Phong trào giải phóng dân tộc ở các nước Đông Nam Á sau chiến tranh
thế giới thứ hai
Phần I: Mở Đầu:
1. Lý do chọn đề tài:
Đông Nam Á là một vùng đất có tài nguyên thiên nhiên phong phú. Trong quá
trình phát triển Đông Nam Á cũng đã trải qua nhiều thăng trầm và biến động,
nhất là trong thời kì diễn ra những cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của quần
chúng nhân dân phát triển rất mạnh mẽ. Với sự ra đời và lãnh đạo tài tình của các
lược lượng giải phóng dân tộc và mặt trận dân tộc đã chèo chống “con thuyền”
đấu tranh chống lại sự xâm lược của các nước thực dân phương Tây và phát xít
Nhật qua những chặng đường rất khó khăn trong một thời gian dài.
Với đề tài “phong trào giải phóng dân tộc ở các nước Đông Nam Á sau chiến
tranh thế giới thứ hai”, tôi muốn làm rõ hơn về sự hình thành và phát triển của
cách mạng các nước,đã lựa chọn cho mình những con đường khác nhau phù hợp
với hoàn cảnh từng giai đoạn lịch sử của mỗi nước cụ thể trong cuộc đấu tranh
của dân tộc, để tiến tới xây dựng đất nước phát triển . Qua đó giúp bạn đọc có
một cách nhìn toàn diện và sâu sắc hơn về vấn đề này.Đồng thời cũng góp phần
tíh cực vào công việc học tập và giảng dạy môn học lịch sử thế giới nói chung và
phần lịch sử Đông Nam Á nói riêng của tôi sau này.
Tuy đã có nhiều cố gắng và nhưng đề tài này của tôi không thể tránh những hạn
chế và thiếu sót, vì vậy mong nhậnh được sự góp ý kiến của thầy cô hướng dẫn,
các thầy cô trong bộ môn lịch sử cũng như bạn đọc để đề tài được hoàn thiện
hơn.
Xin chân thành cám ơn!
Sinh viên: Nguyễn Thị Bích
1
Lớp: ĐHSP Văn – Sử K51
Phong trào giải phóng dân tộc ở các nước Đông Nam Á sau chiến tranh
thế giới thứ hai
2.Lịch sử vấn đề:
Phong trào giải phóng dân tộc ở các nước Đông Nam Á không phải là
một đề tài mới, cho đến nay đã có nhiều công trình và tài liệu nghiên cứu về vấn
đề này. Trong các công trình đó có nghiên cứu và trình bày về lịch sử Đông Nam
Á như: Lịch sử Đông Nam Á .GS.Lương Ninh chủ biên (nxb.Bộ giáo dục và đào
tạo); Lược sử Đông Nam Á .Phan Ngọc Liên chủ biên.(nxb. Giáo dục); hay các
bài viết trên các Tạp chí lịch sử…Qua các công trình nghiên cứu đó cho thấy vấn
đề Đông Nam Á là một vấn đề không phải là đơn giản mà rất phức tạp. Từ mảnh
đất đó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu tiếp tục đào xới về mảng đề tài này.
Đề tài phong trào giải phóng dân tộc ở Đông Nam Á sau chiến tranh thế
giới thứ hai của tôi đã trình bày một cách khái quát đầy đủ. Đề tài này cũng có
tham khảo những tài liệu được nêu trên cũng như các bài giảng trên các trang
web điện tử…
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu :
a. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là phong trào giải phóng dân tộc ở các nước
Đông Nam Á.
b. Phạm vi nghiên cứu :
Đề tài này tập trung nghiên cứu phong trào giải phóng dân tộc ở các nước Đông
Nam Á sau chiến tranh thế giới thứ hai.
4.Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh làm cơ sở khoa học.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể là sử dụng phương pháp so sánh lịch sử,
phương pháp nghiên cứu lịch sử, phương pháp lôgich, phương pháp hệ thống và
trình bày một số ý kiến riêng của mình.
Sinh viên: Nguyễn Thị Bích
2
Lớp: ĐHSP Văn – Sử K51
Phong trào giải phóng dân tộc ở các nước Đông Nam Á sau chiến tranh
thế giới thứ hai
5. Đóng góp của đề tài:
Thông qua các vấn đề nêu trên của Đông Nam Á đề tài này của tôi đã tập
trung làm rõ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước Đông Nam Á
sau chiến tranh thế giới thứ hai đã phát triển một cách rực rỡ trong giai đoạn này,
thể hiện tinh thần đoàn kết của các nước trong khu vực để đi đến thắng lợi cuối
cùng của đất nước là hoàn toàn độc lập .
Qua đó cũng cho chúng ta thấy rõ hơn sự phát triển của ý thức hệ các nước
trong việc lựa chọn cho mình con đường đi riêng để hoàn thành cuộc đấu tranh
của dân tộc. Việc tìm hiểu các vấn đề phong trào giải phóng dân tộc có thể rút ra
những bài học kinh nghiệm bổ ích, có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc về cuộc đấu tranh
của nhân dân Đông Nam Á trong công cuộc hoàn thành nền độc lập dân tộc để
hướng tới xây dựng và phát triển của đất nước.
6.Cấu trúc của đề tài:
Ngoài phần mở đầu và phần kết thúc đề tài của tôi còn có các nội dung chính
như sau:
Phần nội dung:
a.Chương I: Khái quát bối cảnh lịch sử Đông Nam Á trong chiến tranh thế giới
thứ hai.
- Phong trào giải phóng dân tộc ở Đông Nam Á trước chiến tranh thế giới thứ hai:
+ Nhật chiếm Đông Nam Á.
+ Cuộc đấu tranh chống phát xít của nhân dân Đông Nam Á.
b. Chương II: Phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước Đông Nam Á
sau chiến tranh thế giới thứ hai:
- Cách mạng Lào từ 1945-1975:
+ Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954).
+ Cuộc kháng chiến chống Mĩ xâm lược 1954-1975.
- Cách mạng Việt Nam:
Sinh viên: Nguyễn Thị Bích
3
Lớp: ĐHSP Văn – Sử K51
Phong trào giải phóng dân tộc ở các nước Đông Nam Á sau chiến tranh
thế giới thứ hai
+ Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954).
+ Cuộc kháng chiến chống Mĩ Cứu nước (1945-1975).
- Cách mạng Campuchia.
+ Trong những năm 1945-1954 chống thực dân Pháp xâm lược.
+ Cuộc kháng chiến chống Mĩ của Campuchia.
- Cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc ở Inđônêxia.
- Cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân Mlaixai.
- Philippin được trao trả độc lập.
- Nước Cộng hoà Xigapo thành lập.
- Miến Điện giành được độc lập.
- Brunây được trao trả độc lập.
- ĐôngTimo.
Sinh viên: Nguyễn Thị Bích
4
Lớp: ĐHSP Văn – Sử K51
Phong trào giải phóng dân tộc ở các nước Đông Nam Á sau chiến tranh
thế giới thứ hai
Phần II: NỘI DUNG
Chương I: KHÁI QUÁT BỐI CẢNH LỊCH SỬ ĐÔNG NAM Á
TRONG CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ II
1. Phong trào giải phóng dân tộc ở Đông Nam Á trước chiến tranh thế giới
thư hai
Đông Nam Á là một khu vực khá rộng lớn, có diện tích khoảng 4,5 triệu
km2, với số dân 528 triệu người ( năm 2000), nằm khoảng 92 0 đến 1400 kinh
Đông và từ 280 vĩ Bắc, chạy qua xích đạo đến 150 vĩ Nam. Hiện nay, Đông Nam
Á gồm có 11 nước: Việt Nam , Lào, Campuchia, Thái Lan, Mianma, Xingapo,
Inđônêxia, Philippin, Brunây, ĐôngTimo, Malaixia.
Đông Nam Á được xem là một khu vực có ý nghĩa quan trọng trong tiến
trình phát triển lịch sử của loài người. Với vị trí chiến lược quan trọng về quân
sự, thương mại, hàng hải, hàng không quốc tế nối liền Châu Á với các Châu lục
còn lại . Đông Nam Á còn được xem như là chiếc cầu nối là đầu nối giao thông
quan trọng giữa Đông và Tây. Bên cạnh đó, trong quá trình phát triển các quốc
gia cư dân Đông Nam Á có một đời sống khá cao. Đến thế kỷ XVI Đông Nam Á
đã nổi lên như một trong những trung vị trí địa lý quan trọng , giàu tài nguyên
thiên nhiên nên Đông Nam Á sớm trở thành trung tâm văn minh một khu vực địa
lý- lịch sử - văn hóa.
Với vị trí địa lí quan trọng, giàu tài nguyên thiên nhiên nên Đông Nam Á
đã sớm trở thành đối tượng xâm lược của các nước tư bản phương Tây. Khi chế
độ phong kiến ở các nước Đông Nam Á đang trên đà suy yếu mạnh ,vào nữa sau
thế kỷ XIX các nước tư bản Phương Tây đã đẩy mạnh các cuộc chiến tranh xâm
Sinh viên: Nguyễn Thị Bích
5
Lớp: ĐHSP Văn – Sử K51
Phong trào giải phóng dân tộc ở các nước Đông Nam Á sau chiến tranh
thế giới thứ hai
lược thuộc địa. Vì thế, hầu hết các nước Đông Nam Á đều trở thành thuộc địa
hoặc phụ thuộc vào các nước Phương Tây.
Mở đầu cho cuộc chinh phục Đông Nam Á của thực dân Châu Âu là Hà
Lan xâm chiếm Malácca, sau khi xâm chiếm Inđônêxia thì Hà Lan nhanh chóng
gạt đi vai trò của Bồ Đào Nha ở khu vực. Cũng trong thời gian này, bằng cuộc
thám hiểm táo bạo người Tây Ban Nha đã phát hiện ra quần đảo Philippin và đến
năm 1565 căn bản đã chinh phục được quần đảo này. Thực dân Anh xâm chiếm
Miến Điện , Mã Lai. Ở Đông Dương thì Pháp vào xâm lược Việt Nam, Lào,
Campuchia. Chỉ có Xiêm (Thái Lan) với cuộc cách tân đất nước đã thoát khỏi
thân phận là thuộc địa như các nước khác .
Mặc dù các nước tư bản phương Tây đã đặt được ách đô hộ ở các nước
Đông Nam Á nhưng trong quá trình xâm lược thì ngay từ đầu đã gặp phải sự
kháng cự của phong trào giải phóng dân tộc ở các nước Đông Nam Á một cách
mạnh mẽ . Sau thất bại của những cuộc khởi nghĩa “phò Vua cứu nước” mang ý
thức hệ phong kiến , tầng lớp tri thức mới ở nhiều nước đã hướng cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc theo con đường mới mang tư tưởng dân chủ tư sản.
Do sự xâm nhập của chủ nghĩa thực dân phương Tây, cơ cấu kinh tế - xã
hội của các nước Đông Nam Á bị xáo trộn một cách nghiêm trọng. Cùng với các
chính sách khai thác và bóc lột thuộc địa sử dụng chính sách thống trị triệt phá
nền kinh tế tự nhiên, tự cung, tự cấp đã lôi cuốn các nước Đông Nam Á vào bộ
máy sản xuất tư bản chủ nghĩa . Trong xã hội sự phân hóa giai cấp cũng diễn ra
một cách gay gắt hơn trên nền tảng của yếu tố tư bản chủ nghĩa .Với sự ra đời của
giai cấp tư sản đã đưa đến sự hình thành của hai khuynh hướng đấu tranh trong
phong trào giải phóng dân tộc của các quốc gia Đông Nam Á . Một khuynh
hướng chủ trương đấu tranh theo con đường bạo lực cách mạng và một con
đường chủ trương đấu tranh theo con đường cải lương. Bên cạnh các phong trào
đấu tranh do giai cấp tư sản lãnh đạo thì vào các thập niên 20 - 40 của thế kỷ
XX. Ở Đông Nam Á phong trào giải phóng dân tộc khu vực xuất hiện một xu
Sinh viên: Nguyễn Thị Bích
6
Lớp: ĐHSP Văn – Sử K51
Phong trào giải phóng dân tộc ở các nước Đông Nam Á sau chiến tranh
thế giới thứ hai
hướng cứu nước mới theo sự dẫn dắt của ý thức hệ tư tưởng Vô sản . Với thắng
lợi của cách mạng tháng mười Nga đã tác động một cách mạnh mẽ đến phong
trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước khu vực theo xu hướng vô sản . Vì
vậy, cuộc đấu tranh của nhân dân Đông Nam Á chống ách thống trị của chủ
nghĩa thực dân phương Tây đã diễn ra dưới những sắc thái khác nhau nhưng cốt
lõi là sự khơi dậy của ý thức dân tộc và tinh thần dân chủ.
Cùng với sự xuất hiện và tồn tại song song hai xu hướng cách mạng tư sản
và cách mạng vô sản phong trào đấu tranh giành độc lập ở các nước Đông Nam Á
đã đi theo hai con đường khác nhau:
Phong trào đấu tranh giành độc lập theo xu hướng tư sản do giai cấp tư sản
lãnh đạo cũng đã thể hiện tinh thần yêu nước cách mạng chống đế quốc và tính
thỏa hiệp yếu đuối do gắn bó quyền lợi với các nước đế quốc.
Ở Inđônêxia : Vào những thập niên cuối của thế kỷ XIX, phong trào giải
phóng dân tộc diễn ra sôi nổi, tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa ở Átgiê, ở Tây
Xumatơ ra, kéo dài 30 năm (1873-1904) ; khởi nghĩa Batắc, ở Đông Xumatơra
cũng tồn tại gần 30 năm (1878-1907)…
Những năm đầu thế kỷ XX, phong trào đấu tranh giành độc lập ở
Inđônêxia có những bước phát triển mới. Mở đầu cho phong trào đấu tranh là
việc thành lập công đoàn tiên của công nhân xe lửa năm 1905 với tên gọi S.S
Bond “Liên hiệp hỏa xa quốc gia”. Năm 1908, một tổ chức gọi là Buđi Utômô ra
đời ở Giacácta. Với hoạt động ban đầu chỉ mang tính chất phát triển văn hóa ,
giáo dục nâng cao hiểu biết cho quần chúng khơi dậy tinh thần độc lập và thu hút
đông đảo nhân dân tham gia .
Sau khi Buđi Utômô nhiều tổ chức đảng phái của người Inđônêxia yêu
nước ra đời và được nâng lên một tầng cao mới . Năm 1909 “Hiệp hội sinh viên
Ấn” do sinh viên Inđônêxia ở Hà Lan tổ chức, đến năm 1922 đổi thành “ Hiệp
hội sinh viên Inđônêxia”. Lúc đầu tổ chức này chủ trương truyền bá tư tưởng dân
chủ, nhưng ngày một lớn hơn và trưởng thành hơn nên mang tính chất chính trị
Sinh viên: Nguyễn Thị Bích
7
Lớp: ĐHSP Văn – Sử K51
Phong trào giải phóng dân tộc ở các nước Đông Nam Á sau chiến tranh
thế giới thứ hai
ngay càng đậm nét với mục tiêu đấu tranh giành độc lập cho dân tộc của nhân
dân Inđônêxia .
Trên cơ sở đó năm 1912 , các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của
nhân dân Inđônêxia đã đưa đến sự ra đời của Đảng cộng sản Inđônêxia, sau đổi
thành Đảng Quốc Dân, đã đấu tranh sôi nổi những năm 1926-1927, thì cuộc khởi
nghĩa của Xumatơra do Đảng Cộng sản lãnh đạo đã bị thất bại . Tuy rằng, bị thất
bại nhưng cơn bão táp cách mạng của quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản đã làm rung chuyển nền thống trị của thực dân Hà Lan ở Inđônêxia.
Sau thất bại của Đảng Cộng sản từ năm 1927 quyền lãnh đạo phong trào
cách mạng chuyển vào tay giai cấp tư sản dân tộc, đứng đầu là Xucácno. Với chủ
trương chống đế quốc, đoàn kết các lực lượng dân tộc, tiến hành đấu tranh dân
tộc bằng biện pháp hòa bình, và bằng phong trào bất hợp tác với chính quyền
thực dân. Đảng dân tộc đã chống giành được uy tín chính trị và trở thành lực
lượng dẫn dắt phong trào giải phóng dân tộc ở Inđônêxia .
Ở Philippin: Với đại diện của phong trào cách mạng theo khuynh hướng
cải lương là Hêxêridan. Sự chuẩn bị kỉ lưỡng về mặt chính trị, tư tưởng cho cuộc
đấu tranh chống thực dân Tây Ban Nha như qua các tác phẩm “ Đừng đụng đến
tôi”. Song Hêxêridan chủ tương đấu tranh bằng con đường hòa bình thông qua
việc đòi Philippin trở thành một tỉnh của Tây Ban Nha, yêu cầu khôi phục đại
diện của Philippin trong nghị viện Tây Ban Nha và đòi bình đẳng pháp luật cùng
với các quyền tự do dân chủ, tự do hội họp. Ngoài ra, ông còn đòi thủ tiêu các tòa
án dị giáo và hạn chế các đặc quyền đặc lợi của tầng lớp tăng lữ. Năm 1892,
Hôxêridan thành lập tổ chức “ Liên minh Philippin” thu hút chủ yếu các tầng lớp
tri thức, thương nhân ngoài ra còn có địa chủ, một số công nhân và nông dân. Với
chủ trương đường lối cải lương, ôn hòa để đòi cải cách, đòi bình đẳng giữa người
Tây Ban Nha và người Philippin, hạn chế các quyền của tăng lữ … vv. Sau một
thời gian hoạt động do không được sự ủng hộ của nhân dân nên tan rã.
Sinh viên: Nguyễn Thị Bích
8
Lớp: ĐHSP Văn – Sử K51
Phong trào giải phóng dân tộc ở các nước Đông Nam Á sau chiến tranh
thế giới thứ hai
Tiếp đó, tháng 2-1892 phong trào cách mạng của Bôphaxiô với tổ chức
“Liên minh những người con của nhân dân” đã thu hút nhiều nông dân và dân
nghèo thành thị, chủ trương đấu tranh giành độc lập dân tộc, chứ không đòi cải
cách chế độ cai trị ở Tây Ban Nha . Đây là một bước tiến quan trọng trong phong
trào yêu nước Philippin lúc bấy giờ. Tháng 8-1896, cuộc khởi nghĩa do Bôphaxiô
lãnh đạo nổ ra ở ngoại thành Manila với sự tham gia của đông đảo nhân dân để
thành lập nước Cộng hòa . Nghĩa quân đã giải phóng nhiều vùng đất rộng lớn ,
lấy đất của người giàu , nhà thờ chia cho người nghèo, thực hiện nhiều biện pháp
để cải thiện đời sống cho công nhân và dân nghèo thành thị . Tuy nhiên do mâu
thuẫn nội bộ nên Aghinanđô đã lật đổ Bôniphaxiô cùng tổ chức “Liên minh
những người con nhân dân” Aghinanđô lên nắm quyền chấp nhận ngừng bắn và
ký hiệp ước đầu hàng với Tây Ban Nha (11-1897). Mặc dù vậy cuộc do
Bôniphaxiô lãnh đạo được đánh giá là mốc mở đầu cho phong trào đấu tranh của
nhân dân Philíppin dưới ảnh hưởng của dân chủ tư sản. Cuộc khởi nghĩa này “có
ý nghĩa như sự kiện đầu tiên ở Đông Nam Á theo xu hướng mới - xu hướng dân
chủ tư sản”. Sau sự kiện đầu hàng của Aghinanđô phong trào đấu tranh chống
thực dân Tây Ban Nha tiếp tục phát triển.
Sau đó, lợi dụng phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân Philíppin, đế
quốc Mỹ đã can thiệp vào công việc nội bộ trở thành thuộc địa của Mỹ (1898).
Phong trào đấu tranh của nhân dân Philíppin chống Mỹ tiếp tục dâng cao. Do áp
lực đấu tranh của quần chúng nhân dân đế quốc Mỹ buộc phải trao trả quyền tự
trị cho nhân dân Philíp pin vào năm 1931.
Ở Mã Lai, đầu thế kỷ XX, với sự ra đời của tổ chức “Đại hội toàn Mã
Lai”. Phong trào đã chủ trương đòi quyền tự trị nhưng do sự khác biệt về tôn
giáo và dân tộc nên bị thực dân làm trở ngại cho việc tập hợp lực lượng thống
nhất trong cuộc đấu tranh chống lại thực dân Anh vì nền độc lập tự do của Mã
Lai.
Sinh viên: Nguyễn Thị Bích
9
Lớp: ĐHSP Văn – Sử K51
Phong trào giải phóng dân tộc ở các nước Đông Nam Á sau chiến tranh
thế giới thứ hai
Ở Miến Điện (Myanma), có “Phong trào Tha kin” đây là cuộc đấu tranh
đòi cải cách quy chế đại học đòi tự trị của sinh viên Miến Điện trong những năm
30 của thế kỷ XX (phong trào của những người làm chủ đất nước).
Cùng với phong trào xu hướng tư sản đã xuất hiện từ trước, xu hướng vô
sản trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở Đông Nam Á đã nhanh chóng phát
triển . Trong giai đoạn 5 năm 1920, Đảng cộng sản Inđônêxia được thành lập đại
diện cho nguyện vọng của nhân dân. Thì ở Việt Nam, sau thất bại của phong trào
Cần Vương, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc đã chuyển sang một hướng
mới đánh dấu bước tiến mới trong phong trào giải phóng dân tộc của Việt Nam.
Bên cạnh đó phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục và những cuộc vận
động Duy Tân theo khuynh hướng tư sản còn có phong trào đấu tranh yêu nước
của quần chúng nhân dân chống lại ách thống trị của thực dân pháp. Tuy nhiên
các phong trào ấy đều bị thất bại do thiếu của một sự lãnh đạo của một giai cấp
tiên tiến cách mạng , các phong trào chỉ mới là sự nổi dậy mà chưa có đường lối
cứu nước đúng đắn. Trên cơ sở đó Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã đánh dấu
sự trưởng thành của giai cấp công nhân Việt Nam và mở ra một thời đại mới
trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở khu vực Đông Nam Á. Đặc biệt
là đối với phong trào đấu tranh của ba nước Đông Dương Việt Nam, Lào,
Campuchia, đã chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối và lãnh đạo của cách
mạng dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương phong trào
cách mạng Việt Nam phát triển một cách mạnh mẽ, trở thành ngọn cờ đi đầu
trong cuộc đấu tranh chống thực dân theo xu hướng Vô sản, đấu tranh vũ trang
giành độc lập của phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
Trong số các nước Đông Nam Á, Thái lan được xem là một trường hợp
"đặc biệt”. Trước sự xâm nhập của thực dân phương Tây, Thái Lan đã thực hiện
chính sách mở cửa đa chiều. Ở trong nước Vua ChuLaLongCon (1868) đã tiến
hành Duy Tân đất nước theo kiểu tư bản chủ nghĩa. Nhưng về hình thức lại phụ
thuộc vào các nước thực dân về tài chính và ngoại giao. Chính điều đó đã tạo
Sinh viên: Nguyễn Thị Bích
10
Lớp: ĐHSP Văn – Sử K51
Phong trào giải phóng dân tộc ở các nước Đông Nam Á sau chiến tranh
thế giới thứ hai
điều kiện thuận lợi cho phép Thái Lan tiến hành cách mạng tư sản (1932 ) đã đưa
Thái Lan phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa.
Như vậy, từ những năm 20 của thế kỷ XX phong trào đấu tranh giải phóng
dân tộc ở Đông Nam phát triển theo một xu hướng mới đó là xu hướng vô sản tồn
tại song song với xu hướng tư sản . Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, chính sách
khai thác và bóc lột thuộc địa ở các nước đế quốc đã tác động trực tiếp đến các
nước Đông Nam Á, làm cho đời sống nhân dân cho Đông Nam Á càng lầm than,
khổ cực và đất nước kiệt quệ hơn. Vì thế mà phong trào chống đế quốc đã dâng
cao và phát triển mạnh mẽ hơn. Đồng thời với thắng lợi của cách mạng tháng
Mười Nga cũng đã tác động mạnh mẽ đến phong trào giải phóng dân tộc ở khu
vực này.
Hai phong trào tư sản và vô sản cùng tồn tại song song ở Đông Nam Á với
nhiều điểm khác biệt về ý thức hệ, về mục tiêu cuối cùng. Nhưng đứng trước mục
tiêu chung là độc lập dân tộc nên cả hai phong trào đã tồn tại song song, có
những lúc hết lúc kết hợp với nhau trong một chừng mực nhất định. Bởi lẽ đối
với nhân dân Đông Nam Á, kẻ thù lớn nhất là chủ nghĩa đế quốc. Và với sự ra
đời của Đảng cộng sản đã dẫn dắt phong trào đấu tranh chống đế quốc phát triển
hơn. Với giai cấp công nhân trở thành lực lượng nòng cốt lãnh đạo phong trào
cách mạng.
1.
Phong trào giải phóng dân tộc ở Đông Nam Á trong chiến tranh
thế giới thứ hai.
Cùng với sự phát triển của lịch sử Đông Nam Á, chiến tranh thế giới thứ
hai đã mở ra một giai đoạn mới trong phong trào giải phóng dân tộc ở các nước
Đông Nam Á. Chỉ trong giai đoạn 1940-1945, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc
ở Đông Nam Á đã gắn liền với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít. Năm
1940, được xem là mốc mở đầu cho một giai đoạn đấu tranh chống chủ nghĩa
phát xít Nhật của nhân dân Đông Nam Á. Tháng 9-1940, với sự kiện Nhật tấn
Sinh viên: Nguyễn Thị Bích
11
Lớp: ĐHSP Văn – Sử K51
Phong trào giải phóng dân tộc ở các nước Đông Nam Á sau chiến tranh
thế giới thứ hai
công Lạng Sơn và đổ bộ vào Hải Phòng, mở đầu cho cuộc chinh phục Đông Nam
Á của Nhật.
Cũng từ đây, cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít Nhật đã trở thành
nội dung chính của phong trào giải phóng dân tộc lúc này. Đồng thời, cũng để
hòa nhập với phong trào dân chủ chống phát xít trên thế giới, nhân dân Đông
Nam Á đã đấu tranh làm cho cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít ngày càng
sôi nổi và mạnh mẽ hơn.
a.
Nhật xâm chiếm Đông Nam Á.
Với sự hình thành và phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa phát xít Đức,
Italia, Nhật đã làm cho tình hình thế giới càng thêm bất ổn. Sau sự kiện 1-9-1939,
chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Tháng 5-1940, Đức tấn công Pháp, sau đó
Pháp đầu hàng. Ở Viễn Đông, quân phiệt Nhật đã đẩy mạnh chiến tranh xâm lược
Trung Quốc và cho quân tiến sát hơn tới biên giới Việt- Trung.
Ngày 22/9/1940, Nhật gửi tối hậu thư cho Pháp đòi thi hành hiệp định
Tôkiô. Cũng trong ngày này, Nhật đã cho quân vượt biên giới Việt – Trung tấn
công Lạng Sơn và ném bom Hải Phòng rồi đổ bộ lên Đồ Sơn mở đầu cho cuộc
chinh phục Đông Nam Á của phát xít Nhật.
Với sự lớn mạnh của phe phát xít trên thế giới, ở Đông Dương. Ngày 23-9,
Pháp kí hiệp định chấp nhận quân Nhật chiếm toàn bộ Đông Dương thuộc Pháp,
biển Đông Dương thành căn cứ chiến lược trong kế hoạch tiến quân cứ phía Nam
của họ. Sau sự kiện Trân Châu Cảng (17-12-1941), Nhật đã tự do xâm chiếm
Đông Nam Á tấn công xâm lược với tốc độ nhanh. Cùng với ngày Nhật tấn công
Trân Châu Cảng, quân đội Nhật đã đổ bộ vào bán đảo Mã Lai ném bom Xingabo.
Cùng với quá trình đẩy mạnh xâm lược ở Đông Nam Á, ở giai đoạn đầu Nhật đã
sử dụng chiêu bài “giải phóng Đông Nam Á” lợi dụng ưu thế tạm thời về hải quân
áp đảo Thái Bình Dương và vùng biển Đông Á. Chỉ trong vòng nữa năm, phát xít
Nhật đã nhanh chóng chiếm toàn bộ Đông Nam Á.
Sinh viên: Nguyễn Thị Bích
12
Lớp: ĐHSP Văn – Sử K51
Phong trào giải phóng dân tộc ở các nước Đông Nam Á sau chiến tranh
thế giới thứ hai
Ngày 8-12-1941, khi quân Nhật đổ bộ vào Thái Lan với lý do quá cảng
tiến công vào Miến Điện và Mã Lai thuộc Anh. Sau khi kháng cự không thành
công, Phibun tuyên bố trở thành đồng minh của Nhật. Đồng thời, năm 1942 Nhật
cũng đổ bộ và đánh chiếm Inđônêxia, Philíppin và xâm lược Miến Điện bằng hai
mũi tiên công từ lãnh thổ Xiêm. Quân Anh bị thất bại và rút lui, Hà Lan đầu
hàng. Vào tháng 4, 5 cuộc chiến tranh của Nhật ở Philíppin cũng vào giai đoạn
cuối.
Như vậy, Nhật đã khống chế làm chủ tất cả các đảo tại Đông Nam Á, tiến
sát tới Ôxtrâylia, Tân Tây Lan. Sau khi chiếm xong Đông Nam Á và Tây Nam
Thái Bình Dương, Nhật Bản đã khống chế một vùng đất rộng lớn 386 0000km
với 150 triệu dân nếu tính cả Triều Tiên cũng như những vùng đất mà Nhật
chiếm đóng lên tới 700000 km2 với 500 triệu người, đã hình thành một khối đế
quốc thực dân khổng lồ. Về cơ bản, Nhật đã thực hiện được kế hoạch “Khu vực
thịnh vượng chung Đại Đông Á và thực hiện âm mưu của mình trên các mặt
chính trị, kinh tế.
Về chính trị, thiết lập chế độ thống trị kiểu phát xít, thành lập các chính
phủ quân sự, ban bố lệnh giới nghiêm, thục hiện các chính sách mị dân…để lôi
kéo người bản địa ủng hộ người Nhật, chống lại thực dân phương Tây, thậm chí
gây ảo tưởng cho họ, và hứa hẹn một trật tự mới và nền độc lập cho các nước
Đông Nam Á, thành lập các chính phủ thân Nhật…Vì thế mà không ít người ở
Đông Nam Á như Xucácnô, Hat - ta của Inđônêxia, Phan Bội Châu ở Việt
Nam… đã hy vọng dựa vào Nhật để thoát khỏi thực dân Phương Tây, lấy lại nền
độc lập dân tộc mà họ đã đổ bao xương máu nhưng chưa được.
Về kinh tế: Sau khi chiếm đóng toàn bộ Đông Nam Á, quân Nhật đã thực
hiện chính sách áp bức, bóc lột một cách tàn bạo ở các nước thuộc địa. Mục đích
là khai thác các nguồn nguyên liệu, nhiên liệu, phục vụ chiến tranh và làm giàu
cho nước Nhật,các công ty của Nhật đóng ở khắp mọi nơi: Công ty Mítsubisi
khai thác đốt phá ở Đông Dương, khống chế xưởng tàu ở Xingapo , cao su, thiếc
Sinh viên: Nguyễn Thị Bích
13
Lớp: ĐHSP Văn – Sử K51
Phong trào giải phóng dân tộc ở các nước Đông Nam Á sau chiến tranh
thế giới thứ hai
ở Mã Lai.. Với sự bóc lột nặng nề của chủ nghĩa phát xít Nhật ở những năm 1944
-1945, đã đẩy nhân dân Đông Nam Á vào tình cảnh khốn khổ, đói kém như ở
Việt Nam, Inđônêxia, Philíppin…hàng triệu người dân bị điều động đi đắp hào,
đường sá, cầu cống, phục vụ cho cuộc chiến tranh của quân đội Nhật.
Với chính sách bóc lột tàn bạo của Nhật đã gây ra sự phản ứng một cách
mạnh mẽ của các nước Đông Nam Á, kể cả những người thân Nhật. Với sự áp
bức,bóc lột như vậy, đã thúc đẩy nhân dân Đông Nam Á nổi lên cao trào chống
Nhật cứu nước
b.Cuộc đấu tranh chống phát xít của nhân dân Đông Nam Á:
Từ năm 1940, phát xít Nhật tràn vào Đông Nam Á và cũng từ đây cuộc
đấu tranh của nhân dân Đông Nam Á đã chĩa mĩu nhọn vào phát xít Nhật. Do
cuộc đấu tranh chống phát xít Nhật đã trở thành nội dung chính của phong trào
đấu tranh giai đoạn này. Với nét nổi bật là sự ra đời của mặt trận dân tộc thống
nhất và xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng.
Ở Việt Nam năm 1941, Nguyễn Ái Quốc về nước, ở Pác Bó, Cao Bằng,
trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Đông Dương, Mặt trận thống nhất phản đế Đông Dương, cách mạng Việt Nam đã
từng bước đi lên giành thắng lợi. Tại Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Đông
Dương lần thứ 8 ( tháng 10 đến 19/05/1941) do Nguyễn Ái Quốc triệu tập đã nêu
rõ: Lúc này mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam và bọn đế quốc phát xít Pháp –
Nhật là mâu thuẫn chủ yếu phải tập trung giải quyết nhằm giải phóng dân tộc
Đông Dương. “Nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi
được độc lập tự do cho toàn thể dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia dân
tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm
cũng không đòi lại được…”.
Việc xây dựng lực lượng cách mạng tiến tới vũ trang khởi nghĩa được coi
trọng. Sau khi khởi nghĩa Bắc Sơn thất bại, một bộ phận vũ trang khởi nghĩa đã
chuyển sang xây dựng các đội du kích và thống nhất thành “Cứu quốc quân”.
Sinh viên: Nguyễn Thị Bích
14
Lớp: ĐHSP Văn – Sử K51
Phong trào giải phóng dân tộc ở các nước Đông Nam Á sau chiến tranh
thế giới thứ hai
Năm 1941, đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập, nhằm
phát động tập hợp đoàn kết toàn dân tộc chuẩn bị các lực lượng chính trị, lực
lượng vũ trang, căn cứ địa cách mạng chuẩn bị chớp lấy thời cơ tổng khởi nghĩa
giành chính quyền tạo nên thắng lợi lớn của cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Ở Lào: Sau khi phát xít Nhật đầu hàng đồng minh, cộng với thắng lợi lớn
của cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam, ngày 23/08/1945, nhân dân
Lào đã nổi dậy giành chính quyền, Chính phủ Lào ra mắt quốc dân và trịnh trọng
tuyên bố trước thế giới nền độc lập của nước Lào.
Ở Campuchia: Tuy thời cơ cách mạng đến nhưng do tình hình bất ổn,
Campuchia không có những thuận lợi như cách mạng Việt Nam và Lào. Vì thế đã
bỏ lỡ cơ hội giành độc lập. Đến khi Pháp xâm chiếm lại, chính quyền nhà nước
Campuchia vẫn nằm trong tay Xihanúc và thủ tướng Sơn Ngọc Thành.
Với tháng lợi của cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam, Lào đã
làm cho phong trào giải phóng dân tộc ở các nước còn lại ở Đông Nam Á, phong
trào nổi lên sôi nổi và ngày một mạnh mẽ hơn.
Ở Philíppin: Năm 1941, quân đội Nhật đổ bộ vào chiếm đóng và thiết lập
nền thống trị với chính phủ bù nhìn được dựng lên ngày 23/1/1942, các đảng phái
chính trị ở trong nước bị giải tán. Cũng như ở các nước khác Nhật thực hiện trao
trả “độc lập” và giúp đỡ nhóm những người thân nhật tuyên bố thành lập Cộng
hòa Philippin vào ngày 14/10/1943 do Giôsêloren làm tổng thống. Năm 1942,
Mặt trận dân tộc dân chủ thống nhất chống phát xít được thành lập sau đổi thành
Quân đội nhân dân chống Nhật gọi là Hukbalahap, do những người Cộng sản
lãnh đạo đây là đội quân nồng cốt trong cuộc kháng chiến chống Nhật . Dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản phong trào kháng Nhật cứu nước nổi lên một cách
mạnh mẽ ở hầu hết Philippin dưới mọi hình thức đấu tranh. Với sự kết hợp giữa
giai cấp tư sản dân tộc với các tổ chức yêu nước chống Nhật như “ Philippin tự
do”, “Người thợ săn” v.v… hợp tác với “Quân đội nhân dân đấu tranh chống
Nhật”. Trong quá trình kháng chiến chống Nhật cứu nước , Quân đội Philippin
Sinh viên: Nguyễn Thị Bích
15
Lớp: ĐHSP Văn – Sử K51
Phong trào giải phóng dân tộc ở các nước Đông Nam Á sau chiến tranh
thế giới thứ hai
đã đánh Nhật 1200 trận, loại khỏi vòng chiến đấu 25000 lính Nhật và ngụy quân,
giải phóng được một vùng đất rộng lớn taị đảo Lu xông.
Khi cuộc kháng chiến của các lực lượng yêu nước Philippin chống Nhật
sắp kết thúc đã gần đi đến độc lập thì với danh nghĩa quân Đồng minh giải giáp
Nhật của Mỹ tiến vào Philippin. Đàn áp các lực lượng yêu nước, kháng chiến của
Quân đội nhân dân kháng Nhật. Tuy vậy, trước phong trào đấu tranh của nhân
dân Philippin, ngày 4-6-1946 Philippin tuyên bố độc lập và thành lập chế độ
Cộng hòa .
Ở Inđônêxia: Sau khi quân đội Nhật đổ bộ vào Xumatơra và Giava ngày
9-3-1941, thực dân Hà Lan phải đầu hàng và nhường quyền thống trị Inđônêxia
cho trùm phát xít Nhật. Phong trào chống phát xít Nhật của nhân dân và binh lính
ở đây cũng nhiều lần nổi dậy kháng chiến. Ngay sau khi nhật đầu hàng, ngày
17-8-1945 đại diện các đảng phái và đoàn thể yêu nước đã soạn thảo và kí vào
Tuyên ngôn độc lập thành lập nước Cộng hòa Inđônêxia. Ngày 4-9-1945, chính
phủ Inđônêxia được thành lập, đứng đầu là Xucácnô. Hiến pháp mới được thông
qua, mở ra thời kỳ mới trong lịch sử Inđônêxia.
Ở Miến Điện : Tháng 8-1942, “Liên minh tự do chống phát xít” được
thành lập. Và cùng nhân dân đứng dậy làm bùng nổ phong trào đấu tranh chống
phát xít một cách rầm rộ, dưới sự chỉ đạo của “Liên minh tự do chống phát xít”.
Cùng với chiến tranh du kích chống Nhật, năm 1944 cuộc đấu tranh chống Nhật
ở Miến Điện phát triển thêm một bước,với việc thành lập căn cứ địa cách mạng
tại vùng núi Arakan và vùng núi Manđalay, số lượng thành viên của Liên minh
lên tới 20 000 người. Sau khi quân đồng minh từ Ấn Độ vào Miến Điện lực
lượng vũ trang chống Nhật ở Miến Điện liền phối hợp mở cuộc phản công chóng
chủ nghĩa phát xít Nhật, và chiếm được thủ đô Rangu. Tháng 8-1945, quân nhật
đầu hàng vô điều kiện. Sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, nhân dân
Miến Điện cũng đã bước vào thời kỳ cuối trong cuộc đấu tranh chống Anh, giải
phóng đất nước .
Sinh viên: Nguyễn Thị Bích
16
Lớp: ĐHSP Văn – Sử K51
Phong trào giải phóng dân tộc ở các nước Đông Nam Á sau chiến tranh
thế giới thứ hai
Ở Mã Lai : Năm 1942, “Liên minh nhân dân Mã Lai” ra đời cùng với các
đơn vị quân đội nhân dân chống Nhật . Lúc đầu, giai cấp vô sản chiếm ưu thế hơn
giai cấp tư sản trong vai trò đấu tranh, song trong quá trình phát triển cuộc đấu
tranh giai cấp vô sản tụt lại, bỏ rơi mất ngọn cờ lãnh đạo .
Năm 1943, giai cấp tư sản nắm ngọn cờ lãnh đạo trong cuộc chiến đấu
chống Nhật. Các phong trào đấu tranh sôi nổi hơn khi Quân đội nhân dân kháng
Nhật tiến hành chiến tranh du kích, tấn công trực tiếp vào quân đội Nhật phá hoại
giao thông đường sắt và đến năm 1945, đã làm tê liệt hệ thống giao thông của
Nhật khi quân đội Anh tấn công vào.
Sau khi quân Nhật đầu hàng, Quân đội nhân dân kháng Nhật của Mã Lai
đã tiến hành giải giáp quân Nhật và “Quân đội quốc gia Ấn Độ”. Tháng 9-1945,
hơn 250.000 quân Anh trở lại Mã Lai và thiết lập chế độ ở đây với lý do giải giáp
tán quân đội nhân dân kháng Nhật. Như vậy, tuy nhân Mã Lai đã rất nổ lực trong
việc kháng chiến chống Nhật, nhưng họ đã lỡ mất cơ hội để tuyên bố độc lập, khi
quân đội Anh với danh nghĩa Đồng minh trở lại bán đảo Mã Lai. Nhân Mã lai lại
phải tiếp tục cuộc đấu tranh chống Anh.
Đối với Thái Lan, năm 1941 sau khi quân Nhật xâm nhập vào nước này.
Ngày 21-12-1941 chính phủ Thái lan đã ký với Nhật hiệp ước Đồng minh quân
sự song phương và trở thành nước thuộc phe phát xít, chống lại các nước đồng
minh. Tuy nhiên, ĐảngCộng sản Thái Lan đã đứng ra tổ chức các lực lượng
chống Nhật. Phát động các tầng lớp nhân dân đứng lên tổ chức chống Nhật, họ đã
lập ra phong trào “Thái tự do” với số người tham gia lên tới 50.000 người. Hoạt
động chống Nhật sau đó lien minh với phe Đồng minh để cùng chống Nhật.
Thông qua các hoạt động chống Nhật bí mật đó, phe Đồng minh đã chuẩn bị sân
bay, đưa vũ khí vào Thái Lan để chuẩn bị tấn công Nhật, nhưng cuộc kháng
chiến không sảy ra do vào giữa tháng 8-1945 quân Nhật đã đầu hàng nhanh
chóng.
Sinh viên: Nguyễn Thị Bích
17
Lớp: ĐHSP Văn – Sử K51
Phong trào giải phóng dân tộc ở các nước Đông Nam Á sau chiến tranh
thế giới thứ hai
Như vậy , khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc Nhật đã đầu hàng quân
Đồng minh, với những điều kiện khách quan thuận lợi đó. Đây được xem là “thời
cơ có một không hai” đã tạo ra tình thế mới hết sức thuận lợi cho các nước ở
Đông Nam Á như Việt Nam, Lào, Inđônêxia chớp lấy thời đánh đổ phát xít Nhật
giành độc lập cho dân tộc trước khi quân Đồng minh đổ bộ vào .
Bên cạnh đó, ở các nước khác các lực lượng yêu nước và quân đội vũ trang
đã đấu tranh một cách quyết liệt chống lại phát xít Nhật và cũng đã giải phóng
được một phần rộng lớn đất đai trong nước. Tuy nhiên thời cơ giành độc lập ở
các nước này đã bị bỏ lỡ, quân Mĩ trở lại Philippin,quân Anh trở lại Miến Điện,
Mã Lai, Xingapo và Brunây… Đặc biệt với tần góc vĩ đại của cuộc cách mạng
tháng 8 -1945 và bản tuyên ngôn độc lập ngày 2-9-1945 ở Việt Nam trở thành
một trường hợp điển hình của phong trào giải phóng dân tộc ở Đông Nam Á. Và
trên thế giới.
Với cao trào kháng Nhật cứu nước đã làm cho phong trào đấu tranh của
nhân dân Đông Nam Á thêm mạnh mẽ hơn với sự lãnh đạo tài tình của Đảng
Cộng sản. Thể hiện được tinh thần đoàn kết dân tộc của các nước trong khu vực
Đông Nam Á đã cùng nhau chống lại kẻ thù chung . Đến đây, đã khép lại một
thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc của các nước Đông Nam Á và mở ra một
thời kỳ mới trong phong trào đấu tranh giành độc lập của các dân tộc .
Sinh viên: Nguyễn Thị Bích
18
Lớp: ĐHSP Văn – Sử K51
Phong trào giải phóng dân tộc ở các nước Đông Nam Á sau chiến tranh
thế giới thứ hai
Chương II: Phong trào giải phóng dân tộc ở Đông
Nam Á sau chiến tranh thế giới thứ hai.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở
Đông Nam Á phát triển lên một giai đoạn mới. Hai con đường đấu tranh giải
phóng dân tộc được hình thành trước chiến tranh thế giới thứ hai đã thể hiện rõ
nét trong thực tiễn đấu tranh giải phóng ở hai nhóm nước: Đông Dương và các
nước còn lại của khu vực Đông Nam Á. Với sự phát triển cao của phong trào giải
phóng dân tộc ở Đông Nam Á trong những năm cuối của chiến tranh thế giới thứ
hai phát triển lên cao. Ở nhiều nước lực lượng cách mạng đã xây dựng được
những căn cứ vững chắc và giải phóng được nhiều vùng đất rộng lớn, tạo điều
kiện bên trong hết sức thuận lợi cho phong trào giải phóng trào giải phóng dân
tộc phát triển và đi đến giành thắng lợi .
Trước làn sóng cách mạng của các nước Đông Nam Á ngày càng lên cao
và phát triển một cách rầm rộ hơn, các nước thực dân không muốn mất đi vùng
đất phì nhiêu này, ngay sau khi chiến tranh thế giới thứ hai sắp kết thúc các nước
“chính quốc” đã tung ra những đội quân tinh nhuệ được trang bị vũ khí tối tân,
hòng đàn áp các cuộc cách mạng và phong trào giải phóng dân tộc ở Đông Nam
Á, tái chiếm lại khu vực này.
Trên bán đảo Đông Dương, ngay từ tháng 10-1945 thực dân Pháp đã đem
quân trở lại xâm lược Việt Nam và Cămpuchia. Tháng 3-1946, tấn công sang
Lào. Nhân dân 3 nước Việt Nam, Lào ,Cămpuchia lại tiếp tục cuộc đấu tranh
giành độc lâp dân tộc, chống lại sự xâm lược của chế độ thực dân Pháp và can
thiệp của Mĩ. Trong cuộc chiến đấu lâu dài và gian khổ đó đã hình thành một liên
minh chiến lược vừa mang tính tất yếu vừa mang tính tự nguyện giữa ba nước
Đông Dương, đã làm nên chiến thắng vẽ vang của nhân dân ba nước sau thất bại
ở Điện Biên Phủ năm 1954, thực dân Pháp buộc phải ký hiệp định Giơnevơ công
Sinh viên: Nguyễn Thị Bích
19
Lớp: ĐHSP Văn – Sử K51
Phong trào giải phóng dân tộc ở các nước Đông Nam Á sau chiến tranh
thế giới thứ hai
nhận độc lập chủ quyền thống nhất nước nhà, toàn vẹn lãnh thổ của ba nước
Đông Dương. Hiệp định cũng quy định tất cả các đơn vị quân đội Pháp phải rút
khỏi lãnh thổ miền Bắc Việt Nam, Lào, Cămpuchia.
Ngay sau khi thực dân Pháp bị đánh bại, đế quốc Mỹ liền tìm mọi cách để
hất cẳng Pháp và phát động cuộc chiến tranh xâm lược, nhằm biến ba nước Đông
Dương thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ. Một lần nữa nhân
dân Việt Nam, Lào, Cămpuchia lại sát cách cùng nhau chiến đấu chống lại kẻ thù
chung. Thắng lợi to lớn của cách mạng Việt Nam năm 1975 đã cổ vũ mạnh mẽ và
tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân Lào,Cămpuchia tiến lên giành thắng lợi
hoàn toàn.
Ở các nước khác sau khi thực dân quay trở lại xâm lược thì ở Inđônêxia
phong trào chống thực dân Hà Lan càng trở nên rầm rộ hơn. Ở Malixia phong
trào chống thực dân Anh… Cuối cùng các phong trào đấu tranh giành độc lập của
các nước Đông Nam Á, cũng đi đên thắng lợi cuối cùng bằng những con đường
và khoảng thời gian khác nhau. Đã hoàn thành cuộc đấu tranh giành độc lập của
mình tùy theo những điều kiện lịch sử cụ thể và tương quan lưc lượng giữa các
giai cấp xã hội trong từng nước.
1. Cách mạng Lào 1945 đến 1975:
Sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, thực dân Pháp liền đem quân
trở lại xâm lược Đông Dương. Váo tháng 3-1946 quân Pháp tấn công xâm lược
Lào. Cuộc đấu tranh giành độc lập chống lại sự xâm lược của Pháp và can thiệp
của Mỹ, cách mạng Lào từ năm 1945 đến 1975 trải qua hai giai đoạn:
a. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1945-1954:
Tháng 8-1945, phát xít Nhật đầu hàng vô điều kiện. Ở Việt Nam cách
mạng tháng 8 bùng nổ và đưa lại những thành công rực rỡ. Nắm được thời cơ,
nhân dân Lào đã vùng dậy giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và bọn phong
kiến tay sai. Ngày 12/10/1945, nhân dân thủ đô Viêng Chăn khởi nghĩa giành
chính quyền. Chính phủ Lào ra mắt quốc dân và trịnh trọng thông báo trước thế
Sinh viên: Nguyễn Thị Bích
20
Lớp: ĐHSP Văn – Sử K51
Phong trào giải phóng dân tộc ở các nước Đông Nam Á sau chiến tranh
thế giới thứ hai
giới nền độc lập của Lào. Nhưng tháng 3/1946, thực dân Pháp quay trở lại xâm
lược nước Lào. Dưới sự lãng đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, nhân dân
Lào đã kiên cường đứng dậy tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp để
bảo vệ nền độc lập dân tộc.
Sau khi Thà Khẹt bị thất thủ, Chính phủ cách mạng lâm thời phải lưu vong
sang Băng Cốc (Thái Lan). Vua Lào Xixavang khôi phục lại ngai vàng và đưa
hoàng tử Vatthana lên làm Thủ tướng Chính phủ bù nhìn, tay sai của thực dân
Pháp.
Từ năm 1947, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, các
chiến khu dần dần được thành lập ở Tây Lào, Thượng Lào và Đông Bắc Lào.
Ngày 20-01-1949, đơn vị giải phóng đầu tiên của Quân giải phóng nhân dân Lào,
lấy tên là “Lat xa vông” được thành lập do Cayxỏn Phônvihản chỉ huy. Đội quân
này càng lớn mạnh và mở rộng nhiều khu du kích: Mường Xinh, Luông Pha
Băng, Sầm Nứa, Viêng Chăn, Khăm Muộn, Xa Va Na Khẹt….
Ngày 13/08/1950, Đại hôi toàn quốc kháng chiến tuyên bố thành lập Mặt
trận Lào tự do đề ra cương lĩnh chính trị 12 điểm và tuyên bố thành lập Chính
phủ kháng chiến Lào, do Hoàng thân Xuphanuvông đứng đầu. Ngày 11/03/1951
Liên minh Việt – Lào – Khơme được thành lập dựa trên các nguyên tắc bình đẳng,
tương trợ và tôn trọng chủ quyền của nhau nhằm tăng cường tình đoàn kết chiến
đấu giữa quân ba nước Đông Dương chống kẻ thù chung.
Với chiến dịch Thượng Lào mùa xuân năm 1953, nhân dân Lào đã giải
phóng toàn tỉnh Sầm Nứa và một phần tỉnh Luông Pha Băng và Xiêng Khoảng.
Tháng 12/1953, trong chiến dịch Trung Lào, các lực lượng cách mạng đã tiêu diệt
2000 tên địch, giải phóng phần lớn tỉnh Xavanakhẹt và tỉnh Khăm Muộn. Ở chiến
dịch Hạ Lào, quân dân Lào đã giải phóng hoàn toàn tỉnh Atơpơ và một phần tỉnh
Xavanavan. Đầu năm 1954, quân dân Lào đã giải phòng tỉnh Phôngxalì, phần lớn
tỉnh Luông Pha Băng, phá vỡ phòng tuyến sông Nậm Hu, phối hợp trực tiếp với
chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ của nhân Việt Nam, góp phần đưa đến thất bại
Sinh viên: Nguyễn Thị Bích
21
Lớp: ĐHSP Văn – Sử K51
Phong trào giải phóng dân tộc ở các nước Đông Nam Á sau chiến tranh
thế giới thứ hai
thảm hại của thực dân Pháp và sự can thiệp của Mĩ. Không tiếp tục chiến tranh
được nữa đế quốc Pháp buộc phải ký hiệp định Giơnevơ vào tháng 7-1954, lập lại
hòa bình ở Đông Dương. Pháp phải công nhận nền độc lập chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ ở Việt Nam, Lào, Campuchia công nhận địa vị hợp pháp của lực lương
cách mạng Lào và thừa nhận hai Tỉnh tập kết Phongxalì và Sầm Nưa là khu vực
quản lý trực tiếp của lực lượng cách mạng Lào.
Tuy nhiên sau hiệp định Giơnevơ, Mĩ lập tức hách cẳng Pháp độc chiếm
Lào, âm mưu biến Lào thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mĩ. Từ
đây nhân dân Lào cũng như nhân dân Việt Nam, Cămpuchia sát cánh cùng nhau
chiến đấu chống kẻ thù chung.
b.
Cuộc kháng chiến chống Mĩ xâm lược 1945-1975:
Bằng những chính sách “viện trợ” về kinh tế và quân sự, Mĩ đã dần nắm
được quyền chi phối về kinh tế và quyền chỉ huy quân sự của chính phủ phản
động phái hữu. Quân đội phái hữu được Mĩ nuôi dưỡng và “lực lượng đặc biệt”Vàng Pao là lực lượng chiến lực để tiến hành chiến tranh Đặc Biệt ở Lào.
Trong những năm 1954-1963: cuộc đấu tranh chống chiến lược hai mặt
phản cách mạng: “Diễn biến hòa bình” kết hợp vơi bảo lực phản cách mạng của
Mĩ và tay sai. Ngày 6-1-1956 Mặt trận Lào yêu nước thành lập, đã tập hợp mọi
lực lượng yêu nước và tiến bộ. Phối hợp chặt chẽ cuộc đấu tranh cách mạng trên
cả ba mặt chính trị, quân sự và đàm phán hiệp thương, các lực lượng cách mạng
ngày càng lớn mạnh, buộc Pháp phải kí hiệp định Viên Chăn, thành lập chính phủ
Liên hiệp lần thứ nhất, có sự tham gia của Mặt trận Lào yêu nước.
Dưới sự chỉ huy của Mĩ, ngày 18-8-1958 tập đoàn phản động phái
Xavannicon đã lật đổ chính phủ Liên hiệp xé bỏ hiệp định Viên Chăn, tìm cách
tiêu diệt lực lượng vũ trang giải phóng nhân dân Lào. Bên cạnh đó cùng với sự
kết hợp cả về chính trị, quân sự trong cả nước Lào đã dần được nhiều thắng lợi
lớn tiêu diệt hàng chục tiểu đoàn quân ngụy ở Nậm Thà và các chiến trường
khác, buộc Mĩ và tay sai Lào phải kí hiệp định Giơnevơ về Lào ngày 23-7-1962
Sinh viên: Nguyễn Thị Bích
22
Lớp: ĐHSP Văn – Sử K51
Phong trào giải phóng dân tộc ở các nước Đông Nam Á sau chiến tranh
thế giới thứ hai
công nhận chính phủ Liên hiệp dân tộc lâm thời lần thứ hai ở Lào. Nhưng sau đó
các thế lực phản động lại phá hoại hiệp định, khủng bố những người yêu nước,
phá vỡ khối liên minh giữa các lực lượng tiến bộ làm cho chính phủ liên hiệp
không hoạt động được.
Tháng 5-1964 Mĩ bắt đầu dùng không quân ném bom tàn phá các vùng giải
phóng ồ ạt trang bị vũ khí hiện đại cho quân đội phái hữu tăng quân số lên gấp
đôi, tăng số cố vấn quân sự Mĩ lên 5000 người đưa nhiều đơn vị đánh thuê Thái
Lan sang tham chiến ở Lào. Cùng thời điểm đó với chiến tranh “Đặc Biệt” năm
1969 quân và dân Lào đã từng bước đánh bại các kế hoạch leo thang chiến tranh
của đế quốc Mĩ.
Năm 1970 chiến thắng lớn ở cánh đồng Chum-Xiêm khoảng, năm 1971
phối hợp với quân tình nguyện Việt Nam, quân Lào đã đập tan cuộc chiến lược
mang tên Lam Sơn 719. Chỉ tính từ 1967-1973, quân Lào đã loại khỏi vòng chiến
đấu 111.400 tên địch, bắn rơi và phá hủy 1.510 máy bay, thu và phá huỷ 30.092
súng các loại. Vì vậy, ngày 21-2-1973 Mĩ và tay sai buộc phải ký kết hiệp định
Viên Chăn lập lại hòa bình thực hiện hoà hợp dân tộc ở Lào. Chính Phủ Liên
hiệp dân tộc lâm thời và Hội đồng Quốc giai chính trị liên hiệp được thành lập.
Đã tạo điều kiện thuận lợi để đưa cách mạng tiên lên bước phát triển mới.
Thắng lợi to lớn của cách mạng Việt Nam ngày 30-4-1975 đã cổ vũ và tạo
điều kiện cho cách mạng Lào tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Dưới sự lãnh
đạo của Đảng nhân dân cách mạng Lào, tháng 5-1975 đến tháng 12-1975, nhân
dân Lào đã nổi dậy và giành được toàn bộ chính quyền trong cả nước. Ngày 212-1975 nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào chính thức được thành lập. Cũng
từ đó cách mạng Lào bước sang thời kỳ triển mới-xây dựng chế độ dân chủ nhân
dân rồi tiến lên theo định hướng chế độ Xã hội chủ nghĩa.
2.Cách mạng Việt Nam:
a. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược 1945-1954:
Sinh viên: Nguyễn Thị Bích
23
Lớp: ĐHSP Văn – Sử K51
Phong trào giải phóng dân tộc ở các nước Đông Nam Á sau chiến tranh
thế giới thứ hai
Với thắng lợi của cách mạng tháng 8-1945, nhân dân Việt Nam đã lật nhào
chế độ phong kiến tồn tại hàng nghìn năm và phá tan chế độ thống trị của thực
dân pháp và phát xít Nhật ở trên đất nước ta.
Ngày 2-9-1945 tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội) trước cuộc mít tinh
lớn của hàng vạn nhân dân Thủ đô và các vùng lân cận trong cả nước. Chủ tịch
Hồ Chí Minh thay mặt chính phủ Lâm thời đọc bản tuyên ngôn độc lập, trịnh
trọng tuyên bố với toàn thể quốc dân và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa được ra đời. Bản tuyên ngôn nêu rõ: “ Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại
thoái vị, dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây
dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi
thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa…”(trích Hồ Chí Minh).
Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa vừa ra đời phải đối mặt với muôn vàn
khó khăn thử thách. Quân đội các nước Đồng minh dưới danh nghĩa giải giáp
quân Nhật lũ lượt kéo vào nước ta. Ở miền Bắc từ vĩ tuyến 16 trở ra, 20 vạn quân
tưởng núp dưới danh nghĩa Đồng minh vào giải giáp quân Nhật nhưng thực chất
là âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng tiêu diệt Đảng Cộng sản, đưa bọn Việt
gian tay sai vào nắm quyền hòng bến nước ta thành thuộc địa của chúng. Ngày
23-9-1945, Pháp nổ súng tại Gia Định mở đầu công cuộc xâm lược Việt Nam lần
hai. Ngoài ra, trên cả nước còn 6 vạn quân Nhật vẫn còn vũ khí và các loại Việt
gian tay sai Tưởng, Nhật, Pháp cũng dựa vào chủ thể chống phá chính quyền
cách mạng. Trước tình hình nền độc lập dân tộc mới giành được lại rơi vào tình
thế “ ngàn cân treo sợi tóc”. Nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã đoàn kết cùng nhau đấu tranh vượt qua những thử thách đầy
gian nan đó.
Trước tình hình đó, Đảng ta đã sử dụng sách lược cực kỳ khéo léo lúc thì
tạm hòa với Tưởng để chống Pháp ở miền Nam, lúc thì tạm hòa với Pháp để đuổi
nhanh quân Tưởng về nước đồng thời tranh thủ thời gian chuẩn bị lực lượng để
kháng chiến lâu dài chông Pháp. Sau nhiều nhân nhượng có nguyên tắc ( với
Sinh viên: Nguyễn Thị Bích
24
Lớp: ĐHSP Văn – Sử K51
Phong trào giải phóng dân tộc ở các nước Đông Nam Á sau chiến tranh
thế giới thứ hai
Hiệp định Sơ Bộ 6-3 và Tạm ước 14-9-1946) để tranh cuộc chiến tranh lần thứ
hai của Pháp vào Việt Nam nhưng không thành. Ngày 19-12-1946 Hồ Chủ Tịch
đã đọc lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến và phát lệnh ra quân và dân cả nước
đồng loạt đứng lên kháng chiến chống Pháp: “ Chúng ta muốn hòa bình ,chúng
ta phải nhân nhượng , thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp
nước ta lần nữa.
Không ! Chúng ta thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước,
nhất định không chịu làm nô lệ…!”(trích lịch sử 12)
Với cuộc chiến đấu ở các đô thị trong hai tháng cuối năm 1946 và đầu năm
1947, quân và dân ta đã làm phá sản bước đầu kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh
với thực dân Pháp. Với đường lối vừa kháng chiến vừa kiến quốc, toàn dân toàn
diện và tự lực cánh sinh quân và dân ta đã liên tục chiến thắng địch trong các
chiến dịch quan trọng từ Việt Bắc Thu Đông năm 1947, Biên Giới năm 1950 ,
Hòa Bình 1951, Đông Xuân 1953-1954 và Điện Biên Phủ năm 1954. Thực dân
Pháp từ thế chủ động tiến công ( ở chiến dịch Việt Bắc) buộc phải chuyển sang
thế đánh lâu dai với ta rồi mất quyền chủ động( sau chiến dịch Biên Giới ) và thất
bại trong Đông Xuân 1953-1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ.
Sau 9 năm tiến hành chiến tranh với sự giúp đở của Mỹ nhưng lại thất bại
thảm hại, thực dân Pháp buộc phải kí Hiệp định Giơnevơ công nhận độc lập chủ
quyền toàn vẹn lãnh thổ của Viêt Nam. Nhân dân ta dưới sự lãnh đạo sáng suốt
của Đảng và Chủ Tịch Hồ Chí Minh, kết hợp hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội đã tạo nên sức mạnh to lớn để đánh bại thực dân Pháp và sự can
thiệp của Mỹ. Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược
của nhân dân Việt Nam là minh chứng đầu tiên đầy thuyết phục cho con đường
cứu nước giải phóng dân tộc theo xu hướng vô sản của nhân dân Việt Nam và
cũng là thắng lợi của phong trào giải phong dân tộc của khu vực và thế giới đặc
biệt cổ vũ hơn phong trào đấu tranh của các nước thuộc địa trong khu vực và trên
thế giới chống lại chủ nghĩa thực dân kiểu cũ. Buộc thực dân Pháp phải rút khỏi
Sinh viên: Nguyễn Thị Bích
25
Lớp: ĐHSP Văn – Sử K51