Tải bản đầy đủ (.pdf) (220 trang)

Thơ trẻ việt nam thời kháng chiến chống mỹ cảm hứng và giọng điệu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 220 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------   --------

NGUYỄN BÁ LONG

THƠ TRẺ VIỆT NAM THỜI KHÁNG CHIẾN
CHỐNG MỸ: CẢM HỨNG VÀ GIỌNG ĐIỆU

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------   --------

NGUYỄN BÁ LONG

THƠ TRẺ VIỆT NAM THỜI KHÁNG CHIẾN
CHỐNG MỸ: CẢM HỨNG VÀ GIỌNG ĐIỆU
Chuyên nghành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số:
62.22.34.01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS PHÙNG QUÝ NHÂM


THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của tác giả Luận án, dưới sự
hướng dẫn khoa học của PGS.TS Phùng Quý Nhâm. Kết quả nghiên cứu không sao
chép bất kì một công trình khoa học hay tài liệu tham khảo nào. Tôi giữ bản quyền và
hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình.

Tác giả

Nguyễn Bá Long


MỤC LỤC
DẪN NHẬP

Trang

1. Lý do chọn đề tài.

1

2. Lịch sử vấn đề

2

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

27


4. Phương pháp nghiên cứu.

28

5. Những đóng góp của luận án

29

6. Cấu trúc luận án.

30

CHƯƠNG 1: THƠ CHỐNG MỸ VÀ THƠ TRẺ VIỆT NAM
THỜI KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ
1.1. Thơ chống Mỹ: Biên độ thời gian, đặc điểm nổi bật

31

1.1.1. Biên độ thời gian

31

1.1.2. Đặc điểm nổi bật

35

1.1.2.1. Một số đặc điểm về tư tưởng, tình cảm

35


1.1.2.2. Một số đặc điểm về hình thức nghệ thuật

39

1.2. Thơ trẻ Việt Nam thời kháng chiến chống Mỹ: Khái niệm,
diễn trình vận động

56

1.2.1. Khái niệm

56

1.2.2. Diễn trình vận động

61

CHƯƠNG 2: CẢM HỨNG NGHỆ THUẬT TRONG THƠ TRẺ
VIỆT NAM THỜI KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ
2.1. Cảm hứng nghệ thuật: Khái niệm, hướng phân loại

75

2.1.1. Khái niệm

75

2.1.2. Hướng phân loại


79

2.2. Những dạng thức cảm hứng trong thơ trẻ Việt Nam thời kháng chiến
chống Mỹ
2.2.1. Cảm hứng lãng mạn - sử thi

81
81


2.2.2. Cảm hứng dấn thân - nhập cuộc

95

2.2.3. Cảm hứng bi tráng

103

2.3.4. Cảm hứng đời tư, thế sự

110

2.3. Một số phương thức biểu đạt cảm hứng nghệ thuật trong thơ trẻ
Việt Nam thời kháng chiến chống Mỹ

119

2.3.1. Sáng tạo hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng

120


2.3.2. Đa dạng các màu sắc nghệ thuật

126

CHƯƠNG 3: GIỌNG ĐIỆU THƠ TRẺ VIỆT NAM THỜI KHÁNG
CHIẾN CHỐNG MỸ
3.1. Giọng điệu và giọng điệu nghệ thuật

134

3.1.1. Giọng điệu trong đời sống

134

3.1.2. Giọng điệu nghệ thuật

135

3.2. Những kiểu giọng điệu trong thơ trẻ Việt Nam thời kháng chiến
chống Mỹ

141

3.2.1. Giọng hào sảng, lạc quan

142

3.2.2. Giọng trữ tình thống thiết


150

3.2.3. Giọng triết lí suy tưởng

157

3.2.4. Giọng day trở, tự vấn

168

3.3. Một số thủ pháp kiến tạo giọng điệu thơ trẻ Việt Nam thời
kháng chiến chống Mỹ

174

3.3.1. Tích hợp nhiều phong cách ngôn ngữ, mở rộng lớp từ thi ca

174

3.3.2. Khai thác lợi thế phép điệp và so sánh tu từ

178

3.3.3. Biến đổi câu thơ, gia tăng nhịp điệu

183

KẾT LUẬN

190


CÁC CÔNG TRÌNH, BÀI VIẾT CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN

195

TÀI LIỆU THAM KHẢO

196

NHỮNG THI PHẨM ĐƯỢC KHẢO SÁT

210


1

DẪN NHẬP
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Sự kiện Việt Nam chống Mỹ và thắng Mỹ không chỉ vang dội ở thế kỷ XX mà
sau cuộc chiến ấy, bên cạnh những “di chứng”, “hội chứng” để lại, ngày càng xuất
hiện nhiều công trình nghiên cứu về nó trên các mặt quân sự, lịch sử, tâm lí, văn
học,… với nhiều ý kiến đánh giá khác nhau. Nhưng dù khác nhau thế nào, thì với Việt
Nam, đó là cuộc kháng chiến chính nghĩa, kháng chiến để giải phóng dân tộc, thống
nhất nước nhà. Nghiên cứu cốt nhằm khẳng định, lí giải và làm sáng tỏ thêm một số
vấn đề mà độ lùi thời gian, xu thế thời đại cho phép; nghiên cứu vì mục đích hòa bình,
hướng tới hòa giải - hòa hợp dân tộc, khép bỏ hận thù, vì một nước Việt Nam độc lập,
dân chủ, giàu mạnh.
Trên tinh thần ấy, chúng tôi chọn đề tài Thơ trẻ Việt Nam thời kháng chiến
chống Mỹ: Cảm hứng và giọng điệu cho Luận án tiến sĩ của mình, với những lí do

sau đây:
1.1. Thơ trẻ Việt Nam thời kháng chiến chống Mỹ (gọi tắt “thơ trẻ thời chống
Mỹ”), qua độ lắng thời gian, nay trở thành hiện tượng văn hóa tinh thần rất đáng trân
trọng. Có thể nói, thời đại ấy đã sản sinh ra một thế hệ nhà thơ, mà nếu thiếu họ, thơ
chống Mỹ sẽ không tránh khỏi hẫng hụt, thậm chí tẻ nhạt, nghèo sinh khí. Coi thơ trẻ
thời chống Mỹ là hiện tượng nghệ thuật nổi bật, chúng tôi cho rằng, cần nghiên cứu
cảm hứng và giọng điệu của cả dòng thơ dưới dạng một công trình khoa học chuyên
biệt. Hướng tiếp cận này sẽ là cơ sở để đánh giá những đóng góp của một thế hệ nhà
thơ vào lịch sử chống ngoại xâm và diễn trình vận động của thơ ca dân tộc.
1.2. Tiếp cận thơ trẻ thời chống Mỹ từ cảm hứng và giọng điệu là khám phá tư
tưởng và nghệ thuật của một dòng thơ nảy sinh trong bối cảnh lịch sử đặc biệt, rất
nghiệt ngã. Đó là chiến tranh - bom đạn - chết chóc, đối lập với môi trường “sinh
trưởng” của thơ. Chúng tôi thấy cần góp phần đánh giá hiện tượng thơ trẻ trên tinh
thần đổi mới có kế thừa những kết luận hợp lí trong các công trình nghiên cứu trước
đây. Độ giãn gần bốn mươi năm kể từ khi chiến tranh kết thúc, gần hai mươi năm Việt
Nam - Hoa Kỳ bình thường hóa quan hệ, là lợi thế để người nghiên cứu kiến giải, kết


2

luận những thành tựu cũng như mặt hạn chế của dòng thơ này. Vả lại, đội ngũ thơ trẻ
thời ấy, nay phần đa bước sang độ tuổi “thất thập diệp như thu”, một số nhà thơ đã ra
đi theo quy luật sinh tử. Bởi vậy, theo chúng tôi, cần nghiên cứu sáng tác của họ khi
họ đang là người đương thời, chắc chắn sẽ thuận lợi hơn.
1.3. Sau cùng, xét từ phương diện một người nghiên cứu, giảng dạy văn
chương trong nhà trường đã hơn 30 năm, một người sinh ra và lớn lên trong cuộc
kháng chiến ác liệt ấy, chọn đề tài này, chúng tôi nghĩ, nó phù hợp và hữu ích cho bản
thân khi tác nghiệp, hỗ trợ học sinh - sinh viên trong học tập nghiên cứu, thêm tài liệu
để đồng nghiệp tham khảo. Ngoài ra, nếu đề tài thành công thì bản thân cảm thấy như
được bày tỏ tấm lòng tri ân đối với vô số những người ngã xuống cho đất nước độc

lập, thống nhất, trong đó có thân nhân ruột thịt của mình.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
- Mỗi thời kì, mỗi thời đại thường xuất hiện một kiểu nghệ sĩ. Thời kháng chiến
chống Mỹ xuất hiện thế hệ nhà thơ trẻ tài năng, giàu sáng tạo, tràn đầy nhiệt huyết
cách mạng. Có thể nói, đó là cả một thế hệ nhà thơ “dàn hàng gánh đất nước trên vai”,
xả thân cứu nước, xả thân để làm ra đời và làm ra thơ. Sáng tác của họ góp vào nền
thơ Việt Nam hiện đại sắc điệu riêng, rất nổi bật, càng có độ lắng thời gian càng thấy
rõ sự nổi bật ấy.
Kể từ khi hình thành (đầu thập niên 60, thế kỉ XX) đến nay, thơ trẻ thời chống
Mỹ được giới nghiên cứu tìm hiểu trên nhiều phương diện và cấp độ khác nhau.
Những cây bút thẩm định văn chương uy tín như Hoài Thanh, Chế Lan Viên, Xuân
Diệu, Hoàng Trung Thông, Lê Đình Kỵ, Nguyễn Văn Hạnh, Trần Đình Sử, Nguyễn
Đăng Mạnh, Trần Hữu Tá, Nguyễn Văn Long, Hà Minh Đức, Huỳnh Như Phương,
Nguyễn Đăng Điệp, Bùi Công Hùng, Mã Giang Lân, Vũ Tuấn Anh, Nguyễn Bá
Thành,... đều có những nhận định sâu sắc về thơ trẻ thời chống Mỹ. Chưa ai thống kê
chính xác có bao nhiêu công trình khoa học khám phá dòng thơ này, chỉ biết rằng số
lượng khá phong phú và đa dạng. Theo chúng tôi, có thể tạm quy về một số hướng
nghiên cứu sau đây:
- Hướng nghiên cứu tập trung vào một tác giả; đối tượng thường là một trong
số các nhà thơ tiêu biểu: Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy, Nguyễn Khoa Điềm, Xuân


3

Quỳnh, Lưu Quang Vũ, Lê Anh Xuân, Hữu Thỉnh, Thanh Thảo, Ngô Kha, Trần
Quang Long,... tầm độ từ bài viết có tính giới thiệu (tiểu luận) đến khóa luận đại học,
luận văn thạc sĩ.
- Hướng phân tích, thẩm bình một thi phẩm cụ thể. Hướng này chủ yếu tập
trung vào những bài thơ được chọn giảng trong nhà trường: Bếp lửa - Bằng Việt, Bài
thơ về tiểu đội xe không kính - Phạm Tiến Duật, Đất quê ta mênh mông - Dương

Hương Ly, Trở về quê nội, Dáng đứng Việt Nam - Lê Anh Xuân, Sóng - Xuân Quỳnh,
Tre Việt Nam - Nguyễn Duy, Bài ca chim chơ rao (trích) - Thu Bồn, Hạt gạo làng ta Trần Đăng Khoa,...); số lượng bài viết khá nhiều, khó tính hết.
- Hướng nghiên cứu toàn bộ dòng thơ trẻ dưới dạng phân tích tổng thể nội dung
và nghệ thuật (Giáo trình Lịch sử văn học tập III - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội,
Giáo trình Văn học Việt Nam hiện đại tập II - sách Dự án đào tạo giáo viên THCS, Bộ
Giáo dục & Đào tạo, Lời tựa tập thơ Sức mới - Chế Lan Viên,...). Hay dưới dạng
khám phá chuyên sâu một trong các vấn đề nổi bật của cả dòng thơ: cái tôi trữ tình,
phong cách, cảm hứng, giọng điệu, thể loại... (tập trung ở các chuyên luận, luận văn,
luận án). Hoặc dưới dạng trao đổi, hồi tưởng về một thời thơ trận mạc (đăng trên các
tờ báo, tạp chí trung ương và địa phương).
- Hướng nghiên cứu lồng ghép (tích hợp) trong các công trình khoa học chuyên
ngành. Hướng này phân tích đánh giá thơ trẻ với tư cách là một hiện tượng, một bộ
phận trong phạm vi nghiên cứu rộng hơn nó. Cụ thể như trong các chuyên luận về thơ
Việt Nam hiện đại, các công trình nghiên cứu văn học sau Cách mạng tháng Tám, lời
giới thiệu các tuyển tập thơ,... Chẳng hạn: Nhà thơ Việt Nam hiện đại, Văn học Việt
Nam chống Mỹ cứu nước của Viện Văn học, Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam
hiện đại của Hà Minh Đức, Văn học Việt Nam hiện đại, nhận thức và thẩm định của
Vũ Tuấn Anh, Tiến trình thơ Việt Nam hiện đại của Mã Giang Lân, Sự cách tân của
thơ Việt Nam hiện đại của Bùi Công Hùng, Tựa tuyển tập Thơ ba năm chống Mỹ của
Chế Lan Viên, Văn học giải phóng miền Nam của Phạm Văn Sĩ, Tư duy thơ và tư duy
thơ hiện đại Việt Nam của Nguyễn Bá Thành,...
Chúng tôi tạm quy về bốn hướng nghiên cứu thơ trẻ thời chống Mỹ (cũng là
bốn nhóm công trình khoa học) như trên, là để tiện cho việc tổng luận tình hình


4

nghiên cứu dòng thơ này theo tiến trình trước và sau đổi mới (1986). Sự kiện đổi mới
mở ra bước ngoặt lớn trong đời sống văn học ở nước ta: lí luận văn chương được nhận
thức lại, các lí thuyết phê bình phương Tây được truyền bá và ứng dụng rộng rãi, bước

đầu đạt được một số thành tựu rất đáng ghi nhận. Tuy vẫn còn những mặt “yếu kém,
khuyết điểm” [9, tr.11], nhưng nhìn chung, nền lí luận phê bình văn học ở nước ta sau
đổi mới thực sự phong phú, đa dạng (và cũng phức tạp) hơn trước. Một số quan niệm
khô cứng, lỗi thời (thậm chí giáo điều, ấu trĩ) được thay thế bằng cách nhìn mới mẻ,
linh hoạt hơn. Tất nhiên cũng không phủ nhận những thành tựu từ trước để lại, đổi
mới là vừa thay đổi vừa tiếp nối trong tình thế mới.
Từ sự hiểu như vậy, chúng tôi lấy sự kiện đổi mới (1986) làm mốc chia các
công trình nghiên cứu thơ trẻ thời chống Mỹ thành hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất:
từ khi dòng thơ trẻ hình thành (nửa đầu thập niên 60, thế kỷ XX) đến 1986 (phê bình
đồng hành sáng tác). Giai đoạn thứ hai: từ 1986 đến nay (tiếp tục phê bình, đánh giá
lại). Ở giai đoạn thứ nhất, về phương diện lịch sử, rõ ràng có hai chặng. Chặng một:
trước 1975, tức thời đất nước chiến tranh. Chặng hai, mười năm đầu hậu chiến, tức
tiền đổi mới. Nhìn chung cả hai chặng, các nhà nghiên cứu tiếp cận thơ trẻ thời chống
Mỹ chủ yếu theo hướng xã hội học, thiên về khám phá nội dung tư tưởng, chưa chú ý
nhiều đến sáng tạo hình thức, thi pháp. Bối cảnh xã hội thời ấy định hướng như vậy,
chưa thể khác được. Tuy nhiên, đến cuối thập niên 70, đầu thập niên 80 đã bắt đầu
xuất hiện một số nhà phê bình tiên phong đổi mới tư duy (chẳng hạn Hoàng Ngọc
Hiến). Trong nghiên cứu thơ trẻ, hướng tiếp cận, sự đánh giá cũng có những dấu hiệu
thay đổi (chẳng hạn Nguyễn Trọng Tạo: “Chất trẻ trong thơ trẻ chống Mỹ” - 1981).
Nhưng nhìn chung, những tín hiệu ấy chưa đủ để khẳng định đã có bước ngoặt trong
nghiên cứu dòng thơ này. Phải sau 1986, việc đánh giá thơ trẻ thời chống Mỹ mới
thực sự đa chiều, đa ý kiến, nhiều thi phẩm bị phê phán trước đây được soi xét lại,
trong đó có những sáng tác được “chiêu tuyết” và phổ biến rộng rãi (như Trò chuyện
với Thúy Kiều - Lý Phương Liên, Vòng trắng - Phạm Tiến Duật, Sẹo đất - Ngô Văn
Phú...). Những diễn biến này liên quan đến không khí dân chủ, “cởi trói” trong phê
bình và sáng tạo văn học thời kì đổi mới.


5


Phác thảo mấy nét trên để thấy rằng, mỗi giai đoạn có đặc điểm về hoàn cảnh
xã hội, gắn với nó là quan niệm tiếp nhận, đánh giá văn chương cũng khác nhau.
Những công trình nghiên cứu thơ trẻ thời chống Mỹ, bên cạnh những tương đồng, tất
sẽ có khác biệt. Do số lượng công trình nghiên cứu dòng thơ này khá dồi dào với
nhiều hướng tiếp cận khác nhau, trong khi phần Lịch sử vấn đề lại hạn hẹp, không thể
tổng thuật tất cả, nên chúng tôi chỉ điểm luận những công trình, những bài viết tiêu
biểu và một số hướng nghiên cứu liên quan đến Luận án, cũng như thấy được sự thay
đổi trong thẩm định, đánh giá thơ trẻ qua mỗi giai đoạn.
2.1. Giai đoạn trước đổi mới 1986
Thơ trẻ thời chống Mỹ là một thực thể vận động liên tục, gắn với cuộc kháng
chiến giải phóng dân tộc; nghiên cứu về nó cũng chưa bao giờ đứt gãy. Tuy trước đổi
mới (1986), hệ quy chiếu trong phê bình đánh giá chưa có gì thay đổi, nhưng để tương
hợp với bước chuyển của lịch sử, sát với diễn trình vận động của dòng thơ này, chúng
tôi tạm phân những công trình nghiên cứu thành hai chặng:
● Chặng thứ nhất: từ khi thơ trẻ hình thành đến 1975
Chúng tôi muốn dành dung lượng nhiều hơn để điểm luận những công trình
nghiên cứu thơ trẻ thời chống Mỹ ở chặng thứ nhất, tức chặng đất nước chiến tranh;
cũng là chặng phê bình đồng hành sáng tác, kết nối rất hiệu quả với người đọc. Những
bài viết, những công trình nghiên cứu hồi ấy có ý nghĩa khai mở, làm tư liệu quý cho
những ai tiếp tục khám phá dòng thơ này ở chặng sau.
Trước hết, có một sự thực đến kì lạ, chiến tranh ác liệt mà thơ thì bùng phát:
lãnh tụ làm thơ, dân thường làm thơ, người già - trẻ em đều có thơ, đông đảo độc giả
cũng hết lòng với thơ. Khắp nơi, người ta đọc thơ, bình thơ, ngâm thơ, nói chuyện
thơ,... bất kể bom đạn và gian khổ hy sinh, cứ ngỡ như đó là cái thời “quyền lực” của
thơ. Thế hệ nhà thơ trẻ ra đời, vận động trong bối cảnh như vậy. Ngay từ khi thơ họ
vừa “đăng đàn” thì liền được nhiều nhà phê bình chú ý, đông đảo người đọc quan tâm.
Những nhà thơ sớm bộc lộ tài năng, chắc chắn không bao lâu sẽ có bài giới thiệu đăng
trên các tờ báo lớn. Có thể nói, thời ấy, lực lượng phê bình văn học tuy không đông
nhưng rất mạnh. Họ bắt nhịp rất nhanh, rất nhạy, “kích cầu” rất kịp thời, góp phần tích
cực vào đời sống văn học vốn nhộn nhịp, nhiều khởi sắc.



6

Người tiên phong như một bậc thầy trong lĩnh vực này là nhà phê bình Hoài
Thanh. Với năng lực thẩm thơ đạt đến mức “thiên phú”, với độ nhạy, độ cảm hiếm có,
những bài viết của ông tinh tế, chuẩn xác, sức thuyết phục cao. Những phát hiện, đánh
giá của Hoài Thanh về các nhà thơ trẻ, mà lúc ấy, theo ông là có nhiều triển vọng (Ca
Lê Hiến - Lê Anh Xuân, Lưu Quang Vũ, Nguyễn Duy, Phạm Tiến Duật...), qua độ
lắng thời gian, hết thảy đều không sai số. Cái “tạng” phê bình “lấy hồn ta để hiểu hồn
người”, ấn tượng - trực cảm của Hoài Thanh là lợi thế làm cho những bài thơ đã hay
lại càng hay và rất dễ “lây lan” sang người đọc. Ông không nghiên cứu sâu giọng điệu
của nhà thơ trẻ nào nhưng trong các bài viết đều có phát hiện, khi đã phát hiện chất
giọng của nhà thơ nào thì đích thực của nhà thơ đó, không lẫn với ai được (ông
thường dùng “hơi thơ”, “tiếng thơ”, “giọng thơ” thay “giọng điệu”).
Chẳng hạn, năm 1968, trên Tạp chí Văn học số 9 và số 10, Hoài Thanh viết liền
hai bài về nhà thơ trẻ Ca Lê Hiến - Lê Anh Xuân. Bài thứ nhất “Tiếng gà gáy của Ca
Lê Hiến hay tâm sự của người thanh niên miền Nam tập kết”, ông phát hiện ra “Tiếng
nói của một con người dễ cảm xúc, hay suy nghĩ” [158, tr.1212], “lời thơ, nhạc thơ
của anh nhiều chỗ độc đáo nhưng nói chung vẫn bình dị và tự nhiên, đằm thắm và
ngọt ngào” [158, tr.1214]. Bài viết thứ hai “Thơ Lê Anh Xuân hay tấm lòng của
người thanh niên trên tiền tuyến lớn”, Hoài Thanh giới thiệu sáng tác của Lê Anh
Xuân kể từ khi nhà thơ trở về quê hương chiến đấu. Ông chỉ rõ: “Câu thơ của Lê Anh
Xuân vẫn dịu hiền và có khi nhỏ nhẹ nữa… Có thể nói Lê Anh Xuân đã đạt tới cái
nhìn anh hùng ca và tìm đúng cái giọng anh hùng ca (NBL nhấn mạnh)” [158,
tr.1233].
Hay, trên báo Văn nghệ số 340 ra ngày 17/4/1970, trong bài “Một vài cảm
tưởng nhân cuộc thi thơ của Tuần báo Văn nghệ”, Hoài Thanh nhận định khá sớm về
Phạm Tiến Duật: “Tứ thơ của anh độc đáo, phong phú, táo bạo, đúng là tứ thơ của
người trong cuộc... Nếu anh giữ được cho nó luôn bình dị, trong sáng thì chắc chắn

tiếng thơ của anh sẽ là tiếng thơ quý”. Đối với Lưu Quang Vũ, đọc những sáng tác
đăng trên các báo Văn nghệ quân đội, Nhân dân, Văn nghệ, trong năm 1966, Hoài
Thanh đặt tiêu đề bài viết Một cây bút trẻ nhiều triển vọng, thay lời khẳng định. Ông
nhận thấy: “Thơ Lưu Quang Vũ rất dồi dào màu sắc và cũng rất thính về các mùi


7

hương”, “Cảm xúc suy nghĩ của anh thường nhuần nhị. Ý thơ có khi mượn chỗ này
chỗ nọ nhưng giọng thơ thì đúng là giọng của anh (NBL nhấn mạnh)” [154, tr.46].
Đến với thơ Nguyễn Duy từ thuở ban đầu, Hoài Thanh chỉ rõ điểm mạnh điểm yếu,
nhận ra chất giọng riêng, nhiều hứa hẹn: “Câu thơ của Nguyễn Duy nhiều khi còn
khắc khổ, thậm chí còn cầu kì và rắc rối nữa... Nhưng một số bài của anh đậm đà
phong cách Việt Nam. Giọng thơ chân chất. Tình thơ chắc. Ý thơ sâu” [155, tr.4].
Viết về bốn cây bút tiêu biểu thuộc thơ trẻ thời chống Mỹ, nhà phê bình văn
học hàng đầu ở nước ta đã bắt rất đúng “mạch chủ” trong nguồn thơ của họ. Chúng tôi
coi những bài viết như thế là đi tìm những hạt ngọc thơ ca đang nảy sinh từ cuộc sống
tươi xanh của những tâm hồn tươi trẻ, góp phần làm nên dáng nên hình của một thế hệ
nhà thơ. Trong những bài nghiên cứu trên, để ý, chúng tôi thấy Hoài Thanh không
trực tiếp nói đến “cảm hứng”. Có lẽ, theo tác giả, thẩm định tư tưởng, tình cảm mà
nhà thơ thể hiện trong thi phẩm cũng là đủ (và không ra ngoài cảm hứng). Văn phê
bình của Hoài Thanh là vậy. Một người rất uyên bác nhưng ông lại né tránh kiểu viết
tầm chương trích cú, lí luận dông dài. Nói chuyện bình thơ, ông tâm sự: “Phân tích
giọng thơ, hơi thơ, nhạc thơ hay phân tích gì thì rốt cuộc cũng là nhằm đưa người ta
đi sâu vào tình cảm tư tưởng trong thơ” [159, tr.32].
Cùng Hoài Thanh, Xuân Diệu cũng tỏ ra rất chú ý phát hiện, bồi dưỡng và giới
thiệu tài năng các cây bút trẻ. Những Nguyễn Xuân Thâm, Hoàng Cát, Trần Đăng
Khoa,... là những nhà thơ được ông quan tâm đặc biệt. Nhà thơ Nguyễn Xuân Thâm
(bút danh Dao Ca, Đỗ Hữu) cho biết: “Anh Xuân Diệu dạy cho tôi nhiều nhất. Anh
chữa cho từng chữ. Thậm chí có khi bài thơ của tôi được anh vẽ ra như một bức

tranh” [184]. Tiếp đến, Lê Đình Kỵ, Nguyễn Xuân Nam giới thiệu thơ Bằng Việt,
Nguyễn Văn Hạnh thẩm bình Vầng trăng quầng lửa của Phạm Tiến Duật khi tập thơ
mới được ấn hành. Các nhà lí luận phê bình uy tín đã rất chú ý đến ngôn ngữ, bút
pháp, nhịp thơ... tức những vấn đề không tách rời cảm hứng và giọng điệu. Nguyễn
Văn Hạnh viết: “Trong “Vầng trăng quầng lửa” có sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp
hiện đại và bút pháp truyền thống, hình thức thơ có sự biến đổi phù hợp với nội dung.
Nhà thơ tài hoa này không trói buộc mình trong những quy tắc cũ, câu thơ dài ngắn
không đều, vần nhịp tư do những vẫn có sức lôi cuốn” [41, tr.7]. Định Nguyễn, trong


8

bài “Đọc thơ người ra trận” (báo Văn nghệ số 451 - 1972) đã phác thảo chất thơ, giọng
thơ của Nguyễn Đức Mậu và Vương Trọng: “cả hai anh đều khỏe, chắc, mộc mạc,
thô, đạm mà chân thành”. Trang Nghị trên báo Văn nghệ (số tháng 6 - 1972) có bài
“Một tác giả trẻ trên chiến trường Trị - Thiên - Huế”. Trong bài viết, Trang Nghị nhận
diện thơ Nguyễn Khoa Điềm, khi nhà thơ này mới có tập Đất ngoại ô ra mắt bạn đọc:
“Nguyễn Khoa Điềm chưa phải đã có nhiều bài thơ hay, nhưng đáng chú ý ở anh là
một giọng nói mới (NBL nhấn mạnh)”. Trước đó, đọc thơ Nguyễn Khoa Điềm mới
được đăng trên báo, Vũ Quần Phương trong bài “Quá trình phát triển nội tâm trong
một bài thơ”, (Văn nghệ tháng 11 - 1970) đã có lời bình “Thơ Nguyễn Khoa Điềm
khỏe mà thấm”.
Các nhà thơ nữ Xuân Quỳnh, Phan Thị Thanh Nhàn, Ý Nhi, Lâm Thị Mỹ Dạ,...
mỗi người đều hình thành được chất giọng riêng của mình. Tuy vậy, ý kiến đánh giá
từ các nhà phê bình chuyên nghiệp đăng trên các tờ báo lớn lúc bấy giờ thì lại không
nhiều, phải sau 1975 thơ họ (nhất là Xuân Quỳnh) mới được nhiều người tập trung
nghiên cứu. Nói không nhiều nhưng không phải không có người viết. Chẳng hạn,
Hoàng Trung Thông nhận xét: “Xuân Quỳnh sau Chồi biếc với những vần thơ tươi
mát đã mở rộng hồn thơ của mình ra cuộc sống nhiều mặt. Tập thơ Hoa dọc chiến
hào mang dấu ấn của một tâm hồn nhạy cảm và tinh tế” [177, tr.64]; “Phan Thị

Thanh Nhàn từ những bài thơ nhẹ nhàng thầm thì đã chuyển sang viết khá nhuần
nhuyễn về một xóm đê hay một khu phố, về cuộc sống cần lao của quần chúng mà vẫn
giữ được giọng riêng của mình” [177, tr. 62].
Riêng Lý Phương Liên là hiện tượng đặc biệt. Nữ công nhân trẻ này làm thơ và
sáng danh trên thi đàn vào đầu thập niên 70 như một sự tình cờ. Khởi đầu là chùm bài
đăng trên báo Nhân dân (số ra ngày 28-8-1970): Ca bình minh, Em mơ có một phiên
tòa, Thư gửi một người bạn gái Mỹ và một số sáng tác khác đăng ở các báo Văn nghệ,
Hà Nội mới, Quân đội nhân dân, Đại đoàn kết, Tiền phong, Lao động,… gây được sự
chú ý của nhiều nhà phê bình và sự hâm mộ của đông đảo bạn đọc: “Thơ Lý Phương
Liên đến thẳng với trái tim người đọc bằng hình ảnh xúc động, bằng cách nói trực
tiếp và không kém phần sâu sắc”, “đôi lúc Lý Phương Liên đã nói được những vấn đề
lớn của dân tộc” [177, tr.67]. Tuy nhiên, cách không bao lâu, Lý Phương Liên lại nổi


9

danh (theo cách đánh giá hiện nay) với bài Nghĩ về Thúy Kiều (sau đổi thành Trò
chuyện với Thúy Kiều) đăng trên báo Văn Nghệ số ra ngày 28-8-1970. Đây là bài thơ,
có thể nói, cảm hứng thế sự thể hiện khá rõ (rất hiếm hoi trên thi đàn khi ấy). Và dĩ
nhiên, bài thơ bị phê phán gay gắt: “Bài thơ rõ ràng xa lạ với cuộc chiến đấu anh
hùng, luẩn quẩn trong những triết lí mơ hồ đồng thời biểu hiện một quan niệm sống
yếu đuối, lạc lõng” [195, tr.164]; mãi đến những năm sát đổi mới, có nhà phê bình,
trong công trình nghiên cứu của mình vẫn đánh giá gay gắt như thế, dù rằng Lý
Phương Liên từ bỏ thơ đã chục năm ngoài.
Tuy gặp nhiều sóng gió do hoàn cảnh lịch sử nhưng Lý Phương Liên là cây bút
có hình có nét trong thơ trẻ thời chống Mỹ: “những bài thơ hay của Lý Phương Liên
mang bản sắc riêng, khá cụ thể, khá sinh động, không trộn lẫn với những người khác”
[177, tr.67]. Nữ nhà thơ này để lại một số dấu ấn khá đậm: biên độ cảm hứng được mở
ra, tính nhân văn khá rõ (Thư gửi một người bạn gái Mỹ, Em mơ có một phiên tòa),
giọng thơ trong trẻo, hồn nhiên mà nhiều trăn trở (Ca bình minh, Trò chuyện với Thúy

Kiều). Chúng tôi nghĩ, sáng tác của Lý Phương Liên cần được khảo sát, nghiên cứu
như những nhà thơ khác cùng thế hệ (lâu nay trong các luận án, luận văn liên quan
đến thơ chống Mỹ hầu như không ai đề cập đến).
Xét theo hướng nghiên cứu, đánh giá tổng thể dòng thơ trẻ thời chống Mỹ,
chúng tôi nghĩ, Chế Lan Viên là người khai mở đầu tiên. Trong tiểu luận “Đốt cháy
hơn nữa ngọn lửa trong thơ bạn trẻ” (Lời tựa tập thơ Sức mới - 1965) ông đã sớm nhận
ra “Điều đáng yêu của tập thơ này là nó nồng ấm cái hơi thở của cuộc sống” [193,
tr.424]. Và cũng theo Chế Lan Viên, sự “nồng ấm cái hơi thở của cuộc sống” chính là
thế mạnh của thơ trẻ: “Họ có cái này ghê gớm lắm: cái con mắt trẻ để nhìn đời, nhìn
cái cụ thể của đời” [193, tr.488]. Cả một đội ngũ nhà thơ được hợp lại từ nhiều
nguồn, nhiều lĩnh vực, nhiều tầng lớp. Theo Chế Lan Viên, nhãn quan cuộc sống của
lớp nhà thơ trẻ rất phong phú, nguồn cảm hứng của họ dồi dào: “Các bạn trẻ này
phần đông là công nhân bộ đội, cán bộ. Họ ở trong nhiều ngành nghề địa phương
khác nhau, đứng từ nhiều góc độ khác nhau để nhìn cuộc sống. Do đó gộp tất cả cái
nhìn riêng của họ lại, ta có một số thành không đơn điệu, một cái nhìn chung khá
phong phú về cuộc đời” [193, tr.425]. Phác thảo về một đội ngũ nhà thơ đang sinh


10

thành qua một tuyển tập (lọc trong hơn 1500 bài thơ), những cây bút sáng danh đều
được Chế Lan Viên nhận xét và bước đầu chỉ ra dấu ấn riêng, tỏ ý tin vào triển vọng
phát triển của họ: Xuân Quỳnh, Thái Giang, Bằng Việt, Nguyễn Mỹ, Vũ Quần
Phương, Phạm Ngọc Cảnh, Trúc Thông, Nguyễn Vũ Tiềm, Phạm Tiến Duật (cho
rằng, trong Lời tựa tập Sức mới, Chế Lan Viên chưa nhắc đến Phạm Tiến Duật là
không đúng). Trong diễn trình vận động, đội ngũ nhà thơ trẻ liên tục được bổ sung
những cây bút xuất sắc (Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh, Nguyễn Duy,
Vương Trọng, Hoàng Nhuận Cầm, Lâm Thị Mỹ Dạ,...); và giọng thơ của thế hệ họ
cũng dần dần định hình: đa dạng mà thống nhất, phân biệt với giọng thơ của thế hệ
trước họ (ở đây Chế Lan Viên chưa bàn đến vấn đề này).

Đến tiểu luận “Thơ đánh Mỹ cứu nước” (Tựa tuyển tập Thơ ba năm chống Mỹ
1965 - 1967), Chế Lan Viên nhận thấy sự lớn mạnh nhanh chóng đội ngũ nhà thơ trẻ:
“Cái làm cho tuyển tập thơ này khác với các tuyển tập trước, là tiếng nói ríu rít
(NBL nhấn mạnh) của đông đảo những cây bút trẻ. Họ chiếm một phần ba tuyển tập”
[193, tr.487]. Và tiếp tục khẳng định ưu thế của họ: “ta có một đội ngũ trẻ có mặt ở
khắp nơi để đón bắt cuộc sống mới khi nó xuất hiện. Nhờ thế hình ảnh của cuộc sống
ở đây là một hình ảnh chẳng đơn điệu nghèo nàn” [193, tr.490]. Không chỉ thấy được
sự năng nổ, xông xáo của đội ngũ nhà thơ trẻ trong việc nắm bắt, đưa hiện thực cuộc
sống vào thơ, mở rộng nguồn cảm hứng cho thơ, Chế Lan Viên còn khẳng định tài
năng của họ ở phương diện “kỹ thuật” (tức các thủ pháp nghệ thuật): “Không phải lớp
trẻ chỉ có tâm hồn, họ còn nắm vững kỹ thuật” [193, tr.489].
Từ giữa những năm sáu mươi của thế kỷ trước, khi thế hệ thơ trẻ thời chống
Mỹ mới hình thành mà Chế Lan Viên đã có những nhận xét như trên, chúng tôi nghĩ,
không chỉ có tác dụng “truyền nghề” mà còn thể hiện sự bao quát về một thế hệ nhà
thơ đầy triển vọng. Có điều cũng đáng lưu ý là, sau chiến tranh, khi thơ trẻ thời chống
Mỹ đã đi hết chặng đường vẻ vang của nó, nhìn lại thế hệ hệ nhà thơ ấy (so sánh với
thơ trẻ thời hậu chiến), trả lời câu hỏi của Phạm Tiến Duật, Chế Lan Viên nhận xét:
“Ngày trước các cậu bắn đạn thơ có viên nổ viên xịt nhưng cộng lại là trúng đích.
Bây giờ đạn của chúng nó tốt đấy, viên nào cũng nổ nhưng bắn thăng thiên, thăng


11

địa, tán loạn” [23, tr.76]. Đấy là lời đánh giá bằng hình ảnh, dí dỏm nhưng không
phải không đúng.
Sau Chế Lan Viên, khi cuộc chiến cận kề kết thúc, những Hoàng Trung Thông,
Bùi Công Hùng, Nguyễn Văn Long, Bằng Việt đều có bài viết về thơ trẻ thời chống
Mỹ theo hướng nghiên cứu tổng thể. Trong các bài viết ấy, mức độ này mức độ khác,
vấn đề cảm hứng và giọng điệu đã được đề cập, những đóng góp của thơ trẻ được chú
ý. Chẳng hạn, trong “Một vài suy nghĩ về dòng thơ trẻ trên miền Bắc hiện nay”,

Hoàng Trung Thông viết: “Họ đến với đội ngũ thơ, ríu rít, hồn nhiên, chân thực,
nhưng sớm ý thức phải có một tiếng nói riêng (NBL nhấn mạnh) trong tiếng nói
chung hùng tráng của dân tộc đang đánh thắng giặc Mỹ” [177, tr.62]; “Các bạn làm
thơ trẻ của chúng ta ngày càng muốn tự khẳng định mình và đem nhiều cách nói,
cách diễn tả vào phong trào thơ. Chúng ta tin ở tài năng của anh chị em đó và chúng
ta hiểu rằng họ có nhiều đóng góp đáng khuyến khích cho thơ ca” [177, tr.66].
Nghiên cứu tổng thể dòng thơ trẻ, Hoàng Trung Thông không quên chỉ ra một số
“thần thái” riêng của từng cây bút tiêu biểu: Bằng Việt “nghiêng về suy nghĩ trong
giọng thơ bình thản có phần đơn điệu”, Vũ Quần Phương “trăn trở tìm tòi, nhiều lúc
khá tinh tế mà như chưa vượt qua được những cuộc sống hạn chế quanh mình”, Lưu
Quang Vũ “chắt chiu những kỷ niệm, có trau chuốt màu mè mà thiếu sự nóng hổi của
cuộc sống”, Ngô Văn Phú “rung động về con người và cảnh sống của nông thôn,
ngày càng sâu hơn, giàu có hơn, nhưng chưa tạo được nét riêng thật độc đáo”, Phạm
Ngọc Cảnh “chân chất, khỏe”, Nguyễn Đức Mậu “đã có chiều sâu, có sức khái quát
cao”,... Riêng Phạm Tiến Duật, cũng như các nhà phê bình khác, Hoàng Trung Thông
nhận xét: “Thơ anh lấy từ cuộc sống thực, có khi trần trụi, nhưng không dừng lại ở
phản ánh đơn sơ mà được nâng lên bằng trí tưởng tượng và suy nghĩ độc đáo... Anh
phóng túng mà đã bắt đầu có bản sắc riêng” [177, tr.63]. Tuy nhiên, cái giọng “nói
chơi, nghịch ngợm, hơi ngang” trong thơ Phạm Tiến Duật, nếu nhà phê bình khác cho
là độc đáo thì ngược lại, Hoàng Trung Thông cho đấy là nhược điểm: “Vui là một đức
tính của tuổi trẻ, nhưng đi đến bỡn cợt thì không nên... Một số bài thơ gần đây của
anh cũng rơi vào những nhược điểm đó, mà có phần còn nặng hơn” [177, tr.64]. Theo
chúng tôi, lời cảnh báo của Hoàng Trung Thông không phải không có cơ sở. Thực tế


12

cho thấy, viết về Trường Sơn trong những năm chống Mỹ, giọng thơ Phạm Tiến Duật
được coi là phù hợp (phần nào thể hiện tinh thần lạc quan, ngạo nghễ, vượt lên hi sinh
gian khổ của người lính). Nhưng chuyển sang thời bình, cuộc sống cân bằng trở lại,

nếu vẫn giọng “nói chơi”, “bỡn cợt” như thế thì rất khó thành công. Có lẽ đây là lí do
vì sao cho đến cuối đời, thơ Phạm Tiến Duật vẫn chưa ra khỏi Trường Sơn.
Hoàng Trung Thông nghiên cứu thơ trẻ miền Bắc, còn Bùi Công Hùng viết về
thơ trẻ miền Nam vùng giải phóng. Trong bài “Sự nghiệp giải phóng dân tộc và thơ trẻ
ở miền Nam”, tác giả đã sớm đưa ra nhận định tổng quát: “Nhìn vào đội ngũ những
người làm thơ ở miền Nam, chúng ta thấy những người cầm bút trẻ chiếm một số
lượng đáng kể và có một vị trí nhất định trên văn đàn của nền văn nghệ giải phóng”
[57, tr.15]. Điểm mới ở đây là, khác một số nhà phê bình tỏ ý không khuyến khích
những bài thơ viết về mất mát hy sinh, thì theo Bùi Công Hùng, thơ trẻ miền Nam cần
phải nói lên mặt này, không nên ngợi ca một cách dễ dãi: “Nếu chỉ ca ngợi chiến
thắng một cách dễ dàng, có thể làm nhẹ giá trị của những gì chúng ta phải giành lấy
từ cái chết, đổi lấy mồ hôi nước mắt, bằng bao suy tư, bằng bao nhiêu trí tuệ thông
minh vào đó” [57, tr.16]. Ngay cả một số biểu hiện cảm xúc hoài niệm mà có nhà phê
bình hồi ấy cho là nên cảnh giác: “Khi đã tỏ ra gửi lòng mình quyến luyến với quá
khứ, không gỡ mình ra khỏi những kỷ niệm thì dẫu sao vẫn là một thái độ tiêu cực...”
[33, tr.244]; Bùi Công Hùng lại khác, ông tỏ ý đánh giá cao mạch xúc cảm này: “Tình
yêu quê hương, những người thân yêu được thể hiện một cách say mê hơn, tinh tế hơn
trong thơ trẻ miền Nam. Vì họ hiểu đó là một phần quan trọng của tình yêu Tổ quốc.
Họ trưởng thành trong cuộc sống cụ thể giàu kỉ niệm, ấn tượng, giàu màu sắc cá biệt
ấy” [57, tr.21]. Cắt nghĩa rõ hơn, Bùi Công Hùng viết: “nó phải được thể hiện trực
tiếp bằng cách nghĩ, cách viết của người dân miền Nam. Những người ở xa chiến
trường lâu ngày (tức nhà thơ tập kết mới trở về - NBL) có quyền viết về những kỉ
niệm đã có dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn, kinh qua cuộc chiến đấu” [57, tr.23]. Theo
chúng tôi, Bùi Công Hùng đã thuyết phục. Mà không riêng gì các nhà thơ miền Nam
mới “có quyền viết về kỉ niệm”; thời chống Pháp, nếu không hoài niệm thì Hữu Loan
chưa chắc đã có Màu tím hoa sim, Hoàng Cầm có thể trống vắng Bên kia sông Đuống,
Nguyễn Đình Thi, đoạn mở đầu không là “Tôi nhớ những ngày thu đã xa” thì có lẽ


13


Đất nước (tên bài thơ) đã không còn là Đất nước của Nguyễn Đình Thi nữa. Chúng
tôi cho rằng, đặt vào khung thẩm mỹ thời chiến tranh, khi phản ánh hiện thực, tính
chiến đấu được coi như tiêu chuẩn hàng đầu trong đánh giá nghệ thuật, những ý kiến
trên của Bùi Công Hùng là đáng quan tâm. Đồng thời, dấu ấn sáng tạo, giọng điệu
nghệ thuật của một số nhà thơ trẻ cũng được tác giả bài viết nhận diện: “Nguyễn Khoa
Điềm sâu sắc lắng đọng; Dương Hương Ly nồng say chân thành, Nguyễn Chí Hiếu
đằm thắm mượt mà, Ngô Bằng Vũ giàu chi tiết trăn trở tìm tòi, Vũ Ngàn Chi xông
xáo, chắc khỏe, Hồng Chinh Hiền giàu chất tạo hình. Mỗi người mỗi vẻ: Diệp Minh
Tuyền tươi mát, dịu dàng; Lê Chí giản dị; Nguyễn Bá ấm áp...” [57, tr.15].
Kế tiếp phải nói đến nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Long. Trong bài “Hướng đi
của một số người làm thơ trẻ”, cùng lúc, tác giả bài viết so sánh, chỉ ra mặt mạnh mặt
yếu của một số nhà thơ: “Bên cạnh Phạm Tiến Duật phong phú thì Nguyễn Duy chắt
lọc thâm trầm suy nghĩ, tuy cảm xúc còn hơi nghèo, Nguyễn Đức Mậu lại bề bộn ngổn
ngang và đang cố gắng lắng lại để chắt lọc chất sống và dồn thêm xúc cảm” [83,
tr.7]; đồng thời đánh giá chung về thế hệ nhà thơ: “Một thế hệ lớn lên trong những
năm đánh giặc, một dòng thơ nảy nở ở ngọn nguồn thác lũ. Tuổi trẻ cầm súng và cầm
bút làm ra đời và làm ra thơ” [83, tr.7]. Cũng cần nhận thấy, Nguyễn Văn Long viết
bài này khi chiến tranh sắp kết thúc, trên nền thơ chống Mỹ hiện hình khá rõ sắc diện
dòng thơ trẻ - một dòng thơ mỗi người mỗi vẻ nhưng vẫn có những nét đặc trưng
mang dấu ấn thế hệ. Nhìn chung, đánh giá của Nguyễn Văn Long thỏa đáng vào thời
điểm ấy; còn về sau, dĩ nhiên thơ của Nguyễn Duy, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Đức
Mậu,... đều có những đổi thay nhất định.
Không chuyên ở lĩnh vực nghiên cứu phê bình như Nguyễn Văn Long, Bằng
Việt - một cây bút tiêu biểu của thơ trẻ thời chống Mỹ cũng có bài viết về thế hệ thơ
mình. Bàn về “Chất trẻ, chất mới và sự từng trải”, là người trong cuộc, ông đưa ra
chính kiến khá thuyết phục: “Chất trẻ chỉ cho sinh khí, nhiệt tình, nó chưa phải là cứu
cánh. Mới theo tôi phải là cách nhìn riêng của mình vào sự vật, vào cuộc sống xung
quanh, phát hiện ra những góc độ chưa ai phát hiện, đón bắt những gì chỉ mới đang
manh nha trong hiện thực và cố gắng tìm ra cho nó một câu giải đáp” [197, tr.68].

Tuy vẫn phải bám vào nguyên lí văn học phản ánh hiện thực và ít nhiều vận dụng cách


14

nói của Nam Cao, nhưng Bằng Việt đã “mới” ở ý “tìm cho nó một câu giải đáp” (gần
nghĩa với “nghiền ngẫm hiện thực” - chữ của Lê Ngọc Trà). Cái mới nữa, khi không ít
nhà phê bình khẳng định ưu thế của thơ trẻ là chất trẻ, chất trẻ làm nên giá trị; Bằng
Việt lại “nói ngược”: “nó chưa phải là cứu cánh”. Ở đây còn liên quan đến việc đánh
giá thơ trẻ thời bấy giờ. Nhiều người quen nghĩ, thơ trẻ thường thiếu chiều sâu, dễ
“lệch lạc” tư tưởng. Nghĩa là họ cần được “rèn cặp”, bồi dưỡng thì mới trưởng thành.
Quan niệm phổ biến là thế, với Nguyễn Tuân thì không nghĩ thế: “Trong sáng tác
không có già trẻ gì hết, mỗi anh đều có cái sự sinh của mình, biết đâu cái thằng trẻ nó
bật ra những cái bất ngờ mà mình không có được” [190].
Như vậy, nghiêng về phương pháp trực cảm - ấn tượng (Hoài Thanh, Trang
Nghị, Định Nguyễn, Vũ Quần Phương,...); phương pháp tổng hợp - so sánh (Chế Lan
Viên, Hoàng Trung Thông, Bùi Công Hùng, Nguyễn Văn Long...) và những phương
pháp nghiên cứu khác, trước 1975, nhiều nhà phê bình đã khẳng định rõ tài năng và
đóng góp của thơ trẻ thời chống Mỹ. Điểm chung của các nhà nghiên cứu là đều tiếp
cận theo hướng “phân đôi” nội dung và hình thức (nội dung trên hết), chú trọng nhiều
đến chủ thể sáng tạo (nhà thơ); hướng nghiên cứu phong cách, thi pháp, thể loại trong
các công trình khoa học chưa nhiều. Tuy nhiên, cái đạt được nổi bật trong các bài
nghiên cứu trước 1975 là tính truyền cảm cao, gây được “hiệu ứng” tích cực cho
người đọc, khai mở vấn đề cho các công trình nghiên cứu về sau.
● Chặng thứ hai: mười năm đầu hậu chiến (1976 - 1986)
Chiến tranh kết thúc, chiến trường im tiếng súng, đất nước thống nhất, thế hệ
nhà thơ trẻ thời chống Mỹ đã không còn “trẻ” nữa. Đáng lưu ý là, trong đội ngũ nhà
thơ này, một số cây bút dành thời gian nghiên cứu về một thời thơ của thế hệ mình.
Chẳng hạn, Nguyễn Trọng Tạo: “Chất trẻ trong thơ trẻ chống Mỹ” - 1981 và “Ghi lại
mấy nhà thơ cùng thời” - 1983 (in trong Văn chương cảm & luận); Vũ Quần Phương:

“Đôi nét về lớp nhà thơ chống Mỹ 1965 - 1975” (báo Văn nghệ tháng 11 - 1978),
Kháng chiến chống Mỹ và một thế hệ nhà thơ (Văn nghệ quân đội tháng 7 - 1984),
Phạm Tiến Duật: “Về bút pháp hiện thực trong thơ Việt Nam hiện đại 1945 - 1980”
(Tạp chí văn học số 5 - 1980),... Đọc những bài nghiên cứu của họ, chúng tôi thấy
Nguyễn Trọng Tạo là người đưa ra chính kiến khá rạch ròi: “Tôi cho rằng sự thay đổi


15

quan trọng giữa các thế hệ thơ chính là sự thay đổi về giọng điệu thơ (NBL nhấn
mạnh). Sự thay đổi giọng điệu không chỉ hiểu là sự thay đổi đơn thuần về hình thức,
mà thực chất là sự thay đổi về hồn thơ, sự thay đổi về cái bên trong, cái bản chất của
sự vật” [149, tr.117]. Theo Nguyễn Trọng Tạo, thơ trẻ thời chống Mỹ hình thành từ
đầu những năm 60 nhưng phải đến khi Phạm Tiến Duật nổi danh trên thi đàn thì giọng
điệu riêng của thế hệ mới thực sự nổi bật: “Những đóng góp buổi đầu của thơ trẻ có
thể kể đến các tác giả như Xuân Quỳnh, Bằng Việt, Vũ Quần phương, Nguyễn Mỹ,
Thái Giang v.v... Tuy nhiên phải đợi đến sự xuất hiện của Phạm Tiến Duật, thơ chống
Mỹ mới bộc lộ thật sự cái giọng điệu riêng của nó, cái giọng điệu riêng của lớp trẻ”
[149, tr.117]. Dẫu sao, đây cũng chỉ ý kiến của một người, tỏ ý coi thơ Phạm Tiến
Duật như đỉnh của thơ trẻ thời chống Mỹ. Đánh giá như thế không biết có quá lắm
không, nhưng phải thừa nhận rằng, đưa thơ vượt Trường Sơn cùng đoàn quân ra trận
thì không ai qua được tác giả Bài thơ về tiểu đội xe không kính.
Còn ý kiến của Nguyễn Trọng Tạo về sự thay đổi giọng điệu, coi đây như bước
chuyển quan trọng giữa các thế hệ nhà thơ, theo chúng tôi, hướng tiếp cận này là tín
hiệu đổi mới trong phê bình văn học nói chung, nghiên cứu thơ trẻ nói riêng (ông cũng
là tác giả của Tản mạn thời tôi sống - một bài thơ “đột phá” tư duy, nổi tiếng trong
những năm tiền đổi mới). Ngoài ra, phát hiện của Nguyễn Trọng Tạo về thơ Thanh
Thảo, thơ Hữu Thỉnh cũng có những điểm đáng quan tâm. Chẳng hạn: “Điệu thơ
thông minh một cách thâm trầm, và sắc sảo một cách ngọt ngào là bước tiến vượt bậc
trong thơ Thanh Thảo, đó cũng là bước tiến mới trong thơ chống Mỹ” [149, tr.124],

hay: “Hữu Thỉnh giàu lượng thông tin tâm hồn, mang dấu ấn rõ nét cái tôi trữ tình
của nhà thơ, góp với Thanh Thảo và lớp thơ trẻ chống Mỹ một tiếng nói nhân hậu về
cuộc chiến tranh” [149, tr.130].
Tiếp đến là bài viết “Kháng chiến chống Mỹ và một thế hệ nhà thơ” của Vũ
Quần Phương. Ở bài viết này, tác giả tiếp cận dòng thơ trẻ theo hướng nghiên cứu
tổng thể và có một số đánh giá khá thỏa đáng. Chẳng hạn, đoạn khẳng định thơ trẻ
thời chống Mỹ có chất giọng riêng, không lẫn với thơ của các thế hệ trước: “Đến
1975, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ vừa kết thúc, lớp trẻ thực sự đã có một giọng


16

thơ riêng (NBL nhấn mạnh) khác biệt với hai lớp đàn anh, có ảnh hưởng khá rộng
trong độc giả thanh niên” [127, tr.115].
Một cây bút phê bình khác cũng tiếp cận thơ trẻ thời chống Mỹ theo hướng
nghiên cứu tổng thể. Đó là Mai Hương với bài “Nghĩ về đóng góp của đội ngũ trẻ
trong thơ chống Mỹ” (Tạp chí văn học số 1 - 1981). Đây là công trình nghiên cứu khá
công phu. Tác giả phân tích, khẳng định những đóng góp của thơ trẻ trên nhiều
phương diện, trong đó có giọng điệu nghệ thuật: “Thực tế, họ đã mang đến cho thơ
chống Mỹ tiếng nói đặc sắc của riêng của tuổi trẻ mà những thế hệ nhà thơ trước
không thể nói thay được” [64, tr.93]. Chất giọng của một số nhà thơ tiêu biểu cũng
được “gọi tên”, nhưng nhìn chung, không khác những nhà phê bình trước đó đã nhận
diện: “chắc, khỏe như Phạm Ngọc Cảnh, Nguyễn Đức Mậu; hồn hậu, nhẹ nhàng bình
dị như Nguyễn Duy; mượt mà, thấm đẫm suy tư và tình cảm như Hữu Thỉnh, Lâm Huy
Nhuận, Hoàng Nhuận Cầm...” [64, tr.96]. Mai Hương chia thơ trẻ thành hai nhánh để
làm bật nổi những đóng góp của họ: thơ trẻ ở hậu phương miền Bắc và thơ trẻ ở tiền
tuyến miền Nam. Tuy nhiên, mảng thơ trẻ yêu nước tiến bộ vùng chính quyền Sài Gòn
kiểm soát thì chưa đề cập tới (có lẽ thời ấy, mảng này đang “gai góc” đối với nhà
nghiên cứu). Điểm đáng lưu ý nữa ở bài viết là, tác giả đã bàn đến sự cân bằng giữa
chất liệu hiện thực với chất liệu tâm hồn trong sáng tác thơ: “Muốn có thơ, chỉ chất

liệu hiện thực không tôi chưa đủ, mà phải có chất liệu tâm hồn để chuyển hóa chất
liệu hiện thực đời sống thành thơ” [64, tr.97].
Tập trung nhiều, có tính chuyên nghiệp vẫn là những nhà khoa học ở các viện
nghiên cứu, các trường đại học. Khi cuộc kháng chiến khép lại, nhu cầu tổng kết, đánh
giá nền văn học chống Mỹ được đặt ra; đã có độ lắng thời gian, tư liệu được tập hợp,
lực lượng nghiên cứu được bổ sung... là những thuận lợi để các công trình nghiên cứu
thơ chống Mỹ tầm quy mô ra đời, trong đó có nghiên cứu dòng thơ trẻ (theo hướng
lồng ghép, tích hợp). Bao gồm Nhà thơ Việt Nam hiện đại (Viện Văn học), Văn học
Việt Nam chống Mỹ cứu nước (Viện Văn học), Văn học giải phóng miền Nam (Phạm
văn Sĩ) và nhiều công trình nghiên cứu khác.
Viện Văn học như “đầu mối” tập trung những nhà nghiên cứu uy tín: Viện
Trưởng Hoàng Trung Thông (chủ biên), Phong Lê, Vũ Tuấn Anh, Hồng Diệu, Bích


17

Thu, Vũ Văn Sỹ,... để biên soạn một số công trình khoa học bề thế, bao quát cả giai
đoạn văn học, đủ các thể loại. Dĩ nhiên, trong những công trình ấy, thơ trẻ thời chống
Mỹ có vị trí được trân trọng, được coi như hiện tượng nghệ thuật nổi bật, như sản
phẩm đặc thù của một thời kì lịch sử đặc biệt.
Công trình Nhà thơ Việt Nam hiện đại [176] hướng tới phác thảo chung về lịch
sử văn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975, đánh giá thành tựu của ba thế hệ nhà thơ
nối tiếp nhau. Những người biên soạn chọn một số nhà thơ trong từng thế hệ để
nghiên cứu. Hầu hết những gương mặt được chọn đều đã sáng danh trên thi đàn, họ
được tập hợp vào Nhà thơ Việt Nam hiện đại là hợp lý. Riêng thế hệ nhà trẻ thời
chống Mỹ, những cây bút quen thuộc như Thu Bồn, Lê Anh Xuân, Dương Hương Ly,
Nguyễn Khoa Điềm, Xuân Quỳnh, Bằng Việt, Phạm Tiến Duật, Trần Đăng Khoa đều
được phân tích đánh giá thấu đáo. Theo chúng tôi, nếu có thêm Hữu Thỉnh, Thanh
Thảo, Nguyễn Duy, Lưu Quang Vũ, Nguyễn Đức Mậu, Hoàng Nhuận Cầm,... trong
công trình thì chân dung thơ trẻ thời chống Mỹ sẽ đầy đặn hơn.

Tiếp đến, Văn học Việt Nam chống Mỹ cứu nước [195] là công trình nghiên
cứu được triển khai theo từng thể loại: văn xuôi, thơ, kịch. Trong đó, phần thơ (Vũ
Tuấn Anh biên soạn) chiếm dung lượng nhiều nhất (11 trong tổng số 21 chương). Ở
phần này, bên cạnh đánh giá khái quát về một chặng đường vận động của thơ ca dân
tộc trong bối cảnh chiến tranh, nhà nghiên cứu Vũ Tuấn Anh còn khám phá phong
cách các thế hệ nhà thơ từ những cây bút tiêu biểu (chương 8). Theo đó, phong cách
của một số nhà thơ trẻ như Lê Anh Xuân, Nguyễn Khoa Điềm, Xuân Quỳnh, Phạm
Tiến Duật,... được nhận diện qua những nét phác thảo, mỗi người có điểm mạnh và
điểm yếu riêng. Chẳng hạn: “Vẫn sôi nổi, thiết tha, vẫn những cảm nghĩ mạnh bạo và
lối viết trong trẻo, phóng khoáng, thơ Xuân Quỳnh in dấu rõ những chuyến đi, những
cảnh vật, con người cụ thể... mạch thơ của chị cũng còn nhiều tản mạn, sức tổ chức
nội tại ở một số bài còn yếu” [195, tr.198]. Đồng thời, Vũ Tuấn Anh cũng chỉ ra mối
liên hệ, ảnh hưởng cũng như sự tiếp nối giữa các phong cách: “Bằng Việt, Xuân
Quỳnh có thời kì giống nhau trong lối viết thiên về cảm xúc, bút pháp nhẹ nhàng êm ả.
Lê Anh Xuân và Tế Hanh, hai nhà thơ miền Nam thuộc hai thế hệ cầm bút, sống và
sáng tác trong hai hoàn cảnh khác nhau nhưng cũng có những nét gần gũi trong


18

những bài thơ về quê hương, về người em gái miền Nam” [195, tr.200]. Chúng tôi
quan tâm đến những nhận định này, bởi trong sáng tạo nghệ thuật, phong cách không
tách rời cảm hứng và giọng điệu.
Trước đó (chương 5), tác giả biên soạn phần thơ có đoạn khái lược chất giọng
của một số cây bút trẻ khá thuyết phục, nhận diện đúng “hồn cốt” trong thơ họ: “Lê
Anh Xuân sôi nổi và thiết tha, Chim Trắng thủ thỉ ngọt ngào..., Nguyễn Khoa Điềm sôi
nổi mà sâu lắng, Trần Vàng Sao mạnh mẽ và phóng túng, Vũ Ngàn Chi hào hùng,...”
[195, tr.128 - 129].
Cũng trong công trình Văn học Việt Nam chống Mỹ cứu nước, có thể nói, lần
đầu tiên mảng thơ trẻ yêu nước tiến bộ vùng đô thị miền Nam được nghiên cứu theo

hướng tổng thể, hé lộ cách nhìn mới (chương 20: “Sức bật của một đội ngũ cầm bút
trẻ” - Thạch Phương viết). Thực ra trước đó, mảng thơ này đã được một số nhà phê
bình để ý: Giang Nam - “Vài suy nghĩ khi đọc tập “Thơ máu” của sinh viên Sài Gòn”,
Nguyễn Huy Khánh - “Hai mươi năm văn học yêu nước tại các thành thị miền Nam
1954 - 1975”, Trường Lưu - “Đề tài chiến tranh trong văn học miền Nam vùng tạm bị
chiếm”,... Nhưng nhìn chung, ý kiến đánh giá còn dè dặt, thậm chí nghiêng về phê
phán. Phải thừa nhận tính phức tạp của mảng thơ này, nhà phê bình Lê Quang Trang
viết: “nếu nhìn vào tình hình văn nghệ ở các đô thị dưới chế độ Sài Gòn thì phức tạp
nhân lên rất nhiều. Chỉ riêng khuynh hướng văn học cách mạng, yêu nước, tiến bộ
cũng không hề đơn giản” [185, tr.50]. Vả lại, một phần còn do sự ràng buộc của tư
duy chiến tranh, phải để sau cuộc chiến kết thúc một thời gian, nhà phê bình mới vững
tâm viết về nó. Thạch Phương khẳng định: “Có thể nói chưa bao giờ trong các thành
thị miền Nam có một đội ngũ làm thơ đông đảo và sung sức như những năm cuối 60
đầu 70, và cũng chưa bao giờ người làm thơ lại có ý thức sử dụng sáng tác của mình
đi sâu vào quần chúng để phục vụ cho cuộc đấu tranh như vậy” [195, tr.421]. Đi vào
cụ thể, tác giả biên soạn đã phác thảo một số nét nổi bật trong sáng tác của một số nhà
thơ tiêu biểu: Trần Quang Long, Thái Ngọc San, Đông Trình, Tần Hoài Dạ Vũ, Võ
Quê, Trần Vạn Giã,... Những ý kiến của Thạch Phương, theo chúng tôi, là sự cụ thể
hóa quan niệm: “Bắc - Nam một nước, văn nghệ một nhà”, hữu ích đối với các nhà
nghiên cứu văn học.


19

Nhìn chung, trong những năm đất nước chiến tranh và vừa ra khỏi chiến tranh,
dõi theo diễn trình vận động của dòng thơ trẻ thời chống Mỹ, phần đa các bài viết đều
nghiêng về phát hiện, giới thiệu, bình phẩm sáng tác của một số nhà thơ tiêu biểu. Còn
nghiên cứu ở dạng tổng thể, “xâu chuỗi” toàn bộ dòng thơ trẻ với tư cách là một hiện
tượng nghệ thuật trong một công trình khoa học thì chưa nhiều. Do dòng thơ trẻ đang
vận động (trong chiến tranh) và vừa đi hết lộ trình của nó (thập niên đầu sau chiến

tranh), độ giãn thời gian chưa là bao, nên nhìn đại thể, tuy đã có một số công trình
nghiên cứu làm rõ những đóng góp của các nhà thơ trẻ vào nền văn học chống Mỹ,
nhưng về thành tựu của cả thế hệ nhà thơ (nhìn từ cảm hứng, giọng điệu, thi pháp,...)
thì phải sau 1986 mới được triển khai với tư cách là những đề tài khoa học chuyên
ngành.
2.2. Giai đoạn từ đổi mới 1986 đến nay
Điều mà ai cũng dễ nhận thấy: trước 1986, phần lớn các công trình nghiên cứu
thơ trẻ thời chống Mỹ đều nghiêng về mặt nội dung tư tưởng. Phải bắt đầu từ giai
đoạn đất nước bước vào đổi mới (1986) trở về sau, hình thức nghệ thuật mới được chú
trọng đúng mức; nhiều vấn đề được khám phá, nhận thức lại. Đồng thời cũng nảy sinh
những ý kiến trái chiều, thậm chí cực đoan: hoặc khẳng định “giá trị tuyệt đối” của
thơ trẻ thời chống Mỹ, hoặc “phủ nhận sạch trơn” thành tựu của dòng thơ này. Kỳ
thực cả hai đều không công bằng, chưa khoa học. Tuy nhiên, nhìn tổng thể, số công
trình nghiên cứu có sự đánh giá hợp lí vẫn nhiều hơn, nổi trội hơn.
Do có sự ứng dụng lý thuyết phê bình văn học phương Tây nên nhiều vấn đề
thuộc nội dung và nghệ thuật của thơ trẻ thời chống Mỹ được tiếp cận theo hướng
mới, bóc tách thành các đề tài chuyên sâu, hay chuyển sang sử dụng thuật ngữ khác
(như phong cách, cảm hứng, giọng điệu, cái tôi trữ tình, thi pháp thể loại, đặc điểm
thẩm mỹ, tư duy nghệ thuật,...).
Khó tính hết những bài viết về thơ trẻ thời chống Mỹ đăng trên các tờ báo và
tạp chí. Số lượng công trình nghiên cứu dòng thơ này khá nhiều, đủ các tầm độ. Ở đây
chúng tôi chỉ điểm một số công trình tiêu biểu, liên quan đến đề tài luận án mà bản
thân đang nghiên cứu.


20

Những Lịch sử văn học Việt Nam tập III [94], Giáo trình Văn học Việt Nam tập
II [79], Một thời đại mới trong văn học [109], 50 năm văn học Việt Nam sau Cách
mạng tháng Tám [110], Văn học Việt Nam trong thời đại mới [80], Tiếp cận và đánh

giá văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám [81], Văn học Việt Nam hiện đại,
nhận thức và thẩm định [3], Tiến trình thơ Việt Nam hiện đại [73], Tư duy và tư duy
thơ Việt Nam hiện đại [160], Thơ với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước [54],... là
những công trình nghiên cứu khá quy mô, trong đó mức này mức khác đều có phân
tích, đánh giá thơ trẻ thời chống Mỹ.
Riêng ở Lịch sử văn học Việt Nam tập III và Giáo trình Văn học Việt Nam tập
II, thơ trẻ thời chống Mỹ được tách thành một chương (tiêu đề “Thế hệ các nhà thơ trẻ
thời kì chống Mỹ cứu nước”). Có thể coi đó như công trình nghiên cứu dòng thơ này
tương đối trọn vẹn. Các tác giả biên soạn giáo trình tái khẳng định thơ trẻ thời chống
Mỹ có chất giọng riêng, rất đặc trưng: “Họ tạo ra một tiếng thơ rất mới mẻ: trẻ trung,
tươi nhộn, thông minh, rất có ý thức về trách nhiệm lịch sử của mình đồng thời cũng
rất ý thức về tiếng thơ riêng của thế hệ mình... tạo được giọng thơ đặc trưng cho tâm
hồn người lính thời chống Mỹ” [94, tr.53]; và chú ý đến “cái tôi thế hệ” - một thuật
ngữ mới, hướng tiếp cận mới trong nghiên cứu thơ trẻ thời chống Mỹ mà trước 1986
chưa có: “Cái tôi thế hệ là dạng thức tiêu biểu, nổi bật của cái tôi trữ tình trong thơ
các nhà thơ trẻ thời kì chống Mỹ” [79, tr.44]; “Thơ trẻ thời kì chống Mỹ là tiếng nói
của cái tôi thế hệ vừa trẻ trung vừa già dặn, vừa hồn nhiên trong cảm xúc và sâu lắng
suy tư” [94, tr.370]. Ý kiến các tác giả biên soạn hai giáo trình trên đã thuyết phục
trong đánh giá: “Thơ trẻ thời kì chống Mỹ tuy còn có những hạn chế, những non nớt
nhưng đã làm tròn sứ mệnh vinh quang của nó, có những đóng góp đáng ghi nhận,
xứng đáng là một hiện tượng nổi bật trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại” [94,
tr.387]. Ngoài chương nghiên cứu tổng thể dòng thơ này, một số nhà thơ tiêu biểu như
Lê Anh Xuân, Nguyễn Khoa Điềm, Phạm Tiến Duật, Xuân Quỳnh, Trần Đăng Khoa
cũng được các nhà biên soạn dành từng chương riêng để nghiên cứu chuyên sâu từng
tác giả theo hướng tiếp cận mới. Đây là hai công trình được sử dụng làm giáo trình
chính thức trong các trường Đại học và Cao đẳng Sư phạm, hàm lượng khoa học rất
cao.



×