Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Chiến dịch Điện Biên Phủ 1954

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (639.21 KB, 29 trang )

Giảng viên: Th.S Nguyễn Thị Chính

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN:
1.1. Bối cảnh lich sử:
1.1.1. Thế giới:
Kế hoạch Navarre:
Tháng 7/1953, chỉ huy mới của Pháp, tướng Henry Navarre
đến Đông Dương. Được sự hứa hẹn về việc Mỹ tăng viện trợ quân
sự, Navarre chuẩn bị cho một cuộc tổng tấn công mà báo chí Pháp
và Mỹ gọi là "Kế hoạch Navarre".
Ngày 18-7-1953, Navarre mở cuộc hành quân "Con én" vào
Lạng Sơn và cuộc hành binh "Camargue" vào Quảng Trị phá hủy
được một số dụng cụ và máy móc của Việt Minh. Ở Lạng Sơn,
Pháp tự tuyên bố diệt được hai tiểu đoàn, một số căn cứ của địch
trong khu tam giác là mối hăm dọa trên quốc lộ số 1 (Trung Việt).
Liên tiếp với hai cuộc hành quân này, mồng 9-8-53 Pháp rút
quân ra khỏi Na Sản bằng không vận. Trước đây, năm 1952, Pháp
đặt chiến lũy Na Sản để ngăn Việt Minh trên con đường tiến của họ
qua xứ Lào.
Cùng lúc đó, tướng Võ Nguyên Giáp đang chuẩn bị cho một
cuộc tấn công lớn hơn vào Lào. Với 5 sư đoàn, ông hy vọng sẽ mở
được một con đường xuyên Lào thọc qua Campuchia để sau đó hội
quân với lực lượng Việt Minh ở miền Nam để tấn công vào Sài
Gòn trong khi 60.000 du kích và 5 sư đoàn chủ lực ở miền Bắc sẽ
cầm chân Pháp tại đó. Đến tháng 12 năm 1953 và tháng 1 năm
1954, Việt Minh đã chiếm được phần lớn vùng Nam và Trung Lào.
Để đối phó, Navarre thiết lập một căn cứ quân sự ở vùng
Tây Bắc Việt Nam, chặn giữa tuyến đường chính của Việt Minh
sang Lào. Ông xem căn cứ này vừa là một vị trí khóa chặn, vừa là
một cái bẫy để nhử đối phương vào một trận đánh lớn theo kiểu
kinh điển và có tính chất quyết định mà tại đó họ sẽ bị tiêu diệt bởi


Đề tài: Chiến dịch Điện Biên Phủ 1954

1

Nhóm: 3


Giảng viên: Th.S Nguyễn Thị Chính

pháo binh và hỏa lực không quân Pháp. Navarre đã chọn Điện Biên
Phủ - vùng đất nằm trong một thung lũng lớn, cách Hà Nội 200
dặm đường không trong khi Pháp chỉ có khoảng 100 máy bay - và
nhường các điểm cao xung quanh cho Việt Minh, ông cho rằng khi
đó Việt Minh không đủ khả năng đưa pháo lên Điện Biên Phủ nên
sẽ không có nguy hiểm gì từ các điểm cao.
Tướng Giáp quyết định vào "bẫy", nhưng ông đưa vào Điện
Biên Phủ 4 sư đoàn cùng với một số lượng lớn pháo do Trung
Quốc viện trợ. Những hoạt động du kích của Việt Minh khắp nơi
không cho Pháp tập hợp một đội quân cơ động ứng cứu. Những
Đơn vị phòng không đầu tiên của Việt Minh được huấn luyện ở
Trung Quốc về nước tham chiến. Một lực lượng khổng lồ dân công
làm công tác vận tải. Các đơn vị mạnh nhất của Việt Minh bao vây
quân Pháp ở Điện Biên Phủ.
Cuộc vây hãm Điện Biên Phủ diễn ra từ ngày 13 tháng 3 đến
ngày 7 tháng 5 khi quân Pháp đầu hàng. Ở Washington đã có cuộc
tranh luận về việc Mỹ có nên trực tiếp can thiệp bằng quân sự,
nhưng tổng thống Eisenhower đã quyết định loại bỏ khả năng này
do chính quyền Anh sẽ không ủng hộ.
Cục diện chiến trường Đông Dương, tại thời điểm trong và
sau Chiến dịch Điện Biên Phủ, Việt Minh (tức Việt Nam Dân chủ

Cộng Hòa) kiểm soát khoảng 2/3 lãnh thổ Việt Nam, nhưng chủ
yếu là các vùng nông thôn và rừng núi, chưa kiểm soát được các
thành phố lớn, Pháp kiểm soát một số tỉnh đồng bằng và các thành
phố lớn đông dân cư, một số tỉnh đồng bằng nằm trong vùng tranh
chấp.
Điện Biên Phủ là chiến thắng quân sự lớn nhất của Việt
Minh trong toàn bộ chiến tranh Đông Dương. Trên phương diện
quốc tế trận này có một ý nghĩa rất lớn: lần đầu tiên quân đội của
Đề tài: Chiến dịch Điện Biên Phủ 1954

2

Nhóm: 3


Giảng viên: Th.S Nguyễn Thị Chính

một quốc gia thuộc địa châu Á đánh thắng bằng quân sự một quân
đội của một cường quốc châu Âu. Trận Điện Biên Phủ đã đánh bại
ý chí duy trì thuộc địa Đông Dương của Pháp và buộc nước này ra
khỏi Đông Dương. Ngày 8 tháng 5, hội nghị Giơnevơ bắt đầu họp
bàn về vấn đề khôi phục hòa bình ở Đông Dương.
Thực dân Pháp được sự hỗ trợ của các thế lực đế quốc đã
quay trở lại xâm lược nước ta. Ngày 19/12/1946 với tinh thần “thà
hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không
chịu làm nô lệ” toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã nhất tề đáp lời
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch, anh dũng
bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ chống kẻ thù xâm
lược.
Thực hiện đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu

dài, dựa vào sức mình là chính, với vũ khí thô sơ và tinh thần “cảm
tử cho Tổ quốc quyết sinh”, quân và dân ta đã lần lượt đánh bại các
chiến lược quân sự của thực dân Pháp. Quân ta càng đánh, càng
mạnh, càng thắng, quân viễn chinh Pháp càng ngày càng lún sâu
vào thế bị động, lúng túng. Vùng giải phóng mở rộng, chính quyền
dân chủ nhân dân được củng cố. Đến năm 1953, nhân dân và quân
đội ta đã làm chủ trên chiến trường, tạo ra sự so sánh lực lượng có
lợi cho ta.
Để cứu vãn tình thế, bước vào Thu – Đông năm 1953, thực
dân Pháp và can thiệp Mỹ đã cho ra đời Kế hoạch Nava tăng viện
lớn về binh lực và chi phí chiến tranh, mưu toan trong vòng 18
tháng sẽ tiêu diệt phần lớn bộ đội chủ lực của ta, kiểm soát lãnh thổ
Việt Nam và bình định cả Nam Đông Dương. Kế hoạch Nava là kế
hoạch chung, là nỗ lực cuối cùng của thực dân Pháp và can thiệp
Mỹ nhằm giành lại thế chủ động có tính quyết định về quân sự trên
chiến trường, làm cơ sở cho một giải pháp chính trị có lợi cho
Đề tài: Chiến dịch Điện Biên Phủ 1954

3

Nhóm: 3


Giảng viên: Th.S Nguyễn Thị Chính

chúng. Để đạt được mục tiêu đó, Pháp và Mỹ đã lập kế hoạch đến
năm 1954 quân chủ lực Pháp có 7 sư đoàn cơ động chiến lược với
27 binh đoàn làm nắm đấm thép.
Điện Biên Phủ là cứ điểm có ý nghĩa chiến lược khống chế
cả một vùng rộng lớn của Tây Bắc và Thượng Lào. Tuy là kế

hoạch nằm ngoài dự kiến ban đầu của Kế hoạch Nava của Pháp và
Mỹ, nhưng các tướng lĩnh Pháp và Mỹ đã liên tiếp cho tăng cường
lực lượng, xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm
mạnh nhất Đông Dương. Địch đã cho tập trung ở đây 16.200 quân
gồm 21 tiểu đoàn trong đó có 17 tiểu đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn
pháo binh, 1 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội xe tăng, 1 phi đội
không quân, 1 đại đội vận tải cơ giới. Tập đoàn cứ điểm Điện Biên
Phủ được bố trí thành 3 phân khu Bắc, Trung, Nam với 49 cứ
điểm, huy động toàn bộ lính dù và 40% lực lượng cơ động tinh
nhuệ nhất của Pháp ở Đông Dương; hệ thống hoả lực mặt đất khá
mạnh với 2 tiểu đoàn pháo 105mm, 1 đại đội pháo 155mm, 1 đại
đội súng cối 120mm được bố trí ở Mường Thanh và Hồng Cúm;
hai sân bay Mường Thanh và Hồng Cúm với gần 100 lần chiếc lên,
xuống mỗi ngày có thể vận chuyển khoảng 200 đến 300 tấn hàng
và thả dù từ 100 đến 150 tên địch, đảm bảo nguồn tiếp viện cho
quân Pháp trong quá trình tác chiến. Tập đoàn cứ điểm Điện Biên
Phủ là tập đoàn cứ điểm phòng ngự mạnh nhất của Pháp ở Đông
Dương lúc bấy giờ. Nava coi Điện Biên Phủ như “một pháo đài
không thể công phá”, là nơi thu hút để tiêu diệt bộ đội chủ lực của
ta. Điện Biên Phủ đã trở thành quyết chiến điểm của Kế hoạch
Nava.

Đề tài: Chiến dịch Điện Biên Phủ 1954

4

Nhóm: 3


Giảng viên: Th.S Nguyễn Thị Chính


1.1.2. Việt Nam:
Về phía ta, tháng 9/1953, Bộ Chính trị họp bàn và quyết định
mở cuộc tiến công chiến lược Đông – Xuân với phương châm: tích
cực, chủ động, cơ động, linh hoạt, tiêu diệt sinh lực địch, bồi
dưỡng lực lượng ta, chọn nơi địch sơ hở và nơi tương đối yếu mà
đánh, chọn những hướng địch có thể đánh sâu vào vùng tự do, đẩy
mạnh chiến tranh du kích, giữ vững thế chủ động, kiên quyết buộc
địch phải phân tán lực lượng. Quân và dân ta đã phối hợp với quân
và dân Lào, Campuchia liên tiếp mở chiến dịch và giành thắng lợi
ở Lai Châu, Trung Lào, Hạ Lào, Đông Campuchia, Tây Nguyên và
Thượng Lào, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, mở rộng vùng giải
phóng, làm phá sản âm mưu tập trung lực lượng của địch, buộc
quân Pháp phải phân tán lực lượng để đối phó trên khắp chiến
trường Đông Dương, đẩy chúng vào tình thế bị động chiến lược.
Khi phát hiện hướng tiến công chiến lược của ta vào Tây Bắc, Lai
Châu và Thượng Lào, Bộ chỉ huy quân viễn chinh Pháp đã cho
quân nhảy dù chiếm Điện Biên Phủ.
1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về chiến dịch Điện Biên Phủ:
Trước tình hình đó, ngày 06/12/1953, Bộ Chính trị họp và
nhận định Điện Biên Phủ là tập đoàn cứ điểm mạnh nhưng chỗ yếu
cơ bản của địch là bị cô lập. Về phía ta, Điện Biên Phủ là một trận
công kiên lớn nhất từ trước tới nay; diễn ra trên địa bàn rừng núi
hiểm trở, đường cơ động cho pháo khó khăn, thời gian chuẩn bị
cho chiến dịch gấp. Nhưng chiến dịch Điện Biên Phủ có ý nghĩa
quân sự, chính trị và ngoại giao rất quan trọng; khó khăn lớn nhất
của ta là vấn đề cung cấp hậu cần nhưng chúng ta có thể khắc phục
được. Bộ Chính trị quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ và
thông qua phương án tác chiến, thành lập Bộ Chỉ huy chiến dịch,
Đề tài: Chiến dịch Điện Biên Phủ 1954


5

Nhóm: 3


Giảng viên: Th.S Nguyễn Thị Chính

Đảng uỷ mặt trận do Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Tư lệnh kiêm
Bí thư Đảng uỷ chiến dịch. Chính phủ quyết định thành lập Hội
đồng cung cấp mặt trận do đồng chí Phạm Văn Đồng làm Chủ tịch.
Với ý nghĩa đặc biệt quan trọng của chiến dịch Bộ Chính trị và
Tổng Quân uỷ đã quyết định tập trung 4 đại đoàn bộ binh, 1 đại
đoàn công pháo với tổng quân số trên 40.000. Chấp hành quyết
định của Bộ Chính trị, mọi công việc chuẩn bị cho chiến dịch được
tiến hành khẩn trương; cả nước đã tập trung sức mạnh cho mặt trận
Điện Biên Phủ với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến
thắng”, các đơn vị bộ đội chủ lực nhanh chóng tập kết, ngày đêm
bạt rừng, xẻ núi mở đường, kéo pháo, xây dựng trận địa, sẵn sàng
tiến công địch; 261.451 dân công, thanh niên xung phong bất chấp
bom đạn hướng về Điện Biên bảo đảm hậu cần phục vụ chiến dịch.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ:
2.1. Nhận xét về tình hình:
2.1.1. Âm mưu của địch:
Trong tình hình kế hoạch Nava bước đầu bị phá sản, Pháp –
Mỹ đã tập trung xây dựng Điện Biên Phủ thành “ Pháo đài không
thể công phá” nhằm thu hút lực lượng của ta vào để tiêu diệt.
Lực lượng địch ở đây rất mạnh gồm 16.200 tên, đủ các binh
chủng và phương tiện chiến tranh, đươc bố trí thành một hệ thống
phòng ngự mạnh gồm 49 cứ điểm chia thành 3 phân khu.

Điện Biên Phủ trở thành khâu chính của kế hoạch Nava.

Đề tài: Chiến dịch Điện Biên Phủ 1954

6

Nhóm: 3


Giảng viên: Th.S Nguyễn Thị Chính

2.1.2. Chủ trương của ta:
Chọn Điện Biên Phủ thành điểm quyết chiến chiến lược.
Tích cực chuẩn bị với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất
cả để chiến thắng” đã huy động 261.464 dân công vận chuyển hàng
tấn lương thực và vũ khí ra mặt trận.
Bộ đội từ các hướng hành quân về bao vây Điện Biên Phủ,
hàng trăm km đường hầm được đào ôm chặt Điện Biên Phủ.
2.2. Thực hiện hoạt động:
2.2.1. Diễn biến:
Ngày 25/01/1954, các đơn vị bộ đội ta ở vị trí tập kết sẵn
sàng nổ súng theo phương châm tác chiến “đánh nhanh, giải quyết
nhanh”. Nhưng nhận thấy địch đã tăng cường lực lượng phòng ngự
vững chắc, Bộ Chỉ huy và Đảng uỷ chiến dịch đã đưa ra quyết định
đúng đắn: giữ vững quyết tâm tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên
Phủ, thay đổi phương châm tác chiến sang “đánh chắc, tiến chắc”.
Đây là quyết định đúng đắn nhưng ta cũng gặp không ít khó khăn.
Đó là, thời gian tác chiến dài hơn, cách đánh cũng khác nên có
những việc ta phải chuẩn bị lại từ đầu, nhất là việc tổ chức, bố trí
hệ thống hoả lực chiến dịch. Với địa hình hiểm trở, pháo của ta kéo

vào tập trung tại trận địa đã khó khăn, nay thay đổi phương châm
tác chiến lại phải kéo pháo phân tán ra các trận địa mới trên các
điểm cao tạo thành vòng cung bao vây tập đoàn cứ điểm Điện Biên
Phủ, để bắn trực tiếp vào các mục tiêu dưới lòng chảo càng khó
khăn hơnoc . Với tinh thần quả cảm, không quản ngại gian khổ, hy
sinh, quân và dân ta đã tìm mọi cách vượt qua thử thách hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ.
Trận đánh diễn ra trong 55 ngày đêm vì quân Việt Minh có
khó khăn trong hậu cần nên không thể tiến công liên tục mà chia
Đề tài: Chiến dịch Điện Biên Phủ 1954

7

Nhóm: 3


Giảng viên: Th.S Nguyễn Thị Chính

thành các đợt tiến công. Sau mỗi đợt lại tổ chức lại quân số, bổ
sung hậu cần.
Trận quyết chiến lược Điện Biên Phủ đã diễn ra 3 đợt.
ĐỢT 1: từ 13/3 đến 17/3/1954, Quân Việt Minh tiêu diệt
quân khu Bắc của tập đoàn cứ điểm. 17 giờ 5 phút chiều ngày 13
tháng 3 năm 1954, trận đánh bắt đầu. Quân đội Nhân dân Việt Nam
sau đợt bắn pháo dữ dội, tiến công một trong các cứ điểm kiên cố
nhất là cụm cứ điểm Him Lam (Béatrice) và sau một đêm đã chiếm
xong cụm cứ điểm này; sau đó đến 17 tháng 3 Việt Minh lần lượt
mỗi ngày diệt một cứ điểm: đồi Độc Lập (Gabrielle), Bản Kéo
(Anne Marie 1, 2) và toàn bộ phân khu Bắc.
Ngay từ những ngày đầu (từ 23 tháng 3) pháo binh của Việt

Nam đã loại bỏ khả năng cất, hạ cánh của sân bay Mường Thanh
và Hồng Cúm, từ đó trở đi các máy bay Pháp chỉ còn tiếp tế được
cho tập đoàn cứ điểm bằng cách thả dù điều này cho thấy cầu hàng
không mà bộ chỉ huy Pháp đặt nhiều kỳ vọng thực tế là rất yếu kém
trước cách đánh áp sát của đối phương.
Nói riêng về đạn pháo, trong quá trình chiến đấu tại ĐBP
người Pháp đã bắn hết hơn 110.000 quả đạn lựu pháo cỡ 105mm
trở lên. Việt Minh đã bắn 20.000 quả 105mm, trong số này có
5.000 quả là đoạt được từ dù tiếp tế của đối phương.
Ngay từ những ngày đầu của đợt 1 quân Pháp đã nhận thức
rõ được những điểm yếu chết người của mình và tương lai thất bại
rõ ràng nhưng họ vẫn tăng cường cầm cự Điện Biên Phủ đến mức
tối đa vì hy vọng khi mùa mưa đến Việt Minh không thể giải quyết
vấn đề hậu cần và sẽ bỏ cuộc, Điện Biên Phủ sẽ tránh được đầu
hàng. Sau đó khi mùa mưa không giúp được, bộ chỉ huy Pháp hy
vọng cầm cự càng lâu càng tốt để Hội nghị Genève sẽ nhóm họp
vào đầu tháng 5, sẽ có ngừng bắn trước khi tập đoàn sụp đổ.
Đề tài: Chiến dịch Điện Biên Phủ 1954

8

Nhóm: 3


Giảng viên: Th.S Nguyễn Thị Chính

Nhưng hy vọng này cũng không có được, Điện Biên Phủ đầu hàng
một ngày trước khi nhóm họp Hội nghị Giơnevơ về vấn đề Đông
Dương.
ĐỢT 2: từ 30/3 đến 30/4/1954, Việt Minh đánh phân khu

trung tâm đặc biệt là dẫy điểm cao quan trọng phía đông, vây lấn
bóp nghẹt tập đoàn cứ điểm. Đây là đợt tiến công vào phân khu
trung tâm chủ yếu nhằm chiếm dẫy đồi phía đông khống chế cánh
đồng Mường Thanh (các cụm Dominique và Eliane). Tại đây hai
bên đánh nhau giành đi giật lại các mỏm đồi có tính sống còn đối
với tập đoàn cứ điểm, đặc biệt là các đồi A1 (Eliane 2), C1 (Eliane
1), D1 (Dominique 2), thương vong của hai bên rất lớn. Phía Pháp
dựa vào hầm ngầm, lô cốt để cố thủ và đưa quân từ các điểm khác
dùng xe tăng và lình dù, lính lê dương (légionnaire) để phản kích,
các cứ điểm này vì có tính sống còn với quân Pháp đã được quân
phòng ngự chiến đấu ngoan cường, quyết liệt phản kích liên tục để
giữ vững và đã chống cự đến ngày cuối cùng của tập đoàn cứ điểm.
Để chống lại các cứ điểm phòng ngự kiên cố của quân Pháp,
quân đội Việt Minh đã áp dụng chiến thuật "vây lấn" rất có hiệu
quả bằng hệ thống chiến hào họ đào các giao thông hào dần dần
bao vây và siết chặt, tiếp cận dần vào các vị trí của Pháp. Các chiến
hào này tránh cho quân tiến công thương vong vì pháo binh và
không quân địch và vào sát được vị trí của quân địch, làm vị trí bàn
đạp tấn công rất thuận lợi. Quân Pháp ngay từ ngày đầu tiên của
trận đánh đã nhận thức rất rõ sự nguy hiểm của cách đánh này mà
không có phương sách nào để khắc chế. Quân Việt Minh vây lấn
đào hào cắt ngang cả sân bay, đào hào đến tận chân lô cốt cố thủ,
khu vực kiểm soát của quân Pháp bị thu hẹp đến mức không thể
hẹp hơn.
Đề tài: Chiến dịch Điện Biên Phủ 1954

9

Nhóm: 3



Giảng viên: Th.S Nguyễn Thị Chính

Cuộc chiến đấu tại Điện Biên Phủ càng ngày càng yếu thế
cho phía Pháp. Quân Pháp chỉ còn trông đợi vào dù tiếp tế nhưng
phạm vi chiếm đóng bị thu hẹp và máy bay bị hệ thống phòng
không của Việt Minh đánh mạnh nên dù tiếp tế và cả lính nhảy dù
phần nhiều rơi sang phía đối phương. Mùa mưa lại tới, hầm hố của
quân phòng thủ trở nên lầy lội thương binh không di tản đi được,
lính chết không có chỗ chôn, bệnh tật, đường ruột phát sinh, đối
phương lại áp sát bắn tỉa, tiếp tế thiếu mà việc lấy được dù cũng vô
cùng khó khăn đi kèm với thương vong: quân Pháp thường phải
đói khát đến đêm mới dám ra lấy dù. Tình cảnh của quân Pháp
ngày càng bi đát và đi đến cùng cực. Điện Biên Phủ cho thấy khi bị
bao vây cô lập thì một tiền đồn dù mạnh đến đâu rồi cũng sẽ bị tiêu
diệt.
Đây là đợt tấn công dai dẳng, dài ngày nhất, quyết liệt nhất,
gay go nhất, ta và địch giành giật nhau từng tấc đất, từng đoạn giao
thông hào. Đặc biệt tại đồi C1 ta và địch giằng co nhau tới 20 ngày,
đồi A1 giằng co tới 30 ngày. Sau đợt tấn công thứ 2 khu trung tâm
Điện Biên Phủ đã nằm trong tầm bắn các loại súng của ta, quân
địch rơi vào tình trạng bị động, mất tinh thần cao độ. Quân Việt
Minh phất cờ chiến thắng.

Lá cờ “quyết chiến quyết thắng” tung bay trên nóc hầm chỉ huy tướng
De Castries

Đề tài: Chiến dịch Điện Biên Phủ 1954

10


Nhóm: 3


Giảng viên: Th.S Nguyễn Thị Chính

ĐỢT 3: từ 1/5 đến 7/5/1954, Việt Minh đánh dứt điểm dẫy
đồi phía đông và tổng tiến công tiêu diệt các vị trí còn lại. Sau khi
lực lượng của Pháp đã trở nên tuyệt vọng, suy kiệt, bổ sung bằng
dù không còn đủ để duy trì sức chiến đấu, và quân Pháp ở Bắc bộ
cũng đã hết lính dù và lính légionnaire có thể ném tiếp xuống Điện
Biên Phủ, quân Việt Minh tổ chức đợt đánh dứt điểm các quả đồi
phía đông. Để chống lại hệ thống hầm ngầm cố thủ không thể xung
phong đánh chiếm được trên đồi A1 có vị trí quyết định, bộ đội
công binh Việt Nam đã đào một hầm ngầm phía dưới và cho nổ 1
tấn thuốc nổ hất tung hệ thống hầm ngầm cố thủ cuối cùng. Đến
sáng ngày 7/5, các quả đồi phía đông này đã thất thủ hoàn toàn mà
phía Pháp không còn lực lượng khả dĩ chiếm lại, Quân đội Nhân
dân Việt Nam tổng tiến công trên khắp các mặt trận quân Pháp đã
sức tàn lực kiệt quyết định đầu hàng, Quân đội Nhân dân Việt Nam
bắt Thiếu tướng chỉ huy Christian de Castries và toàn ban tham
mưu tập đoàn cứ điểm.
Cụm phân khu Nam Hồng Cúm mưu toan chạy sang Lào
nhưng bị quân Việt Minh đuổi theo tất cả đã bị bắt không đi thoát.
Gần 10.000 số quân Pháp còn lại tại Điện Biên Phủ đã bị bắt làm tù
binh.
Sau 55 ngày đêm chiến đấu dũng cảm, mưu trí, sáng tạo
quân và dân ta đã đập tan toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ,
tiêu diệt và bắt sống 16.200 tên, bắn rơi 62 máy bay, thu 64 ô tô và
toàn bộ vũ khí, đạn dược, quân trang quân dụng của địch.


Đề tài: Chiến dịch Điện Biên Phủ 1954

11

Nhóm: 3


Giảng viên: Th.S Nguyễn Thị Chính

Cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 – 1954 với đỉnh
cao là chiến dịch Điện Biên Phủ là một trận quyết chiến chiến lược,
một trận tiêu diệt điển hình nhất, là trận đầu đánh thắng Mỹ, trực
tiếp đưa đến việc ký Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh
lập lại hoà bình ở Đông Dương. Tạo cơ sở và điều kiện để nhân
dân ta tiến lên giành thắng lợi vĩ đại trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
2.2.2. Kết quả:
Toàn bộ quân Pháp ở Điện Biên Phủ bị tiêu diệt và bị bắt
làm tù binh. Thiệt hại về phía Pháp là 1.747 người chết, 5.240
người bị thương, 1.729 người mất tích và 11.721 bị bắt làm tù binh.
Ngoài ra còn có 2 phi công Mỹ chết và 1 bị thương.
Thiệt hại về phía Việt Minh theo Việt Minh là 4.020 người
chết, 10.130 người bị thương và 792 mất tích. Hiện nay tại ĐBP,
có 3 nghĩa trang liệt sỹ trận này là nghĩa trang phía gần đồi Độc
Lập, nghĩa trang gần đồi Him Lam và nghĩa trang gần đồi A1, lần
lượt các nghĩa trang trên có 2432, 896 và 648 ngôi mộ. Tổng cộng
là 3976 ngôi. Do một trận lũ lớn vào năm 1954 mà 3972 ngôi là liệt
sỹ chưa biết tên. Chỉ có 4 ngôi được đặt riêng biệt là mộ các anh
hùng Bế Văn Đàn, Tô Vĩnh Diện, Phan Đình Giót, Trần Can là còn

biết được.

Đề tài: Chiến dịch Điện Biên Phủ 1954

12

Nhóm: 3


Giảng viên: Th.S Nguyễn Thị Chính

Một ngày sau khi Pháp để Điện Biên Phủ thất thủ, ngày
8/5/1954, Hội nghị Giơnevơ bắt đầu bàn về vấn đề Đông Dương.
Sau hội nghị này, Pháp công nhận quyền tự do, thống nhất, chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các nước Đông Dương trong đó có
Việt Nam, chính thức chấm dứt chế độ thực dân Pháp tại Đông
Dương.
2.2.3. Ý nghĩa lịch sử của chiến thắng Điện Biên Phủ:
2.2.3.1. Quốc tế:
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ mang tầm vóc thời đại,
góp phần to lớn vào phong trào đấu tranh vì hoà bình, tiến bộ của
nhân loại.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ giáng một đòn chí mạng
vào nền móng của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, đánh sập thành
luỹ của chủ nghĩa thực dân cũ ở vị trí xung yếu nhất, đánh dấu sự
sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi toàn thế giới; báo
hiệu sự thất bại chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chủ nghĩa
thực dân mới do đế quốc Mỹ cầm đầu.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là chiến thắng chung của
các nước trên bán đảo Đông Dương, chiến thắng của phong trào

cộng sản và công nhân quốc tế, của phong trào đấu tranh vì hòa
bình, tiến bộ xã hội trên toàn thế giới.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ của dân tộc ta đã chứng
minh một chân lý của thời đại: các dân tộc bị áp bức, bị xâm lược
nếu có ý chí kiên cường và đường lối đúng đắn, sáng tạo, biết đoàn
kết đấu tranh vì độc lập tự do thì dân tộc đó nhất định thắng lợi; đã
thôi thúc và cổ vũ các nước thuộc địa ở châu Á, châu Phi, Mỹ la
tinh đứng lên đấu tranh tự giải phóng, thoát khỏi ách xâm lược của
chủ nghĩa thực dân, đế quốc.
Đề tài: Chiến dịch Điện Biên Phủ 1954

13

Nhóm: 3


Giảng viên: Th.S Nguyễn Thị Chính

2.2.3.2. Trong nước:
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta chiến
thắng lịch sử Điện Biên Phủ là một trong những đỉnh cao chói lọi,
một kỳ tích vẻ vang của thời đại Hồ Chí Minh.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chiến thắng
lịch sử Điện Biên Phủ là chiến thắng vĩ đại nhất, giáng đòn quyết
định tạo bước ngoặt lịch sử làm thay đổi hẳn cục diện chiến tranh
giữa ta và địch trực tiếp đưa đến việc ký kết Hiệp định Giơnevơ về
chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã kết thúc thắng lợi cuộc
kháng chiến chín năm chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ; chấm
dứt hoàn toàn ách xâm lược của thực dân Pháp trên đất nước ta và

các nước trên bán đảo Đông Dương; bảo vệ và phát triển thành quả
cách mạng Tháng Tám; một nửa nước được giải phóng, tạo cơ sở
và điều kiện vững chắc để nhân dân ta tiến lên giành thắng lợi vĩ
đại trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ giải phóng miền
Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã làm tăng niềm tự hào
dân tộc, niềm tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện; cổ
vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân một lòng, một dạ chiến đấu dưới
lá cờ vẻ vang của Đảng vì nền độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh
phúc của nhân dân.

Đề tài: Chiến dịch Điện Biên Phủ 1954

14

Nhóm: 3


Giảng viên: Th.S Nguyễn Thị Chính

2.2.4. Nguyên nhân thắng lợi:
Đảng ta, đứng đầu là Hồ Chủ tịch đã đề ra đường lối kháng
chiến, đường lối quân sự độc lập, đúng đắn, sáng tạo. Kết hợp chặt
chẽ nhiệm vụ chiến lược chống đế quốc và phong kiến, vừa kháng
chiến vừa kiến quốc xây dựng chế độ mới. Ngay từ ngày đầu
chống thực dân Pháp xâm lược, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân thực
hiện cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, dựa vào sức mình là
chính; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân gồm 3 thứ quân (bộ
đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích) làm nòng cốt

cho toàn dân đánh giặc, kết hợp chặt chẽ chiến tranh du kích với
chiến tranh chính quy; tiến công quân sự, địch vận và nổi dậy của
quần chúng; đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, kinh tế, văn
hoá, ngoại giao. Trong trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ,
lòng yêu nước và tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” đã
tạo nên tinh thần quyết chiến, quyết thắng của toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân, quyết tâm đánh thắng kẻ thù xâm lược, giành độc lập, tự
do cho dân tộc.
Nhân dân ta rất anh hùng, từ nông thôn đến thành thị, từ
miền núi đến miền xuôi, từ trẻ đến già nghe theo lời kêu gọi của
Đảng và Bác Hồ đã phát huy cao độ tinh thần yêu nước, chủ nghĩa
anh hùng cách mạng ra sức thi đua xây dựng hậu phương vững
chắc, thi đua giết giặc lập công, đóng góp sức người, sức của bảo
đảm đầy đủ mọi điều kiện cho chiến trường, tiếp thêm ý chí quyết
chiến, quyết thắng cho các lực lượng vũ trang ngoài mặt trận.
Các lực lượng vũ trang nhân dân ta trưởng thành vượt bậc về
tư tưởng chính trị, lực lượng, tổ chức chỉ huy, trình độ tác chiến,
trang thiết bị quân sự và bảo đảm hậu cần cho chiến dịch quân sự
quy mô lớn chưa từng có; chấp hành nghiêm mệnh lệnh chiến
trường vượt qua mọi khó khăn, thử thách, mưu trí, sáng tạo, dũng
Đề tài: Chiến dịch Điện Biên Phủ 1954

15

Nhóm: 3


Giảng viên: Th.S Nguyễn Thị Chính

cảm hy sinh lập nhiều chiến công trên khắp chiến trường Đông

Dương, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ ở chiến trường Điện Biên
Phủ.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ còn có sự chi viện, cổ vũ
và ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa, phong trào đấu tranh vì
hoà bình của nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới, trong đó có cả
nhân dân Pháp, đặc biệt là của các nước trên bán đảo Đông Dương
cùng chung chiến hào, đã tạo nên sức mạnh thời đại của chiến
thắng lịch sử Điện Biên Phủ.
2.3. Tại sao nói thắng lợi ở Điện Biên Phủ đã có tác dụng quyết định
đối với hòa bình ở Việt Nam?
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã giáng đòn quyết định,
đập tan nỗ lực cuối cùng của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, trực
tiếp đưa đến việc ký kết Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến
tranh lập lại hoà bình ở Đông Dương. Một nửa nước được giải
phóng, mở ra thời kỳ cách mạng mới đưa miền Bắc quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, làm hậu phương vững chắc cho sự nghiệp đấu tranh
giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Chiến thắng Điện Biên
Phủ đã trở thành di sản tinh thần quý báu. Tiếp nối chiến thắng lịch
sử Điện Biên Phủ năm 1954 dân tộc ta đã viết tiếp bản anh hùng ca
chói lọi trong thời đại Hồ Chí Minh lập chiến công hiển hách Điện
Biên Phủ trên không năm 1972; Chiến dịch Hồ Chí Minh năm
1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, đưa cả nước đi lên chủ
nghĩa xã hội; giành được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch
sử trong công cuộc đổi mới hơm 20 năm qua đưa đất nước ta lên
một tầm cao mới, thế và lực mới, chủ động hội nhập quốc tế.
Kỷ niệm 55 năm Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ chúng
ta tự hào về Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh, một Đảng Mác
Đề tài: Chiến dịch Điện Biên Phủ 1954

16


Nhóm: 3


Giảng viên: Th.S Nguyễn Thị Chính

– Lênin chân chính; tự hào về Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà văn hóa
kiệt xuất - anh hùng giải phóng dân tộc, người sáng lập và rèn
luyện Đảng ta; tự hào về dân tộc anh hùng, về các lực lượng vũ
trang nhân dân, về Quân đội nhân dân Việt Nam bách chiến, bách
thắng.
Hiện nay tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến động:
Các nước lớn tranh giành ảnh hưởng, xu thế hình thành thế giới đa
cực ngày càng rõ sẽ tác động đến tình hình chính trị và kinh tế thế
giới; cuộc khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế ở nhiều nước
còn diễn biến phức tạp; chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung
đột dân tộc, tôn giáo, hoạt động khủng bố vẫn diễn ra có thể gây
mất ổn định ở khu vực và nhiều nơi trên thế giới.
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP:
3.1. Định hướng:
3.1.1. Hiệp định Giơnevơ 1954:
Ngày 26/4/1954, giữa lúc quân ta chuẩn bị mở đợt tấn công
thứ 3 ở Điện Biên Phủ thì Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương khai
mạc.
Ngày 8/5/1954, phái đoàn của ta do ông Phạm Văn Đồng
làm trưởng đoàn đến hội nghị với tư thế đại biểu cho một dân tộc
chiến thắng.
Trong quá trình hội nghị, chúng ta kiên trì đấu tranh chống
âm mưu phá hoại của Pháp – Mỹ và các thế lực phản động quốc tế.
Ngày 21/7/1954, Hiệp định Giơnevơ được kí kết với các văn

bản đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, Lào, Campuchia và bản tuyên
bố cuối cùng.
Hiệp định Giơnevơ 1954 về Đông Dương được ki kết đã kết
thúc cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp có đế quốc Mỹ
Đề tài: Chiến dịch Điện Biên Phủ 1954

17

Nhóm: 3


Giảng viên: Th.S Nguyễn Thị Chính

giúp sức đối với ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia và bản tuyên
bố cuối cùng.
Trong đó nội dung Hiệp định Gionevơ chỉ rõ:
+ Tôn trọng độc lập, thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ của ba nước Đông Dương, không can thiệp vào nội bộ 3 nước
này.
+ Ngừng bắn, tập kết, chuyển quân, chuyển giao khu vực,
lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến quân sự tạm thời cùng một khu phi
quân sự ở 2 bên giới tuyến.
+ Quy định tháng 7/1956 sẽ tiến hành hiệp thương, tổng
tuyển cử để thống nhất Việt Nam dưới sự kiểm soát của một ủy
ban quốc tế.
+ Thành lập Ủy ban lien hợp Việt – Pháp, Ủy ban giám sát
và kiểm soát quốc tế để đảm bảo việc thi hành các điều khoản của
hiệp định.
3.1.2. Nhiệm vụ Cách mạng Việt Nam thời kỳ mới:
Trong tình hình đất nước tạm thời bị các thế lực đế quốc bên

ngoài ( Mĩ) câu kết với bọn phản động trong nước ( Diệm) chia cắt
làm 2 miền, Đảng và Chính phủ đã đề ra cho cách mạng mỗi miền
những nhiệm vụ chiến lược phù hợp với đặc điểm tình hình và yêu
cầu của cách mạng từng miền, nhằm chấm dứt tình trạng đất nước
bị chia cắt.
Trước khi bắt đầu những nhiệm vụ của cách mạng xã hội
chủ nghĩa, miền Bắc phải trải qua giai đoạn hoàn thành cải cách
ruộng đất, đấu tranh để tiếp quản miền Bắc, hàn gắn vết thương
chiến tranh, khôi phục kinh tế. Kết hợp đấu tranh bảo vệ chống phá
miền Bắc vừa đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước.
Đề tài: Chiến dịch Điện Biên Phủ 1954

18

Nhóm: 3


Giảng viên: Th.S Nguyễn Thị Chính

Nhiệm vu, mục tiêu của cách mạng mỗi miền, xét cho cùng
cũng là nhiệm vụ, mục tiêu chung của cách mạng cả nước, là đều
phải đánh Mĩ và tay sai của chúng, giải phón miền Nam, bảo vệ
miền Bắc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong
cả nước, thống nhất Tổ quốc, tạo điều kiện để cả nước đi lên chủ
nghĩa xã hội.
Hậu phương và tiền tuyến, cách mạng hai miền Bắc Nam do
đó có quan hệ gắn bó với nhau, phối hợp với nhau, tác động qua lại
và thúc đẩy lẫn nhau, tạo điều kiện cho nhau phát triển. Thắng lợi
giành được ở mỗi miền là thắng lợi chugn của cách mạng hai miền,

của sự nghiệp chống Mĩ cứu nước của toàn dân tộc.
3.2. Những giải pháp của Đảng và Nhà nước ở thời kì hậu 1954:
3.2.1. Tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can
thiệp vào công việc nội bộ của nhau, không dùng vũ lực hoặc đe dọa
dùng vũ lực:
Đây là nguyên tắc cơ bản, là quan điểm nhất quán trong
quan hệ đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta và phù hợp với quy định
của luật pháp quốc tế. Việt Nam tôn trọng độc lập, chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ,quyền lựa chọn chế độ chính trị của các nước
trên thế giới, không can thiệp, dùng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực
trong quan hệ với các nước khác, kiên quyết chống lại sự can thiệp,
áp đặt, xâm phạm đến độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của
đất nước ta.
Tực hiện nguyên tắc này chúng ta phát huy cao độ tinh thần
độc lập tự chủ, đề cao cảnh giác, kiên quyết đấu tranh và làm thất
bại mọi âm mưu và hành động can thiệp bằng : diễn biến hòa bình”
của các lực lượng thù địch.

Đề tài: Chiến dịch Điện Biên Phủ 1954

19

Nhóm: 3


Giảng viên: Th.S Nguyễn Thị Chính

3.2.2. Giải quyết các bất đồng và tranh chấp thông qua thương lượng:
Trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến phức tạp, sự bất
đồng và tranh chấp giữa các nước, các khu vực về kinh tế, chính

trị, dân tộc, tôn giáo, biên giới… là khó tránh khỏi. Với tinh thần
đổi mới, phương châm xử lý quan hệ quốc tế của chúng ta là hòa
bình, tôn trọng độc lập chủ quyền của mỗi nước, phát huy những
điểm tương đồng, hạn chế những điểm bất đồng, kiên quyết phản
đối dùng vũ lực, giải quyết các tranh chấp bằng thương lượng hòa
bình.
Đây là nguyện vọng chung của tất cả nhân dân trên thế giới,
và là một nguyên tắc chỉ đạo hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà
nước ta.
3.2.3. Tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi:
Quyền bình đẳng giữa các quốc gia, dù lớn hay nhỏ đã được
khẳng định trong Hiến chương Liên hiệp quốc. Thực hiện quyền
bình đẳng chính là đảm bảo quyền sống, quyền tự do, mưu cầu
hạnh phúc và phát triển của mỗi dân tộc, khẳng định sự tôn trọng
lẫn nhau, thực hiện quyền bình đẳng thể hiện tư thế và vị trí chính
đáng của Việt Nam trong quanh quốc tế.
Cùng có lợi là nguyên tắc khách quan, có ý nghĩa toàn diện
và lâu dài. Nó yêu cầu tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau, thúc
đẩy hợp tác cùng có lợi, không làm tổn hại đến của mỗi bên với các
nước khác theo tinh thần là đối tác tin cậy, lâu dài của nhau, thực
hiện đầy đủ các cam kết, thỏa thuận, chống áp đặt, cường quyền.

Đề tài: Chiến dịch Điện Biên Phủ 1954

20

Nhóm: 3


Giảng viên: Th.S Nguyễn Thị Chính


Các loại pháo trong chiến dịch Điện Biên Phủ:
Pháo 105 mm M2A1 (hay còn gọi là M101A1) do nước Mỹ thiết
kế trước thế chiến tứ hai.
Từ năm 1941 pháo 105mm được đưa vào sản xuất hàng loạt, nó
nhanh chóng triển khai chống lại quân phát xít Nhật ở khu vực Thái Bình
Dương và tại đây loại pháo này được ca ngợi là có độ chính xác cao và uy
lực mạnh mẽ.
Pháo 105 mm có tổng trọng lượng khoảng 2,2 tấn, dài 5,94 m, cao
1,73 m. Pháo này có thiết kế khóa nòng theo phương ngang, thiết bị
chống giật khí thủy lực. Loại này có tầm bắn khoảng 11 km, sơ tốc đầu
đạn 472 m/giây.

Lựu pháo 105 mm M2A1 tại bảo tàng chiến thắng Điện
Biên Phủ.
Ảnh: quansuvn.net

Đề tài: Chiến dịch Điện Biên Phủ 1954

21

Nhóm: 3


Giảng viên: Th.S Nguyễn Thị Chính

Lựu pháo 10 5mm M2A1 trong chiến dịch Điện Biên Phủ được
trang bị cho cả quân Pháp và Quân đội nhân dân Việt Nam.
Phía ta được viện trợ từ Trung Quốc (do Mỹ viện trợ cho quân
Tưởng, khi quân Tưởng thua thì Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc

thu lại được), còn phía Pháp nhận trực tiếp từ Mỹ.
Lựu pháo 155 mm M1:
Pháo 155 mm M1 do Mỹ thiết kế sản xuất và sử dụng trong chiến
tranh thế giới lần thứ hai.

Lựu pháo 155 mm M1. (Ảnh: quansuvn.net)
Tổng trọng lượng chiến đấu của pháo nặng 5,6 tấn, dài 7,3 m và
cao 1,8 m. Pháo có tầm bắn gần 15 km, sơ tốc đầu đạn 563 m/giây. Tốc
độ bắn duy trì liên tục 40 viên/giờ. Một khẩu đội pháo gồm 11 người.
Tại Điện Biên Phủ, quân Pháp chỉ có 4 khẩu loại này.

Sơn pháo 75 mm kiểu 41:
Đề tài: Chiến dịch Điện Biên Phủ 1954

22

Nhóm: 3


Giảng viên: Th.S Nguyễn Thị Chính

Sơn pháo 75 mm kiểu 41 do Nhật sản xuất và được sử dụng rộng
rãi trong chiến tranh thế giới thứ hai.
Loại pháo này có trọng lượng 544 kg, dài 4,3 m. Pháo có tầm bắn
7.000 m, sơ tốc đầu đạn 435 m/giây. Trong quân đội Nhật Bản thì một
khẩu đội pháo 75 mm kiểu 41 gồm 13 người.

Sơn pháo 75 mm kiểu 41 tại bảo tàng lịch sử quân sự Việt Nam.
Quân đội ta chủ yếu thu được pháo 75 mm từ tay quân Nhật năm
1945, có thể sau này phía Trung Quốc cũng viện trợ cho ta một ít (Trung

Quốc thu được của Nhật sau thế chiến lần thứ hai).

Súng cối 120mm M1938:

Đề tài: Chiến dịch Điện Biên Phủ 1954

23

Nhóm: 3


Giảng viên: Th.S Nguyễn Thị Chính

Súng cối 120 mm M1938 do Liên Xô thiết kế sản xuất được sử
dụng rộng rãi cho Hồng Quân trong thế chiến thứ hai chống lại quân Đức.

Súng cối 120 mm M1938 do Liên Xô sản xuất.
Trong thế chiến thứ hai, quân Đức phát xít tỏ ra “hâm mộ” loại
súng cối này nên đã tự sản xuất cối 120 mm tương tự mang tên
Granatwefer 42. Sau chiến tranh nó vẫn tiếp tục được chế tạo cho hồng
quân Liên Xô và mang bán hoặc viện trợ cho các nước đồng minh.
Tổng trọng lượng pháo cối 120 mm M1938 là 280kg, chiều dài
nòng 1,8 m. Sử dụng cơ chế nạp đạn bằng đầu nòng súng. Cối 120mm có
tầm bắn khoảng 6.000 m, sơ tốc đầu đạn 272 m/giây.
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, đơn vị pháo binh của ta được
trang bị một ít loại này, có thể được viện trợ trực tiếp từ Liên Xô hoặc từ
Trung Quốc.
Ngoài ra, trong biên chế các tiểu đoàn pháo (thuộc các trung đoàn
của đại đoàn công pháo 351) có pháo cối 82 mm M1937 cũng do Liên Xô
sản xuất.

Pháo phản lực H-6 75 mm:

Đề tài: Chiến dịch Điện Biên Phủ 1954

24

Nhóm: 3


Giảng viên: Th.S Nguyễn Thị Chính

H-6 là loại pháo phản lực phóng loạt cỡ 75 mm do Trung Quốc
thiết kế sản xuất và viện trợ cho Việt Nam.

Pháo phản lực H-6 cỡ 75 mm. (Ảnh: quansuvn.net)
H-6 bao gồm sáu nòng cỡ 75 mm. Nó được đưa vào sử dụng trong
những ngày cuối cùng của chiến dịch Điện Biên Phủ.
Chiến dịch Điện Biên Phủ diễn ra từ 13/3 tới ngày 7/5/1954 và trải
qua ba giai đoạn.
Ngay trong giai đoạn đầu, pháo binh quân ta đã làm cho quân Pháp
phải kinh hồn bạt vía, tên chỉ huy pháo binh Pháp ở Điện Biên Phủ đã tự
sát.
Trong suốt các giai đoạn sau, pháo binh luôn đóng vai trò yểm trợ
bộ binh xung kích, tấn công tiêu diệt các mục tiêu quân địch tại Điện
Biên.
Sau 55 ngày đêm chiến đấu anh dũng, đúng 17h30 quân ta chiếm
sở chỉ huy địch bắt sống tướng Đờ Cát và toàn bộ ban tham mưu tập đoàn
cứ điểm Điện Biên Phủ. Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi

Đề tài: Chiến dịch Điện Biên Phủ 1954


25

Nhóm: 3


×