp trong thời gian tới
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách về lao động – việc làm:
Sửa đổi, bổ sung Bộ Luật Lao động, nghiên cứu xây dựng Luật Việc làm, Luật
Tiền lương tối thiểu; xây dựng các văn bản hướng dẫn Luật Người lao động Việt
Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; kịp thời ban hành những chính
sách liên quan tới giải quyết việc làm và phát triển thị trường lao động để
khuyến khích các doanh nghiệp, các tổ chức trong và ngoài nước đầu tư phát
triển sản xuất, tạo thêm nhiều việc làm, đẩy mạnh mở rộng thị trường nhận lao
động Việt Nam; Phê chuẩn các công ước và khuyến nghị của tổ chức lao động
quốc tế (ILO) về lao động, việc làm và thị trường lao động; các thông lệ quốc tế
và cam kết quốc tế liên quan của Việt Nam trong hội nhập…
Thứ hai, hoàn thiện quy hoạch hệ thống Trung tâm giới thiệu việc làm và
cấp giấy phép hoạt động giới thiệu việc làm cho các doanh nghiệp giới thiệu
việc làm; đầu tư nâng cao năng lực các Trung tâm giới thiệu việc làm.
Thứ ba, có chính sách hỗ trợ người lao động trong quá trình đào tạo và đi
xuất khẩu, cũng như nên có chính sách bảo vệ người lao động ở nước ngoài khi
họ gặp khó khăn hay bị người quản lý lao động có những hành động không
đúng pháp luật.
Thứ tư, xây dựng quỹ bảo vệ và hỗ trợ người lao động ở nước ngoài trên
cơ sở đóng góp của các công ty xuất khẩu lao động và người đi lao động nước
ngoài theo một tỷ lệ phù hợp. Thành lập hiệp hội bảo vệ quyền lợi người lao
động đi xuất khẩu, hoặc nâng cao vai trò của công đoàn trong lĩnh vực này
nhằm không để bất cứ người lao động đi xuất khẩu bị thiệt thòi hay bị ngược
đãi.
Thứ năm, thành lập Trung tâm quốc gia dự báo và thông tin thị trường
lao động nhằm hình thành một hệ thống đồng bộ từ thu thập, xử lý tới phân tích,
dự báo, quản lý và cung cấp thông tin thị trường lao động theo các cấp trình độ,
các ngành nghề, lĩnh vực, đáp ứng yêu cầu về đào tạo và phát triển kinh tế của
các vùng, ngành, các khu công nghiệp.
Thứ sáu, tăng cường kiểm tra, giám sát, quản lý các dự án, hoạt động
trong Chương trình trong việc cho vay giải quyết việc làm, đầu tư nâng cao
năng lực các Trung tâm giới thiệu việc làm… Phối hợp với các cơ quan liên
quan xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật.
Thứ bảy, tập trung bồi dưỡng, nâng cao năng lực của cán bộ làm công tác
lao động việc làm. Tiếp tục mở nhiều các lớp tập huấn, chuyển giao kỹ thuật
tiến bộ và đào tạo kỹ năng nghề và kỹ năng giao tiếp thực hành cho người lao
động để đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của thị trường lao động nước ngoài.
17
Tám là, đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường lao động thế giới và
các nước để từ đó đưa ra các chính sách phù hợp cho việc xuất khẩu lao động
sang các nước, tránh để tình trạng phân tán như hiện nay.
Chín là, kiểm soát và giám sát chặt chẽ thị trường xuất khẩu lao động
để hạn chế tình trạng lừa đảo hoặc đẩy chi phí xuất khẩu lao động lên quá cao
gây thiệt hại và khó khăn cho người có nhu cầu xuất khẩu lao động.
Trên đây là một số giải pháp cần được tiến hành đồng bộ và có hiệu quả
nhất với sự nỗ lực của toàn bộ xã hội, của toàn hệ thống chính trị trong quá trình
giải quyết lao động, việc làm của nước ta trong những năm tới, đáp ứng yêu cầu
cơ cấu lại và sử dụng hợp lý nguồn lực lao động xã hội để phát triển nền kinh tế
nước ta hướng tới mục tiêu xây dựng xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh.
Kết luận
Như vậy từ những lý do phân tích ở trên,cũng như tình hình thực tế hiện
nay ở Việt Nam ta có thể thấy được tầm quan trọng của việc quản lý Nhà nước
đối với các chính sách như ngày nay.
Trước hết, nhận thức về việc làm, hiểu biết về việc làm và cách giải quyết
việc làm cũng như tâm lý về việc làm của người lao động, của xã hội có được
sự thay đổi tích cực. Tạo và giải quyết việc làm cho lao động xã hội không chỉ
là trách nhiệm của Nhà nước mà còn là trách nhiệm của các cấp, các ngành, các
tổ chức, các gia đình, bản thân người lao động và môi trường kinh tế, pháp luật
thuận lợi và hỗ trợ một phần nguồn lực để nhân dân tự tạo việc làm thúc đẩy sự
nghiệp
tạo
và
giải
quyết
việc
làm.
Công cuộc đổi mới đã tạo ra động lực phát triển của nền kinh tế, phát huy nguồn
lực và khơi dậy những tiềm năng to lớn của đất nước. Trên cơ sở đó, tạo những
tiền đề quan trọng để giải quyết nhiệm vụ lớn lao của xã hội, đó là vấn đề việc
làm cho người lao động. Thành công trong lĩnh vực này là đã tạo được nhiều
việc làm mới ở nhiều ngành nghề và nhiều lĩnh vực, đồng thời tạo điều kiện cho
người lao động được tham gia một cách tích cực và chủ động vào thị trường lao
động, dần thích nghi với nó và có thể ứng xử kịp thời, linh hoạt trước những
thay đổi bất thường của nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, quá trình phát triển
kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang đặt ra nhiều thách thức đối với
lĩnh vực việc làm. Đây là một vấn đề kinh tế-xã hội rất lớn cần có các giải pháp
đồng bộ, từ chủ trương chính sách của Nhà nước đến các biện pháp thực tiễn,
nhằm nâng cao chất lượng lao động, tạo nhiều cơ hội việc làm cho mọi tầng lớp
nhân dân, góp phần nâng cao đời sống và thu nhập cho người dân, thúc đẩy kinh
tế-xã hội phát triển.
18
Đất nước ta đang trông chờ vào thế hệ trẻ, đặc biệt là cán bộ quản lý kinh
tế trong tương lai, là một sinh viên chúng ta phải luôn trau rồi kiến thức, tận
dụng thời gian và nâng cao năng lực để theo kịp với sự tiến triển của nền kinh tế
đất nước đang trong thời kỳ đổi mới, một thế giới mới, thế giới của sự văn minh
giàu có và an toàn.
19