Tải bản đầy đủ (.docx) (52 trang)

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÔNG CUỘC CẢI CÁCH Ở NHẬT BẢN ( 1868- 1912)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (245.91 KB, 52 trang )

Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÔNG CUỘC CẢI CÁCH Ở
NHẬT BẢN ( 1868- 1912)
1.1. Những tiền đề của cuộc cải cách
1.1.1. Tiền đề về kinh tế
Vào giữa thế kỷ XIX, chế độ phong kiến Nhật Bản Tokugawa sau mấy
thế kỷ thống trị đã rơi vào tình trạng bế tắc, suy thoái, không thể nào đáp
ứng được sự phát triển, không đủ sức chống lại sự xâm nhập của đế quốc Âu
– Mỹ.
Nông nghiệp: Đến giữa thế kỷ XIX, Nhật Bản vẫn là một nước nông
nghiệp với mối quan hệ sản xuất phong kiến lạc hậu. Nền nông nghiệp dựa
trên quan hệ phong kiến, quyền sở hữu đất đai thuộc về nhà nước phong
kiến, tình trạng cát cứ không phù hợp với nhu cầu phát triển sản xuất hàng
hóa. Pháp luật không công nhận nông dân Nhật có quyền chiếm hữu đất đai,
mặc dầu họ được canh tác trên những mảnh đất cha truyền con nối. Việc
mua bán đất bị cấm rất nghiêm, nhưng trong thực tế việc gán đất đã xảy ra
đến quy mô lớn. Vì thiên tai mất mùa hoặc do bệnh tật trong các gia đình
nông dân, họ không đủ sức nạp nghĩa vụ tô thuế, lao dịch nên phải gán đất
cho nhà giàu ở nông thôn hay chủ buôn bán, người cho vay nặng lãi ở thành
thị. Về hình thức người nông dân vẫn giữ đất của mình và tiếp tục cày cấy,
nhưng thực ra họ đã trở thành tá điền, không chỉ nộp thuế cho Daimyô –
những quý tộc phong kiến lớn, mà còn phải nộp tô điền hay tô hiện vật cho
chủ nợ. Người phú nông chủ nợ có quyền sở hữu đất đai, thực tế được gọi là
Dzinusi tức là địa chủ.
Ở Nhật Bản lúc bấy giờ còn khuyến khích khai hoang và dành cho
chủ đất nhiều quyền lợi, được miễn thuế trong thời gian nhất định. Sắc lệnh
1


khẩn hoang năm 1721 đã tạo điều kiện cho các thương gia vay lãi ở thành thị
xuất vốn tham gia khai khẩn đất hoang. Như vậy, độc quyền chiếm hữu đất


đai của quý tộc bị phá vỡ ở một mức độ đáng kể. Bên cạnh, những lãnh chúa
phong kiến truyền thống đã xuất hiện giai cấp địa chủ Dzinusi gồm phú
nông và các nhà buôn cho vay nặng lãi.
Sự phát triển của các quan hệ hàng hoá, tiền tệ, hiện tượng chiếm hữu
đất đai kinh doanh và việc hình thành những quan hệ mới đã làm thay đổi
các quan hệ trong nông nghiệp.
Một hiện tượng mới ở nông thôn là sự xuất hiện chế độ làm thuê năm,
thuê tháng và thuê công nhật. Tuy ở Nhật Bản việc nông dân ra khỏi lãnh địa
đi làm thuê đều bị bắt trả về cho lãnh chúa, nhưng hiện tượng trốn khỏi lãnh
địa vẫn xảy ra không gì ngăn nổi. Nông dân đi kiếm việc làm ở thị trấn và
những vùng thiếu lao động. Vì, lúc này phần lớn diện tích ruộng đất ở nông
thôn đã chuyển sang trồng cây công nghiệp như: bông, dâu, chè, thuốc lá….
Vào nửa đầu thế kỷ XIX, diện tích trồng dâu, bông ở quanh một số thành
phố lớn đã vượt quá diện tích trồng lúa. Thời gian này chính quyền Shôgun
thu thuế bằng tiền thay cho hiện vật.
Vào đầu thế kỉ XIX, những dấu hiệu khủng hoảng của nền kinh tế tự
nhiên ngày càng lộ rõ. Tình trạng mất mùa, đói kém, ôn dịch liên tiếp xảy ra.
Trong 50 năm từ 1790 – 1840 theo tài liệu thống kê đầy đủ, nước Nhật có 22
lần mất mùa, nạn đói bao trùm một phần khá lớn đất nước. Trước tình hình
đó yêu cầu đặt ra cho chính phủ là phải tiến hành cải cách để cải thiện tình
hình kinh tế của đất nước, nâng cao đời sống cho nhân dân.
Công thương nghiệp: vào đầu thế kỉ XVIII, đặc biệt là thế kỉ XIX,
công thương nghiệp phát triển mạnh mẽ và tác động trở lại đối với xã hội.
Tổ chức sản xuất thủ công nghiệp truyền thống là các phường hội ở thành
thị, lao động tại nhà của nông dân. Các công trường thủ công và phường hội
2


đầu tiên xuất hiện ở các công quốc vào những năm 20 của thế kỉ XVIII.
Chính quyền đã giao cho phường hội độc quyền sản xuất kinh doanh một

thứ hàng hoá và phải nộp cho nhà nước một khoản nghĩa vụ bằng tiền.
Công trường thủ công phân tán khá phổ biến đem lại hiệu quả cho nền
sản xuất kinh doanh. Nông dân thường nhận nguyên liệu từ những chủ kinh
doanh, sản xuất tại nhà và giao hàng cho chủ theo định kì. Sản phẩm của họ
làm đều thuộc về chủ. Cũng có nhiều nơi thực tế nông dân lĩnh lương của
nhà buôn. Ở miền Trung Nhật Bản trên đảo Hoooonsshu trong các ngành tơ,
lụa, kéo sợi, dệt vải, công nghiệp tại gia phát triển nhanh chóng. Mỗi khu
vực trong nước chuyên môn sản xuất một mặt hàng nào đấy. Sự tiêu thụ
ngày càng tăng về vải lụa vào đầu thế kỉ XVIII cho phép xuất hiện nhiều
công trường thủ công dệt. Ở miền Nam trong công quốc Satsuma ngành sản
xuất tơ lụa có nhiều xí nghiệp thuê từ 20 đến 30 công nhân.
Vào nửa sau thế kỉ XVIII công trường thủ công sản xuất lụa vải xuất
hiện ở nhiều tỉnh, có đến 100 công trường do phong kiến tổ chức quản lí.
Trong những năm 50 – 60 đã xuất hiện công nghiệp luyện thép và những
công xưởng đóng tàu ở các công quốc phía Tây Nam.
Đến giữa thế kỉ XIX, số công trường thủ công lên tới hàng trăm
nhưng công nghiệp chế tạo vẫn chưa ra đời. Tỉ lệ sản phẩm công nghiệp
Nhật so với thế giới không đáng kể, ngành đúc đồng khoảng 6% và ngành
sản xuất tơ lụa cũng chỉ mới chiếm 10% (năm 1867).
Tuy công nghiệp Nhật Bản có những bước phát triển nhưng gặp nhiều
khó khăn. Tính biệt lập của các công quốc làm xuất hiện hàng rào quan thuế
và đủ thứ hạn chế của chính phủ, đặc biệt là công việc cấm nông dân không
được bỏ đất chạy ra thành thị.

3


Vào thời Edo (1600 – 1868) ở Nhật Bản còn có sự ra đời của các
thành thị với vai trò kinh tế, văn hóa nổi bật đã khiến thành thị trở thành
những nhân tố rất có ý nghĩa đối với công cuộc cải cách ở Nhật Bản. Trong

các thành thị đó, bộ máy quản lý theo kiểu phong kiến hành chính quan liêu
ngày càng tỏ ra bất lực trước sự phát triển đa dạng, sôi động của nền kinh tế
đô thị. Vai trò điều hành trên thực tế đã rơi vào tay đẳng cấp thương nhân
thông qua các phường hội. Đội ngũ thương nhân – thị dân không chỉ là
những nhà buôn giàu có mà đồng thời còn là những người chuyên kinh
doanh tiền tệ và là các chủ nợ có thế lực kinh tế lớn. Họ chính là những
người định đoạt giá cả và tạo ra những mức giá tương đối ngang bằng giữa
các vùng. Có thể nói, đẳng cấp thương nhân, trong đó có thương nhân Osaka
không chỉ đã đóng vai trò tích cực trong việc giảm thiểu tình trạng độc
quyền về kinh tế, tự định đoạt giá cả của các lãnh chúa mà còn đem lại sự
phát triển đông nhất và bước đầu đặt cơ sở cho sự ra đời của một thị trường
kinh tế thống nhất ở Nhật Bản.
Hơn thế nữa, trong mỗi thành thị địa phương, với hạt nhân là các
thương nhân, đã tạo ra sự kích thích mạnh mẽ cho sự phát triển kinh tế trong
nông thôn, khuyến khích việc mở rộng của kinh tế nông nghiệp, thương
nghiệp và sản phẩm thủ công nghiệp. Trong số các thành thị của Nhật Bản
thời Edo, Kyoto, Osaka và Nagasaki được coi là những trung tâm kinh tế
quan trọng đồng thời là các mô hình thành thị tiêu biểu của Nhật Bản thời kì
cận đại. Vào đầu thế kỉ XVIII, ở Osaka, Kyoto, Edo ước tính có đến hàng
trăm nghìn thợ thủ công và số lượng đó vẫn không ngừng được tăng lên vào
cuối thời Edo. Đến giữa thế kỉ XIX, tổng dân số Nhật Bản đã lên đến khoảng
30 triệu trong đó có khoảng 20% số dân sống ở thành thị. Điều đáng chú ý
là, các thành thị Nhật Bản không chỉ là trung tâm thương mại, địa bàn tiêu
thụ hàng hóa mà còn là những công xưởng lớn. Nền sản xuất của thành thị
4


với trình độ tổ chức chặt chẽ và năng lực sản xuất cao đã tạo ra những mặt
hàng thủ công đạt đến trình độ tinh xảo nổi tiếng thế giới như : tơ lụa, luyện
kim, đồ gốm sứ, sơn mài … từ sau năm 1858, sau khi mở cửa buôn bán với

Mỹ, tơ lụa và trà đã trở thành mặt hàng xuất khẩu chính của Nhật Bản.
Trong đó, chỉ riêng nguồn thu về tơ lụa đã đạt giá trị ngang với tổng ngân
sách hàng năm và được coi là di sản lớn nhất của thời kì Edo để lại cho giai
đoạn phát triển sau. Sau khi cải cách Minh trị diễn ra, chính nhờ nguồn sức
lao động phong phú, có kĩ thuật và ý thức kỉ luật cao của môi trường kinh tế
đô thị mà Nhật Bản đã có nhiều điều kiện thuận lợi để tiếp nhận các thành
tựu khoa học, công nghệ tiên tiến phương Tây và bước nhanh vào xã hội
công nghiệp hiện đại.
1.1.2. Tiền đề về xã hội
Vào thời kỳ cận đại mặc dù chính phủ Shôgun cố làm cho nước Nhật
vươn lên, nhưng lại muốn duy trì nguyên trạng các đẳng cấp. Tuy vậy, các
quy luật phát triển xã hội đã thay đổi, quan hệ hàng hóa tiền tệ đã làm xói
mòn những giá trị tưởng chừng bất biến đã làm thay đổi các đẳng cấp trong
xã hội.
Thiên hoàng có danh mà không có thực quyền, yêu cầu tập trung
quyền lực thống nhất đất nước, đoàn kết dân tộc để chống lại bên ngoài.
Daimyô là những quý tộc phong kiến lớn quản lý các vùng lãnh địa
trong nước. Họ thực sự là một quốc vương của một lãnh địa, có chế độ thuế
khóa, luật pháp và quân đội riêng. Ở Nhật Bản có gần 300 Daimyô có quyền
lực lớn. Họ không duy trì được sự phát triển kinh tế xã hội, không đủ sức
cung cấp nhu cầu cuộc sống cho mình và cho đạo quân võ sỹ. Mâu thuẫn
ngày càng lớn. Các Daimyô phân hóa thành hai thế lực:

5


Thế lực của các phiên phía Bắc, kinh tế không phát triển, thành lực
lượng bảo thủ. Đại diện là Daimyô ở Hôkkaidô. Đây sẽ là đối tượng của
cách mạng.
Thế lực của các phiên Tây nam, tiếp xúc với thị trường kinh tế phát

triển như Satsuma, Tosa, Choshu, Hizen đều giàu mạnh lên, có xu hướng
canh tân, chống lại tính bảo thủ và sự hạn chế của chế độ quân sự phong
kiến. Họ sẽ là lực lượng tích cực cho cuộc cải cách đưa đất nước phát triển.
Samurai là tầng lớp được luyện cả văn và võ. Trừ một số Samurai lớp
trên, đại đa số là bộ phận phục vụ quân sự cho các Daimyô. Bộ phận này vào
thời kỳ cận đại đã lên tới hai triệu. Tầng lớp Samurai đã tăng mạnh về số
lượng làm cho các Daimyô không đủ sức thỏa mãn nhu cầu kinh tế. Họ là
người có học, có kiến thức tổ chức và quân sự, là tầng lớp được ưu dãi trong
xã hội phong kiến.
Cuộc đấu tranh phát triển xã hội làm cho một bộ phận tầng lớp
Samurai phân hoá thành người kinh doanh, rời bỏ cuộc sống trong các lãnh
địa để ra thành thị. Nhờ có học vấn mà họ nhanh chóng nắm được kiến thức
mới. Họ trở thành bộ phận quý tộc có tư tưởng chống lại Sôgun, muốn tiến
hành cuộc cải cách xã hội.
Thương nhân Ôsaka có vị trí đặc biệt quan trọng trong xã hội Nhật
Bản. Ôsaka là những tập đoàn thương gia lúa gạo lớn đã nắm được mạch
sống lương thực của đất nước. Các Daimyô gặp khó khăn kinh tế phải bán
trước số thóc một hay vài năm và như vậy họ tự rơi vào tình trạng lệ thuộc
về tài chính. Các phú thương dần dần nắm lấy đất đai và cả nông dân, tham
gia bóc lột trực tiếp. Đến nửa sau thế kỷ VIII quyền sở hữu đất đai thực tế
đã nằm trong tay các nhà buôn giàu có.
Daimyô thành con nợ của thương nhân, còn thương nhân tuy giàu có
nhưng lại thiếu quyền lực và vị trí xã hội. Thương gia có thể dùng tiền để
6


mua tước hiệu Samurai, cũng có thể qua con đường hôn nhân với con cái
Samurai để tạo nên vị trí hợp pháp của mình, thương gia dù có giàu có
nhưng không được coi trọng. Họ thường là chủ nợ của các lãnh chúa, của võ
sỹ, thậm trí cả Tướng quân ( Sôgun) nhưng họ không có địa vị xã hội tương

ứng.
Thợ thủ công đây là tầng lớp dưới trong đẳng cấp phong kiến. Mạc
phủ vì muốn ngăn ngừa chế độ phong kiến tan rã, nên có sự hạn chế rất chặt
chẽ với hoạt động của thợ thủ công. Người làm nghề thủ công còn phải gánh
vác nhiều loại thuế nặng nề. Đứng về mặt chính trị, họ ở vào địa vị không có
quyền hạn gì . Thậm chí ngay cả đến con người của họ cũng không bảo đảm.
Một khi võ sĩ cảm thấy họ “vô lễ” thì có thể dựa vào luật “được quyền giết
ngay tại chỗ những người phạm tội” để giết chết họ.
Nông dân chiếm 80%- 90% cư dân, là lực lượng cơ bản của nền sản
xuất Nhật Bản. Đất đai nằm trong tay các Đaimiô. Nông dân lĩnh canh ruộng
đất và nộp tô cho Đaimiô. Quan hệ này tương đối giống quan hệ ruộng đất ở
Tây Âu trung cổ. Nhưng vốn là tá điền của lãnh chúa, nông dân không có
quyền rời khỏi lãnh địa, nếu trốn chạy, lãnh chúa có quyền bắt về. Cùng với
sự phát triển kinh tế hàng hóa, kinh tế nông dân càng khó khăn, hàng vạn
người phải ra thành thị kiếm sống vì không có đất, không có việc làm. Đó là
nguồn cư dân cơ sở của thành thị. Thân phận khốn khó của nông dân làm
cho họ bất mãn với chế độ Tướng quân ( Sôgun). Địa vị bi thảm của người
đã thúc đẩy họ đứng lên chống áp bức bóc lột. Từ năm 1801 đến năm 1843,
đã bùng nổ 320 lần những cuộc khởi nghĩa của nông dân. Những cuộc khởi
nghĩa của nông dân thời kỳ này yêu cầu phân phối ruộng đất và đuổi bọn
tham quan vô lại…..

7


1.1.3. Tiền đề về văn hóa tư tưởng
Cùng với những chuyển biến kinh tế, có thể khẳng định rằng, cuộc cải
cách Minh Trị ở Nhật Bản đã diễn ra và diễn ra một cách thành công cũng
chính là nhờ có những vai trò hết sức quan trọng của những tiền đề về văn
hóa và tư tưởng. Văn hóa, tư tưởng không chỉ đạo nên nền tảng căn bản của

cuộc cải cách mà còn ý nghĩa tập trung sức mạnh đất nước, dẫn dắt tiến trình
lịch sử dân tộc.
Dựa trên những nền tảng văn hóa truyền thống, dường như tương
phản với những khung cảnh ảm đạm về chính trị, càng về cuối thời Edo
những luồng gió mới của văn hóa thời đại càng tràn mạnh mẽ vào Nhật Bản
và đem lại đời sống văn hóa Nhật Bản một diện mạo mới. Một số dạng thức
biểu hiện và tư tưởng văn hóa mới xuất hiện khiến cho văn hóa Nhật Bản trở
nên hết sức phong phú. Môi trường xã hội mới cũng khiến cho giáo dục từng
bước thoát ra khỏi những định chế phong kiến và ngày càng trở thành những
nhu cầu hiểu biết, học tập của đông đảo các tầng lớp nhân dân.
Thời Edo, ở một số trường ngoài những môn học luân lý và triết luận
Nho giáo, học sinh còn được học: Toán, Địa lý, Lịch sử, các môn học về
Khoa học, Kỹ thuật phương Tây, tiếng Anh, tiếng Hà lan….Vào cuối thời
Edo học tập đã trở thành một nhu cầu quan trọng trong cuộc sống thường
ngày của các Samurai cũng như đông đảo các tầng lớp bình dân. Qua đó
cho thấy trước khi nền giáo dục hiện đại được thiết lập đã có một số lượng
đông đảo các giáo viên có kinh nghiệm, một truyền thống hiếu học trong xã
hội đã khá phổ biến. Đây là cơ sở cho cải cách giáo dục ở Nhật Bản.
Nhờ sự phát triển của giáo dục ở Nhật Bản đã xuất hiện những
khuynh hướng tư tưởng mới thể hiện sinh động khung cảnh của một xã hội
đang trong thời kỳ chuyển giao giữa bảo thủ, lạc hậu và tân tiến, giữa truyền
thống và hiện đại. Một số khuynh hướng tư tưởng, học thuật đó thực sự trở
8


thành những luồng tư tưởng mang ý nghĩa khai sáng như: Quốc học, Khai
quốc học, Hà lan học…. Các khuynh hướng tư tưởng đó đã bổ sung và làm
phong phú thêm kho tàng tri thức của Nhật Bản. Do vậy, các khuynh hướng
học thuật và tư tưởng mới không chỉ góp phần quan trọng mở rộng tầm nhận
thức của dân tộc mà còn phá vỡ xu thế độc tôn của Khổng học, hướng tư duy

phát triển xã hội đến mô hình phát triển mới và những giá trị tiên tiến của
văn minh phương Tây. Điều quan trọng là, hệ thống giáo dục và tư tưởng
Nhật Bản đã sớm thoát ảnh hưởng của tôn giáo, coi trọng thực học, kỹ thuật,
công nghệ, nhằm mau chóng đưa Nhật Bản trở thành một quốc gia “ phú
quốc, cường binh”.
1.1.4. Tiền đề về chính trị
Đến giữa thế ỷ XIX Nhật Bản vẫn là một quốc gia phong kiến. Đứng
đầu nhà nước là Thiên hoàng có vị trí tối cao (nhưng chỉ trên danh nghĩa)
thực quyền thuộc về Sôgun đóng ở phủ chúa (Mạc phủ). Bên dưới là một hệ
thống chính quyền từ trung ương đến địa phương. Ở các địa phương, các
Đaimiô là những lãnh chúa phong kiến theo kiểu châu Âu. Nhân dân lao
động bị bóc lột nặng nề bằng địa tô và thuế khóa.
Sự thống trị của Mạc phủ Tôcưgawa tồn tại gần ba thế kỷ (16031868). Chính quyền Mạc phủ trực tiếp nắm khỏang ¼ đất nước, còn ¾ lãnh
thổ còn lại thuộc quyền các chư hầu phong kiến cai quản. Những vùng đất
của chư hầu được gọi là “phiên quốc”. Đứng đầu phiên quốc là Đaimiô. Sau
hơn hai trăm năm cầm quân thì chế độ Mạc phủ Tôcưgaoa lâm vào tình
trạng khủng hoảng, suy yếu.
Giữa lúc mâu thuẫn trong lòng xã hội Nhật Bản gay gắt, chế độ Mạc
phủ khủng hoảng nghiêm trọng thì các nước phương Tây dùng áp lực quân
sự đòi Nhật Bản phải mở cửa. Năm 1854, một hạm đội của Mỹ đến Nhật
Bản buộc Mạc phủ phải ký hiệp ước, mở hai cửa biển Simôđa và Hôkôđatê
9


cho Mỹ buôn bán, tiếp đó Pháp, Nga, Đức cũng đua nhau ép Nhật Bản ký
hiệp ước bất bình đẳng. Sở dĩ, các nước tư bản Âu, Mỹ lúc này đòi Nhật Bản
mở cửa để giao lưu, buôn bán, đặc biệt là Mỹ chú ý đến Nhật vì Nhật Bản có
thể thành nơi dừng chân cho các tàu Mỹ rồi tỏa ra Trung Quốc và Thái Bình
Dương. Đến năm 1864, sự can thiệp của nước ngoài vào Nhật Bản ngày
càng tăng. Hạm đội Mỹ-Anh-Pháp-Hà lan tấn công Shimonnoseki, đòi

quyền qua lại cảng này. Đặt Nhật Bản trong một hoàn cảnh khó khăn. Tiếp
tục duy trì chế độ phong kiến và chấp nhận đối đầu với các nước phương
Tây. Nhượng bộ mở cửa giao thương và theo con đường canh tân đất nước.
Sau một loạt những hiệp ước mà chính phủ Mạc phủ ký với nước
ngoài đã chấm dứt hơn hai trăm năm theo đuổi chính sách đóng cửa của
chính quyền Edo. Tuy nhiên, việc ký các hiệp ước này đã làm cho các tầng
lớp nhân dân trong xã hội phản ứng mạnh mẽ. Phong trào phát triển mạnh ở
các công quốc phía Tây Nam như: Chiôxiu, Satsuma, Toxa. Chính quyền
cho quân trấn áp nhưng cũng không ngăn được làn sóng chống chính phủ
Tôcưgaoa. Phong trào đấu tranh chống Sôgun vào những năm 60 của thế kỷ
XIX đã làm sụp đổ chế độ Mạc phủ.
Như vậy, giữa thế kỷ XIX Nhật Bản lâm vào khủng hoảng trầm trọng
đứng trước sự lựa chọn hoặc là tiếp tục duy trì chế độ phong kiến bảo thủ trì
trệ, lạc hậu để bị các nước đế quốc xâu xé hoặc là canh tân đất nước đưa
Nhật Bản phát triển theo con đường các nước tư bản. Trước tình hình đó,
đóng vai trò là đẳng cấp bên trên, giữ vai trò thống trị xã hội, một bộ phận
quan trọng đẳng cấp võ sĩ nhận thức sâu sắc về sự tồn vong của dân tộc và
cảm thấy danh dự của đất nước, của đẳng cấp bị xúc phạm nên họ đã đứng
lên lựa chọn con đường canh tân đất nước đưa Nhật Bản thoát khỏi cảnh bị
các nước đế quốc xâu xé, phát triển cường thịnh.
10


Sau khi Thiên hoàng Komei đột ngột qua đời tháng 12 năm 1867 thì
Thiên hoàng Minh Trị lên kế vị. Minh Trị Thiên Hoàng (1825 – 1912) tên
thật là Mutxuhitô vị hoàng đế thứ 122 trong 125 đời Thiên Hoàng của đất
nước Nhật Bản. Ông sinh ra tại TôKyô, là con trai của Thiên Hoàng Hiếu
Minh và phi tần NaKayama Xôshikô. Được các quý tộc và một số thành
viên phái Tôn vương nuôi dưỡng nên Thiên hoàng Minh Trị đã sớm có tư
tưởng cải cách. Ông cũng là người chủ trương phải lật đổ Mạc phủ. Ông đã

ban sắc chỉ đồng ý cho hai han là Chosu và Satsuma tấn công Edo. Trước
nguy cơ nội chiến, Goto Shojiro và Sakamoto thông qua lãnh chúa Tosa là
Yamanouchi Toyoshige khuyên Tokugawa Yoshinobu nên trao trả lại quyền
lực chính trị cho Thiên hoàng. Chấp nhận lời khuyên này, ngày 14/ 10/ 1867,
tại Kyoto, Tokugawa Yoshinobu quyết định trao trả quyền lực cho Thiên
hoàng. Chính quyền Minh Trị chính thức được thành lập. Đến đây, hình thức
hai chính quyền song song tồn tại chấm dứt hoàn toàn. Chế độ Mạc phủ tồn
tại từ năm 1192 ở Nhật Bản chính thức bị lật đổ. Quyền lực chính trị của nhà
nước tập trung vào tay Thiên hoàng.
1.2. Những nội dung cải cách
Sau khi lật đổ chế độ Mạc Phủ, Thiên Hoàng Mutxuhito thực hiện một
cuộc cải cách lớn về mọi mặt từ chính trị, kinh tế, giáo dục cho đến quân sự .
Những cải cách này đã khiến Nhật Bản phát triển mạnh mẽ từ cuối thế kỷ
XIX, biến Nhật Bản từ một nước phong kiến thành một nước tư bản chủ
nghĩa, thoát khỏi nguy cơ trở thành thuộc địa của các nước đế quốc tư bản.
2.1.1.Về chính trị
Thiên hoàng tuyên bố chấm dứt chế độ Mạc phủ, thành lập chính
phủ mới, xóa bỏ chế độ cát cứ và xây dựng chính quyền trung ương tập
quyền do Thiên Hoàng đứng đầu. Trong đó, địa vị chính trị của Thiên hoàng
11


được đề cao, vị trí thiêng liêng của Hoàng gia được coi là Trung tâm, hội tụ
về sức mạnh, ý trí dân tộc.
Với mục đích ổn định thế cục và có đủ sức mạnh chống lại thực dân
phương Tây, chính quyền Minh Trị đã tập trung tất cả mọi lỗ lực thực hiện
bằng được khẩu hiệu “Phú quốc, cường binh” mà chính phủ đã đề ra ngay
sau khi được thành lập. Để thực hiện mục tiêu chiến lược đó, chính quyền
Minh Trị đã thực hiện kiên quyết và triệt để một số các biện pháp cải cách
mà trước hết là tập trung vào hai nhiệm vụ cơ bản:

Thứ nhất, triệt bỏ những định chế lạc hậu của thể chế phong kiến.
Thứ hai, tạo dựng được những cơ chế thích ứng để thúc đẩy sự phát
triển của chủ nghĩa tư bản, mau chóng hiện đại hóa đất nước.
Chính quyền mới đã khôi phục lại quyền lực của Thái chính quan
( Daijokan). Ban đầu Thái chính quan được chia làm 3 viện: Chính viện
(Shoin) là cơ quan quyền lực tối cao, Tả viện (Sain) là cơ quan tư vấn lập
pháp, Hữu viện (Uin) là cơ quan quản lý các bộ. Đứng đầu cơ quan này lần
lượt là: Thái chính đại thần, Tả đại thần và Hữu đại thần. Về sau chế độ tam
viện còn được cải cách nhiều lần vào các năm 1871, 1873, 1875, 1877, và nó
được duy trì cho đến năm 1885 khi chính quyền Minh Trị thực thi chế
độ Nội các. Cùng với Tam viện, chính quyền còn thiết lập 6 bộ: Bộ Dân vụ ,
Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp, Bộ Hoàng cung, Bộ Ngoại giao.
Trong chính quyền mới, hầu hết các chức vụ chủ chốt đều do quý tộc và tầng
lớp võ sĩ đảm nhiệm. Điều đó, phần nào thể hiện vai trò và ảnh hưởng của
những tầng lớp này trong xã hội Nhật Bản thời bấy giờ.
Bên cạnh việc thiết lập thể chế chính trị trung ương tập quyền, chính
phủ Minh Trị đã tiến hành những cải cách nhằm loại bỏ tàn dư của chế độ
phong kiến. Bằng sắc lệnh “Tứ dân bình đẳng”, chế độ đẳng cấp tồn tại từ
12


thời Edo đã được xóa bỏ. Theo đó, 4 đẳng cấp sĩ, nông, công thương không
còn và dân chúng được chia làm 3 hạng: Tầng lớp có thân phận cao như
Daimyo, Kuye ( quý tộc); Tầng lớp võ sĩ và tầng lớp bình dân. Chính quyền
mới cho phép tầng lớp bình dân được mang họ của mình, công nhận quyền
kết hôn với tầng lớp khác có địa vị xã hội cao hơn. Ngoài ra, họ cũng có
quyền tự do chuyển đổi chỗ ở, lựa chọn nghề nghiệp…Đó là những quyền
mà vào thời phong kiến, giới bình dân không thể có.
Để khẳng định những nguyên tắc của một nhà nước mới, chính quyền
Mịnh Trị đã tập trung sức lực vào việc xây dựng chính thể và biên soạn hiến

pháp. Dựa trên cơ sở ban đầu là việc thiết lập một chính thể mới của một nền
chính trị công minh chính đại lấy nhân nghĩa làm cốt lõi. Mục tiêu chính trị
hàm giá trị nhân bản đó không phụ thuộc vào cá nhân người đứng đầu mà
phải quy định bởi chính thể. Theo Minh Trị, chính thể thích hợp nhất cho
Nhật Bản là thể chế “Quân chủ lập hiến”. Sau một quá trình vận động đấu
tranh và tham khảo nhiều bản hiến pháp phương Tây, ngày 12/2/1889 bản
“ Đại Nhật Bản đế quốc hiến pháp” được chính thức ban hành. Đây là văn
bản quan trọng quy định thể chế chính trị của nhà nước mới. Theo bản hiến
pháp này, vị thế thiêng liêng và quyền lực của Thiên hoàng được khẳng định.
Thiên hoàng là người đứng đầu nhà nước, là người duy nhất có thể đưa ra
những quyết định trọng yếu của đất nước như tuyên chiến, giảng hòa hay ký
kết các hiệp ước... Các bộ trưởng trong Nội các chịu trách nhiệm và tuân thủ
mệnh lệnh trực tiếp từ Thiên hoàng. Bộ trưởng lục quân và hải quân cũng
chịu trách nhiệm báo cáo trực tiếp với Thiên hoàng mà không cần tham vấn
ý kiến hay thông qua Nội các. Ngoài ra, Thiên hoàng còn có quyền ban hành
và sửa đổi luật pháp Quốc hội Nhật Bản thông qua...
Như vậy, “Hiến pháp Minh Trị” là bản hiến pháp đầu tiên được ban
hành ở Châu Á. Nội dung và tinh thần của hiến pháp là ví dụ điển hình của
13


quan điểm xây dựng một mô hình nhà nước hiện đại theo kiểu phương Tây
nhưng vẫn kết hợp, duy trì những yếu tố truyền thống phương Đông, đặc
biệt là truyền thông Nhật Bản. Vị thế của Thiên hoàng với tư cách là người
đứng đầu đất nước được đề cao. Tuy nhiên, trên thực tế các tầng lớp quý tộc
vẫn có nhiều ảnh hưởng trong đời sống chính trị Nhật Bản, chi phối các
quyết định của Thiên hoàng, chi phối các hoạt động của Nội các.
Để mở rộng quyền “dân chủ” chính quyền Minh Trị đã thành lập Nghị
viện gồm hai viện: Thượng viện và Hạ viện. Trong đó, Thượng viện do
Thiên hoàng chỉ định, Hạ viện do một số bô phận dân chúng bầu. Tuy nhiên,

số lượng cử chi còn rất hạn chế, chỉ có nam giới từ 25 tuổi trở lên và đóng
thuế cao mới có quyền đi bầu cử. Mặt khác, trong một số trường hợp Thiên
hoàng có quyền đình chỉ hoạt động của nghị viện, giải tán và triệu tập Hạ
viện... Như vậy, nghị viện Nhật Bản chỉ mang tính chất hình thức, “mị dân” ,
dân chủ với một số ít người có địa vị xã hội, thực quyền cơ bản vẫn nằm gọn
trong tay Thiên hoàng.
Tóm lại, những cải cách trên đã thiết lập ở Nhật Bản một chế độ chính
trị mới - Chế độ Quân chủ lập hiến do Minh Trị đứng đầu. Cải cách đã tạo
điều kiện cho việc thống nhất đất nước, xây dựng thị trường dân tộc thống
nhất và xóa bỏ chế độ đẳng cấp phong kiến ở Nhật Bản.
1.2.2. Về kinh tế
Song song với việc thực hiện những chủ trương lớn nhằm xây dựng
một nhà nước mới, chính quyền mới cùng tiến hành cải cách về kinh tế
nhằm thúc đẩy sự phát triển về kinh tế Nhật Bản nhằm nâng cao đời sống
cho nhân dân.
Về Nông nghiệp: Dưới chế độ Mạc phủ đời sống người nông dân vô
cùng cực khổ, họ không có ruộng đất, sau khi thu hoạch phải nộp cho chủ
14


ruộng ½ số hoa lợi. Ngoài ra, người nông dân còn phải gánh chịu rất nhiều
loại tạp thuế, lao dịch, họ không có quyền tự do chọn nghề và nơi cư trú mà
cuộc sống bị cột chặt vào ruộng đất của chủ ruộng.
Chính vì vậy, sau khi nắm được chính quyền, chính phủ Minh Trị
rất chú trọng đến nông dân và nông nghiệp việc cải cách ruộng đất được
xem là một yêu cầu quan trọng hàng đầu. Nhằm hiện thực hóa quyền sở hữu
tối cao của Thiên Hoàng về ruộng đất, Năm 1869, Minh Trị chủ trương thực
hiện “ bản tịch bổng hoàn”. Nghĩa là các Lãnh chúa phải trao trả cho Thiên
Hoàng lãnh địa và thần dân. Trên các lãnh địa ấy, Minh Trị thiết lập thành
các đơn vị hành chính dưới sự chỉ đạo của chính quyền, nông dân lãnh địa

được giải phóng, được tự do trồng cấy và phải nộp thuế theo quy định của
nhà nước. Năm 1871, chính quyền Minh Trị xóa bỏ mọi hạn chế đối với
nông nghiệp trong thời Mạc phủ. Năm 1872, những pháp lệnh việc ngăn
cấm mua bán ruộng đất được ban từ năm 1693 dưới thời Mạc phủ bị xóa bỏ,
cùng năm này, chính phủ công bố pháp lệnh đo lại ruộng đất của các lãnh
chúa phong kiến cũ (Sogun,Đaimyô). Việc xác lập quyền sở hữu ruộng đất
này là một bước tiến lớn có ý nghĩa tích cực về mặt xã hội cũng như kinh tế
Nhật Bản.
Đi cùng việc cải cách ruộng đất, năm 1873, pháp lệnh về cải cách
thuế ruộng đất được ban bố, quy định mọi người sở hữu ruộng đất đều phải
nộp thuế. Theo pháp lệnh thuế ruộng đất được ấn định không thay đổi, bằng
3% giá trị ruộng đất và phải trả bằng tiền. Ngoài ra, người sở hữu ruộng đất
phải nộp thêm lệ phí cho thôn (tương đương 1% giá trị ruộng đất). Việc cải
cách ruộng đất đã làm tăng thêm thu nhập cho chính phủ khi mà ngân sách
đang thiếu hụt và thuế thu nhập chiếm tỉ lệ cao trong các nguồn thu đó (năm
1975, tỉ lệ này là 80%). Cho nên chính sách cải cách nông nghiệp ở Nhật
Bản thời Minh Trị là một trong những đòn bẩy để tích lũy tư bản trong thời
15


kỳ phát triển kinh tế của đất nước. Nhưng mặt khác, điều này làm cho nông
dân không được hưởng nhiều quyền lợi trong cải cách ruộng đất. Thậm chí,
một số còn bị mất ruộng đất trở thành tá điền và một tỉ lệ nhỏ trở thành công
nhân.
Về Công nghiệp: Sau khi thành lập, chính phủ Minh Trị đã nắm quyền
quản lý và kế thừa những cơ sở kỹ thuật, vật chất công xưởng nhà máy mới.
Năm 1870, chính phủ đã mở rộng xưởng sản xuất pháo binh ở Osaka trên cơ
sở sử dụng thiết bị của xưởng luyện kim của Mạc Phủ ở Nagasaki, xưởng
đóng tàu ở Tôshikawa thành công xưởng của hải quân. Chính phủ cũng đã
xây dựng các nhà máy mới như nhà máy đóng tàu ở Hyogo, nhà máy dệt

Sakai, nhà máy sợi Hiroshima. Từ năm 1868 đến 1881, chính quyền Minh
Trị đã đầu tư 36.4 triệu yên để phát triển các công ty, doanh nghiệp. Đến
1880, trừ những quân xưởng, nhiều công ty quốc doanh đã được nhượng lại
với giá thấp cho giới chủ doanh nghiệp và tư bản tư nhân đặc biệt là những
người có năng lực, có công hay những mối liên hệ mật thiết với chính
quyền. Họ tự tập hợp thành một tầng lớp “chính thương” rất có thế lực. Bằng
cách đó chính phủ đã thành công trong việc tạo dựng một đội ngũ các nhà tư
bản công nghiệp luôn đứng sau ủng hộ chính phủ, tuân thủ sự chỉ đạo của
chính phủ. Sau cải cách Minh Trị nhiều người đứng đầu các công ty tư bản
đã trở thành những “tập đoàn tài phiệt” có thế lực lớn kết cấu hết sức chặt
chẽ với giới lãnh đạo chính trị Nhật Bản.
Tuy nhiên, việc xây dựng những xí nghiệp quốc doanh vẫn giữ vai trò
quan trọng trong phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, nhà nước đã
huy động nguồn vốn bằng nhiều cách như tăng thuế, phát hành công trái, in
một khối lượng lớn tiền giấy. Trong các biện pháp này, phát hành công trái là
một nguồn thu quan trọng. Từ năm 1874-1876, chính phủ đã phát hành công
trái lên đến 20 triệu yên. Năm 1878-1883, giá trị công trái lên đến 32.5 triệu
16


yên. Thu thuế , đặc biệt là thuế ruộng đất, thuế đánh vào các loại hàng tiêu
thụ cũng là nguồn thu lớn cho ngân sách .
Để thúc đẩy nhanh chóng sự phát triển công nghiệp tư bản chủ
nghĩa, chính quyền Minh Trị không ngừng quan tâm đến việc sử dụng kĩ
thuật, thiết bị tiên tiến của phương Tây, mời các chuyên gia ngoại quốc, cử
người đi du học, tiếp thu trực tiếp các thành tựu hiện đại về tổ chức quản
lý sản xuất... Đó là những việc làm đúng đắn của chính quyền Minh Trị, có ý
nghĩa then chốt trong việc phát triển nền công nghiệp Nhật Bản, giúp Nhật
Bản gia nhập vào hàng ngũ những nước chủ nghĩa phát triển như Anh,
Pháp,Mĩ....

Về Thương nghiệp: Song song với việc thực hiện những cải cách nông
nghiệp, công nghiệp, chính quyền Minh Trị cũng hết sức quan tâm đến vấn
đề phát triển thương nghiệp trong nước cũng như giao lưu buôn bán với
nước ngoài. Để thực hiện mục đích đó, chính quyền Minh Trị đã tiến hành
sửa đổi, loại bỏ những rào cản phát triển kinh tế vốn có từ thời phong
kiến. Đồng thời, ban hành nhiều chính sách mới khuyên khích thương
mại. Tháng 5 năm 1868, chính phủ Minh Trị dự thảo “Luật thương mại”
theo đó, tất cả mọi người dân có quyền tự do kinh doanh, buôn bán, có
quyền tự do đi lại, vận chuyển hàng hóa , có quyền sở hữu tài sản riêng (kể
cả ruộng đất).
Chính phủ Nhật Bản rất chú trọng tới việc xây dựng hệ thống ngân
hàng và coi đây là biện pháp quan trọng để thu hút, tập trung nguồn vốn nhu
cầu phát triển của chủ nghĩa tư bản. Năm 1869, với sự tham gia của các
thương nhân giàu có ở Mitsui, Ono…Chính phủ đã thành lập công ty kinh
doanh và trao đổi tiền tệ. Công ty có 8 chi nhánh ở Tokyo và Osaka hoạt
động như chức năng của một ngân hàng. Công ty này có nhiệm vụ cho vay,
17


nhận tiền gửi và phát hành trái phiếu. Trên cơ sở đó đến năm 1872, theo đề
án của Ito Hirobumi (1841-1909) chính phủ đã ban hành quy chế “Ngân
hàng Quốc gia học tập theo mô hình của Mỹ”. Năm 1873, Ngân hàng Quốc
gia số I được thành lập ở Tokyo. Sau đó, các Ngân hàng Quốc gia số II, số
IV, số V đã được thành lập tại những thành thị quan trọng đồng thời là các
trung tâm kinh tế lớn như: Yokohama, Niigata và Osaka. Năm 1882, Ngân
hàng Nhật Bản được chính thức thành lập. Những loại tiền tệ do một số lãnh
chúa địa phương lưu hành trước đây bị xóa bỏ. Nhật Bản sử một loại tiền
thống nhất do “Cục đúc tiền phát hành ”.
Bên cạnh nội thương, ngoại thương Nhật Bản khá phát triển. Đầu thế
kỷ XX, Nhật Bản đã tham gia tích cực vào việc “phân chia thị trường” Triều

Tiên và Trung Quốc. Sau năm 1895, những tập đoàn tư bản đã tăng cường
xuất vốn ra nước ngoài, tiến hành khai thác tài nguyên, nhân lực với những
điều kiện tốt nhằm tạo lên lợi nhuận tối đa, Nhật Bản lập các nhà máy
đường, dệt vải và sản xuất các mặt hàng thiết dụng ở Đài Loan, Thượng Hải.
Nhật Bản đặc biệt quan tâm đến việc kinh doanh đường sắt ở Trung Quốc,
Triều Tiên, lập ngân hàng ở nước ngoài để tiện việc kinh doanh khai thác.
Như vậy, sự phát triển mạnh mẽ của thương nghiệp Nhật Bản cuối thế
kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã tạo tiền đề đặc biệt quan trọng, tạo nên sức mạnh
kinh tế, quân sự và chính trị để có thể tham gia vào cuộc đấu tranh giành thị
trường thế giới.
2.1.3.Về thông tin liên lạc , giao thông vận tải
Để thúc đẩy sản xuất, quá trình lưu thông hàng hóa và tiền tệ, chính
phủ Minh Trị đã tập trung xây dựng hệ thống thông tin liên lạc. Tháng 3 năm
1871, dựa theo hệ thống bưu chính của Anh, mạng lưới bưu điện giữa 3
thành phố lớn là Tokyo, Osaka, Kyoto đã được xây dựng. Năm 1872, Nhật
18


Bản mới có 21 trạm bưu điện nhưng chỉ 2 năm sau đã tăng đến 3.224 bưu
điện. Năm 1877, Nhật Bản đã thiết lập được 2.827 dặm điện tín và đến năm
1893 là 4000 dặm. Mạng lưới này trải rộng khắp lãnh thổ Nhật Bản. Đồng
thời, nghành bưu chính Nhật Bản cũng thực hiện 1 giá tem thống nhất .
Cùng với thông tin liên lạc, giao thông cũng là một trong những điều
kiện không thể thiếu đối với quá trình xây dựng chủ nghĩa tư bản đặc biệt là
đường sắt và đường biển. Dựa theo hệ thống đường sắt của Anh, năm 1870,
tuyến đường sắt nối liền Tokyo và Yokohama đã được khởi công với sự giám
sát kỹ thuật của chuyên gia Anh và nguồn vốn vay từ chính phủ Anh. Nhờ
đó, chỉ 2 năm sau tuyến đường này được khai thông. Cũng trong năm
1870 ,tuyến đường sắt nối liền Kobe và Osaka được khởi công đến năm
1874 công trình hoàn thành. Năm 1879, tuyến đường sắt Tokaido (đông hải

đảo) nối Tokyo với Kobe cũng được khánh thành. Về sau tuyến đường này
đã nối liền miền tây (Nagasaki) với miền đông (Aomori) Nhật Bản. Tuy
nhiên do gặp khó khăn về tài chính nên việc triển khai xây dựng các tuyến
giao thông luôn gặp nhiều trở ngại. Do vậy, chính phủ đã khuyến khích tư
nhân đầu tư vào lĩnh vực này như miễn thuế, hỗ trợ kĩ thuật.… Kết quả là,
đến những năm 1893, mạng lưới đường sắt của Nhật lên đến gần 2000 dặm.
Trong đó, chiều dài đường sắt do tư nhân đầu tư xây dựng là 1165 dặm .
Nhật Bản là một quốc gia hải đảo cho nên lĩnh vực vận tải đường biển
được chính phủ mới hết sức chú trọng và đầu tư vốn lớn.Từ cuối thời kỳ
Edo, trên cở sở học tập kĩ thuật phương Tây, Nhật bản có khả năng đóng
những chiếc tàu có trọng tải lớn. Mặt khác,nhà nước cũng chủ động xuất
vốn mua tàu của nước ngoài. Do vậy, từ năm 1868 những chuyến hàng vận
tải hàng hóa giữa Osaka với Kobe ,Osaka với Sokohama và Tokyo với
Sokohama đã được thực hiện. Ban đầu, chính phủ đưa ra chủ trương quốc
hữu hóa toàn bộ các tuyến vận tải đường biển nhưng đến năm 1875, chính
19


phủ đã quyết định giao quyền quản lý vận tải gồm hơn 30 chiếc tàu cho
Iwasaki Yataro (1834-1885 ) - Người sáng lập công ty Mitsubisi. Hàng năm
chính phủ trợ cấp cho công ty 200.000 yên do đã có công tham ra và hoàn
thành những trọng trách mà chính phủ giao như việc vận chuyển quân sự
trong cuộc tiến quân sang Đài Loan và ngăn chặn võ sĩ nổi loạn ở
Satsuma...Số tàu của công ty đã chiếm tới 80% tổng số tàu vận tải của Nhật
Bản. Đến năm 1893, tổng trọng tải củasố tàu chạy bằng hơi nước đã lên đến
100.000 tấn. Tất cả những thành tựu đó có vai trò rất quan trọng trong việc
lưu thông, vận tải trong nước, cạnh tranh với công ty vận tải hàng hải quốc
tế và hình thành thị trường thống nhất ở Nhật Bản.
2.1.4.Về quân sự
Nhật bản xác định mục tiêu “lực lượng quân sự là cần thiết để phòng vệ đất

nước và bảo vệ nhân dân “. Năm 1872 ,chính phủ đã tập hợp về Tokyo một
vạn quân chủ yếu từ 3 han Satsuma ,Choshu va Tosa để xây dựng thành một
đội quân chính quy trực thuộc gọi là Goshinbi .Tháng 3 năm Minh Trị thứ 5
(1872) Goshinbi được đổi thành Konoechei .Chính phủ cũng thành lập các
trường lục quân ,hải quân nhằm xây dựng một lực lượng quân sự hùng
mạnh. Vào tháng 11-1870, xây dựng các pháo đài phòng thủ ven biển
.Tháng 2-1872 ,Nhật bản thành lập thêm bộ hải quân .
Đến tháng 1-1873 thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự thay cho chế độ trưng
binh,tất cả nam thanh từ 20 tuổi không phân biệt nguồn gốc ,địa vị xuất thân
đều phải có trách nhiệm tham gia quân sự ban đầu là phải nhập ngũ 3 năm,
sau đó có 4 năm làm quân nhân dự bị. Thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự có
nghĩa là về mặt quân sự xóa bỏ quân đội võ sỹ theo kiểu phong kiến cũ,
thành lập quân đội của giai cấp tư sản, tước đoạt đặc quyền lũng đọa quân sự
của các võ sỹ và lấy quân từ trong dân chúng. Nhưng, để giảm thiểu sự phán
20


kháng từ phía võ sỹ chính phủ lại sử dụng người trong “sỹ tộc” để đảm
nhiệm chức vụ sỹ quan nòng cốt trong quân đội kiểu mới.
Quân đội được tổ chức và huấn luyện theo kiểu phương Tây ,chú trọng
phát triển công nghiệp tài chiến ,sản xuất vũ khí đạn dược .Các chuyên gia
quân sự người Đức giúp về lục quân ,hải quân do người Anh gúp đỡ.Nhờ
vậy, chỉ trong một thời gian ngắn Minh Trị Thiên hoàng đã xây dựng được
một lực lượng lục quân và hải quân hùng mạnh. Đến khoảng năm 1890 về
lục quân Nhật Bản có bảy sư đoàn hiện dịch gồm 53.000 người và quân trù
bị gồm 256.000 người. Hải quân có 25 chiến hạm và 10 ngư lôi đỉnh, tổng
cộng hơn 50.000 tấn. Nhưng lục quân và hải quân Nhật có quyền rất lớn chỉ
chịu lệnh của Thiên hoàng. Đây là sự học tập Âu Mỹ nhưng không theo
đúng Âu Mỹ của Nhật Bản. Với sức mạnh về quân sự đó đã giúpNhật Bản
tiến hành thắng lợi 2 cuộc chiến tranh Trung –Nhật (1894-1895) và NgaNhật (1904-1905). Đi đôi với việc mở rộng quân đội kiểu mới, bắt đầu từ

năm 1875, chính phủ Minh Trị lần lượt giải tán quân đội theo hình thức cũ
được cải biên từ quân đội của các phiên trước kia.
Nhật Bản thời kỳ này cũng chú trọng sản xuất vũ khí, đóng tàu
thuyền….phục vụ cho việc phát triển quân sự.
Như vậy, việc xây dựng chế độ quân sự kiểu mới của chính phủ Thiên
hoàng Minh Trị là sự hỗn hợp giữa tàn dư phong kiến và giai cấp tư sản.
Quân đội kiểu mới được gọi là “Hoàng quân”, tức là quân đội của Thiên
hoàng. Chính phủ Minh Trị đã nhồi nhét vào các sỹ quan và binh sỹ tư tưởng
phục tùng Thiên hoàng. Năm 1978, chính phủ này công bố “Điều lệnh quân
nhân” câu đầu tiên là đòi hỏi mỗi người quân nhân phải sùng bái Thiên
hoàng như một vị “Thần” siêu nhân. Cái gọi là tinh thần “Võ sỹ đạo” đã trở
thành chuẩn mực trong hành động của tất cả quân nhân. “Võ sỹ đạo” nguyên
là quy phạm đạo đức của võ sỹ phong kiến tại Nhật Bản. Nó nhấn mạnh đến
21


tinh thần trung quân, tuyệt đối phục tùng, dũng cảm và không sợ chết. Khi
cần thiết người quân nhân phải dám tuốt gươm mổ bụng. Việc mổ bụng
được xem là sự thể hiện lòng trung dũng, nghĩa liệt của người võ sỹ.

22


Chương2
CẢI CÁCH GIÁO DỤC CỦA THIÊN HOÀNG MINH TRỊ Ở
NHẬT BẢN
2.1. Vài nét về tình hình giáo dục ở Nhật Bản trước cải cách Minh Trị
Cũng như nhiều nước châu Á khác, giáo dục Nhật Bản thời cổ trung
đại mang tính cố hữu và chịu ảnh hưởng khá sâu sắc của Trung Quốc. Biểu
hiện cụ thể là: ngay từ rất sớm đạo Khổng đã du nhập vào Nhật Bản. Do đó,

hệ tư tưởng của Nhật Bản thời kỳ này chịu ảnh hưởng sâu sắc của Khổng
giáo. Đó là lòng trung thành vô hạn đối với chủ, với hoàng đế, tính kỷ luật
và tinh thần kỷ luật cao, ngược hẳn với chủ nghĩa cá nhân ở phương Tây.
Vào thời Nara (710-794), Nhà nước đã cử nhiều thanh niên của các
gia đình quý tộc sang nhà Đường học tập. Họ tiếp thu toàn bộ hệ thống giáo
dục của nhà Dường. Trong đó có chữ viết (chữ Hán), chữ viết của Nhật Bản
có nhiều phần giống với chữ Hán. Ngoài ra ở Trung Quốc còn có rất nhiều
nhà sư Nhật Bản sang đây để học các quy chế nhà chùa. Điều này chứng tỏ
rằng đến thời Nara văn hoa Trung Quốc có ảnh hưởng lớn tới Nhật Bản. Ở
thời kỳ này Nhà nước đã ban hành một số luật, lệnh, trong đó có luật về giáo
dục. Nhà nước đã bắt đầu chú ý đến giáo dục, nhiều trường học đã được lập
nên để dạy cho con em các nhà quý tộc. Nội dung giảng dạy chủ yếu là văn
học và pháp lý Trung Quốc.
Trong suốt khoảng thời gian dài từ năm 710 đến đầu thế kỉ XIX, Nho
giáo của Trung Quốc lại trở thành nội dung giảng dạy chính của giáo dục
Nhật Bản. Tuy nhiên, đến nửa đầu thế kỷ XIX, giáo dục Nhật Bản lại mang
một số điểm mới đó là: giáo dục không còn là đặc quyền của quý tộc nữa
mà đã lan xuống các tầng lớp thứ dân. Các lớp tư học đã được mở ra ở khắp
23


nơi và được gọi là Têracôya ( tự tử ốc). Các thầy đồ thời kỳ này chủ yếu là
những nhà sư.Do đó, kìm hãm sự phát triển của đất nước. Nhưng vào những
năm giữa thế kỷ XIX các nước tư bản phương tây đã phát triển mạnh và tăng
cường xâm lược thuộc địa để tìm kiếm nguồn tài nguyên và thị trường. Các
nước châu Á và trong đó có Nhật Bản trở thành đối tượng nhòm ngó của
thưc dân phương Tây. Người phương Tây đến Nhật Bản để truyền giáo và
buôn bán thực chất là nhằm mở đường cho các cuộc xâm lược sau này. Do
sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật phương Tây đã ảnh hưởng
mạnh mẽ đến giới tri thức tiên tiến của Nhật Bản. Họ sớm nhận ra ưu thế

của khoa học- kĩ thuật, của trao đổi buôn bán. Người Nhật đã học tập và tiếp
thu được nhiều giá trị tinh hoa của văn minh phương Tây và đồng thời
không ngừng phát huy những đặc tính của văn hóa truyền thống như: cá tính
dân tộc, long tự tôn dân tộc, tính kỷ luật cao…. Văn hóa phương Tây lúc này
được nhiều người học hỏi và làm bùng lên phong trào học tập người phương
Tây. Chính trong phong trào này những tư tưởng đổi mới canh tân đất nước,
áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất đã hình thành trong một bộ phận
giới tri thức tiến bộ. Đây là cơ sở cho cuộc canh tân đất nước của Nhật Bnar
thời Minh Trị, trong đó có cải cách giáo dục.
Hệ thống giáo dục thời Tôcưgawa còn nhiều hạn chế, mạnh lưới giáo
dục chủ yếu là các trường làng, trường chùa, chưa nhận được sự quản lí tập
trung của nhà nước. Tuy nhiên giáo dục Nhật Bản thời Tôcưgawa đã khác
hẳn các nước châu Á khác. Trong khi Thái Lan chủ yếu dạy trẻ theo lối sống
đạo Phật thì Nhật Bản lại rất chú trọng đến việc cung cấp tất cả những tri
thức cơ bản cho các em. Cũng ngay trong thời kỳ này, Nhật Bản đã chú
trọng học thực hành bao gồm: nông học, lập bản đồ, toán học, y học, thiên
văn học và lịch sử tự nhiên…. Đây chính là cơ sở để Minh Trị thiên hoàng
kế thừa và thực hiện thành công sự nghiệp canh tân đất nước.
24


2.2. Nội dung cải cách giáo dục
Công cuộc Minh Trị duy tân giáo dục ở Nhật Bản ( 1868- 1912) đã đạt
được nhiều thành tựu, góp phần tạo nên nội lực giúp Nhật vượt khỏi “ bốn
bức tường cung cấm Á Đông” và bước vào hàng ngũ các nước tư bản chủ
nghĩa lúc bấy giờ. Chính phủ Thiên hoàng từ rất sớm đã nhận thức được
rằng: sự khác nhau bất bình đẳng trong xã hội một phần là do sự khác nhau
về trình độ học vấn. Người Nhật đã có tư tưởng cầu thị, không dấu dốt,
muốn tự học hỏi hòa mình vào cộng đồng của nhân loại để đuổi kịp, đi xa
và đi nhanh hơn các quốc gia tiên tiến Âu Mỹ. Vì vậy, ngay trong những

năm đầu của thời đại Minh Trị, Nhật Bản đã không ngừng tìm kiếm, học tập,
chấp nhận những yếu tố văn minh phương Tây phù hợp với lợi ích và sự
phát triển quốc gia mình. Với phương châm “ khoa học phương Tây, tinh
thần Nhật Bản”, người Nhật đã không ngừng tiếp thu, học tập những tinh
hoa của thế giới nhưng vẫn giữ vững những nét đặc trưng, bản sắc văn hóa
của dân tộc mình.
2.2.1. Nhật Bản ban hành hàng loạt bộ luật liên quan đến giáo dục
Công cuộc cải cách giáo dục chính thức được bắt đầu với việc Bộ Giáo dục
công bố Luật giáo dục vào tháng 8 năm 1872. Bộ “Luật giáo dục” được ban
hành gồm 213 điều với ba đặc điểm chính:
1.
2.
3.

Nhà trường cung cấp cho người học kiến thức dựa vào Âu – Mỹ.
Đào tạo con người làm giàu cho tổ quốc, bảo vệ đất nước.
Xây dựng nhiều trường học, mở rộng các trường cao đẳng và chuyên
nghiệp (để tiếp thu kỹ thuật Âu – Mỹ)
Trên cơ sở đó Nhật Bản đã ban hành luật cưỡng bức giáo dục 8 năm

(sau đó giảm xuống còn 6 năm). Bao gồm 4 năm tiểu học bậc thấp và 4 năm
tiể học bậc cao. Tất cả trẻ em từ 6 tuổi đến 13 tuổi phải cắp sách tới trường.
Bộ luật được Thiên hoàng đọc thành một bài dụ. Bài dụ nêu rõ: từ nay trở đi
25


×