Mục lục
Trang
7
1
HOÀNG THỊ LAN ANH – 14C4
PHƯƠNG PHÁP HỌC TỪ VỰNG TIẾNG HÁN CHO SINH VIÊN NĂM
THỨ NHẤT
2
NGUYỄN THỊ HOÀI ANH và nhóm – 12E5
THỰC TRẠNG THAM GIA GIAO THÔNG CỦA SINH VIÊN TRÊN
ĐỊA BÀN HÀ NỘI
7
3
NGUYỄN NGỌC ANH và nhóm – 11E1
VIỆC SỬ DỤNG CÁC PHƯƠNG PHÁP THAY THẾ CHO CÂU HỎI
CỦA GIÁO VIÊN TRONG VIỆC KHƠI GỢI TƯƠNG TÁC LỜI NÓI
TRONG LỚP HỌC
9
4
TRẦN THỊ PHƯƠNG ANH & NGUYỄN QUỲNH HOA – 14K2
NGHỆ THUẬT BOJAGI TRONG ĐỜI SỐNG CỦA NGƯỜI HÀN
10
5
BÙI NGỌC DIỆP – 11C1
VẬN DỤNG BÀI HÁT TIẾNG TRUNG TRONG VIỆC GIẢNG DẠY
TIẾNG HÁN CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
12
6
TRẦN THỊ KIM DIỆU và nhóm – 12E2
VĂN HÓA ĐỌC BÁO MẠNG TRONG SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN
NAY
12
7
TRẦN THỊ PHƯƠNG DUNG và nhóm – 11E1
VIỆC SỬ DỤNG CÁC HOẠT ĐỘNG LIÊN QUAN ĐẾN ĐA TRÍ TUỆ
TRONG GIẢNG DẠY TIẾNG ANH NHƯ MỘT NGÔN NGỮ NƯỚC
NGOÀI CHO SINH VIÊN NĂM NHẤT KHOA SƯ PHẠM TIẾNG ANH,
ĐHNN – ĐHQGHN
14
8
HOÀNG ÁNH DƯƠNG & NGUYỄN MINH HẰNG – 14K1
NGHIÊN CỨU VỀ HỆ THỐNG KÍNH NGỮ TRONG TIẾNG HÀN
15
9
LÊ HOÀNG DƯƠNG & HOÀNG THỊ LAN PHƯƠNG – 13F6
NHỮNG KHÓ KHĂN TRONG VIỆC HỌC MIÊU TẢ TRANH VỚI
GIÁO TRÌNH ALTER EGO
17
1
10
NGUYỄN THỊ THÙY DƯƠNG và nhóm – 11E2
MỨC ĐỘ PHỤ THUỘC CỦA SINH VIÊN CHẤT LƯỢNG CAO,
KHOA SƯ PHẠM TIẾNG ANH, TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ,
ĐHQGHN VÀO VIỆC SỬ DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
TRONG KHI TIẾN HÀNH CÁC HOẠT ĐỘNG TRÊN LỚP
18
11
NGUYỄN THỊ THÙY DUYÊN và nhóm – 12J4
QUAN NIỆM VỀ VẺ ĐẸP THẨM MỸ CỦA NGƯỜI NHẬT (ĐỐI
CHIẾU VỚI VIỆT NAM)
20
12
ĐOÀN THỊ ĐÀO – 11G1
ĐỘNG TỪ KHUYẾT THIẾU TRONG TIẾNG ĐỨC VÀ TƯƠNG
ĐƯƠNG TRONG TIẾNG VIỆT
21
13
NGUYỄN TIẾN ĐẠT – 11C1
KHẢO SÁT LỖI SAI THANH ĐIỆU CỦA NGƯỜI HỌC VIỆT NAM
TRÌNH ĐỘ SƠ CẤP
23
14
ĐÀO HẢI HÀ - 11G1
ĐỒNG ÂM TRONG CÂU ĐỐ TIẾNG ĐỨC VÀ TIẾNG VIỆT
24
15
ĐỖ THU HÀ – 11F6
ĐỀ XUẤT PHƯƠNG PHÁP DỊCH CÁC THUẬT NGỮ HÀNH CHÍNH
VIỆT NAM SANG TIẾNG PHÁP
25
16
LÊ VĂN HẬU – 12J5
PHƯƠNG THỨC TỪ CHỐI LỜI CẦU KHIẾN CỦA NGƯỜI NHẬT
27
17
TRẦN VĂN HẬU – 11C4
THỦ PHÁP HÌNH TƯỢNG 意象 TRONG THƠ MÔNG LUNG
29
18
ĐỖ HOÀNG HIỆP & TRẦN THỊ THANH MINH – 14J4
NHỮNG KHÓ KHĂN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP TRONG QUÁ TRÌNH
HỌC TIẾNG NHẬT CỦA SINH VIÊN NĂM NHẤT
30
19
LÊ THỊ HUỆ - 11F3
Ý NGHĨA TRANH ĐÔNG HỒ
32
20
NGUYỄN THỊ HUẾ & PHẠM THỊ QUỲNH – 12R2
TÌNH YÊU TRONG THƠ A.PUSKIN
35
2
21
ĐÀO THỊ DIỄM HƯƠNG & TRẦN THỊ PHƯƠNG – 11E5
KỸ NĂNG QUẢN LÝ THỜI GIAN CỦA SINH VIÊN NĂM THỨ NHẤT
KHOA SƯ PHẠM TIẾNG ANH, ĐHNN – ĐHQGHN
36
22
LÊ MỸ HUYỀN - 13G3
MỐI QUAN HỆ GIỮA CHA MẸ VÀ CON CÁI TRONG TRUYỆN TIỂU
THUYẾT ĐỨC VÀ VIỆT NAM
37
23
NGUYỄN THỊ THANH HUYỀN – 12E6
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN NĂM NHẤT
KHOA SƯ PHẠM TIẾNG ANH, ĐHNN – ĐHQGHN THEO HỌC CHẾ
TÍN CHỈ
38
24
NGUYỄN THỊ THU HUYỀN & NGUYỄN DƯƠNG THANH TRÀ –
13J3
KHÁI QUÁT VỀ HIỆN TƯỢNG TỈNH LƯỢC TRONG TIẾNG NHẬT
40
25
TRẦN NGỌC HUYỀN -14C6
TÊN RIÊNG CỦA NGƯỜI VIỆT NAM – NHỮNG ĐẶC ĐIỂM NGÔN
NGỮ VÀ VĂN HÓA
42
26
ĐỖ THỊ THANH LAM – 13C1
TÌM HIỂU HỆ THỐNG CÂU ĐỐI TRẤN VŨ QUÁN
43
27
NGUYỄN THỊ LOAN và nhóm – 11C1
Ý NGHĨA NHỮNG TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC CỦA KHỔNG TỬ TRONG
VIỆC BỒI DƯỠNG THẾ HỆ TRẺ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
44
28
LÊ MỸ LINH & NGUYỄN PHƯƠNG NHUNG – 14K3
HÔN LỄ HÀN QUỐC TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI
45
29
NGUYẾN THÙY LY và nhóm – 14J5&14J6
ẨM THỰC ĐƯỜNG PHỐ NHẬT BẢN
MÌ RAMEN – BÁNH XÈO OKONOMIYAKI – BÁNH TAKOYAKI
48
30
TRẦN LƯU LY và nhóm – 13E16
QUAN ĐIỂM CỦA SINH VIÊN CHẤT LƯỢNG CAO NĂM THỨ NHẤT
KHOA SƯ PHẠM TIẾNG ANH VỀ TÀI LIỆU NGHE THỰC TẾ
49
3
31
TRẦN THỊ PHƯƠNG MAI và nhóm – 13C4
ẢNH HƯỞNG CỦA PHIM TRUYỀN HÌNH LỊCH SỬ CỔ TRANG ĐẾN
NHẬN THỨC CỦA HỌC SINH SINH VIÊN
50
32
TRẦN THỊ THANH MAI – 12K1
ĐẶC TRƯNG CÁC DOANH NGHIỆP HÀN QUỐC TẠI VIỆT NAM
51
33
NGUYỄN THỊ MI và nhóm – 13C4
NGUỒN GỐC VÀ Ý NGHĨA CỦA CHỮ “HỶ”
53
34
NGUYỄN NGUYỆT MINH và nhóm - 12E1
NHỮNG KHÓ KHĂN KHI TIẾN HÀNH DỰ ÁN SCRAPBOOK TRONG
PHẦN HỌC CRITICAL READING 1 (ĐỌC PHẢN BIỆN 1) CỦA SINH
VIÊN NĂM HAI KHOA SƯ PHẠM TIẾNG ANH, ĐHNN - ĐHQGHN
54
35
NGUYỄN THỊ NGUYỆT MINH và nhóm – 11E1
LỢI ÍCH CỦA VIỆC DẪN TOUR CHO NGƯỜI NƯỚC NGOÀI MIỄN
PHÍ ĐỐI VỚI KỸ NĂNG NÓI TIẾNG ANH DƯỚI CÁI NHÌN CỦA
THÀNH VIÊN CÂU LẠC BỘ HANOIKIDS
BÙI TRÀ MY – 11G1
PHƯƠNG TIỆN ĐỂ THỂ HIỆN TÌNH THÁI TRONG TIẾNG ĐỨC VÀ
TIẾNG VIỆT – THỨC CỦA ĐỘNG TỪ
55
37
NGUYỄN HÀ MY – 11E20
CHIẾN LƯỢC ĐƯỢC DƯƠNG TƯỜNG SỬ DỤNG ĐỂ DỊCH TIẾNG
ĐỊA PHƯƠNG CỦA NHÂN VẬT JOSEPH TRONG TÁC PHẨM “ĐỒI
GIÓ HÚ” CỦA EMILY BRONTE
58
38
NGUYỄN THỊ TRÀ MY & TRẦN THỊ MINH PHƯƠNG – 13J5
THÀNH NGỮ TIẾNG NHẬT CÓ TỪ CHỈ YẾU TỐ “MIỆNG” TRONG
MỐI QUAN HỆ SO SÁNH VỚI THÀNH NGỮ TIẾNG VIỆT
59
39
TRẦN THỊ NGỌC MỸ và nhóm – 11E1
VIỆC ÁP DỤNG HOẠT ĐỘNG KỂ CHUYỆN TRONG DẠY VÀ HỌC
PHÁT ÂM CHO TRẺ KHIẾM THỊ TRONG LỚP HỌC TIẾNG ANH
NHƯ MỘT NGOẠI NGỮ: TRƯỜNG HỢP NGHIÊN CỨU ĐIỂN HÌNH
TẠI TRƯỜNG NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU, HÀ NỘI
61
40
NGUYỄN MINH NGỌC – 14E7
PHÂN TÍCH NGUYÊN ÂM ĐƠN TRONG TIẾNG VIỆT BẰNG PHẦN
MỀM PRAAT
62
36
56
4
41
LÃ THỊ THANH NGA – 11G2
THÀNH NGỮ SO SÁNH CÓ HÌNH ẢNH CON VẬT TRONG TIẾNG
ĐỨC (SO SÁNH VỚI THÀNH NGỮ TIẾNG VIỆT)
64
42
NGUYỄN THỊ OANH & TẠ THỊ KHÁNH HUYỀN – 12K2 & 11K1
TÍNH CỘNG ĐỒNG VÀ VĂN HÓA CỘNG ĐỒNGTRONG XÃ HỘI
HÀN QUỐC
66
43
BÙI BÍCH PHƯƠNG và nhóm – 11E10
VIỆC SỬ DỤNG TIẾNG ANH TRONG QUẢNG CÁO Ở VIỆT NAM
68
44
HÀ BÍCH PHƯƠNG và nhóm – 14C5
SO SÁNH KIẾN TRÚC NHÀ TỨ HỢP VIỆN BẮC KINH – TRUNG
QUỐC VỚI KIẾN TRÚC NHÀ CỔ Ở ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ VIỆT
NAM
69
45
NGUYỄN THỊ BÍCH PHƯƠNG & PHAN THỊ HẢI YẾN – 11E13 &
11E12
ĐẶC ĐIỂM CÚ PHÁP VÀ NGỮ NGHĨA CỦA KHẨU HIỆU GIÁO DỤC
TẠI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÀ CAO ĐẲNG Ở VIỆT NAM VÀ CÁC
NƯỚC NÓI TIẾNG ANH
70
46
NINH THỊ PHƯỢNG & TRẦN THỊ HIỀN YẾN – 13BK
TRANG PHỤC TRUYỀN THỐNG CỦA DÂN TỘC KHMER Ở ĐỒNG
BẰNG SÔNG CỬU LONG
71
47
TRẦN THỊ MINH QUÝ – 11F3
TẦM QUAN TRỌNG CỦA KIẾN THỨC NGOÀI NGÔN NGỮ TRONG
DỊCH PHÁP VIỆT
73
48
ĐÀM THÙY QUYÊN – 14J2
BƯỚC ĐẦU NGHIÊN CỨU VỀ COSPLAY THÔNG QUA KHẢO SÁT
VÀ PHÂN TÍCH NHỮNG ĐỊNH KIẾN XUNG QUANH
75
49
ĐOÀN XUÂN QUỲNH và nhóm – 13K3
NÉT ĐẸP TRONG VĂN HÓA KIMJANG CỦA NGƯỜI HÀN QUỐC
76
50
NGUYỄN THỊ NGỌC THOA & TRẦN THỊ NHÃ PHƯƠNG – 12E4
SỬ ẢNH HƯỞNG CỦA PHONG CÁCH HỌC TẬP TỚI HIỆU QUẢ HỌC
TỪ VỰNG CỦA SINH VIÊN NĂM THỨ HAI KHOA SƯ PHẠM TIẾNG
78
5
ANH, ĐHNN - ĐHQGHN
51
LÊ MINH THU và nhóm – 11E2
VIỆC ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP TỰ QUAY BÀI NÓI TRONG VIỆC
CẢI THIỆN PHÁT ÂM CỦA HỌC VIÊN LANGMASTER TRÌNH ĐỘ
CƠ BẢN
79
52
BÙI MAI THƯƠNG và nhóm - 12E8
NHẬN THỨC VỀ CÁCH SỬ DỤNG GIỚI TỪ CHỈ VỊ TRÍ IN/ON CỦA
SINH VIÊN NĂM THỨ NHẤT TRƯỜNG ĐHNN - ĐHQGHN
80
53
NGUYỄN THỊ THU TRÀ – 14J3
THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP VỀ CÁCH HỌC CHỮ HÁN
CHO SINH VIÊN NĂM NHẤT
81
54
ĐỖ THU TRANG – 12J1
SỰ KHÁCH SÁO ĐỐI VỚI NGƯỜI KHÁC CỦA NGƯỜI NHẬT BẢN
(SO SÁNH ĐỐI CHIẾU VỚI NGƯỜI VIỆT NAM)
83
55
NGUYỄN THỊ THU TRANG & NGUYỄN THỊ ĐỨC – 13C1
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM NGỮ CỐ ĐỊNH MIÊU TẢ NGOẠI HÌNH
CON NGƯỜI TRONG TIẾNG HÁN HIỆN ĐẠI VÀ VẬN DỤNG VÀO
VIỆC DẠY HỌC MÔN VIẾT TRÌNH ĐỘ TRUNG CẤP
85
56
NGUYỄN HUYỀN TRANG – 11G2
VỊ NGỮ TRONG TIẾNG ĐỨC VÀ TIẾNG VIỆT
86
57
NGUYỄN THỊ CẨM TÚ & TRẦN THỊ HUẾ- 14A1
KỸ NĂNG NGHE NÓI TIẾNG Ả RẬP: THỰC TRẠNG VÀ
GIẢI PHÁP
87
58
LÊ HỒNG VÂN & NGUYỄN THỊ TÚ QUYÊN – 12G3
HIỆU QUẢ KINH TẾ CỦA NGÔN NGỮ TRONG TIẾNG ĐỨC
89
59
KHỔNG THỊ XIM và nhóm – 11E4
ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊ SỐNG CỦA SINH VIÊN NĂM NHẤT VÀ
NĂM BA KHOA SƯ PHẠM TIẾNG ANH, ĐHNN - ĐHQGHN
91
6
HOÀNG THỊ LAN ANH – 14C4
Giáo viên hướng dẫn: PGS.TS Nguyễn Hoàng Anh
Khoa NN&VH Trung Quốc
PHƯƠNG PHÁP HỌC TỪ VỰNG TIẾNG HÁN CHO SINH VIÊN
NĂM THỨ NHẤT
Tiếng Hán nói chung và chữ Hán nói riêng không chỉ là một công cụ để giao tiếp, để
ghi chép mà còn là một nét đẹp văn hóa đặc trưng của người Trung Quốc. Học ngoại ngữ
nói chung và học tiếng Hán nói riêng, việc ghi nhớ từ mới là một khâu then chốt. Nhưng,
tiếng Hán khó nhớ bởi số lượng chữ Hán nhiều, có cấu tạo phức tạp khiến người mới học
có nhiều khó khăn như khó nhận diện, khó ghi nhớ, khó viết, khó tra… Đối với những
khó khăn trên, đòi hỏi người học phải có những phương pháp học từ mới tích cực.
Sinh viên năm thứ nhất khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Trung Quốc, trường ĐHNN –
ĐHQGHN phần lớn thi đầu vào bằng tiếng Anh nên việc có kinh nghiệm tương đối
phong phú trong việc học tiếng Anh sẽ có một ưu thế lớn trong việc học tiếng Hán, tuy
nhiên, những ngôn ngữ khác nhau với những đặc điểm riêng biệt, cần đến những phương
pháp ghi nhớ và học khác nhau. Trong khuôn khổ bài nghiên cứu này, tác giả sẽ tìm hiểu
và tổng hợp những phương pháp học từ mới tiếng Hán hay để áp dụng cho các sinh viên
năm thứ nhất. Từ đó khẳng định, học ngoại ngữ cần có phương pháp, đặc biệt là tiếng
Hán, nhờ đó mà vấn đề học từ vựng sẽ không còn là trở ngại đối với sinh viên.
NGUYỄN THỊ HOÀI ANH và nhóm – 12E5
Giáo viên hướng dẫn:PGS.TS Nguyễn Thị Phương Hoa
Bộ môn Tâm lý – Giáo dục
THỰC TRẠNG THAM GIA GIAO THÔNG CỦA SINH VIÊN
TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI
Tham gia giao thông là nhu cầu cơ bản và mang tính đặc trưng của con người ở mọi
thời đại. An toàn giao thông (ATGT) là vấn đề không mới, nhưng lại mang tính cấp thiết.
Ở Việt Nam, Hà Nội là nơi tập trung dân cư đông đúc, trong đó sinh viên-một lực lượng
quan trọng, có tầm ảnh hưởng đến cộng đồng, chiếm một tỉ lệ lớn, ảnh hưởng không ít
đến điều hòa giao thông thành phố.
Trong điều kiện đất nước hiện nay, phương tiện giao thông và cơ sở hạ tầng giao thông
còn lạc hậu, thì giải pháp giáo dục ý thức cho người tham gia giao thông có vai trò to lớn
trong việc kiềm chế tainạn giao thông. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn và lí luận, nhóm
7
chúng tôi quyết định đi sâu tìm hiểu về thực trạng tham gia giao thông của sinh viên trên
địa bàn Hà Nội, từ đó tìm hiểu về nguyên nhân và giải pháp cho những thực trạng đó.
Nhóm nghiên cứu quyết định thực hiện đề tài trên khách thể 507 sinh viên đến từ các
trường đại học trên địa bàn Hà Nội thông qua phương pháp nghiên cứu lí luận và xử lí
thông tin, bài nghiên cứu đã đưa ra được những số liệu mới và cập nhật về tình hình giao
thông.
Kết quả khảo sát cho thấy:
Nhận thức của sinh viên về ATGT
- Về cơ bản, sinh viên trên địa bàn Hà Nội đã có một số tri thức, hiểu biết nhất định về
luật giao thông. Hầu hết họ đều thấy được tầm quan trọng của việc cấp phép lái xe và
việc đội mũ bảo hiểm.
Thái độ của sinh viên với ATGT
- Đa số các bạn đều hài lòng với thói quen tham gia giao thông của mình, điều này có
thể dự đoán khả năng thay đổi hành vi tham gia giao thông của họ trong tương lai là rất
thấp.
- Trong trường hợp vi phạm luật giao thông, hầu hết các sinh viên đều cảm thấy lo sợ
và xấu hổ về hành vi đó của mình nhưng điều này không mấy khả quan khi gần một nửa
vẫn cho rằng họ có thể sẽ tiếp tục vi phạm luật giao thông.
Hành vi của sinh viên với ATGT
- Khi gặp người bị nạn, ⅔ số sinh viên đã dừng lại để giúp đỡ nạn nhân, số còn lại đã
bỏ đi hoặc chỉ đứng xem.
- Thật đáng báo động khi có tới 65% sinh viên đã từng bị CSGT xử phạt. Trong đó, chỉ
có chưa đầy 40% sinh viên thực hiện nghiêm chỉnh việc xử phạt
Như vậy, mặc dù ý thức của sinh viên về vấn đề giao thông là tương đối tốt; song, khi đi
vào thực hành thì sinh viên lại chưa thể hiện tốt hành vi, thói quen hành vi, cũng như có
thái độ chưa thật sự tốt khi tham gia giao thông.
Nguyên nhân cho những hành vi vi phạm ATGT
- Về phía nhà trường, vẫn chưa có sự đột phá trong cách thức giáo dục luật giao thông ở
lứa tuổi học sinh- sinh viên khi mà học sinh chưa có cơ hội thực hành lí thuyết thì việc
giáo dục mới chỉ tác động được đến mặt nhận thức của học sinh- sinh viên mà vẫn chưa
giúp sinh viên có khả năng thực hành vào hành vi, và tạo thành thói quen hành vi.
- Về phía gia đình, việc giáo dục giao thông mới chỉ dừng lại ở mức độ nhắc nhở bằng
lời mà chưa hề có sự nêu gương.
- Về phía pháp luật, sự không nghiêm túc trong thái độ làm việc của những người thi
hành công vụ- CSGT đã khiến cho luật pháp không còn sức răn đe đối với công dân. Bên
8
cạnh đó, nhiều kẽ hở trong việc cấp bằng lái xe đã gián tiếp tiếp tay cho các hành vi làm
bằng giả và thi hộ.
Chúng tôi có đưa ra một số khuyến nghị như:
- Gia đình: các biện pháp giáo dục cho cả cha mẹ và con cái, cha mẹ phải thực hiện nêu
gương tốt.
- Nhà trường: tổ chức các hội thảo, các câu lạc bộ ATGT cho sinh viên, tạo sức lan tỏa
tới cộng đồng, đổi mới chương trình giáo dục pháp luật trong nhà trường.
- Xã hội: phát huy tính hiệu quả trong tuyên truyền, áp dụng mô hình trung tâm giáo dục
ATGT trực quan, sinh động, siết chặt khâu xử phạt cả về phía người thực thi pháp luật và
người vi phạm, tăng cường xã hội hóa giáo dục cải thiện cơ sở hạ tầng.
- Bản thân sinh viên: tích cực, chủ động học hỏi, chia sẻ ATGT, tự ý thức về hành vi của
mình, có thái độ không khoan nhượng trước những hành vi sai trái.
NGUYỄN NGỌC ANH và nhóm – 11E1
Giáo viên hướng dẫn: TS.Vũ Hải Hà
Khoa Sư phạm Tiếng Anh
VIỆC SỬ DỤNG CÁC PHƯƠNG PHÁP THAY THẾ CHO CÂU
HỎI CỦA GIÁO VIÊN TRONG VIỆC KHƠI GỢI TƯƠNG TÁC
LỜI NÓI TRONG LỚP HỌC
Việc sử dụng câu hỏi trong quá trình giảng dạy giáo viên trong các lớp tiếng Anh từ lâu
đã trở thành một công cụ sư phạm không thể thiếu để hỗ trợ người học trong quá trình
tìm hiểu vấn đề.Tuy nhiên, việc đặt câu hỏi dường như vẫn còn những hạn chế nhất định
trong quá trình thúc đẩy tư duy, phản hồi và sự chú ý của học sinh, đặc biệt là trong các
cuộc thảo luận (Dillon, 1983). Trong lĩnh vực học thuật, đã có nghiên cứu đề xuất ra
phương án giải quyết những vấn đề thiếu xót của việc đặt câu hỏi; song, hầu như chưa có
một nghiên cứu thực tế nào chỉ ra những giải pháp thay thế cho việc đặt câu hỏi, nhất là
trong bối cảnh dạy và học tiếng anh tại Việt Nam. Những lí do trên đã thôi thúc nhóm
nghiên cứu tìm hiểu sâu thêm về việc sử dụng các phương pháp thay thế cho câu hỏi của
các giáo viên tại khoa Sư phạm Tiếng Anh, trường Đại học Ngoại Ngữ - Đại học Quốc
Gia Hà Nội cùng với quan điểm về tính hiệu quả của chúng trong việc khơi gợi tương tác
lời nói giữa giáo viên và học sinh.
Các biện pháp nghiên cứu khác nhau bao gồm quan sát lớp học, thu thập số liệu qua
bản câu hỏi điều tra và phỏng vấn đã được vận dụng trong quá trình thực hiện nghiên cứu
với tựa đề “Việc sử dụng các phương pháp thay thế cho câu hỏi của giáo viên trong
việc khơi gợi tương tác lời nói trong lớp học”. Bài nghiên cứu tập trung trả lời ba câu
9
hỏi về các loại kĩ thuật khơi gợi thay việc đặt câu hỏi được sử dụng, tần suất sử dụng của
chúng cùng với những đánh giá của các giáo viên về độ hiệu quả của những phương pháp
này và những cân nhắc của họ khi sử dụng chúng trong môi trường học tập tại khoa Sư
phạm Tiếng Anh, Đại học Ngoại Ngữ - ĐHQGHN.
Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng câu khẳng định lại và câu phản ánh lại là hai phương
pháp thay thế được sử dụng nhiều nhất bởi các giáo viên. Bài nghiên cứu còn tìm ra mối
liên hệ giữa sự hiệu quả của phương pháp với việc làm cho bài giảng trở nên thu hút, sôi
nổi và bớt căng thẳng hơn cho cả giáo viên và học sinh; giữa tính hiệu quả của phương
pháp với thời lượng thảo luận, số lượng học sinh và sự linh hoạt của giáo viên.
Cụ thể là, việc sử dụng các phương pháp thay thế cho câu khỏi có khả năng khiến cho
học sinh bớt áp lực, tư duy tích cực hơn.Đồng thời, các phương pháp này giúp cho việc
dẫn dắt bài giảng của giáo viên được phong phú hơn cũng như khiến giáo viên khỏi căng
thẳng khi phải dành thời gian chờ câu trả lời của người học.Theo kết quả nghiên cứu, để
các phương pháp thay thế cho câu hỏi được hiệu quả, thời lượng bài học dành cho việc
thảo luận cần được phân bố một cách rộng rãi, thoải mái. Như vậy giáo viên có thể dành
thời gian để đi sâu phân tích, khơi gợi vấn đề cũng như người học sẽ có thời tư duy, đưa
ra ý kiến một cách độc lập. Tương tự, số lượng học viên tham gia thảo luận cần được hạn
chế. Mặt khác, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, phương pháp thay thế cho câu hỏi cũng cần
được sử dụng với các kĩ thuật giảng dạy truyền thống khác, với mấu chốt là sự linh hoạt
của người dạy để có thể đạt được hiệu quả tối đa.
TRẦN THỊ PHƯƠNG ANH &NGUYỄN QUỲNH HOA – 14K2
Giáo viên hướng dẫn: Trần Hải Dương
Khoa NN&VH Hàn Quốc
NGHỆ THUẬT BOJAGI TRONG ĐỜI SỐNG CỦA NGƯỜI HÀN
1.
Lý do chọn đề tài
Cùng với làn sóng văn hoá Hàn Quốc trong khoảng 10 năm gần đây, người dân Việt Nam
nói riêng và giới trẻ Việt Nam nói riêng đã giành một sự quan tâm lớn đối với văn hoá
Hàn Quốc. Tuy nhiên, mỗi khi nhắc đến văn hoá Hàn Quốc, họ đều chỉ nhớ đến Kimchi
hay trang phục truyền thống Hanbok. Với mong muốn chia sẻ và tìm hiểu nhiều hơn về
những khía cạnh khác của văn hoá Hàn Quốc, chúng em đã chọn đề tài: “Nghệ thuật
Bojagi trong đời sống của người Hàn”.
2. Lịch sự nghiên cứu
Bojagi là một loại hình nghệ thuật có từ thế kỷ XV, tuy nhiên do mục đích ban đầu được
sáng tạo ra nhằm phục vụ đời sống thực tiễn nên chưa được đánh giá cao về tính nghệ
10
thuật. Mãi cho đến sau này, khi cuộc sống phát triển theo hướng đô thị hoá với tốc độ
cao, con người mới bắt đầu có ý thức bảo tồn những giá trị văn hoá truyền thống.
Trong quá trình thực hiện bài nghiên cứu, nhóm chúng em nhận thấy không có quá
nhiều tài liệu về đề tài này. Nếu có thì cũng không quá chi tiết và chính xác. Vì vậy với
đề tài này, chúng em hi vọng sẽ cho người đọc thấy sự đa dạng, phong phú về hình thức,
cách thức sử dụng của Bojagi cũng như những sáng tạo nghệ thuật được những nghệ
nhân thể hiện thông qua Bojagi.
3. Mục đích nghiên cứu
- Giới thiệu khái quát về nghệ thuật Bojagi
- Thể hiện được sự sáng tạo trong cách thức sử dụng cũng như sự đa dạng về hình thức
- Thể hiện được sự quan tâm của người dân Hàn Quốc giành cho Bojagi trong thời gian
gần đây
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này người viết sử dụng một số phương pháp sau đây:
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp tổng hợp
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: khái niệm, phân loại Bojagi và sự phát triển của Bojagi
- Phạm vi nghiên cứu: nghệ thuật Bojagi của Hàn Quốc
6. Nội dung của đề tài
I.
Phần mở đầu
II.
Phần nội dung
1. Định nghĩa
Bojagi (보자기) là loại vải dùng để bọc hoặc gói đồ. Được người dân Hàn Quốc sử
dụng một cách sáng tạo với các công dụng khác nhau.
2. Quá trình hình thành và phát triển
Bojagi lần đầu xuất hiện vào thời kỳ Tam quốc diễn ra ở Hàn Quốc (thế kỉ XV) và là đồ
vật gắn liền với các pháp sư Phật giáo. Giai đoạn phát triển: 1392-1910.
3. Phân loại
Được phân loại dựa trên bốn tiêu chí: tầng lớp sử dụng; cấu tạo và chất liệu; mục đích
sử dụng; hoạ tiết trang trí.
4. Bojagi trong cuộc sống hiện đại
11
Sự quan tâm của người Hàn dành cho Bojagi ngày càng nhiều trở lại. Họ tổ chức các
triển lãm được tổ chức trên thế giới, các cuốn sách về Bojagi được xuất bản, các khoá học
làm Bojagi cho người nước ngoài hay việc coi đó là một món quà giá trị dành cho các
nhân vật quan trọng khi tới tham Hàn Quốc.
III.
Kết luận
BÙI NGỌC DIỆP – 11C1
Giáo viên hướng dẫn: TS. Trần Kim Loan
Khoa NN&VH Trung Quốc
VẬN DỤNG BÀI HÁT TIẾNG TRUNG TRONG VIỆC GIẢNG
DẠY TIẾNG HÁN CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
Những năm gần đây, cùng với sự tăng trưởng mạnh mẽ về tiềm lực của Trung Quốc và
sự nâng cao vị thế trên trường quốc tế, tiếng Hán ngày càng nhận được sự quan tâm của
cộng đồng. Ở Việt Nam, rất nhiều học sinh Trung học phổ thông chọn tiếng Hán làm
ngoại ngữ hai cho mình. Và cũng do được xếp trong danh sách ngoại ngữ hai ở Việt
Nam, tầm quan trọng khác xa so với các môn học chính, nên học sinh Việt Nam chủ yếu
học tiếng Hán trên lớp, thời gian dành cho việc học tiếng Hán không nhiều, tính duy trình
trong học tập cũng chịu ảnh hưởng khá lớn, tình trạng học đâu quên đấy là khá phổ biến.
Đứng trước tình trạng đó, với tâm lý của một sinh viên đã từng học tiếng Trung từ cấp
hai (do bộ Giáo dục dạy thí điểm tại trường), hiểu được trình độ tiếng Hán cũng như
những khó khăn trong quá trình học, cùng với niềm yêu thích âm nhạc Trung Hoa, tác giả
đã làm nghiên cứu "Vận dụng bài hát tiếng Trung trong việc giảng dạy tiếng Hán cho
học sinh Trung học phổ thông”, để tìm hiểu sâu hơn và giới thiệu những ứng dụng trên
ba phương diện: Ngữ âm, Từ vựng và Ngữ pháp.
Nghiên cứu gồm có ba chương:
Chương 1: Tác dụng của các bài hát trong việc học ngoại ngữ
Chương 2: Tiêu chuẩn và phương pháp lựa chọn, cải biên bài hát
Chương 3: Ứng dụng của bài hát trong việc giảng dạy tiếng Hán cho học
sinh Trung học phổ thông
Hy vọng những kết quả của nghiên cứu này có thể đóng góp một phần trong việc dạy
tiếng Hán hiện nay, đồng thời đem đến một cái nhìn mới đối với việc vận dụng các bài
hát trong giảng dạy ngoại ngữ.
TRẦN THỊ KIM DIỆU và nhóm – 12E2
Giáo viên hướng dẫn: PGS.TS Nguyễn Thị Phương Hoa
12
Bộ môn Tâm lý – Giáo dục
VĂN HÓA ĐỌC BÁO MẠNG TRONG SINH VIÊN VIỆT NAM
HIỆN NAY
1. Đặt vấn đề
Trong một xã hội công nghệ thông tin hiện đại và nhanh nhạy như hiện nay, mỗi
người, để theo kịp nhịp sống thời đại, luôn cần trang bị, trau dồi và cập nhật cho bản thân
những kiến thức và kĩ năng cần thiết. Do đó, việc đọc, vốn là một phương pháp cơ bản
nhất của con người trong việc tiếp cận và thu nhận thông tin, đã trở nên quan trọng hơn
bao giờ hết. Tuy nhiên, giới hạn của việc đọc không chỉ còn nằm ở sách vở, báo chí và
các nguồn in ấn khác. Ngày nay, sự bùng nổ của công nghệ thông tin, kết nối Internet đã
dẫn đến một nguồn đọc mới- “đọc báo mạng”. Nguồn báo mạng này cũng mang trong
mình một lượng thông tin đồ sộ, có nhiều ưu thế so với các loại báo khác. Tuy nhiên, các
nguồn thông tin trên mạng này cũng tiềm tàng nhiều thông tin sai lệch “vàng thau lẫn
lộn”. Do vậy, dẫn đến một yêu cầu bức thiết, đó là mỗi cá nhân cần trang bị cho mình
một “văn hóa đọc”, để có thể tận dùng được nguồn thông tin mạng và có một sự sàng lọc,
phân loại thông tin rõ ràng; tránh để mình bị cuốn vào những nguồn thông tin sai lệch,
thiếu chính xác.
2. Mục tiêu, nội dung, phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở tìm hiểu thực trạng văn hóa đọc báo mạng của sinh viên hiện nay, đề ra
một số giải pháp giúp sinh viên hiểu được tầm quan trọng của việc đọc báo mạng và có
phương pháp đọc đúng đắn để từ đó hình thành, bồi dưỡng thói quen đọc, kĩ năng đọc
báo mạng.
Nghiên cứu sẽ xây dựng hệ thống cơ sở lí luận cho đề tài nghiên cứu. Từ đó làm rõ
hiện trạng văn hóa đọc báo mạng của sinh viên các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn
Hà Nội và đề xuất giải pháp hình thành và bồi dưỡng văn hóa đọc báo mạng cho sinh
viên các trường đại học, cao đẳng ở Hà Nội.
Để nghiên cứu đề tài này cần sử dụng cách tiếp cận có hệ thống, trong đó sử dụng kết
hợp các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành, tiêu biểu là phương pháp nghiên cứu lý
luận (thu thập, đọc, phân tích, tổng hợp và phân tích tài liệu) và phương pháp nghiên cứu
thực tiễn (phương pháp điều tra bằng bảng hỏi, phương pháp xử lý kết quả bằng thống kê
toán học).
3. Kết quả nghiên cứu
Về mặt tích cực, hầu hết sinh viên đã tiếp cận và sử dựng thường xuyên báo mạng (cả
trong nước và nước ngoài) cũng như đã nhận thức được những nhược điểm cơ bản của
báo mạng.
13
Tuy nhiên, phần đông sinh viên vẫn chưa có cái nhìn và cách tiếp cận đúng đắn với
các nguồn báo mạng mà mới chỉ dừng lại coi báo mạng là một nguồn giải trí và chưa có
kỹ năng đọc báo mạng tốt, vì vậy họ vẫn chưa phát huy được tối đa những lợi ích mà báo
mạng mang lại phục vụ cho việc tìm hiểu thông tin và công việc học tập nghiên cứu.
4. Kết luận và kiến nghị
Việc hình thành, bồi dưỡng thói quen và rèn luyện kĩ năng đọc báo mạng của sinh
viên các trường đại học, cao đẳng là vô cùng quan trọng trong việc tiếp nhận tri thức,
phục vụ công việc học tập và hoàn thiện các kĩ năng cho bản thân sinh viên. Tuy nhiên,
phần lớn sinh viên các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn thành phố Hà Nội vẫn chưa
thực sự nhận ra tầm quan trọng của việc đọc báo mạng. Đề tài nghiên cứu này đã chỉ ra
thực trạng văn hóa đọc báo mạng trong sinh viên hiện nay, từ đó đề ra một số biện pháp
nhằm giúp sinh viên hiểu được tầm quan trọng của việc đọc báo mạng và có phương pháp
đọc đúng đắn để từ đó giúp sinh viên hình thành và phát triển văn hóa đọc báo mạng.
TRẦN THỊ PHƯƠNG DUNG và nhóm – 11E1
Giáo viên hướng dẫn: TS.Vũ Hải Hà
Khoa Sư phạm Tiếng Anh
VIỆC SỬ DỤNG CÁC HOẠT ĐỘNG LIÊN QUAN ĐẾN ĐA TRÍ
TUỆ TRONG GIẢNG DẠY TIẾNG ANH NHƯ MỘT NGÔN NGỮ
NƯỚC NGOÀI CHO SINH VIÊN NĂM THỨ NHẤT KHOA SƯ
PHẠM TIẾNG ANH, ĐHNN – ĐHQGHN
Trong học thuyết Đa Trí Tuệ, Howard Gardner đã chỉ ra rằng mỗi người trong chúng ta
đều tồn tại một vài kiểu thông minh: Trí thông minh về toán học/logic, về ngôn ngữ/lời
nói, về thị giác/không gian, về vận động, âm nhạc/giai điệu, trí thông minh hướng ngoại,
hướng nội, hướng về thiên nhiên và trí thông minh sinh tồn. Học thuyết này gần đây đã
và đang là một trong những vấn đề được bàn luận tới nhiều nhất bởi các nhà giáo dục,
nhà nghiên cứu và giáo viên, đặc biệt là về khía cạnh vận dụng học thuyết này và sử dụng
các hoạt động liên quan tới các loại trí thông minh vào việc dạy và học tiếng Anh. Trên
thực tế, đã có nhiều nghiên cứu được tiến hành ở các nơi trên thế giới và mang lại kết quả
khả quan về sự kết hợp này. Tuy nhiên vấn đề này lại chưa nhận được nhiều sự chú ý của
các nhà nghiên cứu và giáo viên tại trường Đại học Ngoại Ngữ - Đại học Quốc Gia Hà
Nội, một trung tâm đào tạo và nghiên cứu về ngôn ngữ có tiếng tăm của Việt Nam.
14
Cùng chung mối quan tâm đặc biệt tới vấn đề này, chúng tôi – các tác giả nghiên cứu
đã quyết định tiến hành một nghiên cứu với tiêu đề là: “Việc sử dụng các hoạt động liên
quan đến đa trí tuệ trong giảng dạy tiếng Anh như một ngôn ngữ nước ngoài cho
sinh viên năm nhất khoa Sư phạm Tiếng Anh, trường Đại học Ngoại Ngữ ĐHQGHN”. Nghiên cứu này nhằm tìm ra những loại trí thông minh chủ yếu của sinh
viên năm nhất khoa Sư phạm Tiếng Anh, ĐHNN – ĐHQGHN, những hoạt động liên
quan đến đa trí tuệ mà giáo viên sử dụng trong lớp học tiếng Anh, những khó khăn mà họ
trải qua trong quá trình thiết kế và tiến hành những hoạt động đó.
Đây là một nghiên cứu khảo sát. Các công cụ khác nhau được sử dụng để thu thập dữ
liệu gồm có bài trắc nghiệm, bảng câu hỏi, phỏng vấn và quan sát lớp học. Qua kết quả
của bài trắc nghiệm Đa Trí Tuệ thiết kế bởi Walter McKenzie (1999), các tác giả nghiên
cứu tìm ra được những trí thông minh nổi trội của sinh viên. Sau đó chúng tôi tiến hành
khảo sát trên sinh viên với bảng câu hỏi tự thiết kế và quan sát lớp học tiếng Anh để tìm
ra những hoạt động chủ yếu được tổ chức trong lớp. Cuối cùng, giáo viên thực hành tiếng
của các sinh viên này được phỏng vấn về việc áp dụng, lồng ghép thuyết Đa Trí Thông
Minh vào các hoạt động trên lớp.
Những phát hiện chính của nghiên cứu này đã trả lời thỏa đáng cho các câu hỏi nghiên
cứu. Trong số chín loại trí thông minh, trí thông minh nổi trội của sinh viên là loại trí
thông minh nội tâm. Tuy nhiên, các hoạt động trong lớp lại chủ yếu liên quan đến trí
thông minh không gian, dẫn đến sự không tương ứng giữa tiềm năng của sinh viên và
những gì giáo viên đang cung cấp. Có rất nhiều lý do cho vấn đề này nhưng lý do đáng kể
nhất chính là sự thiếu kiến thức của giáo viên về thuyết Đa Trí Thông Minh. Ngoài ra
giáo viên còn gặp phải nhiều khó khăn trong việc thiết kế và sử dụng các hoạt động liên
quan đến đa trí tuệ trong lớp học ngôn ngữ. Những phát hiện này chứng mình rằng giáo
viên có thể giúp sinh viên học tiếng Anh tốt hơn nếu họ hiểu được trí thông minh nổi trội
ở sinh viên là gì và biết cách sử dụng các hoạt động tương ứng.Vì vậy, các tác giả đề xuất
việc tích hợp học thuyết Đa Trí Thông Minh vào chương trình đào tạo giáo viên của Đại
học Ngoại Ngữ - ĐHQGHN và các giải pháp cho khó khăn của giáo viên trong việc thiết
kế và sử dụng các hoạt động liên quan.
Chúng tôi hy vọng là kết quả nghiên cứu này sẽ cung cấp cho các giáo viên ngôn ngữ
kiến thức sâu sắc về thuyết Đa Trí Tuệ để có thể sử dụng chúng vào việc giảng dạy tiếng
Anh một cách hiệu quả.
HOÀNG ÁNH DƯƠNG & NGUYỄN MINH HẰNG – 14K1
Giảng viên hướng dẫn:Th.S Trần Thị Bích Phượng
Khoa NN&VH Hàn Quốc
15
NGHIÊN CỨU VỀ HỆ THỐNG KÍNH NGỮ TRONG TIẾNG HÀN
Bài nghiên cứu được viết bằng tiếng Việt, gồm mười tám trang với bố cục được chia
thành ba phần chính: Mở đầu, Nội dung và Kết luận.
Trong phần Mở đầu, chúng tôi giải thích lí do lựa chọn, mục đích, đối tượng, phương
pháp cũng như lịch sử nghiên cứu về đề tài “Hệ thống kính ngữ trong tiếng Hàn”. Trong
đó, chúng tôi đặc biệt nhấn mạnh đến mục đích của bài nghiên cứu. Chúng tôi chọn đề tài
này với hi vọng có thể mang đến cho chính bản thân mình cũng như những người có
mong muốn theo học tiếng Hàn có một cách nhìn toàn diện và chính xác hơn về hệ thống
kính ngữ để từ đó thể sử dụng nó một cách linh hoạt và chính xác hơn.
Trong phần Nội dung, chúng tôi đưa ra khái niệm, cách phân loại và tiến hành nghiên
cứu kính ngữ trên hai phương diện: Kính ngữ đối với chủ thể và Kính ngữ đối với khách
thể. Đối với Kính ngữ đối với chủ thể chúng tôi lại chia thành:2.1. Thể hiện ở đuôi kết
thúc câu, 2.2. Thể hiện ở trung tố ‘-(으)시-’, 2.3. Thể hiện ở tiểu từ chủ ngữ, 2.4. Thể
hiện ở từ loại, 2.5. Thể hiện ở trợ động từ. Đối với Kính ngữ đối với khách thể chúng
tôi lại chia thành: 3.1. Kính ngữ đối với người nghe, 3.2. Kính ngữ đối với đối tượng tiếp
nhận/phát sinh hành động. Trong phần 3.1. Kính ngữ đối với người nghe lại được chia
thành: 3.1.1. Thể hiện ở đuôi kết thúc câu, 3.1.2. Thể hiện ở đại từ nhân xưng. Trong
phần 3.2. Kính ngữ đối với đối tượng tiếp nhận/phát sinh hành động lại được chia thành:
3.2.1. Thể hiện ở giới từ, 3.2.2. Thể hiện ở từ loại, 3.2.3. Thể hiện ở trợ động từ. Tất cả
những phần này được chúng tôi triển khai một cách chi tiết và có hệ thống thông qua
những ví dụ và bảng biểu minh hoạ giúp cho người đọc dễ dàng tiếp cận và nắm bắt
thông tin cần thiết. Tất cả những phần này được chúng tôi triển khai một cách chi tiết và
có hệ thống thông qua những ví dụ và bảng biểu minh hoạ giúp cho người đọc dễ dàng
tiếp cận và nắm bắt thông tin cần thiết. Bên cạnh đó, với những phần mà chúng tôi tham
khảo từ các tài liệu khác nhau thì đều được trích nguồn tham khảo một cách chính xác để
người đọc quan tâm có thể tìm đọc.
Trong phần Kết luận, chúng tôi tóm lược nội dung đã đề cập ở phần Nội dung. Bên cạnh
đó, chúng tôi đưa ra những điểm cần phải lưu ý khi sử dụng kính ngữ trong tiếng Hàn.
Đồng thời chúng tôi cũng phân biệt những nét khác nhau cơ bản nhất giữa cách nói tôn
trọng của tiếng Việt và tiến Hàn để người đọc chú ý trong quá trình sử dụng.
Tuy bài nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở mức đọc và hệ thống lại một cách khoa học những
tài liệu nghiên cứu đã có về đề tài hệ thống kính ngữ trong tiếng Hàn nhưng chúng tôi hy
vọng với một cấu trúc rõ ràng mạch lạc và được viết bằng tiếng Việt sẽ giúp ích cho
những người mới tiếp xúc với tiếng Hàn có một cái nhìn toàn diện và những hiểu biết
bước đầu về hệ thống kính ngữ, một bộ phận quan trọng của tiếng Hàn.
16
LÊ HOÀNG DƯƠNG & HOÀNG THỊ LAN PHƯƠNG – 13F6
Giáo viên hướng dẫn:Nguyễn Thị Thu Lan
Khoa NN&VH Pháp
NHỮNG KHÓ KHĂN TRONG VIỆC HỌC MIÊU TẢ TRANH
VỚI GIÁO TRÌNH ALTER EGO
-
I. Đặt vấn đề
Ngày nay, sự giao lưu văn hóa được đẩy mạnh, những kiến thức văn hóa – văn minh
ngày càng trở nên quan trọng, đặc biệt đối với người học ngoại ngữ. Trong đó ta không
thể bỏ qua tiếng Pháp, ngôn ngữ thứ hai phổ biến trên thế giới.
Trong việc học tiếng Pháp, diễn đạt nói là kĩ năng cơ bản và được đánh giá là tương đối
khó.
Sinh viên gặp khá nhiều khó khăn khi miêu tả và phân tích tranh trong phần thực
hành nói với giáo trình Alter Ego.
Vì thế cần thiết phải tìm một phương pháp giảng dạy về phân tích hình ảnh, từ đó
giúp phát triển ngôn ngữ nói của người học.
II. Lí do chọn đề tài
Quan tâm đến hiệu quả của việc đọc tranh trong việc giảng dạy tiếng Pháp với giáo
trình Alter Ego, nhóm chúng em đã thực hiện bài nghiên cứu này để giúp làm rõ hai câu
hỏi:
1. Có nên xác định rõ các khó khăn trong kĩ năng diễn đạt nói của sinh viên năm thứ
hai tại khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Pháp trong việc đọc tranh?
2. Các phương pháp nào giúp cải thiện khó khăn của sinh viên trong việc đọc tranh?
III. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu nhằm tìm ra phương pháp đơn giản mà hiệu quả trong việc học miêu tả
tranh, trước hết để cải thiện diễn đạt nói, tiếp đến là đạt được yêu cầu cần có với kĩ năng
này ở trình độ C1- theo khung tham chiếu châu Âu.
IV. Đối tượng và giới hạn nghiên cứu
Đối tượng: Sinh viên năm hai khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Pháp.
Giới hạn nghiên cứu: các hoạt động diễn đạt nói liên quan đến kĩ năng miêu tả
tranh trong giáo trình Alter Ego.
V. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu là điều tra thống kê, đặt câu hỏi, tổng hợp và phân tích đánh
giá
Với mong muốn có thể hoàn thành tốt nhất nghiên cứu, một số lượng lớn sách và tài liệu
cùng đề tài đã được sử dụng để tham khảo và phân tích. Một số nghiên cứu cùng đề tài
17
dưới dạng khoá luận cũng được người viết tìm đọc để rút kinh nghiệm, đồng thời tìm ra
những khía cạnh mới còn chưa được khai thác hay khai thác một cách sơ sài để tránh đi
vào lối mòn và mang lại những nét tươi mới cho nghiên cứu.
VI. Cấu trúc nghiên cứu
Nghiên cứu khoa học gồm ba chương chính:
Chương I bao gồm những khái niệm nền tảng về các vấn đề như định nghĩa và các yếu tố
giúp phát triển la compétence de la communication(tạm dịch là kĩ năng giao tiếp);
l'expression orale (diễn đạt nói); vai trò của l'image (hình ảnh) trong các tiết học tiếng
Pháp.
Chương II đưa ra phân tích, đánh giá về những khó khăn mà sinh viên hay gặp trong khi
học phân tích tranh với giáo trình Alter Ego.
Nhìn chung, về ngôn ngữ, các vấn đề hay mắc phải là thiếu vốn từ, không nắm chắc ngữ
pháp và khả năng phát âm chưa tốt. Về hiểu biết xã hội, sinh viên gặp khó khăn do kiến
thức chung còn hạn chế, đặc biệt là thiếu hiểu biết về văn hóa Pháp.
Chương III đưa ra những dề xuất của người nghiên cứu trong việc giảng dạy và học cách
phân tích tranh để giúp cải thiện được kĩ năng đọc tranh của sinh viên đồng thời mang lại
hiệu quả trong việc học tiếng Pháp.
Phần phụ lục bao gồm phiếu khảo sát điều tra khi tiến hành nghiên cứu và các tài liệu
được tham khảo.
VII. Kết luận
Ngày nay việc dạy và học hiệu quả một ngoại ngữ đặt ra cho người dạy ngoại ngữ cần
phải có những phương pháp dạy tối ưu cho người học. Chính vì thế mà “tranh ảnh” được
xem như là một công cụ hữu hiệu giúp nâng cao hiệu quả dạy và học trong lớp. Chúng
em hi vọng rằng kết quả của bài nghiên cứu này sẽ giúp cải thiện được kĩ năng đọc tranh
của các bạn sinh viên và giúp các bạn thành công trong việc học tiếng Pháp của mình.
NGUYỄN THỊ THÙY DƯƠNG và nhóm – 11E2
Giáo viên hướng dẫn: TS. Vũ Hải Hà
Khoa Sư phạm Tiếng Anh
MỨC ĐỘ PHỤ THUỘC CỦA SINH VIÊN CHẤT LƯỢNG CAO,
KHOA SƯ PHẠM TIẾNG ANH, ĐHNN, ĐHQGHN VÀO VIỆC SỬ
DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG KHI TIẾN HÀNH
CÁC HOẠT ĐỘNG TRÊN LỚP
18
Nghiên cứu này được thực hiện để khảo sát mức độ phụ thuộc vào công nghệ của sinh
viên Chất lượng cao, khoa Sư phạm Tiếng Anh, ĐHNN, ĐHQGHN khi tiến hành các
hoạt động trên lớp. Để làm rõ vấn đề đặt ra, cần phải trả lời những câu hỏi sau:
1. Mức độ thường xuyên sử dụng công nghệ trong khi tiến hành các hoạt động trong lớp
học tiếng Anh của sinh viên Chất lượng cao như thế nào?
2. Mức độ phụ thuộc vào công nghệ của sinh viên Chất lượng cao khi tiến hành các hoạt
động trên lớp như thế nào?
Để trả lời cho hai câu hỏi nghiên cứu trên, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu trên
nhóm đối tượng là sinh viên của bốn lớp Chất lượng cao. Hai công cụ nghiên cứu là
phiếu khảo sát và dự giờ đã được kết hợp nhằm thu thập nguồn dữ liệu phong phú và
đáng tin cậy nhất. Trước tiên, phiếu khảo sát được gửi đến sinh viên để nắm được tình
trạng hiện tại và thái độ của sinh viên trong việc áp dụng công nghệ vào các hoạt động
trên lớp. Sau đó, chúng tôi dự giờ các tiết học để kiểm chứng những thông tin đã thu thập
được từ phiếu khảo sát đồng thời bổ sung những thông tin thực tế. Việc chỉ ra mức độ
thường xuyên trong việc sử dụng của sinh viên và mức độ phụ thuộc của họ sẽ mang lại
nhiều lợi ích cho các giảng viên và sinh viên. Kết quả nghiên cứu có thể giúp họ nhận
thức rõ ràng về tình hình thực tế và từ đó có thể cân bằng việc ứng dụng công nghệ thông
tin trong các hoạt động học tiếng Anh trên lớp. Câu hỏi thứ nhất: “Mức độ thường xuyên
sử dụng công nghệ trong khi tiến hành các hoạt động trong lớp học tiếng Anh của sinh
viên Chất lượng cao như thế nào?” khá phức tạp và phụ thuộc vào từng loại hoạt động và
từng loại công nghệ được ứng dụng. Câu trả lời nằm nhiều trong khoảng thời gian từ 2040 phút trên tổng số 50 phút của một tiết học. Với câu hỏi thứ hai: “Mức độ phụ thuộc
vào công nghệ của sinh viên Chất lượng cao khi tiến hành các hoạt động trên lớp như thế
nào?”, dựa trên những thông tin thu thập được từ phiếu khảo sát, chúng tôi nhận thấy
rằng hầu hết sinh viên không bị phụ thuộc vào công nghệ thông tin trong việc tiến hành
hoạt động trên lớp. Tuy nhiên, sau khi dự giờ, những kết quả thu được lại mâu thuẫn với
nhau. Hầu hết sinh viên đều không có những phương án thay thế khi gặp những tình
huống bất ngờ như lỗi kĩ thuật, mất điện,…Khi đối mặt với những khó khăn về mặt kĩ
thuật, sinh viên cảm thấy bối rối, không tự tin để giải quyết tình hình. Dựa vào những
quan sát thực tế, chúng tôi rút ra kết luận rằng sinh viên Chất lượng cao có phụ thuộc vào
công nghệ thông tin nhưng chỉ ở mức độ nhẹ. Họ không hoàn toàn phụ thuộc vào công
nghệ thông tin trong các giờ học trên lớp. Mặc dù khi tiến hành các hoạt động mà không
có công nghệ thông tin, họ sẽ thấy khá bối rối và không tự tin nhưng vẫn có thể xoay sở
được mà không từ bỏ hoạt động đó.
Từ kết quả nghiên cứu, chúng tôi hi vọng rằng không những sinh viên có thể điều
chỉnh được mức độ phụ thuộc vào công nghệ khi tiến hành các hoạt động mà từ đó các
19
giáo viên cũng có thể đưa ra những gợi ý cho sinh viên để cân bằng việc sử dụng công
nghệ và những phương pháp dạy và học truyền thống.
NGUYỄN THỊ THÙY DUYÊN và nhóm – 12J4
Giáo viên hướng dẫn:Th.S Hoàng Thu Trang
Khoa NN&VH Phương Đông
QUAN NIỆM VỀ VẺ ĐẸP THẨM MỸ CỦA NGƯỜI NHẬT
(ĐỐI CHIẾU VỚI VIỆT NAM)
1. Lý do, mục tiêu, phạm vi, phương pháp nghiên cứu
1.1. Lý do
Cái đẹp là một phần ý vị của cuộc sống, cái đẹp cách nào đó làm cho cuộc sống thêm ý
nghĩa và đáng sống hơn.Tuy vậy, mỗi người đều có quan niệm khác nhau về cái đẹp.
Khi chọn đề tài này chúng tôi mong muốn làm rõ được cái đẹp trong con mắt người Nhật
Bản đồng thời muốn làm rõ nét tương đồng , nét chung và cả nét khác biệt về cái đẹp
thẩm mĩ giữa hai nền văn hóa.
1.2. Mục tiêu
Trong nghiên cứu này chúng tôi muốn đem đến cho mọi người một cái nhìn mới và lạ
hơn về đất nước và con người Nhật Bản thông qua những quan điểm về vẻ đẹp thẩm mĩ
chính là “wabi- sabi”, “aware”, “ yugen”.
Không chỉ muốn giới thiệu một cái nhìn tổng quan nhất về hệ thống những quan điểm
thẩm mĩ truyền thống của người dân Nhật Bản mà chúng tôi cũng đưa ra những dẫn
chứng minh họa tiêu biểu nhất về những quan điểm thẩm mĩ trên các lĩnh vực như: văn
học, kiến trúc,…Qua đó đối chiếu so sánh để thấy được vẻ đẹp thẩm mĩ trong quan niệm
của người Việt Nam.
1.3. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập thông tin, phân tích, tổng hợp thông tin.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu.
2. Kết quả nghiên cứu
Qua kết quả điều tra thực tế, chúng tôi đưa ra một số điểm giống và khác nhau trong
quan niệm về cái đẹp của người Nhật Bản và người Việt Nam.
2.1. Điểm giống nhau
- Vẻ đẹp “wabi” (đơn giản, mộc mạc) được yêu thích đối với cả hai nền văn hóa ở các lứa
tuổi, đặc biệt là những người trên 50 - lớp người xưa yêu thích vẻ đẹp hài hòa, giản dị
(chiếm 77%). Điều này được thể hiện rõ nét trong trang phục truyền thống của người Việt
Nam – áo dài: đơn giản trong thiết kế với màu sắc nhẹ nhàng, thanh nhã, không thích sự
20
sặc sỡ, không có một trang phục nào ít cầu kỳ mà lại tôn hết lên được những gì nữ tính
nhất, phụ nữ nhất như chiếc áo dài. Ngoài ra, trong nghệ thật gốm sứ, với họa tiết hoa
đơn giản, đồng đều nhưng lại toát lên được vẻ sang trọng, lịch sự. Kiểu dáng đơn giản,
màu gốm nâu của sản phẩm càng tăng thêm nét đẹp truyềnthống của Việt Nam.
2.2. Điểm khác nhau
- Vẻ đẹp “sabi” (vô thường, không hoàn hảo, chưa hoàn thành): Người Việt Nam ưa
thích sự toàn vẹn, tròn đầy nên tỷ lệ người quan niệm “sabi” là cái đẹp rất thấp (dưới
10%), đặc biệt là theo bản khảo sát thì tỷ lệ này ở những người có độ tuổi trên 50 là 0%.
Từ xưa, người Việt Nam quan niệm: người con gái đẹp không chỉ đẹp ở hình thức bề
ngoài mà còn phải đẹp cả trong tâm hồn. Cái đẹp trong quan niệm của người Việt Nam
phải hướng tới “chân – thiện – mỹ”, đặc biệt là trong sáng tác nghệ thuật. Các tác giả
luôn mong muốn đạt đến sự hoàn mỹ trong các sáng tác của mình.
- Vẻ đẹp “yugen” (u huyền) không được người Việt Nam coi trọng. Theo bản điều tra, tỷ
lệ này ở những người có độ tuổi 20 – 35 là rất thấp, chỉ khoảng 7%. Điều này cho thấy,
giới trẻ hiện nay ưa thích những thứ chân thực, rõ ràng hơn là sự mờ ảo, thần bí.
- Vẻ đẹp “aware” (mỏng manh, ngắn ngủi, đượm buồn): Cả hai nền văn hóa đều yêu
thích vẻ đẹp “mỏng manh” nhưng chính sự ngắn ngủi, chóng tàn đã tạo ra sự khác nhau
trong quan niệm thẩm mĩ của hai quốc gia. Tuy nhiên, người Việt Nam quan niệm cái
đẹp thì phải lâu bền, trường tồn với thời gian.
ĐOÀN THỊ ĐÀO – 11G1
Giáo viên hướng dẫn:Th.S Lê Thị Bích Thủy
Khoa NN&VH Phương Tây
ĐỘNG TỪ KHUYẾT THIẾU TRONG TIẾNG ĐỨC VÀ TƯƠNG
ĐƯƠNG TRONG TIẾNG VIỆT
Trong lĩnh vực dịch thuật, tương đương chính là vấn đề cốt lõi. Hay nói cách khác, mục
đích cuối cùng của dịch thuật là tìm được tương đương của ngôn ngữ nguồn trong ngôn
ngữ đích. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này, ví dụ như công trình „Die
Modalverben im Deutschen und ihre thailändischen Entsprechungen. Eine kontrastive
Analyse“ (Động từ khuyết thiếu trong tiếng Đức và tương đương trong tiếng Thái. Một
bản phân tích đối chiếu) của Korakoch Attaviryanupap (2011), hay „Deutsche
Modalverben und deren Übersetzung ins Englische: mögen“ (Động từ khuyết thiếu trong
tiếng Đức và cách dịch trong tiếng Anh: động từ thích) của Christiane Schmidt (2010).
Tuy nhiên, tính đến thời điểm hiện tại, theo như tác giả được biết, chưa có công trình
nghiên cứu nào về động từ khuyết thiếu tiếng Đức và tương đương dịch thuật trong tiếng
Việt trong khuôn khổ khoa Ngôn ngữ và Văn hóa phương Tây, trường Đại học Ngoại
21
ngữ - Đại học Quốc Gia Hà Nội. Vì những lý do trên, tác giả cùng giáo viên hướng dẫn
đã quyết định làm bài nghiên cứu khoa học về đề tài này. Tuy nhiên, do giới hạn của một
bài nghiên cứu khoa học, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu tương đương tiếng Việt của hai
động từ khuyết thiếu wollen (muốn) và sollen (nên).
Trong khuôn khổ bài nghiên cứu, các khái niệm như Dịch thuật, Tương đương trong dịch
thuật sẽ được thảo luận. Từ việc đưa ra các khái niệm về Dịch thuật và Tương đương
trong dịch thuật của một số tác giả nổi tiếng, tác giả sẽ phân tích và đưa ra ý kiến của
mình về hai khái niệm quan trọng trên. Ngoài ra, tác giả sẽ giải thích về động từ khuyết
thiếu trong tiếng Đức. Động từ khuyết thiếu có những chức năng gì, có những đặc điểm
gì về cú pháp, hình thái học, ngữ dụng, và ngữ nghĩa. Cuối cùng, từ việc phân tích kết
quả của phần thực nghiệm, các tương đương của hai động từ wollen và sollen sẽ được tìm
ra. Kết thúc bài nghiên cứu, người đọc có thể nắm được cách biên dịch động từ khuyết
thiếu wollen và sollen trong tiếng Việt.
Để đạt được những mục tiêu trên của bài nghiên cứu, tác giả tiến hành theo phương pháp
lập bảng thống kê và phân tích kết quả (Korpusanalyse). Ở đây, tác giả lập hai bảng
thống kê, một bảng cho động từ wollen và một bảng cho động từ sollen. Đó là danh sách
tổng hợp các câu có chứa hai động từ này, tác giả tổng hợp từ hai truyện Người đọc (Der
Vorleser) và Đàn ông (Männer) do dịch giả Lê Quang dịch. Tác giả lựa chọn hai tác
phẩm của dịch giả Lê Quang bởi Lê Quang là một dịch giả nổi tiếng trong giới dịch thuật
Việt Nam nói chung và tiếng Đức nói riêng. Đặc biệt Lê Quang có sở trường về dịch các
tác phẩm văn học. Vì vậy, các sản phẩm dịch của Lê Quang có độ tin cậy cao. Trong mỗi
bảng thống kê bao gồm các câu nguyên bản trong tiếng Đức và bản dịch sang tiếng Việt.
Bên cạnh đó, các câu sẽ được sắp xếp theo chức năng của động từ khuyết thiếu trong câu
đó. Tiếp đến, các chức năng của động từ khuyết thiếu sẽ được phân tích. Ví dụ: trong
trường hợp nào thì động từ wollen có chức năng khẳng định, và với chức năng đó wollen
có những tương đương nào trong tiếng Việt? Ngoài ra, tác giả cũng thống kê tần suất sử
dụng của các tương đương của hai động từ wollen và sollen, để người đọc có cái nhìn
tổng quan nhất về cách sử dụng hai động từ trên.
Kết quả như sau, 135 câu có động từ wollen và 65 câu có động từ sollen đã được liệt kê.
Đối với động từ wollen có sáu chức năng chính và tần suất xuất hiện cũng như tỷ lệ của
các chức năng như sau: thể hiện một mong muốn, 121 câu (89,6%); khẳng định, 6 câu
(4,4%); đề xuất, 3 câu (2,2%); sự cần thiết, 4 câu (2,4%); điều kiện, 1 câu (1,4%); so sánh
không có thực, 0 câu (0%). Theo thống kê có rất nhiều tương đương của động từ wollen
trong tiếng Việt như: định, muốn, toan, để, phải, thèm khát, tha thiết có, … trong đó
tương đương muốn chiếm tỷ lệ cao nhất. Đối với động từ sollen có năm chức năng chính
như sau: trách nhiệm, yêu cầu, 32 câu (49,2%); dự đoán tương lai, 5 câu (7,7%); tường
thuật lại, 9 câu (13,9%); đề xuất, 8 câu (12,3%); và chức năng khẳng định, 11 câu
22
(16,9%). Động từ sollen có những tương đương như sau: nên, phải, đáng lẽ nên, có lẽ
nên, hãy, phải, có thể, … Đáng chú ý là, không phải tất cả các động từ wollen và sollen
đều được dịch, hay nói cách khác tìm được tương đương trong tiếng Viêt. Đôi khi,
wollenvà sollen không được dịch, hoặc ngữ nghĩa của chúng được thay thế bằng cách
diễn đạt khác.
NGUYỄN TIẾN ĐẠT – 11C1
Giáo viên hướng dẫn:TS. Ngô Minh Nguyệt
Khoa NN&VH Trung Quốc
KHẢO SÁT LỖI SAI THANH ĐIỆU CỦA NGƯỜI HỌC
VIỆT NAM TRÌNH ĐỘ SƠ CẤP
Tiếng Hán là một ngôn ngữ có thanh điệu, vì vậy để có được sự chuẩn xác trong lời
nói (phát âm chuẩn) thì cần phát âm thanh điệu chuẩn xác. Giai đoạn sơ cấp (hay còn gọi
là giai đoạn ngữ âm) là giai đoạn vô cùng quan trọng để hình thành thói quen phát âm của
người học, vì vậy nghiên cứu khoa học của tôi tiến hành điều tra về lỗi sai thanh điệu của
người học tiếng Hán trình độ sơ cấp (đối tượng là sinh viên năm nhất, có thời gian học
khoảng bốn tháng).
Qua điều tra (phiếu điều tra, ngữ âm thực nghiệm) thì tôi thu được kết quả như sau:
- Về mặt nghe thanh điệu, trong bốn thanh điệu tiếng Hán tỉ lệ mắc lỗi từ cao tới thấp sẽ
là Thanh 1(6,65%) > thanh 4(4,69%) > thanh 2(4,06%) > thanh 3(1,25%). Và Thanh 1 thì
thường bị nhầm sang thanh 4 và ngược lại. Thanh 2 thường bị nhầm sang thanh 3 và
ngược lại.
- Tượng tự với phát âm thanh điệu.
Có thể thấy mối liên hệ giữa nghe và phát âm. Đối với người học trình độ sơ cấp hai
thanh điệu có lỗi sai nhiều nhất (về cả phát âm và nghe) đó là thanh 1 và thanh 4, đây
cũng chính là điểm khó và trọng điểm trong giảng dạy tiếng Hán nói chung và giảng dạy
thanh điệu tiếng Hán nói riêng.
Để cải thiện tình trạng này cần xuất phát từ nguyên nhân dẫn đến lỗi trên, đó chính là:
- Ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ. Như thanh 4, do trong tiếng Việt không có nên người học
là người việt khó có thể đọc đúng cao độ 5-5. Nên khi giảng dạy cần xen kẽ lý thuyết nổi
bật đặc điểm của thanh điệu.
- Thái độ, phương pháp và tâm lý học tập. Người học ít được tiếp xúc với ngôn ngữ của
người bản địa, sống trong môi trường tiếng. Tăng cường hứng thú cho người học, tạo
nhiều cơ hội tiếp xúc với người có tiếng Hán là tiếng mẹ đẻ.
23
ĐÀO HẢI HÀ - 11G1
Giáo viên hướng dẫn:TS. Lê Tuyết Nga
Khoa NN&VH Phương Tây
ĐỒNG ÂM TRONG CÂU ĐỐ TIẾNG ĐỨC VÀ TIẾNG VIỆT
Không chỉ trong tiếng Đức mà còn trong các ngôn ngữ khác như tiếng Việt, từ đồng âm
được sử dụng cho các mục đích khác nhau, ví dụ như trong các câu đố, trong truyện cười,
trong các bài thơ cũng như trong ngôn ngữ quảng cáo. Xuất phát từ mong muốn được
khám phá một hiện tượng ngôn ngữ thú vị, tôi đã quyết định lựa chọn đề tài Đồng âm
trong câu đố tiếng Đức và tiếng Việt là chủ đề nghiên cứu khoa học của mình. Từ đề tài
này, tôi muốn rút ra những điểm giống và khác nhau giữa từ đồng âm trong hai ngôn ngữ
và đặc biệt hơn, tôi muốn phân tích vai trò của từ đồng âm như một cách chơi chữ trong
truyện cười, trong quảng cáo và đặc biệt là trong câu đố.
Trong công trình nghiên cứu này, câu hỏi được đặt ra là, liệu rằng quan hệ đồng âm
trong tiếng Đức và tiếng Việt có những đặc điểm ngôn ngữ học giống nhau hay không và
nó được sử dụng trong các trường hợp khác nhau như thế nào. Thông qua tập hợp dữ liệu
khảo sát trong phần nghiên cứu thực tiễn, tôi muốn tập trung phân tích việc sử dụng từ
đồng âm trong các câu đố tiếng Đức và tiếng Việt. Ngoài ra, trong nghiên cứu này, ranh
giới giữa đồng âm và đa nghĩa cũng là một vấn đề cần quan tâm. Chính vì thế, tôi muốn
so sánh kết quả được đưa ra trong các từ điển về hai từ có cách viết và phát âm giống
nhau nhưng mang nghĩa khác nhau, liệu rằng chúng đồng âm hay chỉ là các nét nghĩa
khác nhau của một từ đa nghĩa.
Để phục vụ cho một nghiên cứu mang tính chất đối chiếu, phương pháp so sánh là
phương pháp hữu dụng nhất. Trong phần nghiên cứu thực tiễn, phương pháp phân tích lại
đóng vai trò chính trong việc tìm hiểu vai trò của từ đồng âm trong câu đố như thế nào.
Thông qua những phương pháp này, ta có thể rút ra được kết luận về những điểm giống
và khác nhau của từ đồng âm trong tiếng Đức và tiếng Việt, đồng thời đưa ra được những
đánh giá về việc sử dụng quan hệ đồng âm như một yếu tố chơi chữ trong nhiều trường
hợp.
Sau quá trình so sánh, tôi tìm ra được những nét giống và khác của từ đồng âm trong
tiếng Đức và tiếng Việt. Mặc dù về định nghĩa, chưa có sự khác biệt nào đáng kể nhưng
về mặt phân loại đã xuất hiện sự khác biệt ở nhóm đồng âm từ vựng ngữ pháp. Nếu như,
từ đồng âm tiếng Việt được xếp vào nhóm này phải là những từ đồng âm khác nhau về từ
loại thì đối với tiếng Đức lại khác, cụ thể, các từ đồng âm từ vựng ngữ pháp trong tiếng
Đức có thể cùng hoặc khác từ loại. Ngoài đặc điểm vừa đề cập đến, trong bài nghiên cứu
này, tôi sẽ trình bày kĩ những kết quả so sánh về mặt lý thuyết dựa trên việc đối chiếu
24
những tài liệu có được. Cuối cùng qua ba phần nghiên cứu thực tiễn, tôi rút ra được
những kết luận như sau:
- Mối quan hệ đồng âm hay đồng nghĩa luôn luôn là một câu hỏi khó. Minh chứng cho
điều này chính là kết quả so sánh giữa các từ điển được chọn.
- Vị trí của từ đồng âm trong câu đố có ảnh hưởng nhất định đến quá trình tư duy của
người giải đố.
- Từ đồng âm có thể được sử dụng trong việc dạy tiếng Đức giúp cho người học nâng cao
vốn từ vựng.
Ngoài những kết quả đạt được đó, bài nghiên cứu mở ra rất nhiều hướng phát triển
khác nhau như sự kết hợp giữa đồng âm, đồng nghĩa và trái nghĩa trong câu đố, việc sử
dụng từ đồng âm và các biện pháp chơi chữ trong câu đố,... Bài nghiên cứu khoa học là
cơ sở để từ đó, tôi phát triển khóa luận tốt nghiệp theo chủ đề mà tôi đã chọn.
ĐỖ THU HÀ – 11F6
Giáo viên hướng dẫn: Th.S Nguyễn Thu Hà
Khoa NN&VH Pháp
ĐỀ XUẤT PHƯƠNG PHÁP DỊCH CÁC THUẬT NGỮ HÀNH
CHÍNH VIỆT NAM SANG TIẾNG PHÁP
GIỚI THIỆU
1. Lý do chọn đề tài
Dịch là một kỹ năng, là quá trình tạo ra văn bản có cùng nghĩa và hiệu quả tương
đương sang ngôn ngữ khác. Dịch không đơn giản là tương đương từng từ một mà quan
trọng là phải truyền tải được ý tưởng của tác giả trong văn bản gốc.
Trước bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, việc dịch các thuật ngữ hành chính
đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển xã hội Việt Nam.
Tiếng Pháp là một trong năm ngôn ngữ thông dụng nhất thế giới. Ở Việt Nam, theo
báo cáo của Đại sứ quán Pháp tại Việt Nam năm 2014, hiện có khoảng hơn 200 doanh
nghiệp Pháp, tuyển dụng hơn 34000 lao động.
Xuất phát từ Thông tư số 03/2009/TT-BNG ngày 9 tháng 7 năm 2009 của Bộ Ngoại
giao hướng dẫn dịch quốc hiệu, tên các cơ quan, đơn vị và chức danh lãnh đạo, cán bộ
công chức trong hệ thống hành chính nhà nước sang tiếng Anh để giao dịch đối ngoại,
trong khi đó hiện nay chưa có hướng dẫn dịch tương đương sang tiếng Pháp.
Nghiên cứu nhằm hướng tới hai câu hỏi:
1- Việc đưa ra quy định chung hướng dẫn dịch các thuật ngữ hành chính có quan
trọng không?
25