Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

Nhân vật và cốt truyện trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (455.99 KB, 109 trang )

Lời cảm ơn
Với lòng biết ơn sâu sắc của mình, em xin cảm ơn cô giáo
……….đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong quá trình học tập, nghiên
cứu và hoàn thành luận văn.
Em xin cảm ơn các thầy cô trong tổ bộ môn…….., các thầy cô
giảng dạy tại trường ………..đã giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập và
nghiên cứu.
Trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài tôi luôn nhận
được sự động viên của bạn bè, đồng nghiệp và người thân trong gia đình.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, tháng 7 - 2015
Tác giả luận văn

1


Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan: Luận văn với đề tài “…………” là công trình
nghiên cứu của cá nhân tôi, không sao chép của bất cứ ai.
Tôi xin chịu mọi trách nhiệm về công trình nghiên cứu của riêng
mình !

Hà Nội, ngày ………….

Người cam đoan

2



MỤC LỤC

MỞ ĐẦU..............................................................5
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI...................................................................................5
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ..........................................................................................7
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.........................................................................12
- Khẳng định thành tựu và những đóng góp của Nguyễn Thị Thu Huệ
với thể loại truyện ngắn và với văn học Việt Nam đương đại.
4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU....................................................................13
5. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU..........................................13
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.............................................................14
7. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC ....................................................................14
8. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN.....................................................................14
NỘI DUNG............................................................................................................15
Chương 1............................................................................................................15
TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM THỜI KÌ ĐỔI MỚI VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG
TÁC CỦA NGUYỄN THỊ THU HUỆ..............................................................15
1.1. Truyện ngắn Việt Nam thời kì đổi mới..................................................15
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1................................................38
Chương 2............................................................................................................39
THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN.......................................39
NGUYỄN THỊ THU HUỆ.................................................................................39
2.1. Nhìn chung về nhân vật trong truyện ngắn.................................39
2.2. Các kiểu nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ........41
2.3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu
Huệ.................................................................................................................58
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2...................................................69
Chương 3............................................................................................................71
CỐT TRUYỆN TRONG TRUYỆN NGẮN.....................................................71
NGUYỄN THỊ THU HUỆ.................................................................................71

3


3.1. Nhìn chung về cốt truyện trong truyện ngắn.................................71
Trong truyện ngắn, cốt truyện rất quan trọng. Nhờ cốt truyện được tinh
chọn mà chỉ trong dung lượng câu chữ ngắn nhưng các tác giả đã thể hiện rõ
được bài học nhân sinh lớn đồng thời bộc lộ tính cách nhân vật. Nhà văn Ma
Văn Kháng đã ý thức rất rõ về điều này: “Vấn đề là anh tổ chức sao cho
truyện ngắn của anh thành một lát cắt gọn ghẽ. Như người ta vẫn nói, không
xô đẩy xộc xệch, thậm chí không thừa một chi tiết nào”. Nhà văn Nguyễn
Minh Châu đã so sánh với tiểu thuyết: “Nếu tiểu thuyết là một đoạn của
dòng đời thì truyện ngắn là cái mặt cắt của dòng đời. Vì thế mà cũng như
kịch ngắn, truyện ngắn đòi hỏi ở người viết một công việc tổ chức và cấu
trúc truyện hết sức nghiêm ngặt. Quả thực có một thứ kỹ thuật tinh xảo – kĩ
thuật viết truyện ngắn. Nó cũng giống như kĩ thuật của người làm pháo, dồn
nén tư tưởng vào trong một cốt truyện thật ngắn gọn, thật tự nhiên”[1].
3.2. Các kiểu cốt truyện trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ.......74
3.3. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện trong truyện ngắn Nguyễn Thị
Thu Huệ..........................................................................................................95
KẾT LUẬN..........................................................................................................103
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................105

4


MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Sự đổi mới của truyện ngắn đương đại
Văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới có nhiều thành tựu đáng khẳng

định, trong đó đáng chú ý là những cách tân ở thể loại truyện ngắn với sự
chuyển đổi hệ hình tư duy, từ tư duy sử thi sang tư duy thế sự đời tư và
theo đó là sự thay đổi quan niệm nghệ thuật về con người, thay đổi giọng
điệu.
Từ 1986 trở lại đây, cùng với sự vững vàng chín chắn của những nhà
văn lớp trước như: Tô Hoài, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Quang Sáng,
Xuân Thiều ... là sự xuất hiện hàng loạt cây bút truyện ngắn đặc sắc như
Nguyễn Huy Thiệp, Lưu Sơn Minh, Lê Minh Khuê, Võ Thị Hảo, Hồ Anh
Thái, Nguyễn Thị Thu Huệ, Lý Lan, Trần Thùy Mai, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ
Bích Thúy ... Trong đó, Nguyễn Thị Thu Huệ là nhà văn có sức viết khoẻ
và đặc biệt có duyên với truyện ngắn, có cá tính độc đáo và cách viết mới
lạ.
1.2. Nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ - một cây bút truyện ngắn đương
đại tiêu biểu
5


Nguyễn Thị Thu Huệ là cây bút không còn xa lạ với những ai yêu
thích văn chương, đặc biệt là văn chương sau đổi mới. Sau nhiều năm vắng
bóng trên văn đàn để tập trung vào truyền thông và điện ảnh, chị bất ngờ
trở lại với Thành phố đi vắng - tập truyện gồm 14 truyện được nhà xuất bản
Trẻ xuất bản năm 2012. Khi đó chúng ta mới hay sức sống văn chương
trong truyện vẫn còn đầy tràn cùng với nhiều điểm nhìn mới khác.
Ngay từ những truyện ngắn đầu tiên chị đã xác lập được vị trí của
mình trên văn đàn. Thu Huệ đã viết những tập truyện được dư luận chú ý
như: Cát đợi (1992), Hậu Thiên Đường (1994), Phù thủy (1997), 21 truyện
ngắn (2001), Nào ta cùng lãng quên (2003), 37 truyện ngắn Nguyễn Thị
Thu Huệ và thành phố đi vắng (2012) là tập truyện gần đây nhất. Chị cũng
là nhà văn nữ gặt hái được nhiều thành công và nhận được nhiều giải
thưởng có uy tín: Đạt giải nhì cuộc thi truyện ngắn của Hội văn học nghệ

thuật Hà Nội (1986); giải nhì cuộc thi truyện ngắn Tác phẩm tuổi xanh của
báo Tiền Phong(1993); giải nhất cuộc thi truyện ngắn NXB Hà Nội (1994),
cùng năm đó chị đạt giải nhất cuộc thi truyện ngắn do Tạp chí Văn nghệ
Quân đội tổ chức và nhận tặng thưởng hội nhà văn với tác phẩm Hậu
Thiên Đường. Năm 2012, chị nhận được giải thưởng của hội nhà văn dành
cho tập truyện ngắn Thành phố đi vắng.
Với những tập truyện ngắn xuất sắc, nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ đã
góp phần cách tân nền văn xuôi đương đại Việt Nam. Truyện ngắn của
Nguyễn Thị Thu Huệ có khả năng phản ánh các vấn đề gay gắt, nóng bỏng
của xã hội hiện đại, đặc biệt có khả năng khai thác chiều sâu những góc
khuất trong đời sống nội tâm của con người. Để làm được điều này nhà văn
phải có quan điểm mới mẻ về hiện thực và cuộc sống của con người, có sự
táo bạo trong cách viết, cách xử lý vấn đề. Đây là những yếu tố quyết định
thành công của truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ. Vì những lí do trên,
6


chúng tôi quyết định chọn “Nhân vật và cốt truyện trong truyện ngắn
Nguyễn Thị Thu Huệ” làm đề tài cho luận văn của mình.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Tác phẩm nói chung và truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ nói riêng đã
được nhiều nhà nghiên cứu, phê bình cũng như các luận văn tiếp cận dưới
nhiều góc độ khác nhau. Ở đây, tác giả luận văn xin hệ thống những công
trình và bài nghiên cứu tiêu biểu nhất.
2.1. Các bài phê bình và công trình nghiên cứu về nhà văn Thu Huệ
Ngay từ khi Nguyễn Thị Thu Huệ mới xuất hiện với các truyện ngắn
dự thi, các nhà phê bình đã giành cho chị những lời đánh giá tích cực. Sau
này, với tập truyện thay đổi hoàn toàn phong cách – “Thành phố đi vắng” –
chị còn nhận được nhiều đánh giá tích cực hơn.
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều trong bài viết “Báo cáo giải thưởng Hội

nhà văn Việt Nam 2012” cũng đã ghi nhận “(Thành phố đi vắng) đã thực
sự làm đầy thêm hồ sơ sáng tạo truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Thị Thu
Huệ và đặt chị vào vị trí những nhà văn Việt Nam đương đại viết truyện
ngắn tiêu biểu” [47]. Bên cạnh đó, nhà văn Nhật Tuấn trong bài viết Một
thành tựu văn xuôi hiện đại, nhân đọc Thành phố đi vắng đã nhận
thấy: “(Thành phố đi vắng) thực sự rất đáng ghi nhận như một tín hiệu
đáng mừng, một thành tựu mới trong văn xuôi hiện đại” [49,19].
Nội dung tư tưởng trong tác phẩm của Thu Huệ là điều để lại ấn tượng
mạnh nhất cho các nhà phê bình.
Nhà văn Hồ Phương khi đọc truyện của Nguyễn Thị Thu Huệ không
tránh khỏi ngạc nhiên. Ông đã đưa ra nhận xét rất đúng về truyện ngắn
Nguyễn Thị Thu Huệ trong bài viết “Thế hệ thứ ba”, đăng trên tạp chí Văn
nghệ Quân đội số 1/1994: “Trong các tác giả trẻ, Thu Huệ là cây bút hết
7


sức sắc sảo. Đọc Huệ tôi ngạc nhiên lắm, sao còn ít tuổi mà Huệ lại lọc lõi
thế. Nó như con mụ phù thủy lão luyện. Nó đi guốc trong bụng mình. Ruột
gan mình có gì hình như nó cũng biết cả” [41]. Đây là đánh giá về nội
dung, tư tưởng của truyện ngắn Thu Huệ. Nhà văn Hồ Phương đã sớm phát
hiện ra chất thế sự được thể hiện dưới bút pháp miêu tả nội tâm sắc sảo của
Thu Huệ.
Nhà phê bình Nguyễn Văn Lưu trong cuốn “Luận chiến văn chương”
của NXB Văn học năm 1997 cũng đã nhận xét về chất thế sự của Thu Huệ.
Song nó ít thiên về giáo dục đạo lí mà lại giống như lời tâm sự lúc con
người dồn nén cảm xúc cao nhất: “Truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ có
một chất gì đó vỡ ra ào ạt, khuấy đảo sôi sục cảm xúc trong người đọc”
[17,217].
Tiếp theo, vào năm 2003, tác phẩm của Thu Huệ lại một lần nữa đực
soi chiếu dưới sự đánh giá của nhà phê bình. Trong bài viết “Những truyện

ngắn hay” đăng trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội số 12/2003; Lý Hoài Thu
đã nhận ra nét riêng trong một số truyện ngắn dự thi của Thu Huệ: “những
cuộc săn đuổi, tìm kiếm đích thực của tình yêu dường như được nâng lên
để đẩy đến tận cùng của ý đồ” [27]. Phát hiện này cũng đồng thời chỉ ra
mảng đề tài rộng lớn mà Thu Huệ dành bút lực để trải nghiệm, đó chính là
tình yêu và hình ảnh người phụ nữ. Người phụ nữ khao khát tình yêu song
với họ tình yêu không đơn gian. Họ đang phiêu lưu, đang mạo hiểm, đang
kiếm tìm, thậm chí đang chơi xổ số trong cuộc kiế tìm tình yêu đích thực
trong đời. Từ cuộc kiếm tìm ấy, Thu Huệ để lại suy nghĩ và bài học sâu sắc
về cách sống cho người phụ nữ đương đại.
Bên cạnh những bài viết nhận xét về nội dung, có nhiề bài viết đánh
giá cả về mặt nghệ thuật tác phẩm của Thu Huệ.
Tác giả Kim Dung trong bài “Đọc hồi ức Bến trần gian” đăng trên tạp
chí Văn nghệ Quân đội, số 11/1994 cho rằng: “Truyện ngắn Nguyễn Thị
8


Thu Huệ luôn có hai mặt – vừa “bụi bặm” trong tả chân, vừa trữ tình đằm
thắm, văn của chị vừa táo bạo vừa thanh khiết. Một cái gì đó thuần nhất,
không đơn giản thậm chí có khi còn đối chọi nhau trong văn Nguyễn Thị
Thu Huệ” [5]. Nhận xét này mang tính cảm nhận bước đầu về chất giọng
riêng biệt trong truyện ngắn Thu Huệ. Nó làm tiền đề để ta đi lí giải sâu
nghệ thuật trong truyện ngắn Thu Huệ với việc xây dựng nhiều mảng sống
đối lập nhau, đặc biệt không thiếu nội tâm trải dài theo trang viết. Khi tìm
hiểu kĩ truyện ngắn Thu Huệ, ta có thể lí giải chất đối chọi ấy qua sự phối
hợp giữa chất lí và chất tình, chất đời và chất người.
Tìm hiểu mặt thứ nhất: chất lí, chất đời, Bùi Việt Thắng đã nhận xét:
“Truyện ngắn Thu Huệ hấp dẫn rộng rãi người đọc trước hết vì giàu
chất đời” và “những truyện ngắn hay của Thu Huệ là nhờ người viết biết
bứt lên được trên cái có thực đến tận cùng để tìm tòi cái gì đó cao hơn con

người, đó là đời sống tâm hồn vốn không rõ ràng, rành mạch, vốn bí
ẩn khó giải thích bằng lý trí” [45]. Ngoài ra tác giả còn nhận xét về các
phương diện khác như đề tài “Thu Huệ quan tâm đến gia đình trong xã hội
hiện đại đang tồn tại và tan rã như thế nào, bởi những nguyên nhân nào”;
tình huống “tuy hẹp nhưng đặc sắc”; ngôn ngữ “có độ căng của nhịp điệu”;
câu thường ngắn, cấu trúc đơn giản; “ hoạt trong giọng điệu: lúc bạo liệt,
lúc thật thà, lúc thâm trầm triết lý, có lúc đỏng đảnh lại có lúc dịu dàng đến
bất ngờ” [45].
Nhận xét về mặt thứ hai: chất tình, chất người; TS Đoàn Hương trong
bài “Những ngôi sao trẻ” đang trên báo Văn nghệ trẻ 2/1996 lại ghi nhận:
“Huệ lại có lối viết văn như bị “lên đồng”. Trong truyện ngắn của mình
không phải là cô “kể” cho chúng ta nghe mà là cô “lôi” chúng ta đi theo
nhân vật. Đó là phong cách độc đáo của Nguyễn Thị Thu Huệ” [16,7]. Ý
kiến này đi sâu vào nguồn cảm xúc dâng trào trong các trang viết của Thu
9


Huệ. Bằng cảm xúc ấy, tác phẩm của nữ nhà văn thiên về tâm sự với người
dẫn truyện cho tới cách bộc lộ tâm trạng mang nét riêng biệt.
Cùng chung nhận xét theo khuynh hướng thứ hai; Nguyễn Việt Hòa
khi đọc tập truyện mới của Thu Huệ đã đưa ra lời phê bình tập truyện:
“Chất lãng mạn trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ tương đối đặc biệt,
nó toát ra từ tâm hồn người đang đứng giữa ranh giới thiếu nữ - phụ nữ ”
[9]. Hồ Sỹ Vịnh cũng chung nhận xét. Tác giả đã tìm hiểu truyện ngắn của
Thu Huệ trên bình diện thi pháp và chỉ ra rằng: “Nhà văn này đã vượt ra
ngoài phương thức miêu tả vừa thực, vừa hư, vừa trần thế, vừa ảo mộng,
chuyện hiện tại, chuyện dĩ vãng nhằm tạo dựng một cuộc sống có dung
tích, khai thác chiều sâu những góc khuất uẩn khúc “thế giới bên
trong” của con người” [9].
2.2. Các luận văn, các công trình nghiên cứu về nhà văn Thu Huệ

Tuy mới xuất hiện song chất văn mới lạ đã làm Thu Huệ sớm trở
thành đối tượng tìm hiểu của các luận văn thạc sĩ. Điều đáng chú ý là đa số
các tác giả luận văn là nữ. Có lẽ tiếng nói giới nữ đã kéo nhà văn và người
nghiên cứu lại gần nhau. Từ đó, các luận văn như một tiếng nói đồng sáng
tạo với chính tác giả Thu Huệ và các truyện ngắn của chị. Đó là những đề
tài có liên quan nhưng khác về góc độ và nhiệm vụ nghiên cứu với đề tài
của chúng tôi. Trong đó, ta có thể kể tới một số luận văn tiêu biểu sau:
Vũ Thị Tố Nga ở đề tài “Quan niệm nghệ thuật về con người trong
truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ” đã xem xét một cách khá toàn diện về
các truyện ngắn của Thu Huệ và chỉ ra “tư duy hướng nội là một đặc điểm
định tính đã phần nào chi phối các phương thức diễn đạt. Nhiều hình thức
nghệ thuật đã được Thu Huệ khéo léo đan cài và sử dụng phù hợp trong
việc biểu đạt tâm trạng – đi sâu vào thế giới nội tâm của nhân vật. Bằng lối
viết hết mình đến cạn kiệt...chúng ta thấy được nỗi say đắm của chị với
cuộc đời và con người” [28,108].
10


Ngoài ra còn có luận văn “Nhân vật nữ trong truyện ngắn Y Ban, Võ
Thị Hảo, Nguyễn Thị Thu Huệ” của Bùi Thị Duyên thuộc trường ĐH
KHXHNV Hà Nội [6]. Luận văn đã nhận xét Thu Huệ là nữ nhà văn trẻ
đầy nhiệt huyết và cũng không kém phần tinh tế, sắc sảo giành được nhiều
sự quan tâm sâu sắc của độc giả trong và ngoài nước thời gian qua. Bằng
cách viết đụng chạm đến những vấn đề cấm kị, nhà văn nữ đã thay mặt cho
người phụ nữ tự “cởi trói”, tự chứng tỏ rằng trong sáng tác không nên phân
biệt nam hay nữ. Truyện ngắn của chị thấm đẫm hơi thở của thời đại, dũng
cảm phơi bày những cảm nhận riêng tư về cuộc sống và thời đại, phơi bày
những khát khao của những người trẻ tuổi nhưng cô độc, muốn được sống
là chính mình. Những người phụ nữ trong sáng tác của nhà văn nữ khát
khao yêu và được yêu, khát khao được sống tự do, được làm theo sở thích,

được khám phá, được bay nhảy, được trồi lên khỏi những khuôn thước ràng
buộc, sáo rỗng để được sống là chính mình. Về mặt nghệ thuật, tác giả luận
văn khẳng định: nhà văn nữ không chỉ dừng lại ở nghệ thuật miêu tả tâm lí,
nghệ thuật xây dựng cốt truyện, tình huống truyện, điểm nhìn trần thuật mà
các chị còn đi sâu vào ngôn ngữ, giọng điệu nhân vật, khai thác các hình
ảnh biểu tượng có tính nghệ thuật cao … nhằm làm nổi bật cái bản chất bên
trong của nhân vật, để nhân vật hiện lên phong phú, sống động, có chiều
sâu, gây ấn tượng mạnh và được lưu nhớ trong lòng người đọc.
Thứ ba, có thể kể đến luận văn “Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Thị
Thu Huệ” của Triệu Thị Hiệp thuộc ĐH Thái Nguyên năm 2014 [7]. Luận
văn đã đưa ra khái quát về truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ. Bên cạnh đó,
tác giả phát hiện ra mảng đề tài quen thuộc trong truyện ngắn của Thu
Huệ. Đó là đề tài tình yêu, hôn nhân, gia đình; đô thị, văn hóa đô thị. Cũng
từ đó, tác giả chỉ ra cái nhìn đa chiều về cuộc sống trong truyện ngắn
Nguyễn Thị Thu Huệ, việc phát hiện những thói tật xấu xa trong các nhân
vật cũng như khát vọng về một cuộc sống tốt đẹp trong truyện của Thu
11


Huệ. Trong luận văn, có một mảng lớn, tác giả nói về con người với sự tự ý
thức, sự trải nghiệm nỗi đau cũng như đời sống vô thức. Nội dung ấy được
thể hiện bằng nghệ thuật truyện ngắn đa dạng, linh hoạt. Tác giả đã chú ý
tới tất cả các phương diện nghệ thuật. Cụ thể: Nghệ thuật xây dựng nhân
vật với nghệ thuật miêu tả ngoại hình nhân vật, nghệ thuật khắc họa tâm lý
nhân vật. Tiếp theo, nghệ thuật xây dựng cốt truyện với nét tiêu biểu là xây
dựng cốt truyện tâm lý, cốt truyện kỳ ảo. Ngoài ra, tác giả cũng khai thác
cả không – thời gian nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ,
ngôn ngữ bà giọng điệu.
Tóm lại, ta thấy đã có nhiều công trình, bài viết đánh giá về Nguyễn
Thị Thu Huệ. Xu hướng chung của các bài phê bình là ca ngợi khả năng

nắm bắt và phản ánh hiện thực nhạy bén, sâu sắc và giọng văn đặc biệt của
Thu Huệ. Nhưng một điều có thể nhận thấy là các ý kiến phần lớn bàn về
truyện ngắn của Thu Huệ nói chung mới là những nhận xét, đánh giá mang
tính khái quát ở những khía cạnh khác nhau mà hầu như chưa tìm hiểu và
xem xét nhân vật và cốt truyện trong truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ
một cách hệ thống. Cho đến nay chưa có đề tài nào nghiên cứu chuyên biệt
về con người và cốt truyện trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ. Chọn
đề tài này, chúng tôi sẽ dựa vào thành tựu nghiên cứu của những người đi
trước, từ đó triển khai vấn đề để làm nổi bật đặc điểm về nội dung và hình
thức trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ, trên cơ sở đó ghi nhận đóng
góp của chị với thể loại truyện ngắn nói riêng và với văn học Việt
Nam đương đại nói chung.
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
- Nhận diện đặc điểm nhân vật và cốt truyện trong truyện ngắn
Nguyễn Thị Thu Huệ trên phương diện nội dung và nghệ thuật.
12


- Khẳng định thành tựu và những đóng góp của Nguyễn Thị Thu Huệ
với thể loại truyện ngắn và với văn học Việt Nam đương đại.
4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
- Khảo sát và tìm hiểu quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con
người trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ.
- Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật thể hiện trong truyện ngắn Nguyễn
Thị Thu Huệ
- Khẳng định vị trí và đóng góp của Nguyễn Thị Thu Huệ đối với nền
văn xuôi Việt Nam đương đại.
5. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
5.1. Đối tượng nghiên cứu:
Nhân vật và cốt truyện trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ trên

phương diện nội dung và nghệ thuật.
5.2. Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn khảo sát các tập truyện ngắn tiêu biểu của Nguyễn Thị Thu
Huệ:
Cát đợi (Nhà xuất bản Hà Nội - 1992)
Hậu thiên đường ( Nhà xuất bản Hội nhà văn - 1993)
Phù thủy (Nhà xuất bản văn học -1995)
21 truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ (Nhà xuất bản Hội nhà văn 2001)
Nào, ta cùng lãng quên (Nhà xuất bản Hội nhà văn - 2003)
37 truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ (Nhà xuất bản văn học - 2006)
Thành phố đi vắng (Nhà xuất bản trẻ - 2012)

13


6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:
- Phương pháp khảo sát thống kê, hệ thống.
- Phương pháp so sánh đối chiếu.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp.
- Phương pháp liên ngành
Các phương pháp nghiên cứu trên không tách rời nhau mà tương tác,
bổ sung cho nhau trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài.
7. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
- Nghiên cứu một cách hệ thống truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ
trên phương diện nội dung và nghệ thuật.
- Tìm hiểu và chỉ ra những đặc điểm nổi bật của nhân vật và cốt truyện
trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ.
- Ghi nhận thành tựu và đóng góp của truyện ngắn Nguyễn Thị Thu

Huệ đối với truyện ngắn Việt Nam đương đại.
8. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận văn gồm có
ba chương được sắp xếp như sau:
Chương 1: TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI VÀ
HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN THỊ THU HUỆ
Chương 2. THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN THỊ THU HUỆ
Chương 3. CỐT TRUYỆN TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN
THỊ THU HUỆ
14


NỘI DUNG

Chương 1
TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM THỜI KÌ ĐỔI MỚI VÀ HÀNH
TRÌNH SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN THỊ THU HUỆ

1.1.

Truyện ngắn Việt Nam thời kì đổi mới
1.1.1. Khát quát chung
Sau 1975, đặc biệt sau 1986, đất nước ta bước sang một thời kì mới.

Công cuộc đổi mới 1986 là bước ngoặt lịch sử vĩ đại, làm thay da đổi thịt,
đem đến một luồng sinh khí mới cho cả đất nước. Đó không chỉ là đổi mới
trên đời sống xã hội, kinh tế mà còn là đổi mới trên tư tưởng, văn nghệ.
Nhiều vị lãnh đạo của đất nước như Phạm Văn Đồng, tổng Bí thư Nguyễn
Văn Linh,… cũng tuyên bố “cởi trói”, “đổi mới tư duy” cho văn nghệ. Kết

quả là sự đồng nhất khi trước giữa các thế hệ nhà văn biến mất, họ trở nên
khác biệt nhau ở hàng loạt lĩnh vực. Tiếng nói chung về sự hào hùng của
một thời kì cách mạng trở nên tiếng nói cá nhân về cuộc đời, kiếp người.
Văn học thay đổi giọng điệu, từ ngợi ca sang phê phán, từ cảm hứng yêu
nước sang cảm hứng thế sự. Bấy giờ mọi tư tưởng được nhìn nhận lại, tạo
nên cái nhìn đa chiều trong văn học. Nó đặt ra một loạt vấn đề về đạo đức,
nhân sinh như một lẽ tất yếu. Sau cách mạng các nhà văn không xuất hiện
với tư cách nhà văn – chiến sĩ nữa mà với tư cách những công dân sống
trong đất nước đang vặn mình đổi mới. Văn học đã trở thành sứ giả nói
thẳng, nói thật hộ bao nhiêu vấn đề của cuộc sống của người dân.
15


Chính vì văn học đi sâu vào cảm hứng thế sự nên sau 1975, truyện
ngắn là thể loại gặt hái nhiều thành công nhất. Lịch sử phát triển của nền
văn học hiện đại và đương đại Việt Nam gắn liền với truyện ngắn. Thế kỷ
XX truyện ngắn Việt Nam phát triển liên tục và vượt trội lên trên tất cả các
thể loại. Nhất là 1986 trở đi, truyện ngắn gần như đã độc chiếm toàn bộ
văn đàn, hằng ngày trên các báo và các tạp chí có trên dưới hai mươi
truyện ngắn được in. Đặc điểm của truyện ngắn rất phù hợp với nhu cầu
công chúng của thời đại hiện nay. Đây là hình thức tự sự loại nhỏ,
“tập trung mô tả một mảnh của cuộc sống, một biến cố hay một vài biến cố
xảy ra trong một giai đoạn nào đó của đời sống nhân vật, thể hiện một khía
cạnh nào đó của vấn đề xã hội” [23,137]. Tuy số lượng câu chữ của truyện
ngắn có hạn nhưng lại hàm chứa nhiều tư tưởng lớn, dễ bắt kịp hơi thở
thời đại, phản ánh thời sự các vấn đề nóng hổi của thời đại, con người một
cách chính xác. Hơn nữa, về mặt nghệ thuật, truyện ngắn thường uyển
chuyển, đa dạng, linh hoạt hơn. Vì thế đây là thể loại từ trước tới nay đều
được công chúng Việt Nam yêu thích và thời kì nào cũng đạt nhiều thành
tựu. Trong đó, đặc biệt phải kể tới truyện ngắn Việt Nam thời kì đổi mới.

Đây được coi như thời kì được mùa của truyện ngắn với nhiều truyện ngắn
hay. Với lợi thế nhỏ gọn và cơ động, truyện ngắn bắt nhịp một cách nhạy
bén và linh hoạt với những biến chuyển của đời sống. Truyện ngắn đi sâu
vào phản ánh cái hàng ngày, cái thường nhật của cuộc sống. Hiện thực đời
sống thay đổi khác trước rất nhiều, đòi hỏi các nhà văn cần có cách tiếp
cận hiện thực phù hợp.
Truyện ngắn lúc này chú ý tới vấn đề đời thường, thế sự và đạo đức
với sự khai thác sâu, toàn diện vào số phận cá nhân. Nó bắt kịp hơi thở
nóng hổi của cuộc sống, khai thác những vấn đề gay gắt, gai góc nhất của
cuộc sống, trong số phận mỗi cá nhân con ngời. Loại bỏ cách nhìn đơn
giản, một chiều, phiến diện; các nhà văn nhìn nhận mọi thứ từ nhiều góc
16


độ, trong các mối quan hệ vô cùng phức tạp, cái xấu, cái tốt đan xen trong
con ngời một cách lẫn lộn. Nhưng đó mới chính là sự hiện hữu khuôn mặt
thực của cuộc sống hiện nay. Chính vì vậy mà văn học lúc này thực hơn và
đời hơn. Hình thức truyện ngắn cũng đa dạng hơn với truyền kì hiện đại,
giả cổ tích, truyện ngắn – kịch, truyện cực ngắn, truyện ngắn triết luận. Về
ngôn ngữ và phương thức trần thuật cũng có nhiều thủ pháp mới như: tăng
cường đối thoại, độc thoại nội tâm, miêu tả theo dòng ý thức, đồng hiện.
Tất cả những điều đó đã làm tăng thêm sức hấp dẫn cho truyện ngắn.
Không chỉ việc sáng tác mà cả việc sáng tác, phê bình – lý luận về
truyện ngắn cũng có dấu hiệu tích cực. Nhiều cuộc thi sáng tác truyện
ngắn và hội thảo được khởi xướng. Truyện ngắn đang là thể loại được các
nhà văn quan tâm, nỗ lực cách tân bậc nhất. Trước đó, Nguyễn Huy Thiệp
đã từng tạo nên một cơn lốc xoáy văn học. Gần đây không khí văn chương
được nóng lên bởi tên tuổi Đỗ Hoàng Diệu với “Bóng đè”, Nguyễn Ngọc
Tư với “Cánh đồng bất tận”. Mỗi nhà văn một bút pháp riêng tạo nên
“hiệu ứng” truyện ngắn hay và được gắn với các tên gọi “bội thu”, “thăng

hoa”, “được mùa”, “lên ngôi”, điều đó chứng tỏ truyện ngắn đã được đổi
mới.

1.1.2. Đội ngũ sáng tác
Có thể nói rằng truyện ngắn Việt Nam đương đại có sự khởi sắc rõ
rệt với rất nhiều gương mặt tiêu biểu như: Vũ Thị Thường, Nguyễn Minh
Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Hồ Anh Thái, Y Ban, Võ Thị
Hảo, Trần Thuỳ Mai, Dạ Ngân, Tạ Duy Anh, Nguyễn Thị Ấm, Lê Minh
Khuê, Thái Bá Tân, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Võ Thị
Xuân Hà, Nguyễn Thế Hùng, Phùng Văn Khai, Đỗ Bích Thủy, Đỗ Hoàng
Diệu, Dạ Ngân, Nguyễn Ngọc Thuần, Nguyễn Thị Diệp Mai, Trầm Nguyên
Ý Anh, Nguyễn Vĩnh Nguyên, Nguyễn Ngọc Tư…
17


Trước sáng tác thơ văn là lĩnh vực của nam giới nhưng trong văn học
đương đại, chúng ta chứng kiến sự cân bằng giữa phái nam và nữ. Có thể
kể tới các tên tuổi tiêu biểu như: Nguyễn Ngọc Tư, Phan Thị Vàng Anh,…
Sự tăng lên của các nữ tác giả văn xuôi đã làm cho mọi người không khỏi
ngạc nhiên và thích thú. Nó đem lại cho văn chương sự mới lạ của sự nữ
tính rất riêng. Nhìn lại văn học viết Việt Nam, thời trung đại không có cây
bút nữ nào viết truyện ngắn, đếm trên đầu ngón tay chỉ có mấy nhà thơ
như: Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương, Bà huyện Thanh Quan. Sang đầu
thế kỷ XX, giới văn nữ sĩ vẫn vắng bóng trên văn đàn. Sau 1975, chính xác
thời kỳ đổi mới, lĩnh vực truyện ngắn thay đổi hoàn toàn, chủ yếu người
viết truyện ngắn là nữ. Đây như là sự bù trừ cho lỗ hổng trước đó. Thời kỳ
đổi mới, các cây bút nữ có một nội lực mạnh mẽ, lấn át nam giới. Sáng tác
của họ quan tâm nhiều nhất đến thân phận của phái nữ trong những câu
chuyện thường ngày, qua đó thể hiện sự thấu hiểu và cảm thông với nỗi đau
của con người trong nhiều trạng huống khác nhau. Quả thực, họ đã thể hiện

bản lĩnh của người cầm bút khi dám chấp nhận sự sáng tạo nhiều thách
thức và đa đoan.
Chất lượng đội ngũ cũng tăng rõ rệt. Nhiều tác giả được đánh giá cao,
có những tác phẩm được sự đón nhận nhiệt tình của độc giả. Như Phan Thị
Vàng Anh, với giọng văn sắc sảo, bà được đánh giá là bản sao của Nguyễn
Huy Thiệp. Nguyễn Ngọc Tư là cái tên được tìm kiếm nhiều nhất trên văn
đàn, truyện “Cánh đồng bất tận” của chị có số lượng tái bản lớn.
Trong số những gương mặt tiêu biểu của truyện ngắn đương đại có
Nguyễn Huy Thiệp.Ông là một hiện tượng lớn của văn học nước nhà với
hàng loạt truyện ngắn gây “sốc” như: Tướng về hưu, Muối của rừng, Chảy
đi sông ơi, Con gái thủy thần, Chút thoáng Xuân Hương, Kiếm sắc, Vàng
lửa, Phẩm tiết,… Ông càng viết dư luận càng mạnh, họ tranh nhau tìm đọc,
rồi thì tranh nhau bình phẩm, bàn tán, đâu đâu cũng kháo chuyện… Nhờ
18


ông, văn đàn thời đổi mới đã khởi sắc bỗng khởi sắc hẳn. Những truyện
ngắn của Nguyễn Huy Thiệp mang cái lạ cả về tư tưởng và hình thức kể.
Nó đặt ta vào cái thế giới nửa cổ nửa hiện đại, để ta phiêu lưu cùng nhân
vật và rồi sau đó ta thấy mình như tỉnh ra trước những thứ vô nghĩa, đạo
đức giả của đời.
Nguyễn Quang Sáng cũng là cây bút dồi dào sinh lực, dù trước hay
sau 1975, ông vẫn duy trì được phong độ. Ông là một nhà văn Việt Nam,
từng đoạt giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt II năm 2000.
Sau 1975, ông đã để lại các tập truyện ngắn “Bàn thờ tổ một cô đào”
(1985), “Tôi thích làm vua” (1988), 25 truyện ngắn (1990), Paris - tiếng hát
Trịnh Công Sơn (1990), Con mèo của Foujita (truyện ngắn - 1991), Nhà
văn về làng (truyện ngắn, Nhà xuất bản Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh,
2008),,…Ông kể chuyện một cách giản dị và xúc động nhưng biết chọn lọc
những chi tiết đắt giá, tạo tình huống bất ngờ dồn dập, đặc biệt là truyện

của ông mang đặc trưng Nam Bộ đến từng dáng điệu, lời thoại.
Thuộc thế hệ lớp sau, Phan Thị Vàng Anh ngay khi xuất hiện đã trở
thành một hiện tượng văn học. Phan Thị Vàng Anh là hội viên Hội Nhà văn
Việt Nam từ năm 1996. Bằng hai tập truyện ngắn “Khi người ta trẻ” và
“Hội chợ”nhưng Phan Thị Vàng Anh đã thể hiện văn phong riêng: ngắn
gọn, sắc sảo, thâm thúy, trí tuệ, trẻ trung. Nhiều truyện của Phan Thị Vàng
Anh đã làm cho người đọc phải bất ngờ về ý tưởng mới lạ cũng như giọng
điệu.
Sau Phan Thị Vàng Anh, văn đàn Việt Nam một lần nữa lại nổi sóng
khi nhà văn trẻ Nguyễn Ngọc Tư xuất hiện. Nguyễn Ngọc Tư (sinh
năm1976 tại xã Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau) là một nữ nhà
văn trẻ của Hội nhà văn Việt Nam. Chị được bạn đọc biết đến lần đầu từ
tập truyện ngắn “Ngọn đèn không tắt” và truyện ngắn “Cánh đồng bất tận”.
Nguyễn Ngọc Tư chinh phục bạn đọc bằng lối viết bình dị, bằng thứ ngôn
19


ngữ hồn nhiên, thô mộc, đậm đặc chất phương ngữ Nam Bộ trong truyện
của mình. Chị viết về những mảnh đời bình dị quanh mình - những mảnh
đời bất hạnh, hẩm hiu song ẩn chứa bên trong cả một tâm hồn vừa nhân hậu
vừa tinh tế trong cách đối nhân xử thế hay những niềm vui giản dị, bé nhỏ
của con người Nam Bộ trong cuộc sống thường ngày.
Ngoài ra có thể kể tới nhà văn Dạ Ngân. Tác giả nổi danh với truyện
ngắn “Con chó và vụ ly hôn”. Những thành công bước đầu của nhà văn chủ
yếu là ở thể loại truyện ngắn. Dạ Ngân là một trong số ít những nhà văn nữ
được sống và cảm nhận giá trị của cuộc sống trong chiến tranh và những
năm đầu sau chiến tranh. Vì vậy, qua những sáng tác của chị, người đọc có
thể cảm nhận được những giá trị tinh thần mà nhà văn gửi gắm ở mỗi giai
đoạn phát triển của đất nước cũng như của nền văn học. Với lối văn phong
chững chạc, thẳng thắn nhưng không kém phần nữ tính, Dạ Ngân thường

khai thác những đề tài dung dị, đời thường nhưng cũng không kém phần
sâu sắc. Văn phong của chị cũng tiêu biểu cho những cây bút nữ giai đoạn
văn học này.

1.2. Hành trình sáng tác của Nguyễn Thị Thu Huệ
1.2.1. Tiểu sử nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ
Nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ sinh ngày 12 tháng 8 năm 1966 tại
Khe Hùm, Quảng Ninh, lớn lên ở Hà Nội. Cái tên Huệ là do chính mẹ chị
đặt, theo tên nhân vật chính trong cuốn tiểu thuyết đầu tay “Huệ” - cuốn
tiểu thuyết đầu tay mang hoài bão, khát vọng của bà.
Thu Huệ được sinh ra trong một gia đình có truyền thống văn học: bố
nguyên là nhà báo; mẹ là nhà văn nữ nổi tiếng - nhà văn Nguyễn Thị Ngọc
Tú. Bố chị mất khi chị mới 17 tuổi. Chị chịu sự ảnh hưởng dạy dỗ chủ yếu
từ mẹ. Nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Tú là người có ảnh hưởng lớn đến cuộc
sống và sự nghiệp viết văn của Thu Huệ.
20


Nguyễn Thị Thu Huệ tốt nghiệp đại học khoa Ngữ văn năm 1989.
Tốt nghiệp đại học, chị làm biên tập viên tạp chí văn hoá ngoại thương. Sau
đó được làm công việc theo sở thích: biên tập viên phim truyền hình, rồi
làm trưởng xởng phim II - đài truyền hình Việt Nam. Sau đó, chị đã vươn
lên đứng ở vị trí Giám đốc của VTC9 Let’s Việt (2008), một kênh chuyên
về phim Truyền hình Việt Nam.
Nhiều truyện ngắn của chị được chuyển thể thành phim và gây được
tiếng vang lớn, như: “Của để dành”, “Xin hãy tin em”, đặc biệt là “Nước
mắt đàn ông” đã đoạt huy chương vàng liên hoan phim Truyền hình. Cảm
hứng từ trong sáng tác của chị không bao giờ vơi cạn với các đạo diễn, nhà
biên kịch.
Tác phẩm đầu tay của chị được công bố năm 1988 khi còn là một

sinh viên. Sau đó, chị đã không phụ sự kì vọng của mẹ khi khẳng định
được tài năng và bản lĩnh nghệ thuật của mình trên con đường văn chương,
tiếp bước những ấp ủ từ người mẹ. Hiện nay, mặc dù rất bận rộn với công
việc quản lý nhưng chị vẫn đam mê văn chương, miệt mài viết, miệt mài
sáng tạo. Văn chương đã trở thành người bạn tinh thần của chị. Cho đến
nay chị đã có trong tay bảy tập truyện ngắn:
- Cát đợi (1992)
- Hậu thiên đường (1993)
- Phù thủy (1995)
- 21 truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ (2001)
- Nào, ta cùng lãng quên (2003)
- 37 truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ (2006)
- Thành phố đi vắng (2012).
1.2.2. Quan niệm sống và viết
21


Thu Huệ từ nhỏ đã được thừa hưởng độ thâm sâu rộng lớn của người
cha và chất văn nữ duyên dáng của mẹ. Điều đó tạo cho chị một trái tim đa
cảm, tinh tế, đầy mộng mơ. Chị tự nhận mình hay buồn, hay bị xốn xang.
Dẫu bây giờ đã có hai con trai rồi vậy mà cứ hôm nào trăng sáng mà chị
không đi ra đường lang thang được một lúc, không ra ban công ngắm trăng
là cứ như bị mất cắp một cái gì đấy. Cuộc đời, số phận của nhân vật trong
văn Thu Huệ xuất phát từ chính cái nhìn đa cảm, đa đoan, chiêm nghiệm
như thế. Nhưng không phải chị chỉ biết mơ mộng hão huyền. Chị khẳng
định: "mọi cái chỉ tương đối thôi, không có gì toàn vẹn cả" [41]. Điều ấy
làm tác phẩm của chị có yếu tố mộng mơ song vẫn xuất phát từ đời thực
Với nghề văn, chị quan niệm: “ Làm được những việc mình yêu thích,
có được những thứ mình cần do chính bàn tay mình làm ra. Viết văn, viết
kịch, làm phim, đọc sách làm cho cuộc sống của tôi phong phú. Nhưng

điều quan trọng hơn là những tác phẩm của tôi được độc giả tiếp nhận và
yêu thích, đó là một sự đền bù vô giá.” [41]. “Rất nhiều khi tôi cảm thấy
bất lực, thậm chí là bế tắc. Trong văn chương cũng như trong cuộc đời,
luôn có những điều mình muốn mà không làm được. Cho nên, cảm giác ai
đó cần mình và mình cần ai đó như tôi nói ban đầu, là rất quan trọng. Nó
cứu mình thoát khỏi những phút tuyệt vọng. Nếu tôi không có mẹ già để
chăm, 2 con để trách nhiệm, họ cần mình và mình cần họ thì chắc là cuộc
đời tôi sẽ khác lắm” [41]. Đó là tâm sự chân thành của con người khao khát
tình yêu thương. Nó trở thành triết lí sống và thông điệp chị gửi gắm trong
tác phẩm của mình.

1.2.3. Các chặng sáng tác của Nguyễn Thị Thu Huệ
Thu Huệ không viết nhiều, cũng không thích chọn các đề tài giật gân,
chị chỉ viết khi câu tâm hồn dạt dào cảm xúc, ý tưởng tuôn trào như không
kịp nghĩ; đồng thời chị trung thành với lối viết giản dị, với mảng đề tài
cuộc sống gần gũi quanh mình. Ngay từ những truyện ngắn đầu tiên chị đã
22


nhanh chóng xác lập được vị trí của mình trên văn đàn và đạt được nhiều
giải thưởng. Nhiều truyện của chị còn được dựng thành phim và vô cùng
thành công. Dựa theo thời gian sáng tác của chị, ta có thể chia làm 2 chặng:
1.2.3.1. Chặng sáng tác đầu tiên (trước khi tác giả lập gia đình)
Ngay từ khi còn nhỏ Thu Huệ sớm đã bộc lộ năng khiếu văn chương.
Chị từng kể về thời còn trẻ: “Tôi viết từ nhỏ, theo cái kiểu viết 1 - 2 trang
rồi quẳng đi. Mười sáu tuổi tôi đã có truyện in ở báo Người Hà Nội. Thực
ra, tôi thích học họa. Tôi đã học vẽ từ nhỏ để sau này thi vào đại học Mỹ
thuật, nhưng bố tôi bảo, con gái theo họa thì khổ. Tôi nộp đơn thi hai
trường đại học Mỹ thuật và Tổng hợp Văn, rồi chọn thi Tổng hợp Văn.”
[21]. Dù không có ý định nhưng chị đã đổ Tổng hợp Văn, sau đó năm 1994

- 1995, khi cuộc thi truyện ngắn tạp chí Văn nghệ Quân đội được tổ chức.
chị đã tham gia và được giải khuyến khích. Đây là động lực để chị viết tiếp
và liên tục cho ra đời những tác phẩm hay.
Ngay cả tới bây giờ Thu Huệ cũng vẫn không ngờ sau này mình sẽ
trở thành nhà văn. Chị khá hồn nhiên, không bao giờ có ước mơ phải trở
thành một người nổi tiếng nhưng niềm say mê và tài năng đã đưa chị đến
với văn chương. Khi vừa tốt nghiệp khoa Văn đại học Tổng hợp, chị đăng
hai truyện ngắn “Mưa trái mùa” và “Mùa hoa sấu rụng” trên báo Văn
Nghệ. Hai tác phẩm ấy để lại một ấn tượng khó quên cho người đọc.
Từ những năm 1990, Nguyễn Thị Thu Huệ viết nhiều hơn. Chị cho ra
đời: “Hậu thiên đường”, “Biển ấm”, “Cõi mê”, “Nào, ta cùng lãng quên”,
…Các truyện ngắn trên viết về hình tượng người phụ nữ trong cuộc sống
hiện đại muôn hình vạn trạng . “Nỗi ám ảnh phái yếu trong truyện của chị
không phải là tiền tài, danh vọng, không phải là bổn phận và trách nhiệm,
càng không phải những giá trị đạo đức mà xã hội mặc nhiên khoác lên vai
họ mà chính là tình yêu” [39].
23


“Hậu thiên đường” kể lại cảnh bà mẹ đơn thân sống với đứa con gái
16 tuổi. Vì sai lầm của tuổi trẻ mà tới tận 40 tuổi bà vẫn lẻ bóng. Nhưng
đau đớn hơn khi bà biết con gái lại đi vào vết xe đổ của mình: lại mù quáng
yêu và trao thân cho một thằng Sở Khanh. Bà vội vã đi tìm con để lôi nó ra
khỏi cuộc tình khốn nạn song tai nạn đã cướp mất sự sống của bà. Lòng
thương con hóa thành một linh hồn khóc thương cho đứa con gái mà nó lại
không hề biết. Qua đó, ta thấy “Hậu thiên đường” nói lên sự thật đắng chát
đằng sau những giây phút “lên thiên đường” trong ân ái. Sau ân ái là địa
ngục, là đau đớn, mất mát, là sự vất vả,..nhất là khi người phụ nữ bị lừa
dối. Vậy mà, “ma đưa lối, quỷ dẫn đường” họ vẫn như những con thiêu
thân lao vào, ê chề, nhục nhã, không lối thoát. Cái chết của bà mẹ nói lên

sự đã rồi, không thể làm lại nếu người phụ nữ mắc sai lầm.
Bên cạnh đó, truyện “Cõi mê” lại cho ta thấy một xã hội đầy những
điều xấu xa, phi nhân tính: một ông chồng nát rượu đến mức bỏ quên cả
con, gả vợ cho bạn; một đám cưới dám tráo rể để bắt nàng dâu cưới người
đã có 3 đời vợ;...Và người phụ nữ chỉ biết câm lặng với bao thiệt thòi, họ
như muốn hóa điên, muốn chết đi cho đỡ khổ. Cõi sống này thành cõi mê
mà ai cũng thích hóa kiếp.
Hay như truyện “Nào, ta cùng lãng quên”. Truyện kể về người đàn bà
chuyên hành nghề bói toán. Cô ta kiếm tiền rất đều, vì số khách hỏi về tình
duyên, tiền tài không đếm xuể. Ngay từ đầu truyện, tác giả đã mô tả cuộc
tiếp khách của người đàn bà với một chàng trai bị gay đau khổ khi thấy
người tình bỏ theo con khác. Chàng trai đi cúng, xin bùa ngải để trừng trị
con bồ của người tình. Cuộc trò chuyện khác lạ từ người tham gia tới nội
dung câu truyện đã cho thấy sự lo âu của cuộc sống thật vô biên. Đến bao
giờ mới hết lo, song cái cuộc sống đầy những lo âu thoáng chốc trở thành
vớ vẩn qua vài lời bói toán, bùa phép. Câu truyện kết thúc bằng điệu cười
24


của cô Kiều – người đàn bà bói toán như làm ta lãng quên phiền muộn và
cố gắng sống thoải mái trong cuộc đời trăm vạn lo toan.
Hoặc có thể kể tới truyện “Một chiều mưa”. Cô gái đã chờ đợi người
yêu dưới mưa với những day dứt, ân hận, hối lỗi và lo lắng, trong khi đó
người yêu của cô lại đang vui vẻ với một cô gái khác trong ngôi nhà ấm áp
tràn ngập tiếng cười. Người con gái xem tình yêu, người yêu là tất cả cuộc
sống bỗng chốc sụp đổ mọi niềm tin, hi vọng.
Trong “Đêm dịu dàng” lại là bi kịch tình yêu của người con gái bị
người yêu phụ bạc. Anh ta muốn bỏ cô, nên đã dựng một màn kịch và
mượn tay lão thủ trưởng già đẩy cô vào tình huống xấu hổ, nhục nhã vì bị
xâm hại, mặc cảm đau đớn vì thấy mình có lỗi với người yêu. Nhưng cuối

cùng chính cô cũng đã nhận ra bản chất thật của người yêu.
Truyện “Tân cảng” cũng là một bi kịch, nhưng nằm ở cuộc sống hôn
nhân. Cuộc sống gia đình tưởng sung sướng với điều kiện vật chất đầy đủ.
Nhưng không phải vậy. Giữa họ chỉ là sự im lặng chán ngắt. Người vợ luôn
rùng mình trước bất kì âm thanh nào từ người chồng. Có lẽ bởi nó yên lặng
quá, làm cô quên sự xuất hiện của chồng. Mọi tiếng động như xa xôi hơn.
Căn nhà của họ như lạc vào một cõi nào đó rất sâu trong một thế giới
không tồn tại. Người chồng không nghe thấy tiếng thở dài tức ngực của
người vợ chưa đến bôn mước tuổi, da thịt mát lạnh, thơm tho của sự đầy
đủ, nhàn hạ dần đang cần sự yêu chiều ve vuốt. Anh không kịp thấy chị đợi
anh bằng chiếc váy sa tanh bóng mát lịm như miếng thạch mới mua. Và
anh cũng chẳng kịp thấy một lọ hoa chị cắm góc phòng đang dịu dàng toả
hương. Sự vô tâm của ông chồng dẫn tới hành động vừa bất ngờ vừa tất
yếu của người vợ: li hôn.
Trong một số truyện khác, tác giả lại thể hiện những suy ngẫm về
cuộc đời với nhiều triết lí sâu sắc, như trong “Minu xinh đẹp”. Truyện kể
một gia đình nuôi chó Nhật để kiếm lời. Cả vợ và chồng đều bỏ hết cả thời
25


×