A. Lời mở đầu
Lịch sử luôn là những bí mật lớn lao mà con người vẫn chưa khám phá hết. Suốt
chặng đường dài của lịch sử loài người, đã có nhiều triều đại được thiết lập và cũng có
nhiều bộ luật được xây dựng nên. Tất cả đều là những mốc son trong lịch sử. Pháp
luật cũng không nằm ngoài dòng chảy của lịch sử, sự ra đời của bộ luật Hamurabi và
luật Lã Mã cổ đại là một trong những thành tựu vĩ đại của pháp luật thời kì cổ đại. Bài
tiểu luận sau xin phép được so sánh giữa luật dân sự của bộ luật Hamurabi và luật Dân
sự La Mã thời cộng hoà hậu kỳ.
B. Nội dung
1. Giới thiệu về bộ luật Hamurabi và bộ luật La Mã
Bộ luật Hammurabi được xây dựng trên cơ sở pháp điển hoá nhiều văn bản trước
đó và trên cơ sở kế thừa luật lệ của người Xu-me, người Amôrít. Bộ luật Hamurabi
được phát hiện năm 1901 của đoàn khảo cổ người Pháp, khắc trên đá bazan cao 2,25m
và dựng tại quảng trường thành phố cho nhân dân đọc mà thi hành. Bộ luật Hamurabi
là bộ luật tương đối hoàn chỉnh thời kỳ cổ đại, gồm 282 điều (hiện chỉ đọc được 247
điều) bao gồm ba phần: Phần mở đầu, phần nội dung và kết luận. Đây là một bộ luật
tổng hợp được xây dựng dưới dạng luật hình, bao gồm các qui phạm pháp luật điều
chỉnh nhiều lĩnh vực và đều có chế tài, chủ yếu điều chỉnh những quan hệ xã hội liên
quan đến lợi ích của giai cấp thống trị.
Luật La Mã là hệ thống luật cổ, được xây dựng cách đây khoảng hơn 2000 năm
(449 TCN), áp dụng cho thành Roma và sau đó là cả đế quốc La Mã. Các nguồn của
Luật La Mã thời Cổ đại được sưu tập trong Corpus Iuris Civilis được tái khám phá
trong thời kỳ trung cổ và mãi cho đến thế kỷ XIX vẫn được xem là nguồn luật pháp
quan trọng trong phần lớn các quốc gia châu Âu. Vì thế mà người ta cũng có thể gọi
các luật lệ có hiệu lực trên lục địa châu Âu trong thời kỳ trung cổ và trong thời gian
đầu của thời kỳ hiện đại là Luật La Mã.
2. So sánh luật dân sự của bộ luật Hamurabi và luật dân sự La mã thời cộng
koà hậu kỳ
2.1 Những vấn đề chung
Về quan hệ pháp luật, các quan hệ pháp luật (QHPL) dân sự trong bộ luật
Hamurabi chủ yếu là các quan hệ tài sản giữa cá nhân với cá nhân. Các quan hệ nhân
thân trong bộ luật này hầu như vắng bóng. Trái lại, bộ luật La Mã có nét tiến bộ hơn,
QHPLtrong bộ luật này phong phú, rộng lớn hơn, bao gồm cả quan hệ tài sản và quan
hệ nhân thân của các chủ thể tham gia QHPL dân sự.
Chủ thể của các QHPL dân sự cũng có sự khác nhau giữa hai bộ luật. Chủ thể của
QHPL dân sự ở Lưỡng Hà cổ đại gồm có người tự do và nô lệ. Năng lực pháp luật của
chủ thể phụ thuộc vào độ tuổi và địa vị pháp lý của chủ thể. Đối với người tự do, bộ
luật quy định người chưa trưởng thành không được tuỳ ý tham gia vào các giao dịch
dân sự thông dụng. Tuy nhiên, bộ luật chưa quy định rõ người bao nhiêu tuổi thì được
coi là trưởng thành, bao nhiêu tuổi được coi là chưa trưởng thành. Đây là điểm hạn
chế của luật dân sự Hamurabi so với luật dân sự La Mã. Đối với nô lệ, về mặt pháp lý
họ mang hai tư cách. Thứ nhất họ là tài sản thuộc sở hữu của chủ nô do chủ nô bỏ tiền
mua về. Nô lệ được coi như một loại tài sản của chủ nô (điều 118, 147). Trong mối
1
quan hệ với chủ nô, nô lệ ở địa vị phụ thuộc (điều 18, 282). Ở đây, bộ luật có điểm
đồng nhất với luật La Mã cổ đại. Thứ hai, họ là chủ thể hạn chế của pháp luật. Họ
được tham gia vào quan hệ hôn nhân gia đình với người tự do (điều 114, 175). Họ có
quyền có tài sản riêng, là chủ sở hữu của tài sản đó (điều 176) và vì vậy họ được phép
tham gia vào các giao dịch dân sự, tuy là những giao dịch dân sự có điều kiện. Đây là
điểm tiến bộ của luật dân sự Hamurabi so với luật La Mã thời cộng hoà hậu kỳ.
Chủ thể của quan hệ dân sự La Mã đa dạng hơn so với luật Hamurabi. Bao gồm
công dân La Mã, người La-tinh, người nước ngoài, trong đó công dân La Mã là những
người được sinh ra từ gia đình La Mã, bố mẹ có quan hệ hôn nhân hợp pháp, nô lệ
được trả tự do từ công dân La Mã, người nước ngoài được ban tặng danh hiệu công
dân La Mã do được đặc ân của Hoàng đế. Trong bộ luật La Mã, nô lệ là vật hoàn toàn
phụ thuộc vào chủ nô tuy nhiên được phép tham gia một số giao dịch phục vụ cho bản
thân và cho chủ nô. Đối với công dân La Mã, luật quy định độ tuổi tham gia vào quan
hệ pháp luật. Trẻ em dưới 7 tuổi không có năng lực hành vi, không tham gia thực hiện
giao dịch dân sự. Từ 7-14 tuổi với nam, 12 tuổi với nữ, có năng lực hành vi một phần,
tham gia giao dịch dân sự dưới sự giám hộ. Nam trên 14 tuổi, nữ trên 12 tuổi, không
có dấu hiệu của bệnh tâm thần được coi là có năng lực hành vi toàn phần. Quy định
này cho thấy nét tiến bộ của bộ luật La Mã. Cho đến ngày này, luật pháp hiện đại vẫn
còn sử dụng nguyên tắc quy định độ tuổi này để xác định năng lực hành vi của chủ
thể.
2.2 Về nội dung của các chế định
2.2.1 Chế định về quyền sở hữu
Theo quan điểm của nhà lập pháp Lưỡng Hà cổ đại, luật Hamurabi quy định: chủ
sở hữu tài sản vẫn có quyền chiếm hữu và định đoạt tài sản ngay cả khi thực tế không
còn chi phối được tài sản của mình nữa (điều 9). Chủ sở hữu có toàn quyền định đoạt
số phận thực tế cũng như pháp lý tài sản của mình, khi ông ta còn sống cũng như khi
ông ta đã chết (điều 178, 179). Bộ luật cũng quy định về việc quản lý sử dụng tài sản
của những người không phải là chủ sở hữu. Đó là trường hợp chủ tài sản vắng nhà, tài
sản sẽ do vợ anh ta quản lý. Nếu người vợ đi lấy chồng mới thì chồng mới có trách
nhiệm quản lý tài sản của chồng cũ (điều 177). Điều này được coi là một trong những
điểm tiến bộ của bộ luật Hamurabi so với luật La Mã.
Như vậy, quyền sở hữu của luật Hamurabi hầu hết chỉ là các quyền về tài sản chứ
không có các quyền sở hữu chung. Trong khi đó, bộ luật La Mã có sự phân định rõ
ràng về quyền tư hữu và quyền sở hữu chung. Quyền tư hữu được hiểu là quyền sử
dụng và định đoạt tuyệt đối với tài sản đó. Tuy nhiên trong một số quyền định đoạt tài
sản bị hạn chế, nó không hoàn toàn là tuyệt đối. Ví dụ như do yêu cầu canh tác ở nông
thôn và sử dụng nước ở thành phố, người ta có thể dẫn nước qua ruộng người khác
hoặc đặt ống nước qua sân hàng xóm. Đây là điểm khác biệt với luật Hamurabi khi
cho rằng quyền định đoạt tài sản là tuyệt đối. Đối với sở hữu chung, nguyên tắc để
thực hiện quyền sở hữu này dựa trên cơ sở cùng nhau thoả thuận. Phần quyền sở hữu
có thể bằng nhau hoặc không bằng nhau. Không chỉ quy định về quyền sở hữu, luật La
Mã còn xác lập một quyền đặc biệt - quyền chiếm hữu. Quyền chiếm hữu được hiểu là
quyền sử dụng và ý muốn thực hiện quyền đó đối với tài sản của người khác trao cho
2
mình chiếm giữ, để phục vụ cho bản thân mình. Có nhiều hình thức chiếm hữu; chiếm
hữu hợp pháp (chính là chủ sở hữu của tài sản) và chiếm hữu bất hợp pháp. Chiếm
hữu bất hợp pháp lại bao gồm chiếm hữu bất hợp pháp ngay thẳng (mua vật từ một
người không phải là chủ sở hữu) và chiếm hữu bất hợp pháp không ngay thẳng (tài
sản trộm cắp, mua vật mà biết đó là đồ gian). Ngoài ra còn một loại chiếm hữu đặc
biệt: chiếm hữu phát sinh từ quyền sở hữu, khi đó người chiếm hữu có quyền tự mình
bảo vệ vật chiếm hữu mà không cần thông qua chủ sở hữu.
2.2.2 Chế định về hợp đồng
Bộ luật Hamurabi có chia thành nhiều loại hợp đồng: hợp đồng mua bán, hợp đồng
lĩnh canh ruộng đất và hợp đồng vay mượn. Hợp đồng mua bán được xác lập khi có
các điều kiện: tài sản đó phải là tài sản hợp pháp (điều 9, 10), người tham gia mua bán
phải có năng lực chủ thể và phải là người chủ sở hữu hoặc người được chủ sở hữu uỷ
quyền (điều 7, 177), hợp đồng phải được thể hiện dưới hình thức thích hợp (phải
thành văn bản và có người làm chứng). Về hợp đồng lĩnh canh ruộng đất được chia
thành hai loại: lĩnh canh thu tô trước và lĩnh canh thu tô sau vụ mùa (điều 45). Trong
hợp đồng vay mượn, để đảm bảo khoản vay, chủ nô buộc con nợ cầm cố ruộng đất
(điều 49) vì ruộng đất là tài sản quan trọng của con nợ và có thể sinh lời thường
xuyên. Ngoài ra, bộ luật còn quy định nhiều quyền lợi của con nợ (điều 48, 51). Mức
lãi quy định trong bộ luật rất cao, đói với vay tiền là 1/5 gốc, vay thóc là 1/3 gốc. Qua
đó càng cho thấy rõ hơn tính hà khắc của bộ luật Hamurabi.
Trong bộ luật La Mã, chế định hợp đồng cũng được điều chỉnh khá cụ thể và phát
triển hơn so với luật Hamurabi. Ở chỗ, nhà làm luật đưa ra khái niệm và điều kiện về
hình thành hợp đồng thể hiện sự tự do ý chí của các bên tham gia hợp đồng. Hợp đồng
dân sự có hiệu lực khi có hai điều kiện: Hợp đồng phải do sự thoả thuận của cả hai
bên không được lừa dối, dùng vũ lực. Và hợp đồng phải phù hợp với quy định của luật
pháp. Sự phân loại hợp đồng cũng rất tỉ mỉ. Hợp đồng chia thành hai loại: hợp đồng
thực tại (nghĩa vụ thực hiện và trách nhiệm nảy sinh từ thời điểm trao vật), trong đó có
hợp đồng bảo quản và hợp đồng vay mượn và loại thứ hai là hợp đồng thoả thuận, thời
điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ của loại hợp đồng này bắt đầu ngay sau khi ký hợp
đồng. Sở dĩ có sự phân loại vì các nhà làm luật xác định căn cứ phân chia là thời điểm
phát sinh quan hệ quyền và nghĩa vụ. Bộ luật Hamurabi không được phân loại tỉ mỉ,
không quy định thời điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ triệt để. Về chế tài hợp đồng,
tất cả các hợp đồng đều có chế tài dân luật. Không như vậy, bộ luật Hamurabi không
phải hợp đồng nào cũng là chế tài dân luật mà phần nhiều là chế tài hình sự.
2.2.3 Chế định về hôn nhân gia đình
Trong bộ luật Hamurabi, việc kết hôn giữa một người đàn ông và một người đàn
bà được thực hiện trên cơ sở sự thoả thuận của hai bên gia đình, nhà trai đến nhà gái
hỏi cưới (điều 155, 156). Nếu một người đàn ông phá bỏ hôn ước, anh ta sẽ mất toàn
bộ tài sản đã đem đến nhà cô gái (điều 159). Nhưng nếu hôn nhân không thành do lỗi
nhà gái, bố cô gái có trách nhiệm bồi thường cho nhà trai (điều 160). Trong quan hệ
vợ chồng, pháp luật Lưỡng Hà thừa nhận chế độ đa thê, người đàn ông được phép lấy
nhiều vợ nhưng người phụ nữ chỉ có thể lấy một chồng. Hành vi ngoại tình của người
phụ nữ được coi là trọng tội. Về việc li hôn, cả người chồng và người vợ đều có quyền
3
li hôn, nhưng điều kiện li hôn có sự khác nhau. Người chồng có thể bỏ vợ khi người
vợ có một trong ba lý do sau: người vợ không sinh được con, người vợ không chu đáo
với chồng, người vợ ngoại tình. Tuy nhiên, bộ luật cũng quy định một trường hợp hạn
chế yêu cầu ly hôn của người chồng, đó là trường hợp người vợ bị bệnh nặng (điều
148). Người vợ được phép ly hôn chồng khi có ba điều kiện sau: người chồng đối xử
tệ bạc với mình (điều 142), người chồng là kẻ “phản bội”, đã “bỏ trốn khỏi quê
hương” (điều 136) và người vợ bị chồng vu cáo phạm tội ngoại tình mà không bắt
được quả tang.
Luật La Mã có nhiều điểm tiến bộ hơn so với luật Hamurabi. Hôn nhân theo quy
định của pháp luật là một vợ một chồng và phải do sự tự nguyện đồng ý của hai
người. Luật La Mã cũng quy định về điều kiện kết hôn một cách rõ ràng hơn: nam từ
14 tuổi, nữ từ 12 tuổi, cô dâu chú rể phải là người chưa chồng, chưa vợ hoặc hôn nhân
trước đã chấm dứt. Nam nữ không cùng huyết thống, cấm chị em của chồng kết hôn
với người vợ goá và ngược lại. Việc chấm dứt hôn nhân trong pháp luật La Mã xảy ra
khi một trong hai người chết, một trong hai người mất quyền tự do rơi vào địa vị nô lệ
và ly hôn. Ly hôn của luật La Mã theo hai hình thức: thuận tình ly hôn và theo yêu cầu
của một bên trong trường hợp hôn nhân theo chồng. Về quan hệ vợ chồng, đối với hôn
nhân theo chồng: người vợ phải sống ở nhà chồng, phải chung thuỷ với chồng, ngoại
tình có thể bị xử tử, quyền lực của người chồng được áp đặt đối với người vợ hầu như
tuyệt đối. Trông hôn nhân theo vợ: người vợ là một cá nhân độc lập, tài sản không phụ
thuộc vào chồng không có quyền áp đặt quyền lực đối với vợ.
Trong quan hệ cha mẹ với con cái, hầu như có điểm tương đồng giữa luật
Hamurabi và luật La Mã thời cộng hoà hậu kỳ, đều chú trọng đến bảo tồn tính bền
vững của gia đình và đạo đức xã hội, con cái phải kính trọng cha mẹ, không được
hành hung cha mẹ. Tuy nhiên, vẫn có những điểm khác biệt, trong luật Hamurabi,
quyền và địa vị của người cha trong gia đình là tối thượng, người cha là chủ gia đình.
Nhưng trong luật La Mã, quan hệ giữa vợ chồng có sự bình đẳng hơn, nhất là trong
quan hệ hôn nhân theo vợ, địa vị của người cha trong gia đình không phải là cao nhất
tuy nhiên tư tưởng quyền cha trong quan hệ giữa cha mẹ và con cái vẫn được xác lập.
2.2.4 Chế định về thừa kế
Về chế định này, cả bộ luật Hamurabi và bộ luật La mã đều xác lập hai loại thừa kế
là thừa kế theo pháp luật và thừa kế theo di chúc. Nhưng với từng bộ luật nội dung của
chế định này cũng có nhiều khác biệt.
Trong bộ luật La Mã, hiệu lực của di chúc được xác định khi có điều kiện: người
lập di chúc phải có năng lực lập di chúc. Điều này đỏi hỏi vào thời điểm lập di chúc
người lập di chúc phải có năng lực hành vi đầy đủ. Di chúc có thể chia làm hai loại: di
chúc miệng và di chúc văn bản. Luật La Mã cũng quy định trong di chúc phải có một
phần tài sản sẽ được chia cho người thân thích gọi là kỷ phần bắt buộc. Người lập di
chúc chỉ trao tài sản cho những người phụ thuộc vào mình (các con) và trong di chúc
phải chỉ rõ họ được hưởng hoặc trực tiếp truất quyền thừa kế của họ. Loại thứ hai là
thừa kế theo pháp luật. Trình tự thừa kế được thực hiện đối với tài sản mang tính chất
chung của gia đình và đối với những người có quan hệ huyết thống trực hệ, được chia
theo thứ tự thứ bậc nhất định. Hàng thứ nhất bao gồm các con, các cháu. Trong trường
4
hợp bố mẹ mất trước ông bà thì cháu thay thế vị trí của bố, mẹ hưởng di sản của ông
bà (thừa kế thế vị). Hàng thứ hai gồm bố, mẹ (ông, bà) anh chị em ruột…Hàng thứ ba
là anh chị em cùng mẹ khác cha, cùng cha khác mẹ. Hàng thứ tư là những người huyết
thống theo bàng hệ đến hàng thứ sáu trong đó nếu còn hàng gần sẽ loại hàng xa hơn.
Khác với luật La Mã, quyền thừa kế tài sản bên cạnh một phần kỷ yêu bắt buộc,
người lập di chúc có thể trao tài sản cho môt cá nhân khác theo nguyện vọng, luật
Hamurabi chỉ xác lập thừa kế tài sản với các thành viên trong gia đình. Nếu một người
khi chết không để lại di chúc thì tài sản của ngưòi đó sẽ chuyển đến những người có
quyền đối với tài sản đó theo pháp luật. Trong thừa kế di chúc quyền của người lập di
chúc bị hạn chế nhiều (điều 169, 170). Luật Hamurabi không quy định rõ ràng việc lập
di chúc nhưng thông qua điều 165, có thể nhận thấy văn bản tặng cho của người cha
lập lúc còn sống cho một trong các con trai của ông ta là di chúc vì nó chỉ thực hiện
khi ông ta chết. Thừa kế theo pháp luật của bộ luật này có thể thấy phổ biến hơn. Đối
với gia chủ của gia đình, tài sản được chia cho các con trai (điều 167), con gái của gia
chủ không được chia tài sản vì cô ta được nhận hồi môn lúc về nhà chồng. Nếu người
cha chết khi con gái chưa lấy chồng hoặc hành nghề tôn giáo thì được một phần tài
sản từ di sản của người cha (điều 180). Đối với tài sản của vợ gia chủ, người chồng
không được thừa kế tài sản của vợ, hàng thừa kế thứ nhất là các con của bà ta (điều
162), và hàng thừa kế thứ hai, trong trường hợp bà ta không có con là anh em ruột của
bà ta, tài sản được trả về cho nhà bố đẻ của bà ta (điều 163, 164). Có thể thấy, so với
luật La Mã, luật Hamurabi có những điểm hạn chế, kém tỉ mỉ hơn đặc biệt trong việc
quy định các hàng thừa kế, và sự bình đẳng trong việc phân chia tài sản.
3. Đánh giá chung
Do sự khác biệt về vị trí địa lý cũng như các điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội
khác, bộ luật Hamurabi và luật La Mã có nhiều những điểm khác biệt. Mỗi bộ luật
hình thành đều có những điểm tiến bộ và những điểm hạn chế, tùy vào quan điểm của
những nhà làm luật và điều kiện kinh tế xã hội, những chuẩn mực đạo đức của từng
quốc gia. Nhìn chung, cả hai bộ luật đều có phạm vi điều chỉnh rộng trên nhiều lĩnh
vực của đời sống xã hội và có một vài điểm thống nhất tương đồng. Tuy vậy, bộ luật
La Mã vẫn được đánh giá là hoàn thiện hơn về kĩ thuật lập pháp cũng như nội dung
của từng chế định, điều luật. Riêng về ngành luật dân sự, luật La Mã có sự tiến bộ hơn
về nhiều mặt, quy định chặt chẽ và tỉ mỉ hơn so với luật Hamurabi. Nhưng không thể
hoàn toàn phủ nhận tính tiến bộ của luật Hamurabi, trong một số trường hợp luật
Hamurabi cụ thể và đầy đủ hơn.
C. Kết luận
Trong lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới, bộ luật Hamurabi và bộ luật La Mã
cổ đại vẫn được coi là những bộ luật có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của
pháp luật. Sự so sánh trên đây chỉ đơn giản là một vài những ý kiến chủ quan góp
phần nhận thức một cách rõ ràng hơn về hai bộ luật cũng như điểm tiến bộ và hạn chế
của hai bộ luật này và những đóng góp của nó vào pháp luật ngày nay.
5
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới. NXB Công an nhân dân,
năm 2008
2. Khảo lược bộ luật Hamurabi của nhà nước Lưỡng Hà cổ đại. NXB Chính trị
quốc gia, năm 2008
3. Giáo trình luật La Mã. NXB Công an nhân dân, năm 2003
4. Một số trang web
6
MỤC LỤC
7