Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn và các nhân tố ảnhhưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.02 KB, 15 trang )

Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn và các nhân tố ảnh
hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn
1.2.2.1. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn
Mỗi một quốc gia có những điều kiện tự nhiên, đặc điểm KT-XH khác
nhau, nhưng mọi quốc gia đều rất coi trọng việc phát triển sản xuất nông nghiệp
và KTNT trong mỗi bước đi của chiến lược phát triển KT-XH của mình. Có thể
khái quát lại, quá trình CDCCKTNT diễn ra theo các xu hướng sau đây:
- Một là: CDCCKTNT theo hướng phát triển SXHH.
Do nhiều yếu tố khác nhau chi phối nên sản xuất nông nghiệp và KTNT
thường mang tính chất TT,TC trong một thời gian khá dài. Song trong quá trình
phát triển KT-XH của các quốc gia, việc CDCCKTNT theo hướng phát triển
SXHH là tất yếu, do sự phát triển của LLSX và phân công lao động xã hội quyết
định.
Thực tiễn của nước ta cũng như nhiều nước cho thấy: Quá trình phát triển
của nền kinh tế đã thúc đẩy các ngành kinh tế ở khu vực nông thôn tăng dần tỷ
trọng sản phẩm hàng hoá để phục vụ cho nhu cầu của thị trường trong và ngoài
nước. Sản xuất nông nghiệp phát triển sẽ làm cho CCKT biến đổi, không chỉ đảm
bảo nhu cầu ngày càng tăng của bản thân ngành nông nghiệp mà còn đáp ứng nhu
cầu lương thực, thực phẩm của các ngành phi nông nghiệp ngày càng tăng trên cơ
sở các quan hệ hàng hóa - tiền tệ. Nông nghiệp sẽ cung cấp nguyên liệu cho công
nghiệp chế biến, ngược lại nông nghiệp cần công nghiệp cung cấp máy móc, phân
bón, thuốc trừ sâu … chính sự tác động qua lại đó làm cho cơ cấu sản xuất trở nên
đa dạng hơn, tỷ suất hàng hoá ngày càng cao hơn, đặc biệt nền KTHH càng phát
triển cao càng đòi hỏi phải gắn bó hơn với nền kinh tế thế giới.
- Hai là: Chuyển nền nông nghiệp độc canh cây lúa sang đa canh.
Do yêu cầu của thị trường ngày càng đa dạng, nên sản xuất nông nghiệp
không thể chỉ tập trung sản xuất lương thực, mà phải đẩy mạnh sản xuất các cây
trồng, vật nuôi khác hết sức đa dạng. Hơn nữa xã hội càng phát triển, việc tiêu
dùng không chỉ có lương thực, mà còn cả thịt, cá, trứng, sữa, rau quả, các đồ
uống… do vậy việc độc canh cây lúa không còn phù hợp với nhu cầu của thị



trường trong hiện tại lẫn tương lai, tất yếu phải phá thế độc canh trong nông
nghiệp, đa dạng hoá cây trồng, vật nuôi để tạo ra nhiều sản phẩm đáp ứng được
nhu cấu ngày càng tăng của xã hội [40, tr.51].
- Ba là: Cơ cấu KTNT chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH và phát triển
các ngành phi nông nghiệp.
Đi từ sản xuất nông nghiệp (sản xuất nhỏ) lên sản xuất công nghiệp (sản
xuất lớn) tất yếu phải tiến hành công nghiệp hoá. Ngày nay cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ đang bùng nổ, nên công nghiệp hoá tất yếu phải gắn liền với
cuộc cách mạng đó, có nghĩa là công nghiệp hoá phải gắn với hiện đại hoá. Chính
quá trình CNH, HĐH đã ảnh hưởng và chi phối rất lớn đến quá trình CDCCKT
nói chung và CCKT nông thôn nói riêng.
Theo quy luật, trong quá trình phát triển kinh tế nông nghiệp từng bước
cũng sẽ tự hình thành cơ cấu của chính mình, nhưng tự nó vận động phát triển sẽ
rất chậm và mất khá nhiều thời gian. Do vậy, để việc hình thành CCKT một cách
hợp lý và có hiệu quả ở nông thôn cần phải có sự tác động, hỗ trợ của công
nghiệp. Bằng con đường CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn sẽ nhanh chóng tạo
thêm các ngành mới - phi nông nghiệp, đó là ngành công nghiệp và dịch vụ, từ đó
làm chuyển đổi KTNT từ thuần nông sang phát triển đa ngành: nông nghiệp - công
nghiệp - dịch vụ. Chính quá trình CNH, HĐH sẽ tác động mạnh mẽ đến CCKT
nông thôn, làm chuyển đổi cơ cấu giữa ngành nông nghiệp và công nghiệp; đồng
thời làm cho ngành dịch vụ dần được mở rộng và phát triển đáp ứng nhu cầu của
sản xuất và đời sống. Sự phát triển của KTNT với xu hướng ngành công nghiệp và
dịch vụ ngày càng tăng lên và tỷ trọng ngày càng lớn trong CCKT nông thôn thì
lao động nông nghiệp ngày càng giảm đi cả tương đối và tuyệt đối [54, tr.41].
Cùng với quá trình CNH, HĐH, phân công lao động xã hội ở nông thôn sẽ
diễn ra theo hướng hoà nhịp với sự CDCCKTNT. Nghĩa là sự phân công lao động xã
hội được diễn ra đồng thời từ trong nội bộ ngành nông nghiệp và cả khu vực nông
thôn. Từ cơ cấu sản xuất chủ yếu là lúa sang trồng lúa, màu, cây ăn quả, cây công
nghiệp, chăn nuôi … mở rộng ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và phát triển các dịch

vụ để phục vụ cho phát triển nông nghiệp và CNNT, đồng thời gắn kết sự giao lưu kinh
tế giữa nông thôn và thành thị.


Quá trình CNH, HĐH nông thôn làm cho CCKT nông thôn chuyển dịch
theo hướng: giảm tỷ trọng sản phẩm và lao động trong sản xuất nông nghiệp (số
lượng tuyệt đối của sản phẩm vẫn tăng, còn số lượng tuyệt đối và tương đối của
lao động giảm). Sự dịch chuyển ấy hoàn toàn phù hợp quy luật khách quan, phù
hợp quá trình CNH, HĐH nông thôn. Vì nông nghiệp là ngành sản xuất ra các sản
phẩm tiêu dùng thiết yếu cho xã hội, khi năng suất lao động tăng lên thì mới có
một bộ phận lao động dôi ra và chuyển sang làm những ngành phi nông nghiệp, do
vậy nếu không có kế hoạch hợp lý để phát triển các ngành phi nông nghiệp - công
nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, thì số lao động dôi dư này sẽ di chuyển ra đô thị đi
vào các khu công nghiệp tập trung và các trung tâm thương mại, từ đó rất dễ dẫn
đến thiếu lao động trong nông nghiệp, nông thôn, làm cho KTNT không phát triển
được.
Phát triển CNNT để khai thác nguồn nguyên liệu tại chỗ, phát triển các làng
nghề, thương mại - dịch vụ ở nông thôn nhằm giải quyết việc làm và tăng thu nhập
cho lao động ở nông thôn, thực hiện phương châm “ly nông nghiệp bất lý hương”
và tiểu công nghiệp hiện đại, thủ công nghiệp tinh xảo, từng bước xác lập CCKT
“nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ” trên địa bàn nông thôn, thúc đẩy phát triển
triển nền nông nghiệp sinh thái và tạo nên bộ mặt nông thôn mới theo diện mạo
của công nghiệp và đô thị.
- Bốn là: CDCCKTNT theo hướng phát triển triển kinh tế trang tại gia đình
và HTX.
Cùng với quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, CCKT nông thôn sẽ
chuyển dịch theo hướng xuất hiện ngày càng nhiều trang trại gia đình, các HTX kiểu
mới ngày càng tăng lên với nhiều hình thức đa dạng, tỷ trọng các DNNN giảm xuống.
Hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ, tồn tại khách quan và phù hợp với đặc
thù của ngành nông nghiệp - ngành sản xuất gắn liền với quá trình sinh học, có vai

trò, vị trí đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển triển nông nghiệp và KTNT.
Trong những năm qua nhờ tập trung đẩy mạnh quá trình CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn, làm cho KTNT phát triển, đời sống dân cư nông thôn không ngừng
được cải thiện. Cùng với quá trình ấy, một bộ phận nông dân làm ăn giỏi mạnh
dạng mở rộng quy mô làm ăn, hình thành nhiều trang trại kinh tế gia đình, đây là


xu thế khách quan của quá trình CDCCKTNT từ thuần nông sang sản xuất và kinh
doanh đa dạng, tổng hợp.
Trong quá trình phát triển, KTNT tất yếu phải có những hình thức kinh tế
hợp tác thích hợp (nồng cốt là các HTX), những HTX trước đây hình thành không
phù hợp với trình độ phát triển của LLSX trong KTNT, sẽ tự tiêu vong và những
chỗ cho những HTX kiểu mới ra đời và phát triển ngày càng tăng về tỷ trọng và đa
dạng về hình thức.
Kinh tế tập thể phát triển dưới nhiều hình thức hợp tác rất đa dạng, trong đó
nồng cốt là các HTX, HTX hoạt động ở những khâu mà hộ gia đình không có khả
năng làm, hoặc làm kém hiếu quả. Sự hình thành và hoạt động có hiệu quả của các
HTX trong các ngành nghề ở nông thôn, sẽ góp phần tích cực vào việc giải quyết
những vấn đề sản xuất và đời sống cho dân cư nông thôn, góp phần thúc đẩy KTXH nông thôn phát triển.
Ngày nay cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang bùng nổ, cùng với
sự hội nhập ngày càng sâu của nền kinh tế nước ta vào kinh tế thế giới, đòi hỏi bộ
phận nông dân cá thể, sản xuất manh mún, nhỏ lẽ phải hợp tác lại với nhau để tồn
tại và phát triển; việc ứng dụng những công nghệ hiện đại mang lại hiệu quả kinh
tế rất cao, nhưng từng hộ nông dân sản xuất nhỏ khó có khả năng về vốn để trang
bị những thiết bị máy móc, công nghệ hiện đại, cũng như quản lý và sử dụng
những công nghệ ấy, mà cần có sự hợp tác, liên kết tạo ra sức mạnh mới cho sự
phát triển. Hơn nữa sự cạnh tranh ngày nay mang tính quốc tế, do tính khắc khe
của thị trường đòi hỏi đối với từng sản phẩm ngày càng cao, buộc các hộ nâng dân
phải hợp tác để tăng sức cạnh tranh của sản phẩm. Sự hợp tác có thể diễn ra giữa
các trang trại với nhau, giữa các trang trại với các hộ nông dân, hoặc giữa những hộ

nông dân với nhau, để cùng tháo gỡ những khó khăn trong quá trình hoạt động
SXKD. Do vậy, mà kinh tế tập thể không ngừng lớn mạnh cả về số lượng lẫn chất
lượng.
Bên cạnh đó, cũng xuất hiện sự liên kết giữa kinh tế tư nhân với KTNN
hoặc với các thành phần kinh tế khác ở nông thôn dưới nhiều hình thức khác nhau,


để khai thác và sử dụng tốt các tiềm năng về đất đai, rừng, mặt nước, lao động trên
địa bàn nông thôn.
Các danh nghiệp nhà nước trong nông nghiệp tồn tại trong một thời kỳ dài với tỷ
trọng lớn, nhưng hoạt động không có hiệu quả, cần phải được tổ chức lại, với nhiều biện
pháp như: giải thể, sát nhập, đổi mới để tăng cường khả năng cạnh tranh, kinh doanh có
hiệu quả, hỗ trợ tốt hơn yêu cầu của sản xuất, chế biến, các dịch vụ kinh tế - kỹ thuật mà
từng hộ nông dân, trang trại và các HTX không thể tự đảm đương được [25, tr.27].
- Năm là: CDCCKTNT theo hướng ngày càng kết hợp chặt chẽ giữa CCKT
trong nước với nhu cầu thị trường nước ngoài.
Thời đại ngày nay là thời đại toàn cầu hoá, mà trước hết là toàn cầu hoá về
kinh tế. Nó buộc các nước có nấc thang kinh tế khác nhau phải mở cửa thị trường để
hội nhập, trên cơ sở đó các nước khai thác tối đa lợi thế so sánh để phát triển. Chính
là vậy, quá trình CDCCKT nói chung và CCKT nông thôn nói riêng phải kết hợp chặt
chẽ với nhu cầu của thị trường thế giới là một yêu cầu khách quan của thời đại. Cơ
cấu KTNT chuyển dịch theo xu hướng đó sẽ từng bước thúc đẩy KTNT phát triển
theo hướng SXHH ở trình độ ngày nay cao hơn, chẳng những đáp ứng nhu cầu trong
nước mà còn đáp ứng nhu cầu cho cả thị trường nước ngoài, từng bước đưa KTNT
nước ta hội nhập vào thị trường thế giới thông qua xuất khẩu những sản phẩm của
nông nghiệp và nông thôn, đặc biệt là những sản phẩm mang tính đặc thù của địa
phương.
1.2.2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
thôn
Quá trình hình thành và phát triển của CCKT nông thôn chịu sự tác động chi

phối của nhiều nhân tố khác nhau, điều kiện tự nhiên và KT-XH có vai trò vào tác
động to lớn đến việc hình thành và phát triển của CCKT nông thôn. Do vậy, việc
nghiên cứu vai trò và tác động của từng nhân tố có ý nghĩa rất quan trọng, nhầm phát
triển huy những nhân tố tích cực và hạn chế những nhân tố kìm hãm để đẩy nhanh
quá trình CDCCKTNT nước ta theo hướng tiến bộ hơn.
- Một là: những nhân tố về điều kiện tự nhiên:


Nhân tố tự nhiên (điều kiện tự nhiên) bao gồm: vị trí địa lý, khí hậu, thời
tiết, hệ sinh thái, nước, đất đai, rừng, biển, tài nguyên khoáng sản khác… có ảnh
hưởng đến sự hình thành vận động và biến đổi của CCKT nông thôn. Sự tác động
và ảnh hưởng của các nhân tố tự nhiên tới nội dung của CCKT nông thôn không
giống nhau. Trong các nội dung của CCKT nông thôn, thì cơ cấu các ngành và cơ
cấu vùng chịu ảnh hưởng nhiều bởi nhân tố tự nhiên, còn cơ cấu thành phần kinh
tế thường chịu ít hơn. Các nhân tố đất đai, thời tiết, khí hậu, vị trí địa lý có ảnh
hưởng trực tiếp đến sự phát triển của nông nghiệp. Bởi vì nông - lâm - thuỷ sản là
ngành sản xuất mà đối tượng của nó là thế giới sinh vật, qua đó sẽ ảnh hưởng tới
sự phát triển triển của các ngành khác trong CCKT nông thôn.
Mỗi quốc gia, mỗi vùng có vị trí địa lý khác nhau, do đó điều kiện tự nhiên
cũng khác nhau, từ đó dẫn đến sự khác nhau từ quy mô, số lượng các ngành kinh tế
trong nông thôn, đặc biệt là ngành nông nghiệp chịu ảnh hưởng trực tiếp của các
điều kiện tự nhiên. Sự khác nhau về điều kiện tự nhiên giữa các vùng, làm cho quy
mô, số lượng của các ngành giữa các vùng cũng khác nhau và chính sự khác nhau
về quy mô, số lượng của các ngành sẽ dẫn đến sự khác nhau về cơ cấu ngành giữa
các vùng.
Do vị trí địa lý khác nhau, làm cho điều kiện tự nhiên cũng khác nhau. Mỗi
một vùng có những điều kiện tự nhiên thuận lợi riêng, cho phép phát triển một số
ngành sản xuất, tạo ra những lợi thế so với các vùng khác của đất nước. Đây là cơ
sở tự nhiên để hình thành các vùng kinh tế nói chung và KTNT nói riêng. Các loại
vùng này được hình thành do phân công lao động xã hội theo lãnh thổ, thông qua

bố trí các ngành sản xuất trên các vùng lãnh thổ hợp lý để khai thác các tìm năng
và lợi thế riêng của từng vùng.
Xu hướng phát triển vùng KTNT hiện nay là đi sâu vào chuyên môn hoá,
tập trung sản xuất nông - lâm - thủy sản để từng bước hình thành các vùng trọng
điểm SXHH nông - lâm - thủy sản quy mô lớn có hiệu quả kinh tế cao, từ đó tạo
điều kiện cho sự phát triển công nghiệp và dịch vụ trên từng địa bàn theo hướng
chuyên môn hoá cao.
Ngoài ra các điều kiện tự nhiên còn ảnh hưởng và tác động tới cơ cấu các
thành phần kinh tế ở nông thôn. Vị trí địa lý thuận lợi và các tài nguyên thiên


nhiên phong phú của mỗi vùng là điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế
phát triển. Nhưng tốc độ phát triển của mỗi thành phần kinh tế ở nông thôn nhanh
hay chậm còn chịu sự chi phối của nhiều yếu tố khác nữa.
Tóm lại: CCKT nông thôn, nhất là cơ cấu sản xuất nông nghiệp chịu sự ảnh
hưởng rất lớn của điều kiện tự nhiên. Điều kiện tự nhiên là một cơ sở quan trọng
để xác định CCKT nông thôn phù hợp với điều kiện của từng vùng. Song với cuộc
cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại như ngày nay; đặc biệt là công nghệ sinh
học, con người có thể từng bước cải tạo điều kiện tự nhiên cho phù hợp với mục
đích sử dụng của mình, nghĩa là vai trò của điều kiện tự nhiên trong việc hình
thành CCKT nông thôn ngày càng giảm đi, con người càng hạn chế được những
tác động tiêu cực của điều kiện tự nhiên đối với sản xuất nông nghiệp hoặc con
người lợi dụng điều kiện tự nhiên mà tạo ra những giống cây, con mới có năng
suất cao, phù hợp với điều kiện tự nhiên của từng vùng, bắt tự nhiên phụ thuộc và
phục vụ cho con người.
- Hai là: Những nhân tố về KT-XH.
+ Thứ nhất: Nhân tố thị trường
Trong kinh tế thị trường, thị trường vừa là căn cứ vừa là đối tượng của kế
hoạch SXKD của các doanh nghiệp, tức sản xuất cái gì? sản xuất cho ai? Và sản
xuất như thế nào? là phải căn cứ vào nhu cầu của thị trường.

Thị trường không chỉ phản ánh và phụ thuộc vào trình độ phát triển của nền
SXHH, mà bản thân nó lại là nhân tố kích thích, là động lực thúc đẩy sản xuất phát
triển, thúc đẩy các chủ thể kinh doanh không ngừng đổi mới kỹ thuật - công nghệ
và tổ chức quản lý để giành ưu thế cạnh tranh trên thị trường. Thị trường cũng có
tác động điều tiết các quan hệ kinh tế, góp phần vào việc phân bố tư liệu sản xuất
và sức lao động giữa các ngành, các vùng, hình thành những cân đối kinh tế khách
quan trong quá trình phát triển [41, tr.22].
Như vậy, trong nền KTHH, nhân tố thị trường có vai trò quyết định tới sự
phát triển triển kinh tế, sự hình thành và biến đổi CCKT nói chung và CCKT nông
thôn nói riêng.


C.Mác chỉ rõ: “Khi thị trường, nghĩa là lĩnh vực trao đổi rộng ra thì quy mô
sản xuất cũng tăng lên và sự phân công trong sản xuất cũng biến đổi theo” [35,
tr.876].
Trong nền SXHH, người ta chỉ sản xuất và đem ra thị trường bán những sản
phẩm mà họ cảm thấy chúng đem lại lợi nhuận thoả đáng. Do vậy, thông qua quan
hệ cung - cầu trên thị trường, mà tín hiệu của nó chính là giá cả thị trường sẽ tác
động đến người sản xuất nên mở rộng hay thu hẹp quy mô sản xuất.
Xã hội càng phát triển triển, nhu cầu tiêu dùng của con người ngày càng
cao và đa dạng, nó đòi hỏi thị trường phải đáp ứng cho được nhu cầu đó. Điều này
quy định sự cần thiết phải CDCCKTNT theo hướng phù hợp với xu hướng biến
động và phát triển của nhu cầu thị trường. Ngoài nhu cầu về lương thực, thì các
nhu cầu về thịt, cá, trứng, sữa, rau quả, thức uống … có xu hướng tăng lên, sẽ tác
động đến cơ cấu cây trồng (tăng sản lượng lương thực phục vụ chăn nuôi, tăng
trồng cây màu lương thực như: khoai lang, đậu nành, bắp …, phát triển các vườn
cây ăn quả, mở rộng các vùng sản xuất rau, đậu …) phát triển đàn gia súc, gia
cầm, từ đó làm tăng nhu cầu về các loại hình dịch vụ ở nông thôn. Nhu cầu đời
sống con người còn đòi hỏi nhiều sản phẩm ngoài nông nghiệp, tất yếu một bộ
phận lao động nông nghiệp sẽ chuyển sang làm nghề khác, khôi phục và phát triển

triển các làng nghề truyền thống, phát triển tiểu thủ công nghiệp … Như vậy, thị
trường đã tác động đến CCKT nông thôn làm chuyển đổi nền nông nghiệp độc
canh, thuần nông sang đa canh, mở rộng ngành nghề và dịch vụ ở nông thôn [25,
tr.34].
Nói cách khác CCKT nông thôn được hình thành và biến đổi theo tiến gọi
của thị trường, hay nhu cầu của thị trường là một trong những nhân tố quyết định
sự hình thành và biến đổi của CCKT nông thôn.
Bên cạnh đó, bản thân nền kinh tế thị trường cũng chứa đựng những tiêu
cực tác động đến sản xuất, tín hiệu của thị trường chính là giá cả của thị trường,
mà giá cả thị trường trong nước và thế giới luôn biến động, không dự báo được
nhu cầu dài hạn để hướng dẫn lựa chọn CDCCKT nông nghiệp một cách hợp lý,
dẫn đến vòng lẩn quẩn “ trồng” rồi lại “chặt” ở một số cây trồng, làm kìm hãm sự
CDCCKTNT, KTNT chậm phát triển triển.


Như vậy bản thân thị trường cũng chứa đựng những mặt tích cực, lẫn tiêu
cực và đồng thời tác động đến sản xuất, ảnh hưởng đến CCKT nông thôn. Để quá
trình CDCCKTNT có hiệu quả, cần phát triển huy tối đa mặt tích cực của thị
trường, đồng thời tìm ra những giải pháp hữu hiệu ổn định sản xuất, hạn chế tối đa
mặt tiêu cực của nó, làm được điều đó sản xuất sẽ ổn định và KTNT không ngừng
phát triển.
+ Thứ hai: Nhân tố khoa học và công nghệ:
Ngày nay khoa học và công nghệ trở thành LLSX trực tiếp, nó có vai trò to
lớn đối với sự biến đổi của CCKT nói chung và CCKT nông thôn nói riêng, đặc
biệt là quá trình CDCCKTNT. Việc phát triển khoa học và công nghệ cùng với
khả năng ứng dụng chúng vào sản xuất nông nghiệp, nông thôn sẽ làm thay đổi
chất lượng, năng suất và hiệu quả SXKD. Đặc biệt quá trình CNH, HĐH đang tạo
ra sự chuyển biến cách mạng trong lĩnh vực nông nghiệp, nổi bật là việc tạo ra các
giống cây trồng, vật nuôi mới có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao hơn. Đây
chính là động lực tạo nên sự phát triển mạnh mẽ KT-XH nông thôn [28, tr.9].

Nhờ ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ đặc biệt là công nghệ
sinh học trong sản xuất như tạo ra giống cây, con mới, công nghệ chế biến vào bảo
quản nông sản hàng hoá … sẽ làm thay đổi cơ cấu sản xuất, thực hiện phân công
lại lao động xã hội ở nông thôn, tạo thêm nhiều ngành nghề mới, giải quyết việc
làm ở nông thôn. Chính sự tác động của khoa học, công nghệ sẽ thúc đẩy quá trình
đa dạng hoá cơ cấu sản xuất nông nghiệp, hình thành nhiều ngành nghề phi nông
nghiệp ở nông thôn, làm biến đổi CCKT nông thôn theo hướng hiện đại và có hiệu
quả hơn.
+ Thứ ba: Nhân tố con người ( nguồn lao động)
Nguồn lao động là một bộ phận của dân số, trong độ tuổi quy định, thực tế
có tham gia lao động và những người không có việc làm đang tích cực tìm kiếm
việc làm. Đây là nhân tố quyết định trong việc hình thành và biến đổi CCKT nông
thôn.
Cơ cấu kinh tế mang tính khách quan, nhưng sự hình thành và biến đổi
nhanh hay chậm, hợp lý hay không hợp lý lại do tác động của con người. Chính
con người tạo ra những điều kiện cần thiết thúc đẩy sự hoàn thiện và CDCCKT


nói chung và CCKT nông thôn nói riêng. Do vậy CCKT hoàn thiện đến đâu,
CCKT nông thôn chuyển dịch nhanh hay chậm phụ thuộc vào trình độ học vấn,
trình độ chuyên môn kỹ thuật của con người.
Ở những vùng người lao động có trình độ tay nghề cao, có trình độ canh tác
cao hơn thì sẽ có điều kiện thuận lợi hơn để CDCCKTNT nhanh hơn và đặc biệt
nó sẽ có điều kiện thuận lợi cho sự CDCCKTNT theo hướng hiện đại. Ngoài ra
mật độ dân số và số lượng lao động của từng vùng nhiều hay ít cũng ảnh hưởng
tới CCKT nông thôn. Những vùng có mật độ lao động cao sẽ tạo điều kiện để lựa
chọn các ngành sản xuất đòi hỏi nhiều lao động. Nếu mật độ dân số, mật độ lao
động quá cao đòi hỏi CCKT nông thôn phải chuyển đổi nhanh nhằm giải quyết
việc làm và khai thác, sử dụng có hiệu quả hơn các nguồn lực khác ở nông thôn.
Ngược lại, ở những vùng mật độ lao động thấp thì thường chọn những ngành đòi

hỏi sử dụng ít lao động.
Ngoài ra, phong tục, tập quán, truyền thống dân tộc cũng là yếu tố có ảnh
hưởng nhất định đến CCKT nông thôn. Những nơi có tập quán canh tác lạc hậu
(tập quán du canh, du cư; tập quán sản xuất độc canh, nhờ nước trời …) chắc chắn
sự chuyển dịch cơ cấu sản xuất sẽ chậm chạp và gặp khó khăn. Ngược lại, ở
những nơi có tập quán truyền thống sản xuất tiến bộ thì việc chuyển đổi kinh tế sẽ
thuận lợi, dễ dàng và nhanh chống hơn [29, tr.58].
+ Thứ tư: Nhân tố vốn đầu tư và kết cấu hạ tầng ở nông thôn.
Nếu như con người là nhân tố quyết định, thì vốn giữ vai trò đặc biệt quan
trọng trong việc hình thành và biến đổi CCKT nông thôn.
Trong quá trình chuyển đổi, CCKT nông thôn sẽ chuyển dịch theo hướng:
phát triển ngành nông nghiệp hiện đại, các ngành công nghiệp và dịch vụ ở nông
thôn ngày một tăng lên. Việc phát triển và mở rộng các ngành mới ở nông thôn đòi
hỏi phải có nguồn vốn đầu tư khá lớn và sử dụng có hiệu quả cao. Nguồn vốn nhà
nước đầu tư để phát triển KT-XH ở nông thôn, nguồn tín dụng giành cho phát triển
sản xuất nông nghiệp và ngành nghề mới ở nông thôn là cần thiết và có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng, bởi lẽ hiện nay thu nhập của cư dân nông thôn còn thấp, chưa đủ
sức tích lũy để tự đầu tư cho sự phát triển, mà rất cần sự giúp đỡ của nhà nước. Tuy
nhiên nguồn vốn tự tích lũy từ nội bộ ngành nông nghiệp, nông thôn cũng có ảnh


hưởng rất lớn đến CDCCKTNT. Kinh nghiệm nhiều nước cho thấy, giải quyết tốt
vấn đề vốn là một trong những điều kiện quan trọng để phát triển KTNT và xây
dựng CCKT nông thôn hợp lý, phù hợp để khai thác tốt các nguồn lực của khu vực
KTNT.
Kết cấu hạ tầng ở nông thôn: Đây là điều kiện tiên quyết để phát triển
KTNT. Kết cấu hạ tầng phát triển sẽ đảm bảo cho KTHH phát triển, nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần cho cư dân nông thôn. Kết cấu hạ tầng trong nông thôn
bao gồm các công trình hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội. Các công trình hạ tầng
chủ yếu trong nông thôn gồm: hệ thống đường giao thông nông thôn, hệ thống

cung cấp điện, nước, hệ thống thủy lợi, hệ thống thông tin liên lạc, hệ thống dịch
vụ, hệ thống các công trình giáo dục, y tế, thể dục, thể thao, nhà ở của dân cư, kết
cấu hạ tầng để phát triển CNNT.
Kết cấu hạ tầng nông thôn có ảnh hưởng rất lớn tới sự hình thành và phát
triển của các ngành kinh tế, các vùng kinh tế, chi phối trình độ kỹ thuật và công
nghệ,… do đó nó là một trong những nhân tố quan trọng có ảnh hưởng và chi phối
sự hình thành, vận động và biến đổi của CCKT nông thôn.
Thực tiễn đã chứng minh, ở những vùng có kết cấu hạ tầng phát triển, đặc
biệt là các công trình hạ tầng kỹ thuật phát triển thì ở đó có điều kiện phát triển các
ngành chuyên môn hoá, là điều kiện để ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và công nghệ tiên
tiến vào các ngành kinh tế. Ngược lại, những vùng có kết cấu hạ tầng kém phát triển
thì quá trình hình thành và phát triển của các ngành sản xuất, các vùng chuyên môn
hoá cũng như quá trình đưa tiến bộ kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất vì thế cũng
bị kìm hãm.
+ Thứ năm: Nhân tố phát triển công nghiệp và đô thị.
Sự phát triển các khu công nghiệp và đô thị là một nhân tố quan trọng ảnh
hưởng tới CCKT nông thôn. Bởi lẽ phát triển các khu công nghiệp và đô thị sẽ làm
tăng nhu cầu và làm nẩy sinh những nhu cầu mới về các loại sản phẩm, dịch vụ
kéo theo sự phân bố lại sản xuất để đáp ứng nhu cầu cung cấp sản phẩm cho sản
xuất và đời sống ở đô thị. Đây là nhân tố kích thích phát triển nông nghiệp đa dạng
và các ngành nghề mới trong nông thôn,


Chẳng hạn ngành công nghiệp chế biến đòi hỏi khối lượng
nguyên liệu lớn, hay tốc độ xây dựng đô thị sẽ tác động làm phát triển
ngành công nghiệp vật liệu xây dựng nông thôn (gạch, ngói, cát, đá …) Từ
đó kéo theo ngành vận tải, thương nghiệp, dịch vụ khác ở nông thôn cũng
phát triển, làm biến đổi CCKT nông thôn theo hướng tiến bộ [25, tr.37].
Mặt khác, sự phát triển các khu công nghiệp và đô thị tạo ra khả năng cung
cấp kỹ thuật, công nghệ ngày càng tiên tiến, cùng với đội ngũ trí thức, các chuyên gia

kỹ thuật và nguồn vốn đầu tư ngày càng dồi dào cho khu vực KTNT, góp phần thúc
đẩy quá trình hình thành và biến đổi CCKT nông thôn nhanh hơn và hoàn thiện hơn.
+ Thứ sáu: Nhân tố ngoài nước:
Thời đại ngày nay, toàn cầu hoá là một xu thế khách quan, nó lôi cuốn hầu
hết tất cả các nước, nó buộc các nước có nấc thang kinh tế khác nhau phải mở cửa
thị trường, tham gia hội nhập. Toàn cầu hoá bắt nguồn từ sự phát triển mạnh mẽ
của LLSX, đặc biệt là sự xuất hiện của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
hiện đại, đã tạo bước ngoặt trong sự phát triển LLSX, làm cho phân công lao động
xã hội đã vượt biên giới quốc gia, hình thành phân công lao động quốc tế. Trong
điều kiện ấy các quốc gia, các khu vực có sự vừa hợp tác, vừa phụ thuộc lẫn nhau
ngày càng tăng lên trong quá trình phát triển. Cùng với quá trình ấy là sự hình
thành mạng lưới sản xuất quốc tế và vai trò ngày càng tăng của các công ty xuyên
quốc gia (TNC) - lực lượng chi phối toàn cầu hoá, với việc cấm nhánh (công ty
con) khắp nơi trên thế giới, làm cho mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ là một bộ
phận (một xí nghiệp) của nền kinh tế thế giới (công ty mẹ).
Như vậy, toàn cầu hoá, thực chất và trước hết là toàn cầu hoá về kinh tế, nó
mở ra cho các quốc gia cơ hội có thể khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
bên ngoài để tăng tốc cho sự phát triển kinh tế của đất nước. Do vậy, hội nhập kinh tế
quốc tế và khu vực là một giải pháp thông minh của các quốc gia, để tham gia vào sự
hợp tác và phân công lao động quốc tế, nhằm khai thác tốt các tiềm năng và lợi thế so
sánh của đất nước, đồng thời có thể khai thác nguồn vốn, công nghệ và kinh nghiệm
quản lý tốt của các nước tiên tiến để đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH đất nước và
CDCCKTNT theo hướng hiện đại và có hiệu quả.
+ Thứ bảy: Nhân tố vai trò của nhà nước:


Nhà nước thông qua chính sách kinh tế vĩ mô của mình tác động vào nền
kinh tế, tạo điều kiện để các quy luật của thị trường phát huy tối đa mặt tích cực,
hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực, nhằm tạo cho nền kinh tế tăng trưởng và phát
triển với tốc độ cao. Để đạt được mục tiêu trên, một trong những tác động quan

trọng của chính sách kinh tế là tác động vào CCKT nói chung và CCKT nông thôn
nói riêng.
Nền kinh tế nói chung và CCKT nông thôn nói riêng, nếu chỉ có sự tác
động của các quy luật thị trường thì CCKT nông thôn chỉ hình thành và biến đổi
một cách tự phát, làm lãng phí việc sử dụng các nguồn lực. Do vậy, để CCKT
nông thôn chuyển dịch đúng hướng về sử dụng có hiệu quả các nguồn lực ở nông
thôn, nhà nước buộc phải can thiệp vào thông qua việc ban hành các chính sách
kinh tế vĩ mô để thúc đẩy việc hình thành CCKT nông thôn một cách hợp lý và có
hiệu quả.
Các chính sách kinh tế vĩ mô nhằm phát triển nông nghiệp và KTNT, cùng
với hệ thống pháp luật kinh tế, sẽ tạo môi trường kinh tế thuận lợi và kích thích lợi
ích kinh tế để các chủ thể SXKD theo định hướng của nhà nước. Hệ thống chính
sách kinh tế như: chính sách đất đai, chính sách về vốn tín dụng, chính sách đầu tư
xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, chính sách khuyến nông, chính sách tiêu thụ
sản phẩm, chính sách xoá đói, giảm nghèo… nếu ban hành kịp thời, đồng bộ và
phù hợp với từng giai đoạn phát triển nhất định, sẽ có tác dụng làm chuyển biến
mạnh mẽ CCKT nông thôn. Ngược lại, sẽ giảm động lực, không phát huy hết mọi
tiềm năng, thế mạnh của từng vùng cho sự phát triển, sẽ hạn chế và làm chậm quá
trình CDCCKTNT theo hướng CNH, HĐH [25, tr.39].
Ngoài ra, nhà nước cần có chính sách khuyến khích việc khôi phục và phát
triển triển các ngành nghề truyền thống, các làng nghề nhằm khai thác nguồn
nguyên liệu tại chỗ, tạo điều kiện thúc đẩy ngành thương mại - dịch vụ phát triển
để phục vụ cho sự phát triển nông nghiệp và công nghiệp ở nông thôn, từ đó hình
thành CCKT nông thôn theo hướng hiện đại và hiệu quả.
Qua phân tích những nhân tố ảnh hưởng tới sự hình thành và CDCCKTNT,
chúng ta thấy rằng các nhân tố có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, cùng tác động
tới quá trình CDCCKTNT. Do vậy quá trình CDCCKTNT có thành công hay
không, không chỉ phụ thuộc vào sự lựa chọn ngành ưu tiên hợp lý, mà còn phụ thuộc



rất lớn vào những điều kiện tự nhiên và đặc điểm KT-XH của từng vùng nông thôn.
Cho nên, con người cần nhận thức đầy đủ để tác động vào nó, tạo điều kiện và môi
trường thuận lợi để đẩy nhanh quá trình CDCCKTNT theo hướng hợp lý và hiệu quả.
1.2.2.3. Hiệu quả của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn
CDCCKTNT phải nhằm đạt được mục tiêu KT-XH của SXKD trên địa bàn
nông thôn. Vì vậy, việc đo lường hiệu quả KT-XH của quá trình CDCCKTNT là
việc làm rất cần thiết, nhưng đây lại là vấn đề rất khó khăn và phức tạp.
Hiệu quả kinh tế được xác định trên cơ sở so sánh giữa kết quả SXKD thu
được với chi phí sản xuất đã bỏ ra. So sánh kết quả sản xuất trên từng địa bàn
nông thôn sẽ có được chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế cần thiết. Tuy nhiên,
KTNT với đặc trưng chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, do vậy các chỉ tiêu phản
ánh hiệu quả và phương pháp tính phải phối hợp với nội dung và phương pháp
tính hiệu quả sản xuất nông nghiệp.
Để đánh giá hiệu quả của CDCCKTNT ta sử dụng ba nhóm chỉ tiêu chủ yếu
sau:
- Một là: Nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả xét về mặt kinh tế bao gồm:
+ Giá trị sản phẩm và tỷ trọng giá trị sản phẩm của các ngành (nông nghiệp - công
nghiệp - dịch vụ), các bộ phận cấu thành (Ngành, vùng, thành phần kinh tế ) KTNT.
+ Giá trị tăng thêm và tỷ trọng giá trị tăng thêm của các ngành trong KTNT.
+ Tốc độ tăng trưởng chung và tốc độ tăng trưởng của từng ngành trong KTNT.
+ Thu nhập bình quân đầu người và tốc độ tăng của thu nhập bình quân đầu
người ở nông thôn.
+ Thu nhập bình quân của một lao động và tốc độ tăng của thu nhập bình
quân một lao động ở nông thôn.
+ Giá trị sản lượng và tăng giá trị sản lượng trên một đơn vị diện tích hoặc
một lao động ở nông thôn.
Ngoài ra người ta còn xét hiệu quả vốn đầu tư và cơ cấu vốn đầu tư cho các
ngành sản xuất và dịch vụ ở nông thôn, diện tích và cơ cấu diện tích đất đai, lao
động và cơ cấu lao động, cơ cấu cây trồng, vật nuôi …, đặc biệt là cơ cấu giá trị
sản phẩm hàng hoá và dịch vụ ở nông thôn.

- Hai là: Nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả xét về mặt xã hội:


+ Số tuyệt đối và tương đối của lao động có việc làm và thất nghiệp trong
quá trình CDCCKTNT.
+ Cơ cấu lao động trong các ngành KTNT.
+ Tỷ lệ hộ đói, nghèo ở nông thôn.
+ Tỷ lệ nhà tranh, tre tạm bợ.
+ Tỷ lệ hộ dân sử dụng điện, nước sạch.
+ Tỷ lệ học sinh đến trường.
+ Tỷ lệ người được tiếp cận dịch vụ y tế.
+ Các vấn đề về giao thông, thông tin, liên lạc…
- Ba là: Nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả về mặt môi trường.
Trong đó:
+ Môi trường tự nhiên: Có bị ô nhiễm hay không hoặc khả năng cải thiện
như thế nào.
+ Môi trường xã hội: trật tự, an ninh có được đảm bảo không, hay các tệ
nạn xã hội có tồn tại và phát triển đồng thời với sự phát triển của KTNT hay đã
được đẩy lùi …
Ba nhóm chỉ tiêu trên phản ánh tương đối đầy đủ và toàn diện hiệu quả cơ
cấu KT - XH nông thôn và CDCCKTNT. Muốn đánh giá quá trình CDCCKTNT
ta so sánh các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả CCKT nông thôn qua các năm khác nhau
để thấy được mức tăng trưởng của KTNT, tăng thu nhập bình quân đầu người,
giảm tỷ lệ thất nghiệp, giảm hộ đói, nghèo … ở nông thôn.
Để đánh giá hiệu quả việc CDCCKTNT phải xem xét cả ba mặt: KT-XH môi trường, không thể xem nhẹ mặt nào. Đây cũng là tiêu chí để xây dựng nông
thôn mới văn minh, hiện đại và xây dựng một nền nông nghiệp sinh thái bền vững
thân thiện với môi trường.




×