Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Hồ chí minh với việc xây dựng nền văn hóa mới việt nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (926.09 KB, 80 trang )

MỤC LỤC
ĐỀ MỤC

NỘI DUNG

LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1 VĂN HOÁ VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HOÁ THEO
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1.1
Văn hoá và phạm trù văn hoá
1.2
Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về văn
hoá và văn hoá xã hội chủ nghĩa
1.2.1
Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về văn hoá
1.2.2
Quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin về văn hoá xã
hội chủ nghĩa
CHƯƠNG 2 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN XÂY DỰNG MỘT
NỀN VĂN HOÁ MỚI TRONG TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH
2.1
Quan niệm của Hồ Chí Minh về khái niệm văn
hoá
2.2
Hồ Chí Minh với việc xác định nền tảng cơ bản
của nền văn hoá mới
2.2.1
Quan điểm của Hồ Chí Minh về tính dân tộc trong
nền văn hóa mới ở Việt Nam
2.2.2


Hồ Chí Minh với việc tiếp thu chủ nghĩa Mác –
Lênin để xây dựng nền văn hoá Việt Nam theo
định hướng xã hội chủ nghĩa
2.3
Quan điểm của Hồ Chí Minh về những đặc
trưng cơ bản của nền văn hoá Việt Nam theo
định hướng xã hội chủ nghĩa
2.4
Hồ Chí Minh và những định hướng cơ bản cho
một nền văn hoá mới ở Việt Nam
CHƯƠNG 3 HỒ CHÍ MINH - NGƯỜI CHỈ ĐẠO TRỰC TIẾP
XÂY DỰNG NỀN VĂN HOÁ MỚI VIỆT NAM
3.1
Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con người
mới xã hội chủ nghĩa
3.2
Hồ Chí Minh và vấn đề xây dựng lối sống mới
3.3
Hồ Chí Minh và vấn đề xây dựng đạo đức cách
mạng
3.4
Hồ Chí Minh và vấn đề xây dựng nền giáo dục
mới
KẾT LUẬN CHUNG
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

STT

2

7
7
10
10
11
20

20
23
23
27

32

35
42
42
49
58
66
74
77


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cách mạng Tháng Tám 1945 là một sự kiện vĩ đại trong lịch sử của
dân tộc Việt Nam. Nó đã phá tan hai tầng xiềng xích nô lệ của thực dân Pháp
với hơn 80 năm thống trị và phát xít Nhật hiếu chiến, đồng thời lật nhào chế
độ phong kiến tồn tại gần 1000 năm. Với thắng lợi của Cách mạng Tháng

Tám, chúng ta từ một nước thuộc địa đã trở thành một nước độc lập, tự do,
nhân dân ta từ thân phận của người nô lệ đã trở thành người làm chủ nước
nhà.
Một kỷ nguyên mới, một thời đại mới được mở ra, nhưng đằng sau
thắng lợi lớn ấy, những khó khăn mới lại tiếp tục xuất hiện. Lòng tham và sự
ngoan cố của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã kéo dài cuộc cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân của Việt Nam, buộc nhân dân ta phải đứng lên cầm súng
chiến đấu suốt 30 năm trời.
Với cách nhìn toàn diện về sự vận động của lịch sử và những nhân tố
thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng ta và Hồ Chủ Tịch đặc biệt coi trọng
mặt trận tư tưởng văn hoá trong sự hợp đồng tác chiến với các mặt trận khác:
kinh tế, chính trị, quân sự. Xây dựng một nền văn hoá mới là nhiệm vụ cần
thiết và cấp bách của chúng ta khi ấy. Với mục tiêu “làm cách mạng để cải tạo
xã hội cũ thành xã hội mới”, nên ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà ra đời, Hồ Chí Minh đã bắt tay ngay vào việc xây dựng một nền văn hoá
mới. Nhiều vấn đề văn hoá đã được đặt ra và giải quyết ngay trong những
ngày đầu của chính quyền cách mạng như giải quyết nạn dốt, giáo dục lại
nhân dân tinh thần cần, kiệm, liêm, chính; cấm hút thuốc phiện, lương giáo
đoàn kết và tự do tín ngưỡng… Như vậy, nền văn hoá mới ra đời đã gắn liền
với nước Việt Nam mới. Nền văn hoá mới Việt Nam trong thời kỳ kháng
1


chiến chống thực dân Pháp, và chống Mỹ là nền văn hoá kháng chiến, kiến
quốc, nền văn hoá dân chủ mới, một nền văn hoá đã được Hồ Chủ Tịch xác
định phải có 3 tính chất: dân tộc, khoa học và đại chúng, một nền văn hoá “vì
con người và phải phục vụ con người”.
Từ những ý nghĩa, thắng lợi và tầm quan trọng của công tác văn hoá
trong giai đoạn mới, cũng như những ảnh hưởng của nó cho tới ngày nay,
chúng tôi xin mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Hồ Chí Minh với việc xây dựng nền

văn hoá mới Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa” làm đề tài nghiên
cứu. Qua đó một số vấn đề lớn gắn với đề tài như: cơ sở hình thành tư tưởng
Hồ Chí Minh về văn hoá, công lao to lớn của Hồ Chí Minh trong việc chuẩn
bị những tiền đề tư tưởng và thực tiễn cho sự ra đời nền văn hoá mới Việt
Nam, những chỉ đạo trực tiếp của Người trong việc xây dựng nền văn hoá mới
Việt Nam về cơ bản được giải quyết tương đối thoả đáng.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Tìm hiểu về Hồ Chí Minh với vấn đề xây dựng nền văn hoá mới Việt
Nam đã nhận được nhiều sự quan tâm của một số nhà nghiên cứu. Cho đến
nay, những công trình nghiên cứu tương đối hệ thống về Hồ Chí Minh và tư
tưởng Hồ Chí Minh với việc xây dựng nền văn hoá Việt Nam mà chúng tôi
được biết đó là: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá” của Ban Tư tưởng – Văn
hoá Trung ương (2003); “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển
nền văn hoá mới ở Việt Nam” của Đỗ Huy (2000), Nxb KHXH “Hồ Chí Minh
nhà văn hoá kiệt xuất” của Song Thành (1999), Nxb CTQG; “Văn hoá và triết
lý phát triển trong tư tưởng Hồ Chí Minh” của Đinh Xuân Lâm, Bùi Đình
Phong (2008), Nxb CTQG; “Hồ Chí Minh và văn hoá Việt Nam” của Trường
Lưu (1990), Viện Văn hoá xuất bản; “Chủ tịch Hồ Chí Minh với nền văn hoá
Việt Nam” của Lê Xuân Vũ (1989), Nxb CTQG. Đặc biệt là công trình “Hồ
Chí Minh với nền văn hoá mới Việt Nam trước 1954” của Bùi Đình Phong
(1994), Nxb Lao Động. Nhìn chung có thể khái quát thành ba mảng nghiên
cứu chính:
2


Mảng thứ nhất: nghiên cứu về bản thân con người Hồ Chí Minh, qua
đó rút ra những tư tưởng về văn hoá, theo quan niệm rằng bản thân Hồ Chí
Minh là một tấm gương tiêu biểu về văn hoá, kết tinh trong cuộc đời và sự
nghiệp của Người.
Mảng thứ hai: lấy tư tưởng Hồ Chí Minh làm đối tượng nghiên cứu,

mục đích qua các bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh để hệ thống hoá, tìm ra
quan điểm của Người về văn hoá và xây dựng nền văn hoá, lấy đó làm thế
giới quan và phương pháp luận để nghiên cứu văn hoá Việt Nam hiện nay.
Mảng thứ ba: kết hợp giữa hai mảng trên, lấy cuộc đời, sự nghiệp và
tư tưởng Hồ Chí Minh làm đối tượng nghiên cứu, qua đó rút ra những kinh
nghiệm về xây dựng văn hoá.
Những công trình nói trên đã có những đóng góp nhất định trong việc
nghiên cứu về Hồ Chí Minh, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá nói chung và
văn hoá mới Việt Nam nói riêng. Tuy nhiên chưa một công trình nào nghiên
cứu về Hồ Chí Minh với việc xây dựng nền văn hoá mới Việt Nam theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, dưới góc độ lịch sử một cách cơ bản hệ thống.
Nhìn chung các công trình nói trên với các góc độ và cách tiếp cận
khác nhau, đã tạo điều kiện thuận lợi cho tác giả luận văn tham khảo, trên cơ
sở đó tìm một hướng đi mới, nhằm giải quyết những vấn đề mới mà luận văn
đặt ra.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài.
- Nghiên cứu về văn hoá và phát triển văn hoá theo định hướng xã hội
chủ nghĩa nói chung
- Nghiên cứu một cách tương đối hệ thống về một số vấn đề lý luận
trong xây dựng nền văn hoá mới trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Nghiên cứu về quá trình Hồ Chí Minh trực tiếp chỉ đạo xây dựng nền
văn hoá mới

3


- Xuất phát từ kết quả nghiên cứu và căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ
cách mạng hiện nay, đưa ra một số kiến nghị về xây dựng nền văn hoá mới
Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu.

- Tìm hiểu khái niệm văn hoá, quan điểm của của chủ nghĩa Mác –
Lênin về văn hoá nói chung và văn hoá xã hội chủ nghĩa nói riêng.
- Trên cơ sở quan điểm của của học thuyết Mác – Lênin về văn hoá
trong chế độ xã hội chủ nghĩa, xuất phát từ hoàn cảnh thực tiễn của xã hội
Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám 1945 mà Hồ Chí Minh đã đưa ra những
định hướng cơ bản cho nền văn hoá Việt Nam trong giai đoạn mới.
- Những thành quả ban đầu cho chúng ta khẳng định những giải pháp
của Hồ Chí Minh cho nền văn hoá Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn và đó
cũng là những định hướng cơ bản cho nền văn hoá xã hội chủ nghĩa Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Để hoàn thành luận văn này, tác giả của đề tài sử dụng kết hợp phương
pháp lịch sử với phương pháp lôgíc nhằm khai thác triệt để tư liệu hiện có về
hoạt động của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp xây dựng nền văn hoá mới Việt
Nam, rút ra hệ thống quan điểm có tính lý luận và ý nghĩa thực tiễn đối với
việc xây dựng nền văn hoá mới.
Đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận Mác – Lênin và chủ yếu dựa
vào các tác phẩm của Hồ Chí Minh trong bộ sách Hồ Chí Minh Toàn tập
(2000), Nxb CTQG. Đồng thời đề tài dựa vào đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước ta để phân tích những vấn đề được nêu ra về xây
dựng nền văn hoá mới
6. Giới hạn phạm vi của Luận văn
- Luận văn nghiên cứu về vai trò của Hồ Chí Minh trong công tác xây
dựng nền văn hoá Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám 1945. Tìm hiểu
những tư tưởng của Người trong việc xác định những mục tiêu, nhiệm vụ
4


cũng như vai trò của công tác văn hoá trong giai đoạn mới. Từ những thành
tựu trên mặt trận văn hoá trong kháng chiến chống Pháp và giai đoạn đầu của

kháng chiến chống Mỹ đã khẳng định giá trị to lớn của tư tưởng văn hoá xã
hội chủ nghĩa của Hồ Chí Minh.
7. Đóng góp của Luận văn.
- Đóng góp lý luận: Những kết quả nghiên cứu của Luận văn một lần
nữa lại khẳng định vai trò, và công lao to lớn của Người anh hùng dân tộc –
danh nhân văn hoá thế giới – Hồ Chí Minh, đặc biệt là những cống hiến vĩ đại
của Người nhằm xây dựng một nền văn hoá Việt Nam hiện đại trên tàn dư của
chế độ cũ để lại.
- Đóng góp thực tiễn: Từ kết quả nghiên cứu cho ta thấy được thành
quả văn hoá ban đầu của Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám 1945, và thành
quả ấy chính là sự gợi mở, định hướng cho nền văn hoá mới Việt Nam. Đặc
biệt là trong giai đoạn hiện nay khi văn hoá Việt Nam đang xuất hiện những
yếu tố ngoại lai thì tìm hiểu lại những thành quả văn hoá để khẳng định những
giá trị của nó là việc làm hết sức cần thiết.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 10 tiết
Chương 1: Văn hoá và phát triển văn hoá theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Chương 2: Một số vấn đề lý luận xây dựng nền văn hoá theo định
hướng xã hội chủ nghĩa trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Chương 3: Hồ Chí Minh - Người chỉ đạo trực tiếp xây dựng nền văn
hoá mới Việt Nam.

5


Chương 1
VĂN HOÁ VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HOÁ THEO ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

1.1. Văn hoá và phạm trù văn hoá
Văn hoá là đề tài rộng lớn nên từ xa xưa, từ các bậc hiền triết đến
những người bình thường đã bàn luận khá nhiều về nó và đưa ra những định
nghĩa khác nhau về văn hoá.
Loài người từ khi hình thành mang nhiều tư chất khác hẳn các loài động
vật, trong đó nổi lên ba tư chất chính: trí tuệ, ngôn ngữ và lao động. Trong quá
trình thích ứng và chinh phục tự nhiên để tồn tại và phát triển, con người đã sử
dụng ba tư chất đó để tạo nên hàng loạt công cụ sản xuất, thức ăn, vật dụng
thường ngày: quần áo, nhà ở,… cũng như tạo nên hàng loạt các nguyên tắc
ứng xử, quan hệ với nhau,… để tạo nên xã hội loài người , cái “thiên nhiên”
thứ hai của họ. Và dần dần, trong cái thiên nhiên thứ hai đó, do nhu cầu phát
triển không ngừng của sản xuất, trao đổi, không ngừng nâng cao cuộc sống,
phát huy những tài sản quý giá vốn có của mình, duy trì xã hội ngày càng ổn
định, con người đã tạo nên những chuẩn mực đạo đức, những tục lệ, những
truyền thống, những phương thức để giữ gìn và nâng cao kiến thức thu nhận
được thông qua lao động sản xuất, phát minh, sáng chế, thích nghi, cải tạo tự
nhiên để phục vụ bản thân mình, cũng như các hình thức quan hệ giữa các
cộng đồng, giữa các lớp người khác nhau. Tất cả những gì do con người tạo ra
như vậy, ít hay nhiều đều có tác dụng (tích cực hoặc tiêu cực) đối với cuộc
sống của họ - ngoại trừ những hành vi vô thức,… nghĩa là ít hay nhiều đều có
những giá trị nhất định, hoặc vật chất, hoặc tinh thần.
Như vậy, văn hoá chính là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do
con người sáng tạo ra trong quá trình phát triển của lịch sử.
Văn hoá là vấn đề rất lớn, nó bao gồm cả văn học nghệ thuật, khoa học,
triết học, phong tục, tôn giáo,… Thậm chí khi xã hội phát triển thì nó còn xuất
6


hiện thêm một số thuật ngữ: văn hoá gia đình, văn hoá ngôn ngữ, văn hoá giao
tiếp, văn hoá dịch vụ, văn hoá quản lý,… Những khái niệm gắn liền “văn hoá”

với một lĩnh vực, một mặt nào đó trong hoạt động của con người ngày càng
nhiều, và được sử dụng rộng rãi trong ngôn ngữ xã hội như là một yêu cầu
bức thiết đòi hỏi về chất lượng, về sự hoàn thiện, về tính nhân văn trong mọii
hoạt động của con người, và ở ngay bản thân con người.
Văn hoá là một khái niệm được hình thành, khái quát thực tiễn xã hội
và gắn liền với sự phát triển của thực tiễn xã hội. Từ cội nguồn, văn hoá đã
khẳng định năng lực sáng tạo của con người, quyền uy của con người cho tự
nhiên và nó còn được quan niệm, xác định tuỳ thuộc vào năng lực, trình độ
sáng tạo, cả yêu cầu, định hướng xã hội cho sự sáng tạo của con người trong
những xã hội khác nhau, trong những thời đại khác nhau, trong những quy mô
giao tiếp xã hội rộng hẹp khác nhau.
Ở châu Âu, tuy khái niệm văn hoá ra đời tương đối muộn (từ thế kỷ
XVII), thời mà người ta gọi đó là thế kỷ Ánh sáng chói lọi trong lịch sử văn
hoá của nhân loại. Khái niệm văn hoá không còn bó hẹp chỉ gắn với việc cày
xới, chăm bón đất đai để trồng trọt, và cả giáo dục, giáo hoá con người, mà
lúc này, khái niệm văn hoá đã được “nâng cấp” nhằm chỉ toàn bộ những thành
tựu của con người một cách phong phú, đa dạng, đối lập với tự nhiên. Và con
người chính là đấng tạo hoá của những sáng tạo đó.
Quá trình tích luỹ tri thức đã đưa đến những phát kiến to lớn trong khoa
học kỹ thuật, lực lượng sản xuất phát triển, một mạng lưới thương nghiệp rộng
lớn, những dòng giao thương hàng hoá sôi động giữa các quốc gia được mở
ra. Trên cơ sở thực tiễn xã hội đó, đã khẳng định sự phát triên nhanh, mạnh
của khoa học, văn chương, hội hoạ,…. trong đó đã công nhận năng lực, tư
duy, tìm tòi, phát hiện, nhận thức của con người đối với tự nhiên, đối với xã
hội. Qua đó, cũng khẳng định những thành tựu con người đạt được là thành
quả của hoạt động tinh thần và công sức lao động của chính mình.
7


Như vậy là, dưới ánh sáng của chủ nghĩa nhân văn, con người bừng tỉnh

sau thời kỳ Trung cổ, họ đã tự nhận thức được năng lực, vai trò và vị trí của
mình trong thế giới. Con người chứ không phải là một đấng sáng thế nào
mang vầng hào quang sáng tạo. “Con người chính là chủ thể của văn hoá, là
một sinh thể hữu hạn (về mặt thể xác) nhưng có thể vượt qua tính hữu hạn đó
bằng hoạt động nhận thức và sự sáng tạo của chính mình”
Ngoài ý nghĩa là “phát hiện ra con người” thì đến giai đoạn sau, yếu tố
được nhận thức là yếu tố quyết định của văn hoá đó là khoa học. Sản phẩm
của trí tuệ đã được sử dụng hiển nhiên trong việc hợp lý hoá sản xuất, tăng
sức mạnh của con người trong việc khai thác tài nguyên, nắm bắt và chinh
phục tự nhiên. Và khi đó, khái niệm văn hoá còn gắn liền với khái niệm phát
triển. Văn hoá là những thành tựu vật chất và tinh thần do con người tạo nên.
Những thành tựu đó luôn luôn thay đổi theo chiều hướng tích cực, đa dạng
hơn, phong phú hơn, đẹp đẽ hơn. Trên cơ sở những thành tựu đã đạt được, con
người lại sáng tạo nên những thành tựu mới đáp ứng những nhu cầu to lớn của
xã hội, của con người. Khi đó con người muốn trở thành chủ thể của cái mới,
của những sáng tạo mới thì cần phải trải qua một quá trình giáo dục, được đón
nhận và tiếp thu những tri thức cơ bản, được đào tạo và phải tham gia vào quá
trình văn hoá xã hội của cộng đồng. Thực chất của văn hoá là bồi dưỡng, phát
triển, hoàn thiện những khả năng bẩm sinh trở thành những năng lực sáng tạo
thực của con người, phát triển con người chính là để phát triển văn hoá.
Như vậy, ta có thể thấy khái niệm văn hoá có nội hàm sâu rộng với
những ý nghĩa tích hợp toàn bộ hoạt động của con người với tư cách là chủ
thể hoạt động trong mọi lĩnh vực của thực tiễn xã hội. Hạt nhân trung tâm của
khái niệm văn hoá là hoạt động sáng tạo, hoạt động hướng đích khẳng định
nhân tính của con người với tư cách là chủ thể có ý thức, có trí tuệ, và nó được
thể hiện trong cả ba quan hệ tương tác cơ bản: văn hoá và tự nhiên; văn hoá và
xã hội; văn hoá và con người. Với cách hiểu về văn hoá như trên thì mới thấy
được vai trò, ý nghĩa to lớn của văn hoá cho sự phát triển.
8



1.2 Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về văn hoá và văn hoá xã
hội chủ nghĩa
1.2.1 Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về văn hoá
Các Mác, Ăng-ghen, Lênin đã khẳng định văn hoá là một trong những
hình thái ý thức của xã hội, phản ánh thực trạng của xã hội và những quan hệ
xã hội. Cũng như các hình thái ý thức xã hội khác, văn hoá có tác động tích
cực trở lại đời sống xã hội. Từ đó, các ông cho rằng “lao động được tiến hành
trong xã hội và do xã hội” là nguồn gốc của văn hoá.
Trong các tác phẩm của mình, Mác, Ăng-ghen, Lênin đã khẳng định
văn hoá là phương thức sản xuất tinh thần, nó phản ánh và chịu sự quyết định
của sản xuất vật chất. Bên cạnh đó, những sinh hoạt vật chất của những giai
cấp khác nhau trong xã hội đã làm nảy sinh những tư tưởng tình cảm khác
nhau. Chính vì vậy, trong xã hội có giai cấp, văn hoá luôn mang tính chất giai
cấp. Tư tưởng thống trị trong xã hội là tư tưởng của giai cấp thống trị. Trong
tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, Mác và Ăng-ghen đã chỉ rõ, trong mọi thời đại,
những tư tưởng của giai cấp thống trị là những tư tưởng thống trị. Điều đó có
nghĩa là giai cấp nào là lực lượng vật chất thống trị trong xã hội thì cũng là lực
lượng tinh thần thống trị trong xã hội. Giai cấp nào chi phối những tư liệu sản
xuất vật chất thì cũng chi phối luôn cả những tư liệu sản xuất tinh thần. Các
giai cấp cầm quyền đều sử dụng văn hoá như một vũ khí quan trọng để phục
vụ và bảo vệ quyền lợi cho họ. Việc phát triển văn hoá gắn với những lợi ích
giai cấp thường bị quy định bởi hệ tư tưởng của giai cấp đó. Do vậy, tính giai
cấp của văn hoá luôn gắn với tính đảng. Theo các ông thì tính đảng của văn
hoá là ở lập trường tư tưởng, sự nhiệt tình cách mạng ở mối liên hệ mật thiết
với quần chúng, mức độ thấm nhuần đường lối của đảng, tinh thần cách mạng
tiến công vào hệ tư tưởng tư sản, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin.
Bên cạnh việc khẳng định những tính chất cơ bản của văn hoá, chủ
nghĩa Mác - Lênin cũng đề cập đến chức năng xã hội hoá của văn hoá. Những
9



chức năng đó là: chức năng giáo dục, chức năng nhận thức, chức năng thẩm
mỹ, chức năng dự báo. Trong đó, chức năng bao trùm và quan trọng nhất của
văn hoá là chức năng giáo dục. Bởi thông qua chức năng này, văn hoá sẽ định
hướng cho con người hành động phù hợp với lý tưởng, đạo đức và chuẩn mực
của xã hội. Nhờ đó, văn hoá thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của xã hội.
Sức mạnh và hiệu quả của văn hoá sẽ được thể hiện ở chỗ nó có thể tác động,
huy động được tất cả năng lực, tinh thần của con người hay không.
Trong tự nhiên có muôn vàn cái đẹp, con vật cũng biết tạo nên vẻ đẹp.
Nhưng con vật chỉ tạo ra vẻ đẹp bằng bản năng, nó được di truyền bằng con
đường sinh học. Con vật cũng chỉ tạo ra những sản phẩm theo kích thước và
nhu cầu của bản thân nó, còn con người thì có thể tạo ra những sản phẩm theo
kích thước của bất kỳ giống loài nào và ở đâu cũng biết vận dụng bản chất cố
hữu của mình vào đối tượng, đó là khả năng thẩm mỹ của con người và nó
được di truyền bằng con đường xã hội. Chỉ có con người mới chủ động tác
động vào tự nhiên và biến nó thành cái đẹp theo theo nhu cầu thẩm mỹ của
mình. Chính vì vậy, văn hoá là cái để phân biệt con người với con vật. Chính
cái đẹp, cái hay của văn hoá đã làm con người đẩy lùi bản năng để ngày càng
trở nên “Người” hơn. Do vậy, “mắt chim đại bàng nhìn thấy xa hơn mắt người
rất nhiều nhưng mắt người nhận thấy trong sự vật được nhiều hơn mắt chim
đại bàng rất nhiều”
Đối với Mác – Ăngghen, văn hoá mà loài người sẽ vươn tới là một nền
văn hoá đầy tính nhân văn, xã hội mà loài người sẽ dựng xây là một xã hội
không có giai cấp đối kháng, không phân chia giai cấp, không có tình trạng
người bóc lột người. Trong xã hội đó, con người có đủ điều kiện để phát triển
toàn diện cả về thể chất lẫn tinh thần, và sự phát triển tự do của mỗi con người
sẽ là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người.
1.2.2. Quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin về văn hoá xã hội chủ
nghĩa

10


Trước khi đề cập đến một nền văn hoá trong chế độ xã hội chủ nghĩa,
Mác – Ăngghen cũng quan tâm nghiên cứu đến nền văn hoá trong chế độ tư
bản chủ nghĩa, từ đó hai ông so sánh và thấy được tính ưu việt của nền văn
hoá xã hội chủ nghĩa.
Trong các tác phẩm của Mác – Ăngghen, văn hoá trong chủ nghĩa tư
bản đã được phân tích một cách sâu sắc trên hầu hết mọi mặt của đời sống xã
hội nhằm mục đích chỉ ra cho được con đường phát triển tất yếu khách quan
của văn hoá trong chủ nghĩa tư bản chính là đi tới cuộc cách mạng vô sản toàn
thế giới để xây dựng nền văn hoá vô sản.
Nếu chia văn hoá một cách tương đối thành hai lĩnh vực là văn hoá
trong lĩnh vực sản xuất vật chất và văn hoá trong lĩnh vực tinh thần thì chính
chủ nghĩa tư bản đã tạo nhiều điều kiện để văn hoá trong lĩnh vực sản xuất vật
chất phát triển nhanh chóng. Điều này được thể hiện một cách sinh động trên
thực tế đời sống xã hội của các nước tư bản lúc bấy giờ. Các sản phẩm văn
hoá vật chất vô cùng phong phú đa dạng đã được bày bán, mang đi trao đổi
với tư cách là những hàng hoá trong thị trường của chủ nghĩa tư bản. Những
hàng hoá này lại là một chất xúc tác mạnh tác động tới sự sáng tạo của con
người, kích thích con người làm ra những của cải nhiều hơn, phong phú hơn
phục vụ mọi nhu cầu khác nhau của con người và xã hội loài người.
Nhưng còn trong lĩnh vực văn hoá tinh thần, trong các mối quan hệ giữa
người với người trong chủ nghĩa tư bản thì ra sao? Mác - Ăngghen cho rằng
“Giai cấp tư sản đã xé toang tấm màn tình cảm bao phủ những quan hệ gia
đình và làm cho những quan hệ ấy chỉ còn là những quan hệ tiền nong đơn
thuần” [22, tr. 600].
Như vậy, chúng ta có thể nhận thấy, trong chủ nghĩa tư bản, những tiến
bộ trong sản xuất vật chất, trong khoa học kỹ thuật được phát triển theo chiều
hướng tích cực thì ngược lại những giá trị đạo đức xã hội lại bị suy thoái. Đời


11


sống tinh thần của con người lại trở nên bó hẹp hơn, con người trở nên cô đơn
trong một môi trường xã hội vật chất ngày càng mở rộng.
Từ việc phân tích đời sống văn hoá trong chủ nghĩa tư bản như vậy,
Mác - Ăngghen đưa ra quan điểm về xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa.
Trong các tác phẩm của mình, Mác - Ăngghen không dành riêng một tác
phẩm nào để trình bày hệ thống các quan điểm của các ông về văn hoá, văn
hoá không được thể hiện như một lĩnh vực nghiên cứu riêng. Nhưng toàn bộ
tư tưởng của Mác - Ăngghen về vấn đề này được thể hiện rất sâu sắc thông
qua hệ thống các quan điểm duy vật biện chứng về con người và xã hội. Kế
thừa và phát triển quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác về văn hoá
và vai trò của văn hóa trong công cuộc xây dựng xã hội mới, thông qua thực
tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga, Lênin tiếp tục bổ sung và phát
triển những vấn đề lý luận về xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa.
Trước hết, là những nét chung nhất về nền văn hoá xã hội chủ nghĩa.
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin, bản chất của văn hoá là
sáng tạo, là sự kết tinh “năng lực bản chất người” trong thế giới các sản phẩm
do chính hoạt động của con người tạo ra, là cái quy định bản chất con người
với tư cách là thực thể sinh học – xã hội. Văn hoá là phương thức bộc lộ, phát
huy những năng lực bản chất con người gắn với những hoạt động sống của họ,
làm cho con người trở nên tốt đẹp hơn, hoàn thiện hơn, trở thành “người” hơn
trong mỗi giai đoạn phát triển của mình. Những nội dung đó cũng là mục tiêu
của chủ nghĩa xã hội, một kiểu tổ chức xã hội mà nhân loại đang hướng tới.
Hiểu theo góc độ này thì chủ nghĩa xã hội là chế độ xã hội mang những đặc
trưng của văn hoá. Mác đã khái quát: mỗi bước mà con người tiến đến văn
hoá là mỗi bước con người tiến đến tự do. Đến Lênin, tư tưởng đó đã được
diễn đạt một cách cụ thể hơn khi ông đưa ra luận điểm về nền văn hoá xã hội

chủ nghĩa hay văn hoá vô sản, nền văn hoá mới do nhân dân lao động xây
dựng.

12


Như vậy xét trên phương diện chung nhất, văn hoá xã hội chủ nghĩa là
văn hoá của nhân dân lao động, chứa đựng những giá trị nhân văn cao cả. Còn
về phương diện lịch sử, chủ nghĩa Mác – Lênin quan niệm văn hoá xã hội chủ
nghĩa là kết quả sự phát triển liên tục của các nền văn hoá, nó không phải tự
nhiên mà có hoặc do những người vô sản phát minh ra mà là “sự phát triển
hợp quy luật của tổng số những kiến thức mà loài người đã tích luỹ được”. Do
đó, có thể nói, nền văn hoá xã hội chủ nghĩa thể hiện trình độ phát triển cao
của xã hội loài người.
Từ những đặc trưng của nền văn hoá xã hội chủ nghĩa và những điểm
xuất phát để xây dựng nền văn hoá đó, các nhà kinh điển sáng lập chủ nghĩa
Mác - Lênin đã xác định những mục tiêu và nhiệm vụ của nền văn hoá xã hội
chủ nghĩa.
1.2.2.1 Về mục tiêu của nền văn hoá xã hội chủ nghĩa
Trước hết, mục tiêu của nền văn hoá xã hội chủ nghĩa là xây dựng nền
văn hoá của quảng đại nhân dân lao động. Nền văn hoá đó vì lợi ích của nhân
dân lao động và do chính họ sáng tạo ra. Trong các xã hội có mâu thuẫn đối
kháng giai cấp, giai cấp thống trị chỉ muốn phát triển văn hoá đáp ứng quyền
lợi của chúng. Văn hoá xã hội chủ nghĩa phải là văn hoá của nhân dân, toàn bộ
những thành quả của nền văn hoá đó, giáo dục, khoa học, nghệ thuật… đều
biến thành tài sản của toàn thể nhân dân. Nhân dân lao động xứng đáng được
hưởng những giá trị tốt đẹp nhất của nền văn hoá mới. Nền văn hoá mới sẽ là
kết quả sáng tạo của nhân dân và trở lại phục vụ nhân dân. Văn hoá xã hội chủ
nghĩa sẽ loại bỏ tình trạng độc quyền hoạt động tinh thần của bất cứ nhóm xã
hội nào, khắc phục sự khác biệt giữa lao động chân tay và lao động trí óc, tạo

cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi người hưởng thụ những giá trị văn hoá và khả
năng tham gia tích cực vào các lĩnh vực khác nhau của hoạt động sáng tạo.
Bên cạnh đó, mục tiêu phát triển toàn diện và giải phóng năng lực sáng
tạo của mọi thành viên trong xã hội. Trong xã hội cũ tồn tại tư hữu tư bản chủ
13


nghĩa về tư liệu sản xuất và sự phân công lao động có mâu thuẫn đối kháng,
con người là “một cá thể phiến diện”. Nội dung hoạt động của cá thể ấy không
do năng lực bản thân quyết định, mà bị phụ thuộc vào một nghề nghiệp nào
đó. Ngược lại, chủ nghĩa xã hội dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất,
không có sự phân công lao động đối kháng nên người lao động có khả năng
thực tế để phát triển toàn diện. C.Mác chỉ ra mối quan hệ này: “Sự chiếm lĩnh
toàn bộ công cụ sản xuất cũng tương đương với sự phát triển năng khiếu ở bản
thân các cá thể” [04, tr. 100]. Khi cách mạng Tháng Mười thành công, khi tài
sản đã về tay nhân dân lao động, Lênin đã xác định mục tiêu của xã hội mới
phải có các lĩnh vực hoạt động để con người phát triển toàn diện “có thể phát
huy hết khả năng của mình, có thể uốn lại cái lưng, có thể đứng thẳng, có thể
cảm thấy mình là một con người” [18, tr. 144].
Trong quá trình xây dựng nền văn hoá mới sẽ giải phóng nhân dân lao
động thoát khỏi cảnh tối tăm, thức tỉnh trí óc của hàng triệu người lâm vào
cảnh “ngu dốt”, lạc hậu, nâng quần chúng đông đảo lên đến “tinh thần sáng
tạo lớn lao có tính chất lịch sử”. Khả năng sáng tạo của quần chúng nhân dân
là vô hạn. Nhưng nền văn hoá tư sản với tính phi nhân đạo của nó đã giày xéo,
đè nén, bóp nghẹt mất hàng nghìn, hàng triệu nhân tài trong nhân dân. Chỉ có
nền văn hoá xã hội chủ nghĩa mới khơi dậy sức sáng tạo mãnh mẽ bị đè nén
đó và những khả năng sáng tạo vốn đang tiềm tàng trong nhân dân. Chỉ có thế
mới sáng tạo nên những giá trị văn hoá mới cho một xã hội mới – xã hội cộng
sản. Một xã hội mà để trở thành hiện thực đòi hỏi phát huy tính tự giác cao độ
và tinh thần sáng tạo không ngừng của giai cấp vô sản và nhân dân lao động.

1.2.2.2 Về nhiệm vụ để xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa
Vấn đề đầu tiên mà các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin quan tâm
là xác định tính chất lâu dài, khó khăn, phức tạp của nhiệm vụ xây dựng nền
văn hóa xã hội chủ nghĩa - một nền văn hoá khác hẳn về chất so với các nền
văn hoá trước đó. Nhưng dù khó khăn thế nào, các nhà kinh điển vẫn đặt niềm
14


tin vào giai cấp vô sản sẽ xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa cũng như
thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình là đi tới xã hội cộng sản.
Nhiệm vụ thứ nhất để xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa là phải kế
thừa, tiếp thu những di sản của những nền văn hoá cũ mà trực tiếp là văn hoá
tư sản. Lênin đã tiến hành cuộc đấu tranh quyết liệt chống lại những quan
điểm sai lầm của những người chủ trương phủ nhận sạch trơn những di sản
văn hoá của dân tộc và nhân loại, kêu gọi tự tay giai cấp vô sản xây dựng nền
văn hoá của riêng mình. Lênin cho rằng, ý nghĩa lịch sử của chủ nghĩa Mác
đối với toàn thế giới là do Mác đã không vứt bỏ những thành quả quý báu nhất
của các thời đại trước đó mà tiếp thu bằng cách cải tạo tất cả những tinh hoa
của loài người trong vòng hơn hai nghìn năm trước đó. Từ đó, Lênin đã nêu
lên một nguyên tắc đối với những người Mácxít là trong những công việc sau
này phải “không phải là nghĩ ra một thứ văn hoá vô sản mới, mà là phát triển
những kiểu mẫu ưu tú, những kết quả tốt nhất của nền văn hoá hiện tồn” [17,
tr. 548] và chỉ có vậy mới được gọi là làm phát triển một nền văn hoá thực sự
vô sản.
Như vậy, rõ ràng trong tư tưởng của các nhà kinh điển, nền văn hoá xã
hội chủ nghĩa với tư cách là mục tiêu, là phương tiện, là vật liệu không thể
thiếu được trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội phải được xây dựng
trên cơ sở kế thừa, tiếp thu có chọn lọc những giá trị của văn hoá dân tộc cũng
như của nhân loại, đặc biệt là những thành quả của chủ nghĩa tư bản đã tạo ra.
Nhiệm vụ mà các nhà kinh điển đặt ra cho giai cấp vô sản là phải tiếp thu có

chọn lọc những giá trị của văn hoá dân tộc cũng như của nhân loại, đặc biệt là
những thành quả mà chủ nghĩa tư bản đã tạo ra. Đó là điều kiện tiên quyết để
tạo nên những giá trị văn hoá mới trong nền văn hoá xã hội chủ nghĩa và
chính những giá trị mới đó là cơ sở, động lực để thúc đẩy xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội.
Nhiệm vụ thứ hai được các nhà kinh điển đặc biệt quan tâm trong quá
trình xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa chính là giáo dục. Các ông đã
15


sớm nhận thấy vai trò của giáo dục trong việc cải tạo chế độ cũ và xây dựng
xã hội mới. Chủ nghĩa xã hội chỉ có thể khẳng định được vị trí của mình khi
có năng suất lao động cao hơn chủ nghĩa tư bản, mà điều đó chỉ có được khi
lực lượng sản xuất phát triển mạnh hơn, trong đó yếu tố con người - người lao
động là quan trọng hàng đầu. Trong điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
trình độ thấp kém thì nhiệm vụ giáo dục hết sức quan trọng và có ý nghĩa
quyết định tới sự thành công của quá trình xây dựng văn hoá xã hội chủ nghĩa
và chủ nghĩa xã hội. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và
Ph. Ăngghen đề cập đến giáo dục là một nhiệm vụ hàng đầu trong quá trình
giai cấp vô sản làm cách mạng, thực hiện sứ mênh lịch sử của mình, đó là
“giáo dục công cộng và không mất tiền cho tất cả các trẻ em”. Đưa
ra nhiệm vụ này, các ông đồng thời phác hoạ nên mô hình của một nền giáo
dục mới, hệ thống giáo dục dành cho tất cả mọi người, gắn lý thuyết với thực
hành.
Nhiệm vụ thứ ba trong việc xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa là
công tác văn hoá trong nông dân. Đặt ra nhiệm vụ này, các nhà kinh điển xuất
phát từ vai trò cũng như thực trạng của nông thôn, nông dân trong công cuộc
xây dựng xã hội mới. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở những nước lạc
hậu, nông nghiệp chiếm đa số thì nông dân là lực lượng hùng hậu và cần phải
tổ chức lại. Người nông dân không thể giữ mãi kiểu sản xuất cũ dựa trên cơ sở

tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất mà phải được tổ chức vào các hợp tác xã.
Nhưng hợp tác xã là một hình thức tổ chức kinh tế mà nguyên tắc hàng đầu
cho sự tồn tại của nó là tự nguyện. Do đó, giai cấp vô sản không thể dùng ý
chí chủ quan của mình để tổ chức các hợp tác xã bằng cách cưỡng bức nông
dân mà phải dựa trên sự thay đổi từ chính bản thân họ. Công tác văn hoá nông
thôn trước hết là thanh toán nạn mù chữ, từng bước nâng cao trình độ văn hoá
của nông dân để tự họ có thể tiếp thu được những thành tựu khoa học, học hỏi
được các chuyên gia tư sản. Công tác văn hoá trong nông dân không đơn giản
chí là xoá mù chữ mà phải xóa bỏ lực cản vô hình đang cản trở công cuộc xây
16


dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là những căn bệnh tồn tại từ bao đời nay: bệnh làm
ăn kiểu sản xuất nhỏ, bệnh tuỳ tiện, bệnh gia đình chủ nghĩa,… xoá bỏ nó cần
phải tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
Công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn không đơn thuần là việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế mà quan trọng hơn là sự nâng cao về văn hoá trong
quá trình đó. Chỉ có xây dựng được một môi trường văn hoá cao ở nông thôn
mới đảm bảo cho sự thành công bền vững của công cuộc công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
Từ những quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về vai trò, mục tiêu và
nhiệm vụ của văn hoá, chúng ta có thể nhận thấy. Về vai trò của văn hoá nói
chung và nền văn hoá trong chế độ xã hội chủ nghĩa nói riêng: theo các ông
thì văn hoá mà loài người sẽ vươn tới là một nền văn hoá đầy tính nhân văn,
xã hội mà loài người sẽ xây dựng là một xã hội không có giai cấp đối kháng,
không chia giai cấp, không có tình trạng người bóc lột người. Trong xã hội đó
con người có đủ điều kiện để phát triển toàn diện cả về thể chất lẫn tinh thần,
và chính sự phát triển tự do của mỗi con người sẽ là điều kiện cho sự phát
triển tự do của tất cả mọi người.
Với những ý nghĩa ấy mà văn hoá trong chế độ xã hội chủ nghĩa được

các ông khẳng định đó là nền văn hoá chứa đựng tính nhân văn cao cả, một
nền văn hoá vì con người, phục vụ con người. Tuy nhiên, xây dựng nền văn
hoá xã hội chủ nghĩa theo các nhà kinh điển sẽ gặp phải rất nhiều khó khăn:
Thứ nhất, về cơ sở kinh tế - một điều kiện quan trọng cho sự phát triển
văn hoá thì nghèo nàn, lạc hậu. Các nước xây dựng xã hội chủ nghĩa thường là
những nước tiểu nông, kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, chưa đạt được những
trình độc như các nước phát triển. Các nhà kinh điển coi đó là những khó khăn
không thể tưởng tượng đựơc cả về vật chất lẫn tinh thần.
Thứ hai, xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa trên cái nền của văn
hoá tư sản, mà chủ nhân của nền văn hoá mới chính là con người, là nhân dân
17


lao động, nhưng ở chế độ tư bản chủ nghĩa họ không được hưởng hoàn toàn
những giá trị tốt đẹp của nền văn hoá. Vì vậy, mặc dù họ là những người rất
hăng hái đấu tranh để đem lại cho xã hội những cái mới và tốt đẹp thì họ lại
chưa đủ học thức, không đủ trình độ văn hoá cần thiết để làm cuộc cách mạng
đó.
Từ những thực tế ấy mà các nhà kinh điển sáng lập chủ nghĩa Mác –
Lênin đã xác định những mục tiêu, và nhiệm vụ của nền văn hoá xã hội chủ
nghĩa. Với mục tiêu xây dựng một nền văn hoá của quảng đại quần chúng, vì
lợi ích của nhân dân lao động, và nền văn hoá ấy phải do chính họ sáng tạo ra,
nhằm phát triển toàn diện, khuyến khích năng lực sáng tạo của bản thân họ.
Chính vì thế mà nhiệm vụ đầu tiên và quan trọng nhất của nền văn hoá xã hội
chủ nghĩa đó là: phải biết kế thừa, tiếp thu những di sản của nền văn hoá cũ
(mà trực tiếp là văn hoá tư sản), nhưng phải làm thế nào đó để văn hoá vô sản
kết hợp được với những thắng lợi của văn hoá tư sản, với khoa học kỹ thuật
trước đây thuộc đặc quyền một số ít người. Nhiệm vụ thứ hai được các nhà
kinh điển đặc biệt coi trọng trong quá trình xây dựng nền văn hoá xã hội chủ
nghĩa chính là giáo dục. Trong điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội ở điều

kiện thấp kém thì nhiệm vụ giáo dục hết sức coi trọng và quyết định tới sự
thành công của quá trình xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa
xã hội. Nhiệm vụ thứ ba trong việc xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa là
công tác văn hoá trong nông dân. Công tác văn hoá trong nông dân trước hết
là thanh toán nạn mù chữ, từng bước nâng cao trình độ văn hoá của nông dân
để tự họ có thể tiếp thu được những thành tựu của khoa học, học hỏi được
những chuyên gia tư sản, biết loại bỏ được những ảnh hưởng xấu đến khối
liên minh công nông.

18


Chương 2:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN XÂY DỰNG MỘT NỀN VĂN HOÁ
MỚI TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
2.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về khái niệm văn hoá.
Khái niệm văn hoá vốn rất rộng và thường được dùng trong những văn
cảnh khác nhau. Do đó, mỗi người có thể có cách tiếp cận khác nhau về khái
niệm văn hoá. Vì lẽ đó, đã ra đời hàng trăm định nghĩa về văn hoá, nảy sinh
nhiều cuộc tranh luận xung quanh khái niệm văn hoá. Cũng từ đó, hình thành
những cách suy nghĩ khác nhau về vị trí, vai trò và chức năng, tác dụng của
văn hoá đối với đời sống xã hội cũng như đối với sự nghiệp cách mạng và xây
dựng đất nước nói chung.
Là một nhà cách mạng, hoạt động và phấn đấu suốt đời vì sự nghiệp
giải phóng dân tộc, giải phóng con người nên ở đây chúng ta không xem xét
Hồ Chí Minh dưới góc độ là một nhà nghiên cứu về văn hoá. Nhưng để có thể
hiểu về những đóng góp của Người đối với sự nghiệp xây dựng nền văn hoá
sxã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, thiết nghĩ chúng ta cũng cần tìm hiểu để thấy
rõ những quan điểm của Người về văn hoá cũng như về vị trí, vai trò và chức
năng, tác dụng của văn hoá trong thời đại mới. Chỉ có một lần duy nhất, Hồ

Chí Minh nói đến ý nghĩa của văn hoá trong mục đọc sách ghi ở phần cuối tập
thơ Nhật ký trong tù. Nhờ bút tích quý báu này, chúng ta có thể thấy rõ hơn
những quan điểm của Người về nội hàm khái niệm văn hoá.
Hồ Chí Minh cho rằng: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc
sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức,
pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh
hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những
sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là tổng hợp của mọi phương
thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm

19


thích ứng nhu cầu đời sống và trước những đòi hỏi của sự sinh tồn” [32, tr.
143]
Từ quan điểm nêu trên về ý nghĩa của văn hoá. Hồ Chí Minh đề ra năm
điểm lớn xây dựng nền văn hoá dân tộc:
1. Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường
2. Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng
3. Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân
dân trong xã hội.
4. Xây dựng chính trị: dân quyền
5. Xây dựng kinh tế [32, tr. 431]
Có thể xem 5 điểm lớn nói trên là những yêu cầu cơ bản nhất cần quán
triệt khi đề ra mục tiêu chiến lược phát triển văn hoá đối với một dân tộc, một
quốc gia. Và, theo Hồ Chí Minh, văn hoá được hiểu theo nghĩa rộng nhất, bao
gồm toàn bộ những giá trị vật chất và giá trị tinh thần mà loài người sáng tạo
ra nhằm đáp ứng những nhu cầu ngày càng cao của đời sống và đòi hỏi của sự
sinh tồn.
Để có một nền văn hoá như vậy, phải xây dựng đồng thời cả tâm lý,

luân lý, xã hội, chính trị và kinh tế. Năm lĩnh vực ấy tuy chưa phản ánh đầy đủ
mọi mặt của đời sống xã hội, nhưng đã bao quát trong bốn nhiệm vụ cơ bản
mà Hồ Chí Minh đề ra cho sự nghiệp cách mạng: “Trong công cuộc kiến thiết
nước nhà có bốn vấn đề cần chú ý đến, cũng phải coi là quan trọng ngang
nhau: Chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá. Nhưng văn hoá là một kiến trúc
thượng tầng”
Vậy 5 yêu cầu của một chiến lược phát triển văn hoá nêu trên với 4 vấn
đề cần chú ý có mâu thuẫn với nhau không? Tại sao đã quan niệm văn hoá
theo nghĩa rộng bao gồm cả văn hoá vật thể và văn hoá phi vật thể lại còn
nhấn mạnh văn hoá là một kiến trúc thượng tầng? Phải chăng, khái niệm văn
20


hoá được Hồ Chí Minh dùng trong những văn cảnh khác nhau lại mang nội
hàm khác nhau?
Tuy khái niệm văn hoá được Hồ Chí Minh dùng trong những văn cảnh
khác nhau, nhưng khi Người lý giải khái niệm văn hoá thì rõ ràng văn hoá
được hiểu theo nghĩa rộng nhất như trên đã nói. Nhưng khi Người nêu bốn
vấn đề cần chú ý ngang nhau, đó là chính trị, kinh tế, xã hội và văn hoá thì
hình như văn hoá lại được hiểu theo nghĩa hẹp chỉ còn là văn hoá tinh thần
thuộc kiến trúc thượng tầng. Điều đó không phải là mâu thuẫn mà chỉ phản
ánh phương pháp tư duy biện chứng.
Nội hàm khái niệm văn hoá với ý nghĩa chính xác của nó như Hồ Chí
Minh hiểu, thì phải nói theo nghĩa rộng. Đó là quan điểm về văn hoá hay ý
nghĩa của văn hoá vốn có từ khi nó ra đời. Nhưng khi nói đến quan hệ giữa
văn hoá với chính trị, kinh tế và xã hội, đồng thời nhấn mạnh phải coi trọng
ngang nhau và phải thấy văn hoá là thuộc kiến trúc thượng tầng, thì tư duy lại
hướng sang vấn đề phương pháp luận.
Đối với Hồ Chí Minh, có lẽ ý nghĩa của khái niệm văn hoá không phải
ở chỗ nó rộng hay hẹp mà là sự gắn kết với bản chất con người và cuộc sống

xã hội. Nó là tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của
nó mà con người sáng tạo ra do nhu cầu đời sống và đòi hỏi của “sự sinh tồn”,
như Người khẳng định. Do đó, nó phải thể hiện ra như nó vốn có để tạo ra sức
mạnh tổng hợp bao gồm cả đời sống vật chất và đời sống tinh thần đối với con
người trong một xã hội cụ thể, cả đức và tài đối với một con người phát triển
toàn diện. Chỉ tách văn hoá khỏi con người và xã hội khi cần nghiên cứu hoặc
xem xét mối quan hệ giữa nó với các nhân tố khác mà thôi. Đó là lĩnh vực của
phương pháp luận khoa học.
Từ cách hiểu về văn hoá nêu trên, cũng như yêu cầu xây dựng một nền
văn hoá dân tộc không chỉ đơn thuần là xây dựng văn hoá tinh thần mà còn
phải quán triệt sâu sắc và toàn diện những nhu cầu ngày càng cao của đời
21


sống con người, trong đó có cả đời sống vật chất và đời sống tinh thần. Xuất
phát từ quan niệm đó, chúng ta càng thấy Hồ Chí Minh coi trọng ý nghĩa to
lớn của văn hoá và đặt nó ở vị trí quan trọng trong sự nghiệp cách mạng cũng
như trong chiến lược xây dựng và bảo vệ đất nước phát triển bền vững.
Thấm nhuần quan điểm văn hoá theo tư tưởng Hồ Chí Minh tức là đặt
văn hoá ở vị trí trung tâm của cách mạng, có nghĩa là thiếu nó cuộc sống sẽ
không còn ý nghĩa, thiếu nó con người sẽ không thành người, thiếu nó xã hội
sẽ không phát triển, thiếu nó sẽ không có chủ nghĩa xã hội… Điều đó cũng có
nghĩa là văn hoá gắn với mọi mặt của đời sống xã hội, là nền tảng tinh thần
của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực của phát triển kinh tế - xã hội
2.2. Hồ Chí Minh với việc xác định nền tảng cơ bản của nền văn
hoá mới.
2.2.1 Quan điểm của Hồ Chí Minh về tính dân tộc trong nền văn hoá
mới ở Việt Nam
Quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hoá nghệ thuật nói chung và về
tính dân tộc của nền văn hoá mới của Việt Nam nói riêng là một bộ phận hợp

thành hữu cơ của hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh đã đặt cơ sở cho quá trình
nhân dân ta xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Ngay từ năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đã viết: “Mỗi dân tộc phải chăm lo đặc
tính dân tộc của mình trong nghệ thuật” [13, tr. 180]. Gần 30 năm sau, trong
báo cáo Chính trị đọc tại Đại hội Đảng lần thứ hai năm 1951, Chủ tịch Hồ Chí
Minh cũng lại khẳng định Đảng ta quyết tâm: “phát triển những truyền thống
tốt đẹp của văn hoá dân tộc và hấp thụ những cái mới của văn hoá tiến bộ thế
giới để xây dựng một nền văn hoá Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học và
đại chúng” [35, tr. 173]. Mười năm sau đó, năm 1962, trong lời phát biểu tại
triển lãm mỹ thuật, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại ân cần căn dặn anh chị em văn
nghệ sĩ “nên chú ý phát huy cốt cách dân tộc” [13, tr. 181].

22


Mỗi nền văn hoá đều mang đậm cốt cách của dân tộc đã làm nên nền
văn hoá đó. Tiếng nói, tâm lý, tình cảm dân tộc, các phong tục tập quán và
những nhà văn hoá nghệ thuật của dân tộc tạo nên cái cốt cách ấy. Trước khi
đi tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được nuôi dưỡng trong một
môi trường văn hoá đậm đà bản sắc Việt Nam. Ca dao, tục ngữ, các tích chèo
của đồng bằng Bắc Bộ, các bài hát dặm, hát ví, hát bài chòi và tích tuồng của
miền Trung,… đã in đậm vào tư tưởng tình cảm của Hồ Chí Minh thời trẻ.
Cùng với một nền văn hoá dân gian đặc sắc và những lễ hội ngày xuân, một
nền văn hoá bác học cũng đã ăn sâu vào tâm khảm người học trò xứ Nghệ tại
cố đô Huế. Thơ của Lý Thường Kiệt, Hịch tướng sĩ của Trần Hưng Đạo, Bình
Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, Truyện Kiều của Nguyễn Du,… là hành trang
văn hoá nghệ thuật góp phần giữ gìn bản sắc dân tộc của nhà yêu nước
Nguyễn Ái Quốc khi Người tiếp xúc với nền văn hoá nghệ thuật phương Tây.
Trong tư tưởng văn hoá nghệ thuật Hồ Chí Minh, Việt Nam là một dân
tộc văn hiến, có truyền thống xây dựng nền văn hoá nghệ thuật lâu đời. Nền

nghệ thuật dân gian cũng như nghệ thuật bác học có nhiều yếu tố hiện thực và
nhân đạo sâu sắc. Các tư tưởng và tình cảm nhân đạo này gắn bó chặt chẽ với
các quan niệm về thiện và ác, ý chí tự lập tự cường và tinh thần yêu nước sâu
sắc. Các tư tưởng tình cảm này đã nuôi dưỡng tâm hồn và khí phách Hồ Chí
Minh ghi dấu đậm trong văn phong và phong cách sống của Người. Ngay từ
những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã viết: “Không: người Đông
Dương không chết, người Đông Dương vẫn sống, sống mãi mãi. Sự đầu độc
có hệ thống của bọn tư bản thực dân không thể làm tê liệt sức sống…. của
người Đông Dương” [30, tr. 28]. Nhiều nhà nghiên cứu khi đọc những câu
này, đều nhận thấy trong những câu viết đó vang vọng hồn dân tộc với khí
phách của Lý Thường Kiệt, của Trần Hưng Đạo, của Nguyễn Trãi, Nguyễn
Huệ - Quang Trung,…
Hồ Chí Minh đã đề xuất việc phát huy các giá trị truyền thống, giữ gìn
nó để xây dựng nền văn hoá nghệ thuật mới. Khi tiếp xúc với văn minh châu
23


Âu, với nền văn hoá tư sản, với chủ nghĩa Mác, hơn lúc nào hết, Hồ Chí Minh
nhận thức sâu sắc rằng: “Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất
nước”. Người cho rằng dân tộc học phương Đông có thể tham gia vào “củng
cố cơ sở lịch sử của chủ nghĩa Mác”.
Đối với Hồ Chí Minh, văn hoá nghệ thuật do con người sáng tạo ra
nhưng nó đã không những không mất đi cùng với các thế hệ người tạo ra nó,
mà còn tự xác lập được những thành tố văn hoá khách quan lưu giữ các khả
năng sáng tạo trong dấu ấn của toàn bộ nền văn hoá. Sự tồn tại này thiết lập
thành truyền thống văn hoá nghệ thuật trong cộng đồng dân tộc. Coi trọng
những thành tố văn hoá nghệ thuật đã từng được xác lập trong truyền thống,
do vậy Người một mặt ra những sắc lệnh cấm phá huỷ các công trình văn hoá
nghệ thuật như đình chùa, miếu mạo; mặt khác khuyến khích việc sưu tầm và
phát huy mọi giá trị văn hoá nghệ thuật tốt đẹp của dân tộc.

Trong tư tưởng văn hoá nghệ thuật Hồ Chí Minh, tính dân tộc của một
nền văn hoá đó là sự thống nhất trong đa dạng. Văn hoá nghệ thuật của dân
tộc Việt Nam bao gồm cả các giá trị văn hoá nghệ thuật của đồng bào miền
Bắc, miền Trung, miền Nam, đồng bào miền xuôi, miền ngược, tất cả các giá
trị này đều bình đẳng ngang nhau. Những giá trị ấy đều có lịch sử lâu đời và
đều là những bông hoa trong vườn hoa chung của dân tộc. Người từng khẳng
định rằng: “Các dân tộc bình đẳng về mọi mặt” [36, tr. 543]. Tất cả các dân
tộc trên đất nước ta đều có điều kiện và có quyền phát huy khả năng của mình
trong hoạt động sáng tạo.
Trước cách mạng Tháng Tám năm 1945, do chính sách ngu dân của chủ
nghĩa thực dân, phong kiến, nền văn hoá nghệ thuật dân tộc ở Việt Nam chưa
có sự bình đẳng giữa các giá trị. Bọn phong kiến, tư sản coi các dân tộc thiểu
số như mọi rợ và chúng dùng nhiều chính sách tàn bào để kìm hãm sự phát
triển văn hoá nghệ thuật của đồng bào các dân tộc thiểu số. Trong quá trình
giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã góp phần đem lại các giá trị chân chính
cho nền văn hoá dân tộc ở Việt Nam, Người không quên quan tâm đến văn
24


×