Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

đánh giá chế định sở hữu và hợp đồng trong bộ luật Dân sự La Mã

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.78 KB, 7 trang )

Lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới

Lớp N05

MỤC LỤC

MỞ BÀI
Ở thời hậu kì pháp luật la mã đã có một bước phát triển rực rõ tiêu biểu là bộ luật
I.

dân sự và bộ luật này đã có những chế định hoàn thiện tương đối thể hiện được trình
độ lập pháp của các nhà lập pháp la mã thời hậu kì và đã đạt được nhiều thành quả
trong đó vẫn được kế thừa đến tận ngày nay. Và hai trong số những thành quả nổi bật
nhất của bộ luật Dân sự La Mã là chế định về quyền sở hữu tài sản và chế định hợp

Lo Văn Dương

1

Nhóm NO9


Lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới

Lớp N05

đồng. Để làm rõ hơn về hai chế định này, em xin được đi vào “đánh giá chế định sở
hữu và hợp đồng trong bộ luật Dân sự La Mã”.
II. NỘI DUNG
1.
Chế định về quyền sở hữu tài sản.


Đây chế định duy nhất mà các luật gia La Mã chưa đưa ra được khái niệm chính
xác về quyền sở hữu cũng như nội dung quyền sở hữu, nhưng họ đã chỉ ra được
những quyền năng cơ bản của chủ sở hữu tài sản. Những quyền năng đó bao gồm:
quyền sử dụng tài sản (Ius Utendi) đây là quyền khai thác những lợi ích kinh tế từ tài
sản phù hợp với tính năng, tác dụng của tài sản đó; quyền thu nhận thành quả và lợi
nhuận (Ius Fruendi) về nguyên tắc chủ sở hữu là người hưởng thành quả và lợi nhuận
từ tài sản thuộc sở hữu của mình; quyền định đoạt tài sản (Ius Abutendi) bao gồm
định đoạt số phận thực tế cũng như số phận pháp lý của tài sản như bán, thừa kế, ban
tặng, thậm chí là hủy bỏ; quyền chiếm hữu tài sản (Ius Possidendi) và quyền đòi lại
tài sản (Ius Vicicandi). Về nguyên tắc chung, chủ sở hữu tài sản có toàn quyền đối
với tài sản của mình, thực hiện hành vi mà pháp luật không cấm.
Người La Mã căn cứ vào giá trị về mặt pháp lý của tài sản để chia tài sản thành
hai loại là Res mancipi (đất đai, nô lệ, động vật - những phương tiện sản xuất chủ yếu
của người nông dân) và Res nes mancipi (những tài sản còn lại). Lúc đầu chỉ có công
dân La Mã mới được quyền sở hữu ruộng đất còn dân nhập cư và dân ở các địa
phương khác không có quyền. Tuy nhiên quyền sở hữu được pháp luật ghi nhận còn
thực tế bình dân khác cũng sở hữu ruộng đất. Khác với luật La Mã, ở pháp luật
Lưỡng Hà, bộ luật Hammurabi phân loại tài sản căn cứ theo giá trị, khả năng di dời
của tài sản nên chia thành hai loại là động sản (nô lệ, gia súc..) và bất động sản (đất
đai, nhà ở…). Nhưng có điểm giống nhau giữa hai bộ luật là họ đều coi trọng loại tài
sản là đất đai (bất động sản), điều này có thể giải thích được bởi trong xã hội cổ đại,
đất đai chủ yếu là loại tư liệu sản xuất quan trọng nhất và cũng là loại tài sản có giá
Lo Văn Dương

2

Nhóm NO9


Lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới


Lớp N05

trị lớn nhất. Cần lưu ý rằng, không phải tài sản nào cũng là đối tượng của quyền sở
hữu, và không phải tài sản nào cũng được chiếm giữ, “ lưu thông” đó là tài sản chung
như nước chảy trên sông, không khí là của tất cả mọi người, đồ cấm như thuốc độc,
sách cấm, tài sản nhà nước..
Quyền sở hữu tài sản ở La Mã không phải quyền tài sản duy nhất và tuyệt đối.
Ngoài quyền sở hữu còn tồn tại quyền đối với tài sản của người khác:
• Pháp luật La Mã cho phép vì những nhu cầu sở hữu của cư dân ở các địa bàn khác

nhau mà người ta có thể xâm hại đến quyền tài sản của người khác. Ví dụ: do yêu
cầu canh tác ở nông thôn và sử dụng nước ở thành phố, người ta có thể dẫn nước qua
ruộng người khác hoặc đặt ống nước qua sân hàng xóm.
• Pháp luật La Mã quy định về quyền chiếm hữu tài sản. Đó là quyền khai thác lợi ích

vật chất và tinh thần từ tài sản của người khác trao cho mình chiếm giữ và ý muốn
thực hiện quyền đó. Chiếm hữu thực tế là căn cứ phát sinh chế định quyền sở hữu.
Chiếm hữu và quyền sở hữu có mối quan hệ hữu cơ với nhau, đôi khi người ta đồng
nghĩa chiếm hữu với quyền sở hữu. Tuy nhiên, các nhà làm luật La Mã cổ đại đã
tách biệt chiếm hữu khỏi quyền sở hữu phân biệt làm hai phạm trù khác nhau có thể
thuộc cùng một chủ thể, cũng có thể thuộc các chủ thể khác nhau. Đến pháp luật tư
sản mới xem chiếm hữu là một phần nội dung của quyền sở hữu.
Người La Mã phân chia quyền chiếm hữu tài sản thành:
Thứ nhất, Quyền chiếm hữu tài sản hợp pháp: quyền này ở bất kì thời điểm nào có
tranh chấp xảy ra luôn được pháp luật bảo vệ, chỉ phát sinh khi có hai căn cứ pháp lí:
bao giờ cũng phải được sự đồng ý của chủ sở hữu tài sản hợp pháp và phải phát sinh
thông qua một hợp đồng dân sự.
Thứ hai, Quyền chiếm hữu tài sản bất hợp pháp, bao gồm: Chiếm hữu tài sản bất hợp
pháp nhưng ngay thẳng: người chiếm hữu họ không biết việc chiếm hữu bất hợp pháp

(Ví dụ một người nào đó đã có tài sản từ một người không phải chủ sở hữu tài sản
Lo Văn Dương

3

Nhóm NO9


Lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới

Lớp N05

nhưng làm như là chủ sở hữu). Và chiếm hữu tài sản bất hợp pháp nhưng không ngay
thẳng (kẻ chiếm hữu này có thể là kẻ ăn cắp-kẻ biết bản thân không phải chủ sở hữu
tài sản nhưng vẫn làm như chủ sở hữu). Chiếm hữu này sẽ bị pháp luật trừng trị
nghiêm khắc.
Việc phân biệt chiếm hữu ngay thẳng hay chiếm hữu bất hợp pháp không ngay
thẳng có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền sở hữu cũng như xác lập quyền
sở hữu. Mặc dù chưa đưa ra được khái niệm chung nhất về quyền sở hữu tài sản song
nhưng nhà làm luật La Mã đã xây dựng tương đối đầy đủ nhưng quyền năng của chủ
sở hữu hợp pháp, đặc biệt là những quy định về quyền chiếm hữu tài sản đã trở thành
căn cứ pháp lí quan trọng để chủ sở hữu tài sản khi có tài sản bị xâm hại có cơ sở để
bảo vệ quyền tài sản của mình và người xét xử có cơ sở pháp lí để bảo vệ quyền của
chủ sở hữu tài sản hợp pháp. Chế định về quyền sở hữu tài sản đã thể hiện kỹ thuật
lập pháp tiến bộ của nhà nước La Mã cổ đại, làm cơ sở xây dựng, hoàn thiện khái
niệm, nội dung quyền sở hữu - vấn đề có ý nghĩa quan trọng của pháp luật dân sự
trong hệ thống pháp luật đương đại.
2.

Chế định hợp đồng

Theo tinh thần của luật La Mã, để hợp đồng có hiệu lực phải có các điều kiện

sau: Một là hợp đồng phải do sự thỏa thuận giữa hai bên, không được lừa dối, không
được dùng vũ lực. Luật La Mã quy định trong hợp đồng ý chí phải được thể hiện một
cách tự do và tự giác, hoàn toàn không bị sức ép từ bên ngoài, không có những
trường hợp lừa đảo, cưỡng chế hay sử dụng bạo lực. Hai là hợp đồng phải phù hợp
với qui định của luật pháp. Hợp đồng không thể là hành vi vi phạm luật pháp (các
thỏa thuận mang tính chất đầu cơ) hay chứa đựng nội dung vi phạm đạo đưc (hợp
đồng ép buộc không được kết hôn). Khác với bộ luật Hammurabi của Lưỡng Hà cổ
đại chỉ đặt điều kiện hợp đồng có hiệu lực ở hợp đồng mua bán, ta có thể thấy rằng
phạm vi quy định về chế định hợp đồng của luật La Mã rất rộng và sâu, thể hiện sự tự
Lo Văn Dương

4

Nhóm NO9


Lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới

Lớp N05

do, tự nguyện của các bên tham gia hợp đồng. Điều đó phần nào cho thấy kỹ thuật
lập pháp tiến bộ của luật La Mã.
Ở La Mã cổ đại, quá trình ký kết hợp đồng không giống nhau và hoàn toàn phụ
thuộc vào nội dung của từng hợp đồng. Hình thức hợp đồng có thể dưới dạng câu hỏi
như “ Liệu anh có hứa với ta trả cho ta từng này hay không?”. Sau câu trả lời tương
ứng từ phía người vay, hợp đồng xem như đã được ký kết. Luật La Mã không cho
phép ký hợp đồng qua đại diện, tính chất cá nhân trong quan hệ pháp lý được xem
trọng. Ở Lưỡng Hà cổ đại không như vậy, bộ luật Hammurabi quy định chế định hợp

đồng thiên về hình thức, hợp đồng thể hiện bằng văn bản và cần có người đại diện.
Trong thực tiễn xét xử, các luật gia La Mã đã phân hợp đồng thành hai loại:
Một là hợp đồng thực tại: nghĩa vụ thực hiện và trách nhiệm nảy sinh từ thời điểm
trao vật. Trong hợp đồng thực tại có hợp đồng bảo quản và hợp đồng vay mượn. Đối
với hợp đồng bảo quản, thời điểm phát sinh trách nhiệm kể từ khi nhận được vật.
Trong hợp đồng cho vay, người vay phải trả lại vật tương tự. Trong hợp đồng cho
mượn, người mượn phải trả chính vật được mượn. Hai là hợp đồng thỏa thuận, gồm
nhiều hình thức quan hệ pháp lý như mua bán, thuê mướn sức lao động, thuê súc vật,
thuê nhà ở, lĩnh canh ruộng đất…Thời điểm phát sinh nghĩa vụ của loại hợp đồng này
bắt đầu ngay sau khi ký hợp đồng, chứ không đợi đến sau khi trao vật. Có thế thấy,
việc phân loại hợp đồng La Mã giúp xác định chuẩn xác về trách nhiệm và nghĩa vụ
các bên tham gia khi một trong các bên có lỗi.
Khi một trong các bên tham gia sau khi ký kết đã không thực hiện hoặc thực
hiện chưa đầy đủ trách nhiệm và nghĩa vụ của mình thì phát sinh sự vi phạm hợp
đồng: hợp đồng vẫn có hiệu lực thì các bên vẫn phải thực hiện trách nhiệm và nghĩa
vụ còn lại của hợp đồng. Bên vi phạm phải bồi thường thiệt hại cho hành vi vi phạm
hợp đồng của mình gây ra, luật La Mã quy định là xuất hiện trái vụ. Về trái vụ, luật
gia Paven viết: “ bản chất của trái vụ là bắt buộc phải có nghĩa vụ với chúng ta, bắt
Lo Văn Dương

5

Nhóm NO9


Lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới

Lớp N05

người đó phải trao cho, làm một cái gì đó”. Trong trái vụ, bên vi phạm vì không thực

hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã vi phạm hợp đồng gọi là thụ trái,
những người bị thiệt hại bởi bên vi phạm gọi là trái chủ. Trách nhiệm bồi thường của
thụ trái đối với trái chủ mỗi thời kì không giống nhau: thời cổ đại trách nhiệm đó
được thực hiện hoàn toàn theo ý thức chủ quan của trái chủ kể cả trái chủ có bán thụ
trái, thậm chí thụ trái có bị giết thì trái chủ vẫn không bị coi là vi phạm pháp luật.
Nhưng đến thời quân chủ thì tất cả các hành vi trên đều bị cấm. Theo nguyên tắc
chung, hợp đồng bị hủy bỏ nếu có sự nhất trí của hai bên. Nhưng trên thực tế, trái vụ
có thể bị đình chỉ khi có một trong các điều kiện sau: hai bên thỏa thuận chuyển
khoản nợ cũ sang trái vụ mới, người chủ nợ từ chối quyền đòi hỏi của mình, hết thời
hiệu đưa đơn kiện (theo quy định của tòa án), người mắc nợ gặp phải thiên tai địch
họa không thể cưỡng lại được.
Quy định về trái vụ là một điểm tiến bộ của chế định hợp đồng trong luật Dân
sự La Mã cổ đại, điều mà ở bộ luật Hammurabi ở Lưỡng Hà cổ đại chưa có. Các biện
pháp đảm bảo hợp đồng được thực thi trên thực tế của luật La Mã là phải có sự bảo
lãnh của người trung gian, quy định tiền đặt cọc ( điểm này được pháp luật hiện đại
thừa kế).. Ở bộ luật Hammurabi các biện pháp đảm bảo là các chế tài hình sự và phạt
tiền. Điều này đã cho thấy kỹ thuật lập pháp rất tiến bộ của pháp luật La Mã, chế định
hợp đồng đã đạt tới sự phát triển rất cao.
III.

KẾT LUẬN

Qua những phân tích ở trên ta thấy được những điểm tiến bộ của pháp luật La-mã đã
đạt được những thành tựu nhất định song bên cạnh đó thì vẫn còn nhiều hạn chế.
Nhưng bộ luật dân sự mà cụ thể ở đây là chế định hợp đồng và chế định sở hữu của la
mã đã tạo tiền đề và nền tảng để cho ra đời những bộ luật dân sự sau này .

Lo Văn Dương

6


Nhóm NO9


Lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới

Lớp N05

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới,

2003, nxb Công an Nhân dân.
2. Khoa Luật trường đại học Quốc gia Hà Nội, PTS Nguyễn Ngọc Đào biên soạn, Luật

La Mã, 1994.
3. Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật La Mã.
4. />
hammurabi-va-luat-la-ma-thoi-cong-hoa-hau-ki.html

Lo Văn Dương

7

Nhóm NO9



×