Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

bài tiểu luận về vấn đề đa dạng và suy giảm sinh học ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (959 KB, 37 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HCM

TIỂU LUẬN:

VẤN ĐỀ ĐA DẠNG VÀ SUY GIẢM ĐA
DẠNG SINH HỌC Ở VIỆT NAM
Ngành:

Kỹ thuật môi trường

Môn học:

Sinh thái học

Giảng viên hướng dẫn: Thạc sĩ: Lê Thị Vu Lan
Sinh viên thực hiện:
Lớp: 13DMT04

TP. Hồ Chí Minh, 2015

Mục Lục
1


I.
II.
1.

2.


3.

4.
5.
6.
III.
IV.

Lí do chọn đề tài..........................................................................................1
Nội dung........................................................................................................ 3
Thực trạng đa dạng sinh học.......................................................................3
a. Đa dạng về gen............................................................................................3
b. Đa dạng về loài............................................................................................5
c. Đa dạng hệ sinh thái..................................................................................11
Tầm quan trọng của đa dạng sinh học ở Việt Nam...................................14
a. Giá trị sinh thái và môi trường..................................................................14
b. Những giá trị vật chất khác của đa dạng sinh học.....................................15
c. Giá trị xã hội và nhân văn.........................................................................15
Sự suy giảm của đa dạng sinh học ở Việt Nam.........................................16
a. Hệ sinh thái rừng.......................................................................................16
b. Các loài tự nhiên........................................................................................18
c. Nguồn gen giống vật nuôi và cây trồng....................................................19
Nguyên nhân làm suy giảm đa dạng sinh học...........................................19
a. Nguyên nhân trực tiếp...............................................................................19
b. Nguyên nhân gián tiếp...............................................................................28
Đề xuất giải pháp.......................................................................................29
Bảo tồn đa dạng sinh học..........................................................................30
a. Luật pháp Việt Nam về bảo tồn đa dạng sinh học.....................................30
b. Hoạt động bảo tồn đa dạng sinh học ở Việt Nam......................................31
Kết luận......................................................................................................... 33

Tài liệu tham khảo.....................................................................................34

2


I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Là nước nằm trong khu vực Đông Nam Á, có vị trí địa lý thuận lợi, sự đa
dạng về địa hình, cảnh quan, đặc trưng về khí hậu giữa các vùng trong cùng
lãnh thổ. Việt Nam được biết đến là một trong những quốc gia trên thế giới
có đa dạng sinh học cao. (đứng thứ 16 trên thế giới về đa dạng sinh học)
Nhưng trong những năm gần đây, sự đa dạng sinh học của Việt Nam bị suy
giảm một cách nghiêm trọng.
Đa dạng sinh học là sự giàu có, phong phú các nguồn gen, các loài và các hệ
sinh thái trên bề mặt trái đất, là tài nguyên tái tạo, đóng vai trò quan trọng
trong sự phát triển tiến hoá của sinh giới và đặc biệt là đối với đời sống của
con người.
Đa dạng sinh học có vai trò rất quan trọng đối với sự sống trên trái đất,
không có gì thay thế được nhưng trong thời kỳ
phát triển hiện nay, khi xu hướng toàn cấu hoá, công nghiệp hoá đang trên
đà phát triển. Việt Nam cũng không nắm ngoài xu thế đó, là một nước đang
phát triển, từng bước chuyển mình sang nền kinh tế công nghiệp lớn, kèm
theo đó là đời sống dân cư ngày càng phát triển, đô thị hoá cao... và điều này
đe doạ đến mối trường Việt Nam nói chung và đa dạng sinh học nói riêng.
Sự suy giảm nghiêm trọng về giống loài động thực vật và nguồn gen, một số
loài đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng, không có nơi sinh sống cũng như
cạn kiệt nguồn thức ăn của mình do sự săn bắt, khai thác quá mức của con
người nhầm phụ vụ cho cuộc sống của mình. Bên cạnh đó việc biến đổi khí
hậu cũng là một trong những nguyên nhân gây ra sự suy giảm đa dạng sinh
học hiện nay. Biến đổi khí hậu làm thây đổi môi trường của sống của nhiều
loại động thưc vật gây nên tình trạng nhiều loại động thực vật không thích

nghi được với khí hậu dẫn đến việc chết hang loạt, sẽ dẫn đến nguy cơ loài
đó sẽ đứng trước nguy cơ bị tuyệt chủng.
Thế nhưng con người không biết giữ gìn và phát triển nguồn tài nguyên
thiên nhiên phong phú này, mà dần dần phá hủy nó. Việt Nam cũng có đa
dạng sinh học cao, nhưng cũng đang đứng trước sự suy giảm về ĐA DẠNG
SINH HỌC,để tìm hiểu rõ hơn về ĐDSH cũng như tìm hiểu nguyên nhân và
hậu quả của việc suy giảm đa dạng sinh học sẽ gây ra ảnh hưởng nhue thế
nào đến con người và môi trường sống, đây cũng là lý do mà chúng tôi chọn
đề tài “ đa dạng sinh học và suy giảm đa dạng sinh học ở Việt Nam”.
Mục đích nghiên cứu:
Đánh giá thực trang đa dạng sinh học của nước ta hiện nay, mục tiêu của
chúng ta về việc bảo vệ đa dạng sinh học. Nhầm mục đích nâng cao tầm hiểu
biết của con người về việc suy giảm đa dạng sinh học, cũng như nâng cao
hiểu biết của chúng ta đối với đa dạng sinh học là gì, để chúng ta tự chủ
3


quản lý và sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên một cách hợp lý mà cuộc
sống của chúng ta phụ thuộc vào đó.
Góp phần giúp mọi người thêm ý thức về bào vệ đa dạng sinh học, bảo vệ
cuộc sống của chúng ta khỏi sự hủy hoại do chính tay chúng ta gây nên.
Mong muốn đa dạng sinh học ở Việt Nam được duy trì ở mức cao, nâng cao
việc bảo vệ đa dạng sinh học.

4


II. NỘI DUNG:
1. Thực trạng đa dạng sinh học:
Như đã đề cập ở trên thì đa dạng sinh học gồm có 3 loại: đa dạng nguồn gen, đa dạng về

loài, đa dạng hệ sinh thái.
a) Đa dạng nguồn gen:
Đa dạng về gien di truyền được thể hiện bởi sự đa dạng về gen trong mỗi loài.
Theo đánh giá của Jucovski (1970), Việt Nam là 1 trong 12 trung tâm nguồn gốc
giống cây trồng của thế giới. Mức độ đa dạng sinh học của hệ thực vật cây trồng ở Việt
Nam cao hơn nhiều so với dự đoán.
Nguồn gen giống cây trồng ở Việt Nam, hiện nay đang sử dụng trong sản xuất
nông nghiệp có 16 nhóm các loại cây trồng khác nhau như cây lượng thực chính, cây
lương thực bổ sung, cây ăn quả, cây rau, cây gia vị, cây làm nước uống, cây lấy sợi,
cây thức ăn gia súc, cây bóng mát, cây công nghiệp, cây lấy gỗ... với tổng số trên 800
loài cây trồng với hàng nghìn giống khác nhau.
Bảng: Số lượng các loài cây trồng phổ biến ở Việt Nam
Số TT Nhóm cây
Số loài
1
Nhóm cây lương thực chính
41
2
Nhóm cây lương thực bổ sung
95
3
Nhóm cây ăn quả
105
4
Nhóm cây rau
55
5
Nhóm cây gia vị
46
6

Nhóm cây làm nước uống
14
7
Nhóm cây lấy sợi
16
8
Nhóm cây thức ăn gia súc
14
9
Nhóm cây lấy dầu béo
45
10
Nhóm cây lấy tinh dầu
20
11
Nhóm cây cải tạo đất
28
12
Nhóm cây dược liệu
181
13
Nhóm cây cây cảnh
62
14
Nhóm cây bóng mát
7
15
Nhóm cây cây công nghiệp
24
16

Nhóm cây lấy gỗ
49
Tổng
802
Nguồn : Khoa học công nghệ Nông nghiệp và phát triển nông thôn 20
năm đổi mới-Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, 2005.
5


Có 3 nhóm cây trồng được nông dân sử dụng:
• Các giống cây trồng bản địa: Nhóm giống cây trồng này hiện nay
đang chiếm vị trí chủ đạo đối với nhiều loại cây trồng. Trong số nhóm
giống cây trồng này có những giống đã được nông dân sử dụng vì lưu
truyền hàng nghìn năm nay.
• Các giống cây trồng mới: Là những giống cây có khả năng cho năng
suất cao vì có một số đặc tính tốt khác như: phẩm chất nông sản tốt,
khả năng chống chịu sâu bệnh cao... được các nhóm khoa học chọn
lọc, lai tạo thành. Những năm gần đây các giống cây trồng được các
nhóm khoa học chọn lọc và lai tạo mới cũng như các loại giống cây
trồng được nhập nội, trước khi đưa ra sản xuất rộng răi, được hội đồng
khoa học Bộ NN & PTNT xem xét công nhận như lúa: 156 giống;
ngô: 47 giống; đậu tương: 22 giống; cao su: 14 giống; cà phê: 14
giống...
• Các giống cây trồng được nông dân ở các tỉnh biên giới trao đổi với
nhau qua biên giới hoặc mua bán qua đường tiểu ngạch.
Hiện nay, Ngân hàng gen cây trồng Quốc gia đang bảo tồn 12.300
giống của 115 loài cây trồng. Đây là tài sản quý của đất nước, phần
lớn không còn trong sản xuất và trong tự nhiên nữa. Một bộ phận
quan trọng của số giống này là nguồn gen bản địa với nhiều đặc tính
quý hiếm duy nhất chỉ nước ta có.

Bảng: Các giống vật nuôi chủ yếu
T.T

Giống
Giống
Tổng số
Giống nội
Giống nhập ngoại
1
Lợn
20
14
6
2

21
5
16
3

5
2
3
4
Trâu
3
2
1
5
Cừu

1
1
6
Thỏ
4
2
2
7
Ngựa
3
2
1
8

27
16
11
9
Vịt
10
5
5
10
Ngan
7
3
4
11
Ngỗng
5

2
3
Nguồn : Khoa học công nghệ Nông nghiệp và phát triển nông thôn 20
năm đổi mới-Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, 2005.
Các loài cá nuôi có nguồn gốc từ nước ngoài được nhập và thuần dưỡng ở Việt
Nam khoảng 50 loài. Trong đó có 35 loài cá cảnh còn lại là các loài cá nuôi lấy thịt.
6


Đặc trưng đa dạng nguồn gen:
• Các biểu hiện của kiểu gen ở Việt Nam rất phong phú. Riêng kiểu gen cây lúa có
đến hàng trăm kiểu hình khác nhau, thể hiện ở gần 400 giống lúa khác nhau.
• Các kiểu gen ở Việt Nam thường có nhiều biến dị, đột biến. Trong đó có những biến
dị xảy ra dưới tác động của các yếu tố tự nhięn (sấm, chớp, bức xạ..), có những đột
biến xảy ra do những tác nhân nhân tạo. Đây là một trong những nguồn tạo giống
mới.
• Đa dạng sinh học gen ở Việt Nam chứa đựng khả năng chống chịu vŕ tính mềm dẻo
sinh thái cao của các kiểu gen.
b) Đa dạng về loài:
- Đa dạng loài là số lượng và sự đa dạng của các loài được tìm thấy tại một khu vực
nhất định tại một vùng nào đó.
- Trong những năm qua, cùng với những nổ lực về bảo tồn đa dạng sinh học, công
tác điều tra nghiên cứu về đa dạng sinh học cũng được nhiều cơ quan Việt Nam cũng
như các tổ chức quốc tế thực hiện. Các nghiên cứu chủ yếu tập trung vào thành phần
loài động, thực vật, các hệ sinh thái đặc trưng. Các kết quả nghiên cứu được tập hợp
từ các nhà khoa học, các cơ quan nghiên cứu cho thấy:
Bảng: Thành phần loài sinh vật đã biết được cho đến nay
TT
1
2


3
4

5
6
7
8

Nhóm sinh vật
Thực vật nổi
Nước ngọt
Biển
Rong, tảo
Nước ngọt
Biển
Cỏ biển
Thực vật ở cạn
Thực vật bậc thấp
Thực vật bậc cao
Động vật không xương
sống ở nước
Nước ngọt
Biển
Động vật không xương
sống ở đất
Côn Trùng

Nước ngọt
Biển

Bò sát

Số loài đã xác định được
1.939
1.402
537
697
Khoảng 20
682
15
13.766
2.393
11.373
8.203
782
7.421
khoảng 1.000
7.750
2.738
700
2.038
296
7


9
10
11

Rắn biển

50
Rùa biển
4
Lưỡng cư
162
Chim
840
Thú
310
Thú biển
16
Nguồn: Viện sinh thái và Tài nguyên sinh vật,2005

Theo các tài liệu thống kê, Việt Nam là một trong 25 nước có mức độ đa dạng sinh học cao
tręn thế giới với dự tính có thể có tới 20.000-30.000 loài thực vật. Việt Nam được xếp thứ
16 về mức độ đa dạng sinh học (chiếm 6,5% số loài có trên thế giới).
• Đa dạng loài trong hệ sinh thái trên cạn:
Khu hệ thực vật: Tổng kết các công bố về hệ thực vật Việt Nam, đã ghi nhận có 15.986
loài thực vật ở Việt Nam. Trong đó, có 4.528 loài thực vật bậc thấp và 11.458 loài thực vật
bậc cao. Trong số đó có 10 % số loài thực vật là đặc hữu.
Khu hệ động vật: cho đến nay đă thống kê được 307 loài giun tròn, 161 loài giun sán ký
sinh ở gia súc, 200 loài giun đất, 145 loài ve giáp, 113 loài bọ nhảy, 7.750 loài côn trùng,
260 loài bò sát, 120 loài ếch nhái, 840 loài chim, 310 loài và phân loài thú.
Trong hệ thống các khu bảo vệ vùng Đông Dương - Mã Lai của IUCN
(International Union for Conservation of Nature and Natural Resources) Việt Nam được
xem là nơi giàu về thành phần loài và có mức độ đặc hữu cao so với các nước trong vùng
phụ Đông Dương. Động vật giới Việt Nam có nhiều dạng đặc hữu: hơn 100 loài và phân
loài chim, 78 loài và phân loài thú đặc hữu. Riêng trong số 25 loài thú linh trưởng đã được
ghi nhận thẻ ở Việt Nam có tới 16 loài, trong đó có 4 loài và phân loài đặc hữu của Việt
Nam, 3 phân loài chỉ phân bố ở Việt Nam và Lào, 2 phân loài chỉ có ở vùng rừng hai nước

Việt Nam - Campuchia.
• Đa dạng loài trong hệ sinh thái đất ngập nước nội địa
Các thủy vực nước ngọt nội địa Việt Nam rất đa dạng về hệ thực vật cũng như hệ động
vật, bao gồm các nhóm vi tảo, rong, các loài cây cỏ ngập nước và bán ngập nước, động vật
không xương sống và cá.
- Vi tảo: Đã xác định được có 1.438 loài tảo thuộc 259 chi và 9 ngành;
- Cho đến nay đã thống kê và xác định được 794 loài động vật không xương sống. Trong
đó, đáng lưu ý là trong thành phần loài giáp xác nhỏ, có 54 loài và 8 giống lần đầu tiên
được mô tả ở Việt Nam. Riêng hai nhóm tôm, cua (giáp xác lớn) có 59 loài thì có tới 7
giống và 33 loài (55,9% tổng số loài) lần đầu tiên được mô tả. Trong tổng số 147 loài trai
ốc, có 43 loài (29,2% tổng số loài), 3 giống lần đầu tiên được mô tả, tất cả đều là những
loài đặc hữu của Việt Nam hay vùng Đông Dương. Điều đó cho thấy sự đa dạng và mức độ
đặc hữu của khu hệ tôm, cua, trai, ốc nước ngọt nội địa Việt Nam là rất lớn.
- Theo các dẫn liệu thống kê, thành phần loài cá các thủy vực nước ngọt nội địa Việt Nam
bao gồm trên 700 loài và phân loài, thuộc 228 giống, 57 họ và 18 bộ. Riêng họ cá chép có
276 loài và phân loài thuộc 100 giống và 4 họ, 1 phân họ được coi là đặc hữu ở Việt Nam.
Phần lớn các loài đặc hữu đều có phân bố ở các thủy vực sông, suối, vůng núi.
8


• Đa dạng loài trong các hệ sinh thái biển và ven bờ:
Đặc tính của khu hệ sinh vật biển Việt Nam thể hiện rõ ở đặc tính nhiệt đới, đặc tính
hỗn hợp, đặc tính ít đặc hữu và đặc tính khác biệt bắc - nam. Trong vùng biển nước ta đã
phát hiện được chừng 11.000 loài sinh vật cư trú trong hơn 20 kiểu hệ sinh thái điển hình
và thuộc 6 vùng đa dạng sinh học biển khác nhau, trong đó có hai vùng biển: Móng Cái Đồ Sơn, Hải Vân - Vũng Tàu có mức độ đa dạng sinh học cao hơn các vùng còn lại. Đặc
biệt, tại vùng thềm lục địa có 9 vùng nước trồi có năng suất sinh học rất cao, kèm theo là
các bãi cá lớn. Tổng số loài sinh vật biển đã biết ở Việt Nam có khoảng 11.000 loài, trong
đó cá (khoảng 130 loài kinh tế) có 2.458 loài; rong biển có 653 loài; động vật phù du có
657 loài; thực vật phù du có 537 loài; thực vật ngập mặn có 94 loài; tôm biển có 225 loài...
Các nghiên cứu về biến động nguồn lợi đă cho thấy danh sách khu hệ cá biển của Việt

Nam đến tháng 1/2005 là 2.458 loài, tăng 420 loài so với danh sách được lập năm 1985 (có
2.038 loài) và đã phát hiện thêm 7 loài thú biển mới.
Một số loài sinh vật mới được phát hiện trong thời gian gần đây ở Việt Nam:
Trong khoảng 10 năm trở lại đây, từ các kết quả điều tra cơ bản các vůng lãnh thổ khác
nhau ở Việt Nam, một số loài mới được phát hiện và mô tả, trong đó nhiều chi, loài mới
cho khoa học. Một số các nhóm sinh vật trước đây chưa được nghiên cứu, nay đã có những
dẫn liệu bước đầu
Trong năm 2014, các nhà khoa học đã phát hiện thêm 126 loài sinh vật mới tại Việt Nam,
theo thống kê của một nhóm các nhà khoa học từ Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật,
thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.

9


Chuột cây thomas Chiromyscus thomasi mới phát hiện ở Sơn La. (Ảnh:
Zookeys.pensoft.net)
Thông kê của nhóm "Đa dạng sinh học và Bảo tồn Việt Nam" (Biodiversity
and Conservation of Vietnam - BIODIVN), đã có 80 loài động vật và 46 loài
thực vật, nấm mới đã được phát hiện ở Việt Nam trong năm vừa qua.
Theo TS Nguyễn Đức Anh, thuộc Phòng Sinh thái Môi trường Đất, Viện
Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật, đại diện nhóm BIODIVN cho biết, con số
126 loài mới được phát hiện trong năm qua có thể coi là một thành công rực
rỡ của các nhà khoa học sinh vật.
10


"Trong năm 2012-2013, chỉ mới có khoảng 100 loài sinh vật mới được phát
hiện ở Việt Nam. Tuy nhiên, chỉ riêng năm 2014, đã tìm thấy 126 loài mới,
tăng 26% so với cả hai năm trước đó", TS Đức Anh cho biết.
Thống kê của nhóm BIODIVN được tiến hành dựa trên các phát hiện được

công bố trên các tạp chí khoa học uy tín trên thế giới trong năm 2014.
Trong số 80 loài động vật mới được công bố, chủ yếu thuộc về các nhóm
Côn trùng (chiếm tỷ lệ 64%), Lưỡng cư (chiếm 16%), và các nhóm còn lại
như Bò sát, Cá, Cổ sinh vật, Giáp xác, Thân mềm, Thú (chiếm tỷ lệ từ 2 đến
5%). Trong đó, có 45% số loài được phát hiện ở khu vực miền Bắc, 43% từ
khu vực miền Nam và chỉ có 12% từ khu vực miền Trung Việt Nam.
Trong tổng số 46 loài thực vật, nấm và địa y mới cho khoa học được phát
hiện ở Việt Nam, 50% số loài được đến từ miền Nam, 33% số loài đến từ
miền Bắc và 17% số loài đến từ miền Trung. Đặc biệt, việc tập trung nghiên
cứu tại tỉnh Lâm Đồng đã cho kết quả đáng kinh ngạc với 14 loài thực vật
được công bố, chiếm 30,4% tổng số loài đã phát hiện.
Theo TS Nguyễn Đức Anh, việc phát hiện 2 loài thú mới là dơi muỗi
Hypsugo dolichodon ở Đồng Nai và chuột cây Thomas Chiromyscus
thomasi ở Sơn La được coi là phát hiện quan trọng nhất trong năm qua. Bởi
lẽ, hiện nay, Việt Nam rất khó để phát hiện những loài thú mới.
Phát hiện cũng rất ấn tượng trong năm 2014 là việc tìm thấy những loài thú
cổ đại (đã tuyệt chủng) ở Việt Nam. Các nhà khoa học đã công bố 3 loài thú
cổ đại từ các mẫu hóa thạch thu được ở Na Dương, Lạng Sơn, gồm: Tê giác
na dương Epiaceratherium naduongense, thú than phương đông Bakalovia
orientalis, và cá nước ngọt cổ đại Planktophaga minuta.

11


Thông năm lá rủ Pinus cernua phát hiện ở Sơn La. (Ảnh: Nguyễn Sinh
Khang/BIODIVN).
Về thực vật, việc phát hiện loài Thông năm lá rủ Pinus cernua được đánh giá
là phát hiện ấn tượng nhất trong năm 2014. Bởi lẽ, trong nhiều năm qua
chưa có phát hiện mới nào về các loài cây thông.
Việt Nam được coi là một trong những điểm nóng về đa dạng sinh học trên

thế giới với khoảng gần 19 nghìn loài động vật và gần 14 nghìn loài thực vật
được biết đến. Con số này vẫn tiếp tục tăng lên khi mà mỗi năm có hàng
trăm loài mới cho khoa học được phát hiện từ Việt Nam.
Đặc trưng đa dạng loài ở Việt Nam:
• Số lượng các loài sinh vật nhiều, sinh khối lớn. Tính ra bình quân trên 1 km2 lãnh
thổ Việt Nam có 4,5 loài thực vật, gần 7 loài động vật, với mật độ hŕng chục nghìn
cá thể. Đây là một trong những mật độ đậm đặc các loài sinh vật so với thế giới.
• Cấu trúc loài rất đa dạng. Do đặc điểm địa hình, do phân hóa các kiểu khí hậu, cấu
trúc các quần thể trong nội bộ loài thường rất phức tạp. Có nhiều loài có hàng chục
dạng sống khác nhau.
• Khả năng thích nghi của loài cao. Thích nghi của các loài được thực hiện thông qua
các đặc điểm thích nghi của từng cá thể, thông qua chuyển đổi cấu trúc loài. Loài
12


sinh vật ở Việt Nam nói chung có đặc tính chống chịu cao đối với các thay đổi của
các yếu tố và điều kiện ngoại cảnh.
Về thực vật, trong giai đoạn 1993 – 2003, đã có 13 chi, 222 loài và 30 taxon dưới loài đó
được phát hiện và mô tả mới cho khoa học v.v.
c) Đa dạng hệ sinh thái:
Đa dạng hệ sinh thái là sự phong phú về các kiểu hệ sinh thái khác nhau ở cạn cũng như
ở nước tại một vùng nào đó. Hệ sinh thái là hệ thống bao gồm sinh vật và môi trường tác
động lẫn nhau mà ở đó thực hiện vòng tuần hoàn vật chất, năng lượng và trao đổi thông tin.
Nguồn tài nguyên đa dạng sinh học trong tự nhiên của Việt Nam hiện nay tập trung ở 3 hệ
sinh thái (HST) chính là: HST trên cạn ( HST rừng), HST đất ngập nước và HST biển.
Hệ sinh thái đất ngập nước:
Công ước Ramsar định nghĩa "Đất ngập nước là những vùng đầm lầy, than bùn hoặc
vùng nước bất kể là tự nhiên hay nhân tạo, thường xuyên hay tạm thời, có nước chảy hay
nước tù, là nước ngọt, nước lợ hay nước biển kể cả những vùng nước biển có độ sâu không
quá 6 mét khi triều thấp".

Đất ngập nước (ĐNN) Việt Nam rất đa dạng về loại hình và hệ sinh thái, thuộc 2 nhóm
ĐNN: ĐNN nội địa, ĐNN ven biển. Trong đó có một số kiểu có tính đa dạng sinh học cao:
• Rừng ngập mặn ven biển: Rừng ngập mặn có các chức năng và giá trị như cung cấp
các sản phẩm gỗ, củi, thủy sản và nhiều sản phẩm khác; là bãi đẻ, bãi ăn và ương các
loài cá, tôm, cua và các loài thủy sản có giá trị kinh tế khác; xâm chiếm và cố định
các bãi bùn ngập triều mới bồi, bảo vệ bờ biển chống lại tác động của sóng biển và
bão tố ven biển; là nơi cư trú cho rất nhiều loài động vật hoang dã bản địa và di cư
(chim, thú, lưỡng cư, bò sát).
• Đầm lầy than bùn: đầm lầy than bùn là đặc trưng cho vùng Đông Nam Á. U Minh
thượng và U Minh hạ thuộc các tỉnh Kiên Giang, Cà Mau là hai vùng đầm lầy than
bùn tiêu biểu còn sót lại ở đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam.
• Đầm phá: thường thấy ở vùng ven biển Trung bộ Việt Nam. Do đặc tính pha trộn
giữa khối nước ngọt và nước mặn nên khu hệ thủy sinh vật đầm phá rất phong phú
bao gồm các loài nước ngọt, nước lợ và nước mặn. Cấu trúc quần xã sinh vật đầm
phá thay đổi theo mùa rõ rệt.
• Rạn san hô, cỏ biển: đây là các kiểu hệ sinh thái đặc trưng cho vùng biển ven bờ, đặc
biệt rạn san hô đặc trưng cho vùng biển nhiệt đới. Quần xã rạn san hô rất phong phú
bao gồm các nhóm động vật đáy (thân mềm, giáp xác), cá rạn. Thảm cỏ biển thường
là nơi cư trú của nhiều loại rùa biển và đặc biệt loài thú biển Dugon.
• Vùng biển quanh các đảo ven bờ: ven bờ biển Việt Nam có hệ thống các đảo rất
phong phú. Vũng nước ven bờ của hầu hết các đảo lớn được đánh giá có mức độ đa
dạng sinh học rất cao với các hệ sinh thái đặc thù như rạn san hô, cỏ biển...
Việt Nam có 2 vùng ĐNN quan trọng là ĐNN vùng cửa sông đồng bằng sông Hồng
và ĐNN đồng bằng sông Cửu Long:
• ĐNN ở vùng cửa sông đồng bằng sông Hồng có diện tích 229.762 ha. Đây là nơi tập
trung các hệ sinh thái với thành phần các loài thực vật, động vật vùng rừng ngập
mặn phong phú, đặc biệt là nơi cư trú của nhiều loài chim nước.
13



• ĐNN đồng bằng sông Cửu Long có diện tích đất ngập nước 4.939.684 ha. Đây là bãi
đẻ quan trọng của nhiều loài thủy sản di cư từ phía thượng nguồn sông Mê Công.
Những khu rừng ngập nước và đồng bằng ngập lũ cũng là những vùng có tiềm năng
sản xuất cao. Có 3 hệ sinh thái tự nhiên chính ở đồng bằng sông Cửu Long, đó là hệ
sinh thái ngập mặn ven biển; hệ sinh thái rừng tràm ở vùng ngập nước nội địa và hệ
sinh thái cửa sông.
Mỗi kiểu hệ sinh thái ĐNN đều có khu hệ sinh vật đặc trưng của mình. Tuy nhiên, đặc
tính khu hệ sinh vật của các hệ sinh thái này còn phụ thuộc vào từng vùng cảnh quan và
vùng địa lý tự nhiên.
Hệ sinh thái đất ngập nước rất đa dạng, theo đánh giá của Viện Điều tra quy hoạch rừng
(1999) có 39 kiểu đất ngập nước, bao gồm:
• Đất ngập nước tự nhiên 30 kiểu
• Đất ngập nước ven biển 11 kiểu
• Đất ngập nước nội địa 19 kiểu
• Đất ngập nước nhân tạo 9 kiểu
Hệ sinh thái biển:
Việt Nam có vùng lãnh hải gắn với bờ biển rộng khoảng 226.000 km 2. Do vậy hệ sinh
thái biển cũng rất phong phú, có 20 kiểu hệ sinh thái điển hình, có tính đa dạng sinh học và
năng suất sinh học cao.Trong vùng biển nước ta đã phát hiện được khoảng 11.000 loài sinh
vật cư trú trong các vùng đa dạng sinh học biển khác nhau. Thành phần quần xã trong hệ
sinh thái giàu, cấu trúc phức tạp, thành phần loài phong phú. Đây là môi trường sản xuất
thuận lợi và rộng lớn gắn chặt với đời sống của hàng triệu cư dân sống ven biển của Việt
Nam.
Hệ sinh thái rừng:
Các hệ sinh thái của rừng Việt Nam rất đa dạng, mỗi hệ sinh thái rừng thực chất là một
phức hệ rất phức tạp, được vận hành và chi phối bởi các quy luật nội vi và ngoại vi. Một số
hệ sinh thái điển hình: rừng trên núi đá vôi, rừng rụng lá và nửa rụng lá, rừng thường xanh
núi thấp, núi trung bình, núi cao v.v. có giá trị đa dạng sinh học cao và có ý nghĩa rất quan
trọng đối với việc bảo tồn đa dạng sinh học của Việt Nam.
Diện tích rừng của Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn biến động khác nhau. Theo thống

kê của tác giả Paul Maurand (1943), năm 1943 Việt Nam có diện tích rừng là 14,3 triệu
hecta, đạt tỷ lệ che phủ lãnh thổ là 43%. Từ năm 1943-1975, diện tích rừng đã bị suy giảm
còn 11,2 triệu hecta với tỷ lệ che phủ là 34% (Viện Điều tra quy hoạch rừng, năm 1976).
Giai đoạn 1976 đến 1990 là thời kỳ tài nguyên rừng bị khai thác mạnh để phục vụ phát
triển kinh tế xã hội của đất nước sau chiến tranh. Diện tích rừng trong giai đoạn này tiếp
tục giảm xuống, diện tích rừng năm 1990 chỉ còn chưa đầy 9,2 triệu hecta với tỷ lệ che phủ
chỉ đạt 27,8%.
Giai đoạn 1990 đến nay Chính phủ đã có nhiều biện pháp về chính sách và đầu tư nên
diện tích rừng đã dần được phục hồi kể cả diện tích rừng tự nhiên và rừng trồng. Năm
2005, diện tích rừng đã đạt trên 12,6 triệu hecta với độ che phủ 37%.
14


Bảng: Diễn biến diện tích và độ che phủ rừng qua các thời kỳ

Năm

1943
1976
1980
1985
1990
1995
2000
2002
2003
2004
2005

Diện tích rừng (1000 ha)

Độ che phủ Ha/Đầu người
(%)
Tổng cộng
Rừng tự
Rừng
nhiên
trồng
14.300,0
14.300,0
0
43,2
0,57
11.169,3
11.169,7
92,6
33,7
0,31
10.683,0
10.180,0
422,3
32,1
0,19
9.891,9
9.308,3
583,6
30,0
0,14
9.175,6
8.430,7
744,9

27,8
0,12
9.302,2
8.252,5
1.049,7
28,2
0,12
10.915,6
9.444,2
1.491,4
33,2
0,14
11.784,6
9.865,0
1.919,6
35,8
0,14
12.095,0
10.005,0
2.090,0
36,1
0,14
12.306,9
10.088,3
2.218,6
36,7
0,15
12.616,7
10.283,2
2.333,5

37,0
0,15
Nguồn: Viện Điều tra Quy hoạch Rừng và Cục Kiểm lâm

Do nhiều nguyên nhân đã làm cho diện tích rừng tự nhiên bị giảm sút trong thời gian qua
đã kéo theo sự suy giảm về đa dạng sinh học đối với các hệ sinh thái rừng nói chung.
Các hệ sinh thái của Việt Nam rất phong phú và đa dạng, tuy nhiên các hệ sinh thái này
hiện nay cũng đang đối mặt với nhiều thách thức chủ yếu từ các hoạt động kinh tế xã hội
của con người và những biến động của sự thay đổi khí hậu của trái đất. Diện tích rừng tự
nhiên đang có chiều hướng suy giảm cả về số lượng và chất lượng. Môi trường biển cũng
đang bị tác động bới các hoạt động khai thác tài nguyên như dầu khí, hải sản và cả ô nhiễm
v.v.
Đặc trưng của đa dạng hệ sinh thái ở Việt Nam:
Tính phong phú và đa dạng của các kiểu hệ sinh thái: Với một diện tích không rộng, nhưng
trên lãnh thổ Việt Nam có rất nhiều kiểu hệ sinh thái khác nhau. Ở từng vùng địa lý không
lớn cũng tồn tại nhiều kiểu hệ sinh thái.
• Thành phần các quần xã trong các hệ sinh thái rất giàu. Cấu trúc quần xã trong các
hệ sinh thái phức tạp, nhiều tầng bậc, nhiều nhánh. Điểm đặc trưng này làm cho đa
dạng hệ sinh thái ở Việt Nam có nhiều điểm khác biệt so với các nước khác trên thế
giới.
• Tính phong phú của các mối quan hệ giữa các yếu tố vật lý và các yếu tố sinh học,
giữa các nhóm sinh vật với nhau, giữa các loài, giữa các quần thể trong cùng một
loài sinh vật. Mạng lưới dinh dưỡng, các chuỗi dinh dưỡng với nhiều khâu nối tiếp
15


nhau làm tăng tính bền vững của các hệ sinh thái. Các mối quan hệ năng lượng được
thực hiện song song với các mối quan hệ vật chất rất phong phú, nhiều tầng, bậc
thông qua các nhóm sinh vật: tự dưỡng (sinh vật sản xuất), dị dưỡng (sinh vật tięu
thụ), hoại sinh (sinh vật phân hủy) trong các hệ sinh thái ở Việt Nam là những chuỗi

quan hệ mà ở nhiều nước khác trên thế giới không có được.
• Các hệ sinh thái ở Việt Nam có đặc trưng tính mềm dẻo sinh thái cao, thể hiện ở sức
chịu tải cao; khả năng tự tái tạo lớn; khả năng trung hoà và hạn chế các tác động có
hại; khả năng tự khắc phục những tổn thương; khả năng tiếp nhận, chuyển hóa, đồng
hóa các tác động từ bęn ngoài.
• Các hệ sinh thái ở Việt Nam phần lớn là những hệ sinh thái nhạy cảm. Tính mềm
dẻo sinh thái của các hệ sinh thái ở Việt Nam làm cho các hệ đó luôn ở trong trạng
thái hoạt động mạnh, vì vậy, thường rất nhạy cảm với các tác động từ bên ngoài, kể
cả các tác động của thiên nhiên, cũng như những tác động của con người.
2. Tầm quan trọng của đa dạng sinh học Việt Nam:
a. Giá trị sinh thái và môi trường:
Các hệ sinh thái là cơ sở sinh tồn của sự sống trên trái đất, trong đó có loài người.
Các hệ sinh thái đảm bảo sự chu chuyển của các chu trình địa hóa, thủy hóa (thủy vực):
ôxy và các nguyên tố cơ bản khác như cacbon, nitơ, photpho. Chúng duy trì sự ổn định
và màu mỡ của đất, nước ở hầu hết các vùng trên trái đất, làm giảm nhẹ sự ô nhiễm,
thiên tai. Gần đây, khái niệm các dịch vụ của hệ sinh thái được đưa ra trên cơ sở các
thuộc tính, chức năng của chúng được con người sử dụng.
Bảo vệ tài nguyên đất và nước: các quần xã sinh vật đóng vai trò rất quan trọng
trong việc bảo vệ rừng đầu nguồn, đặc biệt thảm thực vật có thể làm giảm nhẹ mức độ
hạn hán, lũ lụt cũng như duy trì chất lượng nước. Việc hủy hoại thảm rừng do khai thác
gỗ, do khai hoang làm nông nghiệp, ngư nghiệp cũng như các hoạt động khác của con
người trong quá trình phát triển kinh tế làm cho tốc độ xói mòn đất, sạt lở đất, hoang
mạc hóa đất đai tăng lên rất nhanh. Đất bị suy thoái khiến thảm thực vật khó có thể
phục hồi càng gia tăng các thảm họa thiên nhiên như lũ lụt, hạn hán... hoặc gây ô nhiễm
môi trường đất và nước.
Điều hòa khí hậu: quần xã thực vật có vai trò quan trọng trong việc điều hòa khí hậu
địa phương, khí hậu vùng và cả khí hậu toàn cầu: tạo bóng mát, khuyếch tán hơi nước,
giảm nhiệt độ không khí khi thời tiết nóng nực, hạn chế sự mất nhiệt khi khí hậu lạnh
giá, điều hòa nguồn khí ôxy và cacbonic cho môi trường trên cạn cũng như dưới nước
thông qua khả năng quang hợp,phân hủy các chất thải

Các quần xã sinh vật, đặc biệt các loài nấm và vi sinh vật có khả năng hấp phụ, hấp thụ
và phân hủy các chất ô nhiễm như kim loại nặng, thuốc trừ sâu và các chất thải nguy hại
khác.
b.Những giá trị vật chất khác của đa dạng sinh học
Nhiều hệ sinh thái tự nhiên hoặc bán tự nhiên, một số trong đó có thể có tính đa
dạng sinh học cao, có giá trị đáng kể đối với con người, chẳng hạn như:
- Vai trò của rừng trong việc điều chỉnh và ổn định đất trên vùng đất dốc của lưu
16


vực sông.
- Vai trò ổn định bờ biển và làm bãi đẻ và sinh sống cho nhiều loài cá của rừng
ngập mặn.
- Vai trò quan trọng của các rạn san hô đối với sự tồn tại của ngành ngư nghiệp.
- Vai trò tạo nguồn thu nhập từ du lịch sinh thái của các hệ sinh thái tự nhiên được
bảo vệ làm vườn quốc gia .
Theo một số tài liệu, đa dạng sinh học trên toàn cầu có thể cung cấp cho con người
một giá trị tương đương 33.000 tỷ USD/năm. Trong Kế hoạch hành động đa dạng
sinh học của Việt Nam (1995) cũng ước tính, hàng năm việc khai thác tài nguyên
nông, lâm nghiệp và thủy sản của Việt Nam có giá trị tương đương 2 tỷ USD. Lấy số
liệu thực của năm 2004, riêng hàng xuất khẩu của ngành thủy sản Việt Nam đã có
giá trị 2 tỷ USD. Ngành nông - lâm nghiệp hiện đang quản lý nguồn tài nguyên rừng
có giá trị vô cùng to lớn. Với giá khoảng 250 USD/m3 gỗ, thì hàng năm chỉ riêng
mặt hàng gỗ làm nguyên liệu giấy, đa dạng sinh học đă cho giá trị khoảng 1,5 - 3,5
tỷ USD. Đó là chưa kể hàng năm rừng đă cung cấp các mặt hàng lâm sản ngoài gỗ
đã có giá trị khoảng 1,5 tỷ USD cho xuất khẩu và cũng khoảng đó cho tiêu dùng
trong nước.
Theo Tổng cục Thống kê, năm 2003 ngành nông nghiệp đóng góp một tỷ lệ đáng
kể trong Tổng sản phẩm quốc nội (GDP): gần 21%, ngành lâm nghiệp chiếm tỷ lệ
gần 1,1% và, ngành thủy sản chiếm tỷ lệ hơn 4% GDP. Theo số liệu thống kê năm

1995, nhu cầu cây thuốc cho công nghiệp dược, mỹ phẩm hương liệu khoảng 20.000
tấn/năm. Hàng trăm doanh nghiệp xuất khẩu thuốc khoảng 10.000 tấn/năm trị giá
khoảng 15-20 triệu USD.
Giá trị kinh tế của đa dạng sinh học có thể nęu khái quát về các mặt sau đây:
- Giá trị được tính ra tiền do việc khai thác, sử dụng mua bán hợp lý các tài nguyên đa
dạng sinh học.
- Đa dạng sinh học đảm bảo cơ sở cho an ninh lương thực và phát triển bền vững của
đất nước, đảm bảo các nhu cầu về ăn, mặc của nhân dân, góp phần xóa đói giảm nghèo.
- Đa dạng sinh học cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến nông sản: mía
đường, bông vải, cây lấy dầu, cây lấy sợi, thuốc lá, cói, hạt điều...
- Đa dạng sinh học góp phần nâng cao độ phì nhiêu của đất, qua đó làm tăng giá trị
nông sản.
c.Giá trị xã hội và nhân văn:
Trong các nền văn hóa của nhiều dân tộc tręn thế giới, một số loài động vật hoang dã
được coi là biểu tượng trong tín ngưỡng, thần thoại hoặc các tác phẩm hội họa, điêu
khắc. Sự phụ thuộc vào khai thác tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên sinh vật đã hình
thành các lễ hội của một số bộ tộc ít người như lễ hội săn bắn theo mùa, hoặc hình
thành sự quản lý tài nguyên theo tính chất cộng đồng như vai trò của già làng, trưởng
bản trong việc phân định phạm vi, mức độ khai thác, sử dụng tài nguyên đất và rừng.
Cuộc sống văn hóa của con người Việt Nam rất gần gũi thiên nhiên, các loài động, thực
vật nuôi trồng hay hoang dã và các sản phẩm của chúng đã quen thuộc với mọi người
dân, đặc biệt người dân sống ở vùng nông thôn và miền núi, như lễ hội chọi trâu ở Đồ
17


Sơn (Hải Phòng), lễ hội đua thuyền... Nhiều loài cây, con vật đă trở thành thiêng liêng
hoặc vật thờ cúng đối với các cộng đồng người Việt như: gốc đa thiêng, đền thờ cá Ông
ở các tỉnh miền Nam Trung bộ. Các khu rừng thiêng, rừng ma là những nét văn hóa độc
đáo của nhiều dân tộc miền núi. Nghề dệt thổ cẩm, làm hương, làm hàng mỹ nghệ từ
gỗ, tre nứa hay song mây là những sự gắn bó của đời sống văn hóa con người Việt Nam

với đa dạng sinh học:
Rất nhiều loài động vật hoang dã được thuần dưỡng với mục đích làm bầu bạn với
con người hoặc thuần hóa để chăn nuôi làm thực phẩm sử dụng hàng ngày.
Rất nhiều thú vui của con người được tạo nên thông qua việc tổ chức tham quan, theo
dõi tập tính của nhiều loài động vật hoang dã. Gần đây, ngành du lịch sinh thái đã hình
thành và đang phát triển rộng rãi trên cơ sở sự ham hiểu biết thiên nhiên của con người
đồng thời cũng là điều kiện để nâng cao nhận thức tầm quan trọng của công tác bảo tồn
thiên nhiên cũng như làm cho con người gần gũi hơn, thân thiện hơn với thiên nhiên
hoang dã.
Giá trị xã hội - nhân văn của đa dạng sinh học thể hiện tập trung ở các mặt sau đây:
- Tạo nhận thức, đạo đức và văn hóa hưởng thụ thẩm mỹ công bằng của người dân. Qua
các biểu hiện phong phú nhiều dáng vẻ, nhiều hình thù, nhiều màu sắc, nhiều kết cấu,
nhiều hương vị của thế giới sinh vật con người trở nên hiền hòa, yêu cái đẹp.
- Đa dạng sinh học góp phần đắc lực trong việc giáo dục con người, đặc biệt là đối với
thế hệ trẻ, lòng yêu thiên nhiên, yêu quê hương, đất nước.
- Đa dạng sinh học là yếu tố chống căng thẳng, tạo sự thoải mái cho con người. Điều
này đặc biệt có giá trị trong thời đại công nghiệp, trong cuộc sống hiện tại căng thẳng
và đầy sôi động.
- Đa dạng sinh học góp phần tạo ổn định xã hội thông qua việc bảo đảm an toàn lương
thực, thực phẩm, thỏa mãn các nhu cầu của người dân về đầy đủ các chất dinh dưỡng,
về ăn mặc, tham quan du lịch và thẩm mỹ.
3. Sự suy giảm của đa dạng sinh học ở Việt Nam:
Thực trạng của đa dạng sinh học ở Việt Nam hiện nay:
- Các hệ sinh thái tự nhiên bị suy thoái.
- Các loài tự nhiên bị suy giảm.
- Nguồn gen cây trồng vật nuôi bị suy giảm.
Sự suy giảm đa dạng sinh học ở Việt Nam cũng giống như trên thế giới, suy sự giảm
đa dạng sinh học ngày một tăng do những ảnh hưởng từ con người và các hoạt động
của người tác động vào tự nhiên. Trên thực thế sự suy giảm đa dạng sinh học của
nước ta nhanh hơn nhiều so với các quốc gia trong khu vực

a.Hệ sinh thái:
Hệ sinh thái rừng:
Diễn biến diện tích và độ che phủ rừng qua các thời kỳ
Năm
Diện tích rừng (1000 ha)
Độ che
Ha/Đầu
phủ
người
Tổng cộng Rừng tự
Rừng
(%)
nhiên
trồng
1943
14.300,0
14.300,0
0
43,2
0,57
18


1976
1980
1985
1990
1995
2000
2002

2003
2004
2005

11.169,3
11.169,7
92,6
33,7
0,31
10.683,0
10.180,0
422,3
32,1
0,19
9.891,9
9.308,3
583,6
30,0
0,14
9.175,6
8.430,7
744,9
27,8
0,12
9.302,2
8.252,5
1.049,7
28,2
0,12
10.915,6

9.444,2
1.491,4
33,2
0,14
11.784,6
9.865,0
1.919,6
35,8
0,14
12.095,0
10.005,0
2.090,0
36,1
0,14
12.306,9
10.088,3
2.218,6
36,7
0,15
12.616,7
10.283,2
2.333,5
37,0
0,15
Nguồn: Viện Điều tra Quy hoạch Rừng và Cục Kiểm lâm

- Diện tích rừng của Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn biến động khác
nhau. Theo thống kê của tác giả Paul Maurand (1943), năm 1943 Việt Nam
có diện tích rừng là 14,3 triệu hecta, đạt tỷ lệ che phủ lãnh thổ là 43%. Từ
năm 1943-1975, diện tích rừng đã bị suy giảm còn 11,2 triệu hecta với tỷ lệ

che phủ là 34% (Viện Điều tra quy hoạch rừng, năm 1976).
- Giai đoạn 1976 đến 1990 là thời kỳ tài nguyên rừng bị khai thác mạnh để
phục vụ phát triển kinh tế xã hội của đất nước sau chiến tranh. Diện tích
rừng trong giai đoạn này tiếp tục giảm xuống, diện tích rừng năm 1990 chỉ
còn chưa đầy 9,2 triệu hecta với tỷ lệ che phủ chỉ đạt 27,8%.
- Giai đoạn 1990 đến nay Chính phủ đã có nhiều biện pháp về chính sách và
đầu tư nên diện tích rừng đã dần được phục hồi kể cả diện tích rừng tự nhiên
và rừng trồng. Năm 2005, diện tích rừng đã đạt trên 12,6 triệu hecta với độ
che phủ 37%.
Chương trình Môi trường của Liên Hiệp Quốc (UNEP) đã xác định chỉ tiêu thảm
rừng che phủ đất đai lãnh thổ các quốc gia thuộc miền Nhiệt đới ở mức >33%, dưới
đó là báo động môi trường.
- Tình trạng mất rừng hầu hết xảy ra ở các rừng phòng hộ xung yếu.
VD: Độ che phủ của rừng tự nhiên ở một số lưu vực các sông như sau:
- Lưu vực sông Đà: <11%.
- Lưu vực sông Hồng: 23%.
- Lưu vực sông Đồng Nai: 25%.
- Lưu vực sông Ba (Gia Lai): <23%.
- Chất lượng rừng bị giảm: bị thu hẹp và chia cắt. (rừng nguyên sinh, rừng giàu chỉ
còn <13% tổng diện tích rừng). Độ che phủ và chất lượng rừng bị giảm (rừng tái sinh
chiếm 55% tổng diện tích rừng) (nguồn: Bộ Tài nguyên môi trường, 2007).
19


Suy thoái hệ sinh thái đất ngập nước: đầm phá Tam Giang, rừng ngập mặn Cần Giờ,
rừng U Minh Thượng, ...
- Suy thoái về số lượng: diện tích bị giảm...
- Suy thoái về chất lượng: 70% diện tích đất ngập nước bị ô nhiểm (nguồn: Bộ
Tài nguyên môi trường, 2009).
- Rừng ngập nước và tràng cỏ ngập nước ở đồng bằng Bắc Bộ (>1,7 triệu ha) và

đồng bằng sông Cửu Long (khoảng 3,9 triệu ha) đã chuyển đổi thành đất nông
nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản (Bộ Tài nguyên môi trường, 2007).
- Diện tích đất ngập nước hiện nay: chỉ còn 10 triệu ha (Bộ TN&MT, 2009).
- Rừng ngập mặn: diện tích rừng ngập mặn đã giảm 183.724 trong 20 năm qua
(Bộ TN&MT, 2008).
- Các hệ sinh thái đầm phá và trảng cỏ ở miền trung cũng suy thoái nặng nề do
khai thác thuỷ hải sản không bền vững và mở rộng nuôi trồng thuỷ sản.
- Các hệ sinh thái đất ngập nước thuộc các sông hề cũng bị khai thác cạn kiệt và
do xây dựng cơ sở hạ tầng
- Mở rộng đất ngập nước để nuôi trồng thuỷ sản làm suy gimr tài nguyên sinh
học tại chỗ: mất nơi sống, nơi sinh sản, vườn ươm của nhiều loài động vật
dưới nước và trên cạn. (nghiên cứu đầm tôm bỏ hoang ở Nam triệu - Hải
Phòng cho thấy sinh khối động vật đáy giảm tới 9 lần so với vùng lân cận
rừng ngập mặn).
- Làm mất nguồn thức ăn phong phú của nhiều sinh vật vùng triều, hậu quả là
sản lượng cá, tôm, cua đánh bắt ở ngoài biển cũng giảm...
- Hầu hết hệ sinh thái Biển ở Việt Nam đều đang bị suy thoái do: khai thác quá
mức  huỷ diệt; ô nhiễm... dẫn đến hậu quả là : thay đổi cấu thúc quần xã
thuỷ sinh. Giảm mật độ các loài thuỷ sản. 80 loài hải sản bị đe doạ, 70 loài
được đưa vào sách đỏ, 20 loài chim bị đe doạ toàn cầu.
b.Các loài tự nhiên:
-Theo Sách Đỏ Việt Nam 2007, tổng số các loại động- thực vật hoang dã trong thiên
nhiên đang bị de dọa hiện nay là 882 loài (418 loài động vật và 464 loại thực vật),
tăng 161 loài so với thời điểm năm 1992.
-Trong Sách Đỏ Việt Nam, phần động vật (1992), mức độ bị đe dọa của các loài chỉ
mới dừng lại ở hạng “nguy cấp”, thì đến thời điểm này đã có tới 9 loài động vật được
xem đã tuyệt chủng ngoài tự nhiên tại Việt Nam, cụ thể là: Tê giác 2 sừng
(Dicerorhynus sumatrensis), Bò xám (Bos sauveli), Heo vòi (Tapirus indicus), Cầy rái
cá (Cynogale lowei), cá Chép gốc (Procypris merus), cá Chình Nhật (Angilla
japonica), cá Lợ thân thấp(Cyprinus multitaeniata), Hươu sao (Cervus nippon), cá Sấu

hoa cà (Crocodylus porosus).
20


c.Nguồn gen giống vật nuôi và cây trồng: các giống cây trồng và vật nuôi đang bị mai
một (theo tính toán, 80 % giống cây trồng bản địa đã mất, giống vật nuôi suy giảm
gần 10 % một năm)  sự mất mát nguồn gen là thiệt hại cho cả nhân loại.
Trong hệ thực vật, loài Lan hài Việt Nam đã tuyệt chủng ngoài thiên nhiên.
Số lượng các loài thuỷ sinh vật, đặc biệt các loài tôm, cá có giá trị kinh tế bị giảm sút
nhanh chóng. Số lượng cá thể các loài cá nước ngọt quý hiếm, có giá trị kinh tế, các
loài có tập tính di cư bị giảm sút.
Bảng: sự suy giảm diện tích và mất mát giống cây trồng bản địa từ 1970 đến
1999
Giống cây
Giảm diện tích
Tỷ lệ mất giống
gieo trồng(%)
địa phương (%)
Lúa
50
80
4. Ngô, đậu
Nguyên
75
50
nhân làm
Cây có củ
75
20
suy Chè và đay

giảm đa
20
90
dạng sinh
Cây ăn quả
50
70
học:
Những nghiên cứu gần đây cho thấy, những nguyên nhân chính tác động đến
đa dạng sinh học ở Việt Nam bao gồm các áp lực sau: khai thác quá mức tài
nguyên và sử dụng tài nguyên sinh vật một cách không bền vững, các hoạt
động kinh tế xã hội, xây dựng các cơ sở hạ tầng làm mất đi nơi cư trú của
nhiều loài động vật hoang dã và gây ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu,
cháy rừng, di nhập của các sinh vật ngoại lai xâm hại.....
a.Nguyên nhân trực tiếp
Khai thác quá mức và sử dụng không bền vững tài nguyên sinh hoc:
Do vị trí địa lý thuận lợi cho việc phát triển tài nguyên sinh vật. Nhiều
cộng đồng dân cư Việt Nam có truyền thống lâu đời về việc sử dụng tài
nguyên thiên nhiên và đời sống vẫn còn phụ thuộc vào rừng như việc thu
hái, khai thác thực phẩm, chất đốt và vật liệu xây dựng.Cùng với việc
phát triển công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, sự thay đổi nhanh về
kinh tế- xã hội, tăng nhanh về dân số, mô hình tiêu thụ thay đổi, sự thay
đổi mạng lưới giao thông tới các vùng xa xôi cũng dễ dàng làm cho các
vùng này tiếp cận với bên ngoài. Những thay đổi đó đã dẫn tới việc khai
thác quá mức nguồn tài nguyên thiên nhiên tại nhiều vùng trên cả nước
nhầm phụ vụ nhu cầu sống ngày càng cao của con người...
Nhiều loại thực vật có giá trị kinh tế được khai thác để làm thức ăn, thuốc
đốt, thuốc chữa bệnh, vật liệu xây dựng hay là đồ thủ công mỹ nghệ...
- Khai thác gỗ: Gỗ là sản phẩm chủ yếu của hầu hết các loại hình rừng, là
nguồn nguyên liệu quan trọng và có quan hệ chặt chẽ đến các nhu cầu

xây dựng, giao thông, đồ dùng gia dụng, công nghệ giấy sợi, công cụ cầm
tay, nguồn chất đốt. Các phương pháp khai thác gỗ ( hợp pháp hay không
21


hợp pháp) không bền vững từ trước tới nay điều là mối đe dọa lớn đối với
đa dạng sinh học. Làm nghèo tài nguyên gỗ tự nhiên, giảm diện tích che
phủ của rừng và chất lượng rừng, gây ảnh hưởng lớn tới nơi sinh sống
cũng như nguồn thức ăn của nhiều loại động vật..
+ Trong giai đoạn từ 1986-1991, các lâm trường quốc doanh đã khai thác
trung bình 3,5 triệu mét khối gỗ mỗi năm. Thêm vào đó, khoảng 1-2 triệu
m3 gỗ được khai thác ngoài kế hoạch. Số gỗ này nếu qui ra diện tích thì
mỗi năm bị mất đi khoảng 80.000 ha rừng (theo biodivn.com).
+ Theo số liệu thống kê của Tổng cục Lâm ngiệp, Bộ NN&PTNT (2009)
cho thấy, trong khoảng thời gian từ năm 2000 tới năm 2009, sản lượng
khai thác gỗ tăng hơn nhiều so với giai đoạn trước đó, trung bình sản
lượng khai thác gỗ và lâm sản ngoài gỗ hàng năm là 3,247 triệu m 3.
Riêng năm 2010, sản lượng khai thác gỗ, lâm sản ngoài gỗ ước tính là
4,950 m3
+ Theo thống kê của Cục Kiểm Lâm, Tổng cục Lâm nghiệp, Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn tháng 01 năm 2011, số lượng lâm sản bị
tịch thu năm 2010 lên đến 1.352,38 nghìn m 3 gỗ tròn quý hiếm, 3.110,22
nghìn m3 gỗ xẻ hiếm.

Khai thác gỗ lậu tại nông trường Việt Trung ( Bố Trạch)
-Khai thác củi: hàng năm một lượng củi khoảng 21 triệu tấn được khai
thác từ rừng phục vụ cho nhu cầu sử dụng trong gia đình. Lượng củi này
nhiều gấp 6 lần lượng gỗ xuất khẩu hàng năm (Phạm Bình Quyền ,
1999). Đây cũng là một trong những nguyên nhân cơ bản tác động tới sự
22



suy giảm đa dạng sinh học nếu như không có kế hoạch trồng mới cũng
như bù đắp lại số lượng cũng như chất lượng rừng.
-Khai thác, săn bắn, buôn bán động vật hoang dã một cách trái phép:
nạn săn bắn, buôn bán trái phép động vật hoang dã là một trong những
nguyên nhân chính gây ra nguy cơ tuyệt chủng cúa các loài động vật quý
hiếm, cao cấp.
+) Chỉ kể 18 loài động vật thuộc diện quí hiếm đã ghi trong sách đỏ Việt
Nam, từ năm 1991-1995, đã có tới 8.964 cá thể bị săn bắt, bình quân
hàng năm có tới 1.743 cá thể động vật quí hiếm bị săn bắt (Đỗ Tước,
1997). Theo thống kê của Cục kiểm lâm, Tổng cục Lâm nghiệp Bộ Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn, năm 2010, số lượng động vật hoang dã
bị bắt giữ là 34,721 tấn với 12.936 con, trong đó 508 con là động vật quý
hiếm; 2009 là 38,337 tấn với 12.930 con, trong đó có 724 con quý hiếm;
năm 2008 là 90,896 tấn với 7.848 con, trong đó có 587 con quý hiếm.
Riêng thống kê của Cục Kiểm lâm từ đầu năm 2011 tới tháng 8 năm
2011, trên cả nước đã có 660 vụ vi phạm quản lý và bảo vệ động vật
hoang dã, 10.130 vụ mua bán, vận chuyển trái phép lâm sản.

Săn bắt động vật hoang dã nhầm phụ vụ cho nhu cầu tiêu dùng và xuất
khẩu

23


con tê giác cuối cùng của VN đã bị giết năm 2010, khiến tê giác hoàn toàn
tuyệt chủng ở nước ta
+)Theo danh sách đỏ của Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN), nếu
như năm 1996 mới chỉ có 25 loài động vật của Việt Nam ở mức nguy cấp thì

đến năm 2010, con số này đã lên tới 47. Nhiều loài được đánh giá bị đe dọa
không cao trên quy mô toàn cầu nhưng lại bị đe dọa ở mức báo động tại Việt
Nam như hạc cổ trắng, voọc, cu li…
+)Mặc dù Việt Nam đã xây dựng kế hoạch hành động quốc gia để tăng
cường kiểm soát buôn bán động thực vật hoang dã với mục tiêu chung là
tăng cường kiểm soát nạn buôn bán trái phép, nhưng năng lực của các cơ
quan thực thi pháp luật bảo vệ động vật hoang dã còn hạn chế
-Đánh bắt cá: tại nhiều nơi ở VN còn sử dụng các cách đánh bắt cá mang
tính hủy diệt cao như là mìn hay là chất nỏ, phóng điện ,các cất hóa học.
Theo Thu An (2007) trên website của Bộ TN&MT, trên vùng biển Cà Mau,
trung bình mỗi tàu câu mực trang bị 25 bóng đèn cao áp loại 3.000W, đã tạo
ra một nguồn sáng tới 75.000W. Lớn nhất là những tàu trang bị tới 40-45
bóng đèn cao áp từ 3.000 tới 5.000W (Bộ Thủy sản (cũ) quy định các chủ
tàu đánh cá chỉ có quyền sử dụng đèn công suất từ 300 đến 500W và mỗi tàu
không được dùng quá 10.000W để đánh bắt hải sản). Nguy hiểm nhất là
cảnh tượng vài ba chủ tàu cùng hợp sức vây bắt chung một luồng cá đồng
loạt bật tất cả bóng đèn để kéo lưới. Đó là lúc ánh sáng tập trung cực mạnh
vào một diện tích mặt nước có giới hạn khiến cho cá lớn, cá nhỏ đều bị
thương tổn.
-Chuyển đổi sử dụng đất, mặt nước một cách thiếu khoa học: Việc chuyển
đổi đất rừng và các vùng đất ngập nước thành đất canh tác nông nghiệp, nuôi
24


trồng thủy sản; đô thị hoá và phát triển cơ sở hạ tầng có thể dẫn đến việc mất
hay phá vỡ các hệ sinh thái, nơi cư trú và các sinh cảnh tự nhiên. Trong thời
gian gần đây, do nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội HST rừng tự nhiên ngày
một ít dần hoặc chuyển sang HST thứ sinh khác. Mở rộng đất để chuyển đổi
nông lâm ngư nghiệp cũng một phần lấn áp vào HST rừng tự nhiên, gây mất
nơi cư trú của nhiều loại động vật và phát triển của thực vật, các chuỗi thức

ăn bị biến đổi, cân bằng sinh thái bị tổn thương.
+) Năm 2008, thực hiện chủ trương của Chính phủ cho phép Tây Nguyên
chuyển 150.000 ha rừng nghèo kiệt sang trồng cây cao su, đến năm 2010 các
tỉnh đã chuyển đổi một diện tích khá lớn như Đắc Lắc đã chuyển được
69.557 ha, trong đó có 53,122 ha rừng khộp, Gia Lai là 51.000 ha, Bình
Phước là 42.000 ha. Như vậy, từ năm 2008 đến năm 2010 đã có khoảng
100.000 ha rừng khộp ở Tây nguyên đã bị biến mất.
+) Đất sản xuất nông nghiệp vốn đã ít (bình quân diện tích đất nông nghiệp
là 0,11 ha/người) nay lại bị thu hồi, chuyển đổi để xây dựng đô thị, khu công
nghiệp và các dịch vụ khác. Trung bình mỗi năm quỹ đất nông nghiệp bị mất
khoảng 0,43% (Bộ Tài nguyên môi trường, 2010)
+) Hiện nay, có 18 sân gôn đang hoạt động, hơn 140 dự án đã được cấp phép
hoặc có chủ trương cho phép nghiên cứu thực hiện. Diện tích các sân gôn
đang hoạt động chiếm trên 2.400 ha, trong đó phần lớn là đất nông nghiệp.
Để chăm sóc bảo dưỡng các sân gôn phải sử dụng một lượng nước ngầm
tưới trung bình mỗi năm là 60 m3/ha, ảnh hưởng đến trữ lượng nước ngầm,
ngoài ra còn sử dụng một lượng lớn phân bón hóa học và thuốc trừ sâu mà
tồn dư của nó gây ô nhiễm môi trường, nguồn nước và nông sản bị nhiễm
độc (Phạm Trung Lương, 2010).
+) Theo thống kê, riêng diện tích vùng cát từ Hà Tĩnh đến Ninh Thuận là
85.100 ha. Từ 1999 đến năm 2010, do phát triển nuôi tôm trên cát và khai
thác sa khoáng imenit, xây dựng các khu nghỉ dưỡng đã phá huỷ hàng nghìn
héc ta vùng cát ven biển Trung Bộ, diện tích rừng phi lao phòng hộ ven biển
bị suy giảm, làm tăng nhanh tốc độ lấn cát sâu vào đất liền, tác động tới các
hệ sinh thái nông nghiệp.
-Cháy rừng: Ở nước ta, hàng năm vẫn xảy ra hàng trăm vụ cháy rừng thiêu
hủy hàng ngàn ha rừng, gây thiệt hại hàng trăm tỷ đồng, ảnh hưởng nghiêm
trọng tới môi trường sống và quần xã sinh vật trong sinh thái rừng. Theo
Cục Kiểm Lâm, trong các năm 2006 - 2009, diện tích rừng bị cháy trên
phạm vi toàn quốc bình quân là 1.400 ha/năm, năm 2007, diện tích rừng bị

cháy tới 2.328 ha. Theo thống kê của Cục Kiểm lâm từ đầu năm 2011 tới
tháng 8 năm 2011, trên cả nước, đã có 214 vụ cháy rừng và 263 vụ vi phạm
Quy định Phòng cháy và chữa cháy rừng
+) Trong năm 2014, cả nước đã xảy ra 419 vụ cháy rừng, làm thiệt hại 1.722
ha rừng các loại, tăng 73% về số vụ và 83% về diện tích so với cùng kỳ năm
2013 (BNN&PTNT)
25


×