Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

Chế độ tài sản giữa vợ và chồng trong bộ Quốc triều hình luật và Hoàng Việt luật lệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (90.18 KB, 5 trang )

Chế độ tài sản giữa vợ và chồng trong bộ Quốc triều hình luật và Hoàng
Việt luật lệ.
Mở Đầu:
Trong qua suốt 360 năm dài tồn tại, triều đại nhà Lê(1428-1788) đã để lại cho
hậu thế những thành tựu to lớn trên nhiều lĩnh vực từ nhà nước, pháp luật đến
kinh tế văn hóa xã hội…đặc biệt phải kể đến nhiều nhất về những thành tựu của
pháp luật triều đại này. “Quốc triều hình luật” chính là bộ luật chính thống và
quan trọng nhất của triều đại nhà Lê; là một thành tựu có giá trị đặc biệt trong
lịch sử pháp luật Việt Nam nó không chỉ là đỉnh cao so với những thành tựu
pháp luật trước đó mà còn đối với cả bộ luật biên soạn thời nhà Nguyễn “Hoàng
Việt luật lệ” hay cả nhưng bộ luật của các nước phong kiến cùng thời trên thế
giới.
Mặc dù chịu ảnh hưởng sâu sắc của triết lí Nho giáo – hệ tư tưởng thống trị
trong xã hội thời Lê cũng như ảnh hưởng của các bộ luật Trung Quốc (luật nhà
Đường, luật nhà Minh) những nhà làm luật thời Lê đã biết tiếp thu có chọn lọc,
sáng tạo pháp luật Trung Quốc đồng thời kết hợp với các phong tục, tập quán
đặc thù của xã hội Việt Nam, hòa nhập chúng với hệ thống pháp luật, vì vậy đã
tạo nên nét riêng biệt độc đáo và tiến bộ của bộ luật. Một trong những tiến bộ
của Bộ luật là chế định về hôn nhân và gia đình; trong đó phải kể đến chế độ tài
sản của vợ chồng trong thời kì hôn nhân
B. Nội Dung:
Nói về chế định về chế độ tài sản giữa vợ và chồng trong thời kì hôn nhân – một
chế định tiến bộ được quy định tương đối cụ thể gián tiếp thông quacác điều
374, 375, 376 ở chương Điền sản. Theo như các quy định tại các điều 374, 375,
376 thì tài sản vợ chồng bao gồm tài sản riêng của mỗi người được thừa kế từ
gia đình và tái sản chung vợ chồng cùng làm ra trong thời kỳ hôn nhân. Sự quy
định rõ thành phần khối tài sản chung, riêng rõ ràng của vợ chồng là điểm rất


tiến bộ và độc đáo của pháp luật nhà Lê và nó vẫn được tiếp thu trong việc xây
dựng pháp luật hiện nay. Phản ánh một cách khá trung thực và điều chỉnh một


cách hợp lí mối quan hệ giữa vợ và chồng phù hợp với thực tế xã hội Việt Nam,
địa vị pháp lí của người vợ được cải thiện hơn hẳn so với các quan niệm Nho
giáo qua việc thừa nhận quyền bình đẳng về tài sản giữa vợ và chồng.
1. Công nhận công lao đóng góp vào việc tạo ra tài sản chung của vợ và
chồng và quyền sở hữu của người vợ trong tài sản vợ chồng làm ra trong
thời kì hôn nhân.
Lần đầu tiên, trong pháp luật của xã hội phong kiến, pháp luật công nhận công
lao đóng góp vào việc tạo ra tài sản chung của vợ và chồng hay nói cách khác
đó là tài sản vợ chồng làm ra trong thời gian hôn nhân để từ đó công nhận
quyền sở hữu của người vợ đối với một nửa tài sản mà 2 vợ chồng làm ra.
Điều 374 Luật Hồng Đức quy định: …Nếu điền sản là của chồng và vợ trước
làm ra thì chia làm hai phần, vợ trước và chồng mỗi người một phần, phần của
vợ trước thì để riêng cho con, còn phần chồng lại chia như trước.
Nếu điền sản là của chồng và vợ sau làm ra, thì cũng chia làm hai phần, chồng
và vợ sau mỗi người một phần, phần của chồng thì chia như trước, còn phần của
vợ sau thì được nhận làm của riêng…”
Điều 375:…còn điền sản của vợ chồng lẩm thì chia làm hai, vợ chồng mỗi
người được một phần; phần của vợ được nhận làm của riêng…”
Việc chia đôi khối tài sản chung chứng tỏ rằng sự đóng góp của người vợ vào
khối tài sản chung là ngang bằng với người chồng. Sự bình đẳng đó còn thể hiện
ở quyền định đoạt tài sản chung. Việc đứng tên đồng chủ thể trong khối tài sản
chung là cơ sở để tạo ra các năng lực pháp lý dân sự của người phụ nữ. Pháp
luật đòi hỏi phải có sự đồng ý của cả hai vợ chồng trong việc chuyển nhượng tài
sản chung cho người khác. Điều đó được minh chứng qua các bằng chứng là các


văn tự bán tài sản có chữ ký của cả vợ chồng hoặc các tờ mẫu văn tự về bán,
cầm cố, trao đổi các tài sản thực thụ và các điền nô ở thời nhà Lê bao giờ cũng
đòi hỏi sự thỏa thuận của cả hai vợ chồng.
2. Luật triều Lê bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ.

Đây là một điểm rất tiến bộ của Quốc Triều Hình Luật và gần với pháp
luật hiện đại –một điều chưa từng có trong pháp luật phong kiến Việt Nam kể cả
từ khi có bộ luật chính thống thời Lý –Trần trước đó cũng như trong “Hoàng
Việt Luật Lệ” của triều Nguyễn sau này và cũng không có trong pháp luật
phong kiến Trung Quốc. Phải thấy được rằng Quốc triều hình luật đã phản ánh
một điểm mới lạ chưa từng có trong lịch sử -một triều đại phong kiến chịu ảnh
hưởng rất nhiều của phong kiến Trung Quốc với tư tưởng Nho giáo là chủ đạo
lại có thể có những nét sáng tạo độc đáo và tân tiến.
Nguyên nhân tác động dẫn đến sự tiến bộ của pháp luật triều Lê đó là gia
đình. Gia đình của người Việt là một nhân tố quan trọng quyết định. Nếu như ở
Trung Quốc tồn tại các gia đình đa thế hệ với những dòng họ lớn mà quyền
quyết định các việc trọng đại trong gia đình đều đặt trong tay người gia trưởng
(thường là trưởng tộc hay người chồng, người cha trong gia đình), vợ chồng trẻ
tuổi thường bị phụ thuộc thì ở Việt Nam trên nguyên tắc xây dựng những gia
đình lớn nhưng chủ yếu là gia đình nhỏ (3 thế hệ: vợ chồng, các con, cha mẹ),
hay gia đình hạt nhân chỉ gồm 2 thế hệ. Do vậy, trong gia đình truyền thống Việt
Nam vợ chồng có thể độc lập quyết định những công việc quan trọng như các
vấn đề phát sinh trong các quan hệ xã hội hàng ngày hay những vấn đề cần giải
quyết bằng tiền bạc. Lúc này vợ chồng cùng đứng ra bàn bạc, cùng giải quyết.
Trên cơ sở tôn trọng các tập quán đó của người Việt, pháp luật đã có những quy
định thể hiện quyền của người vợ mà quan trọng nhất là quyền quyết định đối
với tài sản chung của gia đình.


Một điểm nhỏ trong nguyên nhân thúc đẩy sự tiến bộ này là chiến tranh
-chiến tranh cũng đóng vai trò đáng kể tác động đến việc điều chỉnh của pháp
luật. Nước Việt ta là một nước nhỏ, thường xuyên phải đối mặt với các cuộc
chiến tranh xâm lược từ các thế lực thù địch bên ngoài, đặc biệt là một nước lớn
như Trung Quốc vấn thường xuyên dòm ngó mảnh đất Đại Việt màu mỡ. Do
vậy, đàn ông phải đi lính bảo vệ đất nước. Số người chết, thương vong không

phải là ít.
Trong khi đó, chỉ còn phụ nữ, trẻ em và người già ở lại nhà chăm lo việc sản
xuất cung cấp lương thảo gửi ra chiến trường đồng thời chăm lo cuộc sống gia
đình. Vai trò của người phụ nữ Việt Nam là không nhỏ. Thấy được những điều
đó, pháp luật triều Lê đã rất công bằng khi thừa nhận vai trò của người phụ nữ
trong tài sản chung của gia đình mà có lẽ phần nhiều do họ làm ra.
3. Pháp luật quy định quyền sở hữu và định đoạt đối với tài sản riêng của vợ
và chồng.
Điều 376 quy định: “vợ chồng đã có con, nếu một người chết trước sau
đó con cũng lại chết thì điền sản thuộc về chồng hay vợ…”, nếu vợ chết trước
thì “điền sản của vợ chia làm ba, để cho chồng hai phần, người thừa tự một
phần. Cha mẹ còn sống thì chia làm hai, thuộc về cha mẹ một phần, thuộc về
chồng một phần, phần của vợ chỉ để nuôi một đời, không được nhận làm của
riêng, chồng chết thì phần ấy thuộc về cha mẹ hay người thừa tự. Chồng chết
trước thì vợ cũng thế, cải giá thì phải trả lại”.
Tài sản riêng của vợ chồng là những tài sản của mỗi bên vợ chồng có trước khi
kết hôn, do được thừa kế từ gia đình mỗi người. Đối với những tài sản này, vợ,
chồng đều có quyền sở hữu riêng rẽ, mặc dù những tài sản này được quản lí
chung bởi vợ chồng và các lợi tức của nó là tài sản chung. Những tài sản này
chỉ gộp vào để quản lí chung trong thời kỳ hôn nhân. Người chồng không có
quyền chiếm dụng tài sản mà vợ thừa kế từ dòng họ mình và ngược lại. Sự thừa


nhận quyền sở hữu tài sản riêng là một điểm tiến bộ của Quốc triều hình luật mà
ta không thể tìm thấy trong pháp luật phng kiến Trung Quốc.
Có sự khác biệt đó là do ở Trung Quốc con gái không có quyền thừa kế tài sản
mà chỉ có của hồi môn khi đi lấy chồng còn ở Việt Nam thì quyền thừa kế của
con tai và con gái là như nhau, thậm chí con gái có thể thừa kế hương hỏa. Để
đảm bảo tài sản hương hỏa không bị chuyển giao cho dòng họ khác khi con gái
đi lấy chồng, cách tốt nhất là thừa nhận quyền sở hữu đối với tài sản riêng của

người vợ. Điều này hoàn toàn phù hợp với phong tục tập quán Việt Nam là tài
sản hương hỏa chỉ dùng để thờ cúng tổ tiên nên không thể giao cho người khác
họ.
4. Hạn chế:
Ngay từ thế kỉ XV Triều Lê đã có tư duy pháp lý tiến bộ phù hợp với đạo đức
của chế độ phong kiến thời bấy giờ. Tuy nhiên vẫn còn có những mặt hạn chế.
Điểm hạn chế rõ nhất là Quốc triều hình luật đã không quy định cụ thể về
quyền và nghĩa vụ về tài sản giữa vợ và chồng. Do sự ảnh hưởng của chế độ gia
đình phụ quyền và yếu tố gia đình gia trưởng của Nho giáo và tập quán mà
người vợ không có toàn quyền định đoạt tài sản trong gia đình. Trong các giao
dịch dân sự người vợ chỉ đứng tên cùng với chồng mà thôi. Việc định đoạt vấn
chủ yếu do người chồng, người vợ chỉ được toàn quyền định đoạt khi có sự cho
phép của chồng. Pháp luật không can thiệp, vì vậy không có cơ sở để giải quyết
tranh chấp. Do đó khi cần thiết phải điều chỉnh bằng các chỉ dụ riêng lẻ, không
có tính hệ thống và tính pháp điển hóa cao.



×