Tải bản đầy đủ (.docx) (102 trang)

Đặc điểm tiểu thuyết viết cho thiếu nhi của Ma Văn Kháng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (468.83 KB, 102 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
1.1. Ma Văn Kháng là một trong những cây bút xuất sắc của nền văn học
Việt Nam đương đại, ông được coi là “người đi tiền trạm” cho đổi mới văn học.
Vào những năm 80 của thế kỷ XX, nhiều sáng tác của Ma Văn Kháng đã "nhìn
thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật", từ đó tạo nên những cuộc tranh luận sôi nổi
trên các diễn đàn văn học. Ông cũng là một trong số các nhà văn Việt Nam hiện
đại sáng tác thành công ở cả hai thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết. Qua từng
tiểu thuyết, truyện ngắn, Ma Văn Kháng không ngừng tìm kiếm những cách thể
hiện mới. Thời gian và kinh nghiệm nghệ thuật đã tôi luyện ngòi bút Ma Văn
Kháng làm cho ông luôn gặt hái được những thành tựu đáng kể. Có thể nói Giải
thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2001 cùng con đường sáng tác gần
nửa thế kỷ đã khẳng định vị thế của ông trong lòng độc giả cũng như trong đời
sống văn học. Vì thế việc tiếp tục nghiên cứu về Ma Văn Kháng là cần thiết để
hiểu hơn thành tựu văn học Việt Nam hiện đại.
1.2. Ma Văn Kháng thành công ở cả truyện ngắn và tiểu thuyết. Toàn bộ
tiểu thuyết của Ma Văn Kháng nhìn chung được sáng tác theo hai mảng đề tài
lớn với hai cảm hứng chủ đạo: Đề tài về dân tộc miền núi với cảm hứng sử thi
và đề tài về thành thị với cảm hứng thế sự đời tư. Ở đề tài nào ông cũng có
những tác phẩm có giá trị, thu hút được sự quan tâm của độc giả và giới nghiên
cứu, phê bình văn học. Ngoài Mùa lá rụng trong vườn được giải thưởng Hội
Nhà văn năm 1984, Ma Văn Kháng còn có nhiều tiểu thuyết gây được tiếng
vang. Vì thế, đề tài của chúng tôi muốn góp phần khẳng định vị trí của Ma Văn
Kháng trong dòng chảy của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại.
1.3. Ma Văn Kháng là nhà văn có nhiều tác phẩm xuất sắc dành cho
người lớn nhưng ít ai biết đến ông còn rất thành công khi viết về thế giới trẻ em.
Ngoài phản ánh về cuộc sống với những lo toan bộn bề của người lớn ông còn
quan tâm đến những số phận trẻ em trong cuộc sống đầy ngổn ngang biến động.
Ma Văn Kháng tâm sự rằng : “Viết cho thiếu nhi quan trọng không chỉ là viết


cái gì ? mà là viết như thế nào? Mà viết như thế nào lại quan hệ đến tâm hồn
người viết.Tôi ao ước ngoài cái duyên với chữ nghĩa và con trẻ ra, tâm hồn mình
lúc nào cũng tươi mát, trong sáng và dào dạt tình yêu với cuộc đời với con


2

người”.Với một tâm sự như thế ông đã có những tác phẩm đặc sắc viết cho thiếu
nhi. Trong thể loại tiểu thuyết có thể kể đến: Côi cút giữa cảnh đời, Chó Bi, đời
lưu lạc, Chuyện của Lý... Khi viết về trẻ em ông luôn dành cho nhân vật của
mình sự quan tâm sâu sắc, sự chia sẻ và tình cảm yêu thương trân trọng nhất.
Lâu nay, đã có khá nhiều bài viết, các công trình nghiên cứu về tiểu thuyết Ma
Văn Kháng, tuy nhiên việc đi sâu khảo sát một cách toàn diện, hệ thống về các
tiểu thuyết viết cho thiếu nhi của Ma Văn Kháng thì vẫn còn những khoảng
trống.Với những lý do trên chúng tôi chọn vấn đề: Đặc điểm tiểu thuyết viết
cho thiếu nhi của Ma Văn Kháng làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Lịch sử nghiên cứu về Ma Văn Kháng nói chung
Ma Văn Kháng là một trong số những nhà văn có đóng góp đáng kể vào
công cuộc đổi mới văn xuôi giai đoạn sau 1975. Con người và những sáng tác
của ông có sức hút kỳ lạ không chỉ đối với các nhà văn mà còn đối với giới
nghiên cứu phê bình. Ông "đã cố gắng đổi mới tư duy nghệ thuật tiểu thuyết, tìm
hướng đi mới trong lao động sáng tạo nghệ thuật". Nhiều công trình của các nhà
văn, nhà thơ và các nhà nghiên cứu như: Phong Lê, Lã Nguyên, Tô Hoài, Trần
Đăng Xuyền, Nguyễn Bích Thu, Nguyễn Ngọc Thiện, Đào Thủy Nguyên...đã đề
cập đến nhiều phương diện trong sáng tác của Ma Văn Kháng. Các bài viết đã
làm sáng tỏ nhữ ng đóng góp của ông trong quá trình vận động và phát triển của
văn học Việt Nam đương đại. Ở đây chúng tôi chỉ khái quát một số ý kiến tiêu
biểu.
Tiểu thuyết Ma Văn Kháng đã thật sự gây được sự chú ý, quan tâm đặc

biệt của đông đảo độc giả cũng như giới nghiên cứu, phê bình văn học và đã trở
thành hiện tượng văn học một thời. Ở bình diện này có thể nói Lã Nguyên,Trần
Đăng Xuyền, Nguyễn Ngọc Thiện, Phong Lê...là những người có những ý kiến
sâu sắc. Lã Nguyên đã nhận xét về tiểu thuyết của Ma Văn Kháng: “Xuyên suốt
những trang văn là một triết luận đời sống hết sức nhất quán.Triết luận ấy là tính
người, tình người, là sự hồn nhiên làm mẫu số để nhà văn trò chuyện về con
người và cuộc đời.”[25, 38]. Đáng chú ý là các bài nghiên cứu của Trần Đăng
Xuyền đăng trên báo Văn nghệ : “Đọc Đồng bạc trắng hoa xòe” (Báo Văn nghệ
ngày 8/12/1979); “Phải chăm lo cho từng người” ( Báo văn nghệ số 40 ngày
15/10/1985); “Một cách nhìn cuộc sống hôm nay” (Báo văn nghệ số 15 ngày


3

9/4/1983)...Qua những bài viết này, tác giả có những cảm nhận sâu sắc về cái
nhìn, cảm quan hiện thực cuộc sống trong các tiểu thuyết Đồng bạc trắng hoa
xòe, Mưa mùa hạ, Mùa lá rụng trong vườn. Khi nói về Đồng bạc trắng hoa xòe,
tác giả Trần Đăng Xuyền cho rằng: “Ma Văn Kháng , bằng hình tượng nghệ
thuật đã chứng minh rằng đồng bào các dân tộc ít người, mặc dù bị đắm chìm
trong đau khổ, tăm tối nhưng đều có mầm sống , khả năng cách mạng.”[57,8].
Ông cũng đã đưa ra nhận định xác đáng về tiểu thuyết Mưa mùa hạ: Giá trị của
Mưa mùa hạ không chỉ là chỗ mạnh dạn lên án cái tiêu cực mà chủ yếu là xây
dựng được cách nhìn, thái độ đúng đắn trước những cái xấu, trước những bước
cản đi lên Chủ nghĩa xã hội. Sau Mưa mùa hạ, tiểu thuyết Mùa lá rụng trong
vườn xuất hiện. Trong cuộc hội thảo về tác phẩm Mùa lá rụng trong vườn do
Câu lạc bộ Báo Người Hà Nội và Nhà xuất bản phụ nữ phối hợp tổ chức, các
nhà văn, nhà lí luận phê bình đã có nhiều ý kiến đánh giá cao giá trị tư tưởng của
tác phẩm.Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân khẳng định: Mùa lá rụng trong vườn
biểu hiện cho xu thế văn học đang vươn tới những vấn đề cốt yếu; Hoàng Kim
Quý lại nhấn mạnh: Tác giả Mùa lá rụng trong vườn đã nhìn thẳng vào cuộc

sống của những gia đình với mỗi người. Nói về cái nhìn của Ma Văn Kháng
trong tiểu thuyết Đám cưới không có giấy giá thú, trong bài viết: “Đọc Đám
cưới không có giấy giá thú” của Lê Ngọc Y, tác giả đã nhận thấy bằng cách
nhìn tinh tế vào hiện thực đời sống tác giả đã mô tả những người giáo viên sống
và làm việc gặp quá nhiều khó khăn. Những vui buồn của thời thế đã phản ánh
vào những trang tiểu thuyết trở nên sống động. Từ đó, tác giả nhấn mạnh Ma
Văn Kháng "đã có cái nhìn hiện thực, tỉnh táo nên không bị thói xấu, cái bất
bình thường vốn nảy sinh trong xã hội đang vận động lấn át, hoặc chỉ thấy một
chiều này u ám mà không thấy chiều khác đầy nắng rực rỡ"[11]. Cùng với ý
kiến đó, có tác giả thì cho rằng: Có lẽ Ma Văn Kháng muốn bộc lộ một cái nhìn
tiến bộ và khá mới mẻ, một nhận định khá chính xác về hiện thực đời sống
đương thời - cái xấu, cái ác vẫn tồn tại, hoành hành và sinh sôi trong đời sống,
còn cái thiện, cái tốt mặc dù có nhưng có lẽ chưa đủ mạnh để có thể chiến thắng.
Tác giả Trần Cương đã nhận định: "Nghệ thuật viết tiểu thuyết của Ma Văn
Kháng đã có bề dày, kết quả của một quá trình phấn đấu liên tục, bền bỉ và ở tác
giả đã có định hình rõ nét phong cách nghệ thuật của mình". [3, 6].


4

Về truyện ngắn, trong công trình nghiên cứu của Đào Thủy Nguyên
“Truyện ngắn Ma văn Kháng và vấn đề thức tỉnh tinh thần con người vùng cao”
có viết: “Tác giả đi sâu vào nghiên cứu khẳng định một cách đầy thuyết phục
những vấn đề nhân sinh, thế sự, những thành công đặc sắc về nghệ thuật xây
dựng nhân vật và sử dụng ngôn từ trong truyện ngắn viết về đề tài dân tộc và
miền núi của Ma văn kháng”[24, 56]. Còn tác giả Nguyễn Nguyên Thanh trong
bài viết “Ngày đẹp trời –tính dự báo về những tình thế xã hội”(Báo Văn nghệ số
21 ngày 23/5/1987) khẳng định: “Ma Văn Kháng đã khám phá cuộc sống từ
những bình diện khác nhau,ông lách sâu hơn vào ngõ ngách đời sống tinh thần,
tìm ra những nguyên nhân và quy luật khắc nghiệt của tồn tại xã hội” [38, 19].

Về cách xây dựng nhân vật, Lã Nguyên nhấn mạnh: “Nhân vật của Ma Văn
Kháng dù phức tạp đến đâu, có những biểu hiện phong phú như thế nào, sau khi
tiếp xúc, ta có thể nhận diện được ngay nhân vật ấy thuộc hạng người nào, cao
thượng hay đê tiện, độc ác hay nhân từ, ích kỉ hay hảo tâm...”[25, 40].
Bàn về nghệ thuật viết của Ma văn Kháng, trong bài viết “Tư duy mới về
nghệ thuật trong sáng tác của Ma Văn Kháng những năm 1980” Nguyễn Thị
Huệ nhận xét: “Khi chuyển hướng trong ngòi bút sáng tác của mình, Ma Văn
Kháng đã nhanh chóng tiếp cận với một hiện thực mới, một hiện thực phong phú
nhưng ngổn ngang, bề bộn, phải trái, trắng đen lẫn lộn xen cài trong biết bao
biến động. Đó là cuộc sống của thành thị với những màu sắc phong phú và độc
đáo”[7, 65].
Trong bài viết “Cốt truyện trong tiểu thuyết thế sự đời tư của Ma Văn
Kháng” Đỗ Phương Thảo viết : “Hầu như ở mỗi tiểu thuyết Ma Văn kháng đều
tìm ra một kết cấu phù hợp mới mẻ, đây là một trong những biểu hiện cho thấy
đổi mới tư duy nghệ thuật cũng như đánh dấu bước trưởng thành trên con đường
nghệ thuật của ông”[43, 55].
2.2. Lịch sử nghiên cứu về tiểu thuyết viết cho thiếu nhi của Ma Văn Kháng
Tiểu thuyết viết cho thiếu nhi là một trong những mảng rất thành công của
Ma Văn Kháng. Khi viết về thiếu nhi, nhà văn luôn dành những tình cảm yêu
thương, trân trọng nhất.
Đến với tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời - tác phẩm mà nhà văn tâm đắc
nhất, đã có không ít ý kiến bàn bạc. Phong Lê trong cuốn Vẫn chuyện Văn và
Người - Nhà xuất bản Văn hoá thông tin (1990) cho rằng: "Cuốn sách của Ma


5

Văn Kháng đã vục vào cái sự thật tối tăm oan khổ đó như nhiều cuốn sách khác.
Nó thật lạ, anh lại đưa con người vào quỹ đạo những tình cảm nhân hậu tốt lành.
Có thể nói, đó là hiệu quả thanh lọc, tẩy rửa. Cái hiệu quả thanh lọc này vốn

dành cho nghệ thuật và dường như cũng chỉ có nghệ thuật đích thực, nghệ thuật
cao hơn cuộc đời mới có thể làm nổi"…[19, 23].
Trong bài viết Ma Văn Kháng với Côi cút giữa cảnh đời, Phong Lê cũng
nhận thấy: “Cuốn sách chất đầy những đau khổ, oan khiên lên thân phận ba bà
cháu còm cõi, bơ vơ... Cuốn sách mạnh mẽ đẩy ta vào giữa dòng sống hôm nay
với cảm hứng lớn là cảm hứng sự thật với sự bất bình và khát vọng dân chủ,
cũng đồng thời cho ta sự gắn nối với văn mạch truyền thống là chủ nghĩa nhân
văn và tình yêu thương con người”[19, 56].
Trong bài viết “Một vài suy nghĩ khi đọc Côi cút giữa cảnh đời của Ma Văn
Kháng”, tác giả Vũ Thị Oanh cho rằng: "Côi cút giữa cảnh đời - cuốn sách viết
theo đề nghị cho lứa tuổi sắp vào đời, không đề cương, không hợp đồng, được
xuất bản bởi sự hợp tác của Nhà xuất bản Kim Đồng và Nhà xuất bản Văn học
là một cuốn sách tiêu biểu… viết cho lứa tuổi sắp vào đời nhưng tác giả không
hề né tránh cái xấu, cái ác; những yếu tố tồn tại khách quan làm rõ thêm bức
tranh cuộc sống với những cuộc đấu tranh thể hiện ở nhiều bình diện, sắc thái
khác nhau. Đó là cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác... Tất cả được thể hiện
bằng ngòi bút mềm mại, uyển chuyển, ngôn ngữ hóm hỉnh, phong phú sắc màu:
kết cấu có hậu kiểu truyện cổ dân gian của tác giả Ma Văn Kháng” [29, 103].
Lê Thị Bắc Lý trong bài viết “ Đọc sách Chó Bi – đời lưu lạc” đăng trên
Tạp chí Tác phẩm mới số 6, năm 1997 nhận xét: “ Cuốn sách tạo nên sự kỳ thú
cho văn học thiếu nhi bởi sức thu hút tự thân của nó”[23, 32]. Người đọc có thể
nhận ra chó Bi không chỉ là sự lắp ghép thêm thắt vào gia đình mà chính thức đã
hòa nhập, cùng đồng hành chia sẻ với hoàn cảnh éo le, cô đơn của gia đình bé
Toản.
Các tài liệu kể trên sẽ là những gợi ý, định hướng, là nguồn tư liệu quý báu
và cần thiết cho chúng tôi trong quá trình nghiên cứu của mình.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1.Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là Đặc điểm tiểu thuyết viết cho thiếu
nhi của Ma Văn Kháng.



6

3.2.Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ tập trung khảo sát, tìm hiểu các tiểu thuyết viết cho thiếu nhi của
Ma Văn Kháng. Tư liệu khảo sát là các tiểu thuyết:
- Côi cút giữa cảnh đời, Nxb Kim Đồng , Hà Nội, Năm 2006
- Chó Bi-đời lưu lạc, Nxb Kim Đồng, Hà Nội, Năm 2006
- Chuyện của Lý, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, Năm 2013
Tuy nhiên, để làm nổi bật những đặc sắc của tiểu thuyết thiếu nhi của
Ma Văn Kháng, chúng tôi có so sánh với một số tác phẩm khác của ông khi cần
thiết.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau :
4.1. Đưa ra cái nhìn tổng quát về sự nghiệp sáng tác của Ma Văn Kháng và
tiểu thuyết viết cho thiếu nhi của ông, xác định vị trí, ý nghĩa của những tác
phẩm này trong sự nghiệp sáng tác của tác giả.
4.2. Khảo sát, phân tích những vấn đề được quan tâm trong tiểu thuyết viết
cho thiếu nhi của Ma Văn Kháng.
4.3. Phân tích, chỉ ra được những nét đặc sắc trong hình thức nghệ thuật của
tiểu thuyết viết cho thiếu nhi của Ma Văn Kháng.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành nhiệm vụ mà đề tài đặt ra, trong quá trình nghiên cứu
chúng tôi sử dụng các phương pháp khác nhau:
- Phương pháp cấu trúc, hệ thống
- Phương pháp so sánh, đối chiếu
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
6. Đóng góp của luận văn
Qua việc nghiên cứu đề tài này, chúng tôi hi vọng sẽ góp thêm một cái

nhìn khái quát, hệ thống hơn về đặc điểm tiểu thuyết viết cho thiếu nhi của Ma
Văn Kháng, từ đó khẳng định những đóng góp của ông cho văn học dân tộc về
mảng đề tài này.
Ở một mức độ nào đó, kết quả luận văn có thể dùng làm tài liệu tham
khảo cho việc dạy - học về tác giả Ma Văn Kháng trong nhà trường.


7

7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của
luận văn được triển khai trong 3 chương:
Chương 1. Nhìn chung về sự nghiệp sáng tác và mảng tiểu thuyết viết cho
thiếu nhi của Ma Văn Kháng
Chương 2. Cái nhìn về thiếu nhi và “quyền trẻ em” trong tiểu thuyết viết cho
thiếu nhi của Ma Văn Kháng.
Chương 3. Đặc điểm hình thức nghệ thuật trong tiểu thuyết viết cho thiếu
nhi của Ma Văn Kháng.


8

Chương 1
NHÌN CHUNG VỀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC VÀ MẢNG TIỂU THUYẾT
VIẾT CHO THIẾU NHI CỦA MA VĂN KHÁNG

1.1.

Bối cảnh lịch sử xã hội và sự vận động của tiểu thuyết từ 1945 đến
nay


1.1.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội Việt Nam từ 1945 đến nay

Cách mạng tháng Tám (1945) thành công, mở ra một kỷ nguyên mới cho
đất nước - kỷ nguyên độc lập, tự chủ. Ách nô lệ bị đập tan, con người Việt Nam
được giải phóng; bừng lên một niềm hạnh phúc lớn lao đến thiêng liêng, như kết
quả tất yếu từ khát vọng tự do và quyết tâm cứu nước của cả dân tộc. Nhưng
thực dân Pháp vẫn quyết tâm xâm lược đất nước ta. Khi mọi biện pháp ngoại
giao không còn hiệu quả, trước dã tâm của Pháp nhằm áp đặt chế độ thuộc địa
lên nước ta một lần nữa, cuộc kháng chiến toàn quốc bắt đầu. Ðáp lời kêu gọi
ngày 19-12-1946 của Hồ Chủ tịch, cả đất nước đã đứng lên, vừa đánh giặc vừa
củng cố lực lượng, huy động sức mạnh dân tộc không chỉ ở hiện tại mà cả từ
truyền thống quật khởi bốn nghìn năm. Cuối cùng, chiến thắng Ðiện Biên Phủ
(1954) làm lịm tắt ý đồ xâm lược của thực dân Pháp, buộc chúng phải chấp nhận
thương lượng và ký kết hiệp định Giơnevơ về Ðông Dương (20-7-1954).
Cuộc kháng chiến chín năm đã kết thúc thắng lợi. Một nửa nước được giải
phóng nhưng một nửa vẫn nằm dưới tay đế quốc Mĩ. Chúng ta lại tiếp tục bắt
tay vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam. Đây là một trong
những giai đoạn lịch sử gay go, căng thẳng đồng thời cũng ghi dấu những trang
hào hùng trong lịch sử giữ nước của dân tộc ta. Vận mệnh của đất nước đứng
trước nguy cơ một mất một còn. Đây là một cuộc kháng chiến mà các nhà văn
vừa tham gia chống kẻ thù cướp nước, vừa chống lại một cuộc xâm lăng văn hóa
của đế quốc Mỹ trên đất nước ta. Nhanh nhạy và kịp thời, các nhà văn đã nhập
cuộc, tham gia vào cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại của Tổ quốc. Các thế hệ nhà


9

văn cùng có mặt bên nhau trong trận tuyến đánh Mỹ. Hàng trăm nhà văn trẻ
trực tiếp cầm súng ra chiến trường và sáng tác như Nguyễn Thi, Thu Bồn, Lê

Anh Xuân…
Từ sau 30/4/1975, đất nước thống nhất trong niềm vui khôn xiết của đôi bờ
Nam Bắc, trong hạnh phúc của giấc mơ giải phóng miền Nam nay đã thành hiện
thực. Giấc mơ ấy vẫn hằn in trong từng giấc ngủ của người dân nước Việt. Để
rồi ngày cả dân tộc bắt tay vào xây dựng lại đất nước tràn đầy tự hào. Tuy nhiên,
thách thức đến với nước ta còn nhiều. Trải qua 10 năm thực hiện hai kế hoạch 5
năm (1976 – 1980 và 1981 – 1985), Việt Nam đạt được những kết quả nhất định
trên cả hai phương diện xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, song cũng gặp nhiều khó
khăn do mắc sai lầm nghiêm trọng trong chủ trương, chính sách chỉ đạo chiến
lược phát triển đất nước. Đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng về
kinh tế – xã hội. Nhưng sức sống bền bỉ của một dân tộc lại một lần nữa đưa ta
thoát khỏi khó khăn. Để khắc phục sai lầm, khuyết điểm, đưa đất nước vượt qua
khủng hoảng, Đảng và Nhà nước đã tiến hành công cuộc đổi mới. Công cuộc ấy
là bước ngoặt lịch sử vĩ đại, làm thay da đổi thịt cả đất nước. Đó không chỉ là
đổi mới trên lĩnh vực đời sống kinh tế, xã hội mà còn là đổi mới trên góc độ tư
tưởng, trong đó có tư duy về văn nghệ. Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh cũng
tuyên bố “cởi trói”, “đổi mới tư duy” cho văn nghệ. Sau cách mạng các nhà văn
không xuất hiện với tư cách nhà văn – chiến sĩ nữa mà với tư cách những công
dân có trách nhiệm sống trong đất nước đang vặn mình đổi mới.
1.1.2. Sự vận động của tiểu thuyết
1.1.2.1.

Sự vận động về đội ngũ sáng tác
Từ 1945 tới 1975, diện mạo của tiểu thuyết cũng được hình thành qua

những trang viết của Trần Đăng, Nguyễn Huy Tưởng, Tô Hoài, Kim Lân, Hồ
Phương,…Đặc biệt, năm 1950-1954 là những năm văn học gặt hái được nhiều
thành tựu rực rỡ với nhiều tác giả cùng nhiều tiểu thuyết tiêu biểu. Các tác giả
đã có những thể nghiệm bước đầu đáng khích lệ với Con trâu (Nguyễn Văn
Bổng), Xung kích (Nguyễn Ðình Thi), Vùng mỏ (Võ Huy Tâm). Nhưng nhìn



10

chung, giai đoạn này, đội ngũ sáng tác tiểu thuyết chưa nhiều. Phải sau hoà bình
lập lại, các nhà văn mới có thời gian để chú ý tới thể loại này.
Sau 1975, tiểu thuyết phát triển rực rỡ. Có được sự phát triển rực rỡ ấy là
nhờ công sức của nhiều thế hệ cầm bút. Đội ngũ viết tiểu thuyết đa dạng, nhiều
thế hệ khác nhau tạo cho tiểu thuyết mang bức tranh phong phú đa sắc màu của
hiện thực, cuộc sống và con người. Các thế hệ nhà văn cao niên vẫn mải miết
trên cánh đồng chữ nghĩa, lặng lẽ cho ra mắt bạn đọc những đứa con tinh thần
của mình và không phải ngẫu nhiên mà người ta đã cảm nhận thời bây giờ là
“thời của tiểu thuyết” (Nguyễn Huy Thiệp), thời của dân chủ hoá trong sáng tạo
và tiếp nhận. Nhà văn lão thành như Nguyễn Khải với Thượng đế thì cười
dường như muốn khép lại một hành trình hơn nửa thế kỷ cầm bút để lại nhiều dư
ba trên những trang tự thuật của mình. Sau những tháng năm im lặng, với Người
sông Mê, Châu Diên không ngại ngùng cách tân kỹ thuật viết tiểu thuyết. Dù đã
thuộc vào hàng cây cao bóng cả, Mạc Can vẫn không thôi làm người đọc ngạc
nhiên và cảm động với tiểu thuyết đầu tay Tấm ván phóng dao. Ma Văn
Kháng vẫn dồi dào bút lực với Ngược dòng nước lũ. Có những nhà văn chuyển
từ viết truyện ngắn sang tiểu thuyết như Nguyễn Khải, Lê Lựu... Cũng có những
nhà văn tên tuổi viết tiểu thuyết đã khẳng định tài năng ở các giai đoạn trước
như Tô Hoài nay càng sắc sảo, tinh tế trong đời thường. Bên cạnh đó nhiều cây
bút mới nổi lên như Dương Hướng, Chu Lai, Bảo Ninh... và nhất là xuất hiện
nhiều cây bút nữ có tư duy tiểu thuyết sắc bén như Phạm Thị Hoài, Võ Thị
Hảo...Đồng hành là một dàn những cây bút của thế hệ kế tiếp sáng tạo, sẵn sàng
thể nghiệm, cách tân như: Nguyễn Bình Phương, Hồ Anh Thái, Tạ Duy
Anh...Đội ngũ các tiểu thuyết gia cho thấy tiểu thuyết đã vận hành trong cơ chế
vận động và đổi mới của văn xuôi đương đại. Những người cầm bút đã chứng
minh được sự sáng tạo cùng với nỗ lực đổi mới và hiện đại hoá ngòi bút của

chính họ. Nhiều nhà văn chuyên tâm viết tiểu thuyết và có nhiều thành tựu lớn
như Lê Lựu, Chu Lai, Nguyễn Khải và đặc biệt là Ma Văn Kháng với hơn 12
tiểu thuyết, trong đó nổi lên những tiểu thuyết như Mùa lá rụng trong vườn


11

(1985); Đám cưới không giấy giá thú (1989); Ngược dòng nước lũ (1999); Một
mình một ngựa (2009)... Tiểu thuyết Ma Văn Kháng giai đoạn này mang đậm
phong cách triết luận - trữ tình, đánh dấu một Ma Văn Kháng có nhiều đổi mới
trong tư duy, cách viết, từng trải và sâu sắc hơn. Không khí dân chủ của môi
trường sáng tạo đã giúp các nhà văn ý thức sâu sắc tư cách nghệ sĩ của mình, vượt
lên trên những quy định, khuôn khổ đã thành áp lực với ngòi bút của người viết lâu
nay.
1.1.2.2.

Sự vận động về nội dung, nghệ thuật

Có thể nói trong quá trình vận động và đổi mới, tiểu thuyết đã trải qua
“những bước thăng trầm”. Trong quá trình 30 năm phát triển của văn học cách
mạng (1945-1975), tiểu thuyết đã vượt qua những thử thách khắc nghiệt của
hoàn cảnh chiến tranh để khẳng định sự tồn tại. Tuy những thành tựu còn ở mức
độ ban đầu nhưng đóng góp chính của nó là mang đến một sắc thái độc đáo, làm
bừng lên khí thế mới chưa từng có trong đời sống văn học dân tộc. Nhìn chung,
sáng tác thời kỳ này tập trung nói về cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, tố cáo
tội ác dã man của đế quốc; từ đó, giáo dục ý thức trân trọng, thiết tha với chế độ
mới như: Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi, Cửa biển của Nguyên Hồng, Vùng trời
của Hữu Mai… Khuynh hướng sử thi và lãng mạn hoá trở thành khuynh hướng
tiêu biểu của thể loại tiểu thuyết giai đoạn này. Tuy có nhắc đến đau thương
song cảm hứng chủ đạo trong tiểu thuyết về chiến tranh giai đoạn 1945 –1975 là

ngợi ca chủ nghĩa yêu nước, là khát vọng tự do độc lập, là niềm tự hào về sự
nghiệp cứu nước vĩ đại của nhân dân ta và niềm tin tưởng mãnh liệt vào chủ
nghĩa xã hội. Mọi đối kháng trong tác phẩm đều xoay quanh cuộc chiến của dân
tộc. Trong Sống mãi với thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng, tác phẩm đã tái hiện
bầu không khí lịch sử sôi sục, quyết liệt, sẵn sàng “Quyết tử cho Tổ quốc quyết
sinh” trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp ở Hà Nội. Nhà văn thường
đẩy xung đột đến mức gay gắt, quyết liệt qua việc thể hiện tội ác của kẻ thù với
nhân dân. Chiến tranh, bom đạn chỉ được miêu tả như một cái nền để nhà văn
dẫn độc giả vào một thế giới khác: thế giới của tình người, của đức vị tha, lòng


12

dũng cảm và nghĩa tình chung thuỷ. Nói cách khác, đó là thế giới của cái cao cả,
cái đẹp vượt lên trên sự tàn phá, huỷ diệt của bom đạn chiến tranh. Vì thế các
nhân vật được vẽ nên cũng mang nét sử thi lãng mạn. Sự hi sinh, cống hiến của
họ đều xứng đáng là bức tượng đài biểu dương cho lòng yêu nước. Họ sống chủ
yếu trong tư cách con người chính trị, con người công dân. Hay trong Hòn Đất,
việc kẻ thù thả thuốc độc xuống suối và thằng Xăm chém đầu chị Sứ một cách
man rợ đã làm bùng lên ngọn lửa căm thù, khơi dậy sức mạnh mãnh liệt ở người
dân và những người chiến sĩ du kích, buộc giặc phải rút lui khỏi hang Hòn. Bị
kẻ thù treo lơ lửng trên cây dừa, đứa con nhỏ cùng em gái và đồng đội bị vây
hãm trong hang đá, chị Sứ tự nhủ: Bữa nay, có lẽ mình chết. Nhưng mình chỉ
thấy tiếc chớ không ân hận mắc cỡ gì cả... Tới phút này đối với Đảng, mình vẫn
y nguyên, như chị Minh Khai, như Võ Thị Sáu... nên từ phút này trở đi, mình
cũng phải giữ được như vậy... Hay bi kịch cá nhân qua mối tình trái ngang
Xiêm – Lượng và cuộc hôn nhân bất hạnh Xiêm – Kiếm trong tác phẩm Dấu
chân người lính của nhà văn Nguyễn Minh Châu đã để lại trong lòng người
những nỗi căm hờn về tội ác của bọn giặc. Giọng điệu trữ tình rưng rưng, hào
sảng không chỉ là giọng điệu chủ đạo của thơ, mà còn là giọng điệu chủ đạo của

tiểu thuyết, khiến cho các tác phẩm văn xuôi thời ấy đầy ắp chất thơ và câu văn
xuôi của hầu hết các nhà văn luôn luôn ngân vang âm hưởng trữ tình. Nhưng
cũng chính vì thế mà tiểu thuyết không thể trở thành thể loại cái của hệ thống
văn học 1945 – 1975. Truyện và thơ trữ tình vẫn là hai thể loại cơ bản, giữ vai
trò thống soái tạo nên sự kết tinh nghệ thuật và diện mạo của văn học Việt Nam
giai đoạn 1945 – 1975.
Sau 1975, trong nền văn xuôi Việt Nam đương đại, tiểu thuyết đã sớm bắt
nhịp trong xu hướng đổi mới văn học giai đoạn này. Sự phát triển mạnh mẽ của
tiểu thuyết không chỉ ở số lượng lớn tác phẩm và đội ngũ nhà văn tham gia sáng
tác đông đủ, phong phú mà chủ yếu còn vì chất lượng của những tác phẩm này
đạt giá trị cao. Trong khoảng mười năm đầu (1975 - 1985), khuynh hướng sử thi
vẫn còn dư âm đặc biệt là trong tiểu thuyết viết về chiến tranh. Sau chiến tranh


13

kết thúc, người ta có điều kiện để tái hiện cuộc chiến đấu trên cái nhìn bao quát
theo suốt chiều dài lịch sử như đưa ra ánh sáng những cuộc chiến đấu thầm lặng
trong lòng địch (Ông cố vấn của Hữu Mai) hay một con đường mòn Hồ Chí
Minh bí mật trên biển (Đường mòn trên biển của Hồ Phương)... Khuynh hướng
sử thi tuy có mờ nhạt dần nhưng đã góp phần vào bức tranh văn xuôi trong
khoảng thời gian 10 năm đầu với những thành tựu nhất định. Và lúc này khi viết
về lịch sử, các nhà văn không chỉ tái hiện lịch sử mà còn có điều kiện tập trung
vào xây dựng tính cách nhân vật đa chiều hơn, phân tích và lý giải các sự kiện,
biến cố...
Trong giai đoạn sau 1986, trong cao trào đổi mới, tiểu thuyết đã thật sự
bộc lộ ưu thế của mình trên con đường dân chủ hoá nội dung và nghệ thuật. Với
xu hướng nhìn thẳng vào sự thật, các nhà tiểu thuyết đã dấn thân vào hiện thực
đương thời với nhiều ngổn ngang bề bộn. Trong tác phẩm của họ xuất hiện ý
thức “lột trần mặt nhau, lột trần mặt mình, lột trần mặt đời” và cao hơn là “bóc

trần thế giới”, đồng thời còn là ý thức hướng tới đề cao tính nhân văn. Đọc
những tác phẩm như Thời xa vắng (1986) của Lê Lựu; Cơ hội của chúa (1999)
của Nguyễn Việt Hà; Thiên thần sám hối (2004) của Tạ Duy Anh; Một mình
một ngựa (2009) của Ma Văn Kháng... không ai có thể phủ nhận sự phát triển
ngày càng cao trong từng góc cạnh của tiểu thuyết. Chúng ta cũng có thể điểm
qua một số hiện tượng tiêu biểu của tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Có thể nói tác
phẩm đánh dấu sự đổi mới của văn xuôi theo tinh thần đổi mới tư duy là tiểu
thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu. Đến với những sáng tác của Tạ Duy Anh, ta
thấy được sự cách tân nghệ thuật táo bạo trong văn phong của ông.Những tác
phẩm: Lão khổ (1992), Khúc dạo đầu (1991), Thiên thần sám hối (2004)... là
những tác phẩm xuất sắc được dư luận quan tâm nhiều và ghi dấu ấn trong lòng
độc giả. Bên cạnh đó, chúng ta có thể kể thêm một hiện tượng nữa đó là tiểu
thuyết Thiên sứ của Phạm Thị Hoài, tiểu thuyết đã đem lại khá nhiều yếu tố mới
mẻ cho kinh nghiệm đọc tiểu thuyết của số đông độc giả. Và gần đây người ta
chú ý những tiểu thuyết mới mẻ của Thuận, trong đó có tiểu thuyết Phố tàu


14

(China Town). Đây là một cuốn tiểu thuyết khá lạ như Dương Tường nhận xét
“đây là cuốn tiểu thuyết khó đọc vì nó lạ và mới”, nó đã “khước từ truyền
thống”. Chiến tranh cũng được nhận thức lại từ sự tác động ghê gớm của nó đến
tình cảm và số phận con người với bao nỗi éo le, bi kịch, xót xa, nỗi buồn dai
dẳng (Thân phận tình yêu của Bảo Ninh). Một số tác phẩm nổi bật với cảm hứng
phê phán và ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Những tác phẩm viết về nông thôn cho
thấy sự chi phối của những tập tục, những tâm lý cố hữu ở làng xã đến các mối
quan hệ gia đình, dòng họ. Những cuộc tranh giành quyền lực giữa họ tộc,
những mối thù truyền kiếp... tất cả đè nặng lên cuộc sống, số phận bao nhiêu
người (Bến không chồng; Mảnh đất lắm người nhiều ma...). Các tác giả còn đi
sâu vào khám phá đời sống muôn màu trong cái hàng ngày với các quan hệ thế

sự phức tạp; với đời sống cá nhân của mỗi con người ở những vấn đề riêng tư,
số phận, nhân cách (Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng). Như vậy tiểu
thuyết Việt Nam đương đại phát triển khá phong phú và đa dạng, từ “phản ánh
hiện thực” đến “nghiền ngẫm về hiện thực” với vai trò chủ thể của nhà văn tăng
lên. Nhà văn thoát ra khỏi ràng buộc của chủ nghĩa đề tài. Chính vì thế, giai
đoạn này thể loại văn xuôi nói chung và tiểu thuyết nói riêng có sự xuất hiện của
nhiều khuynh hướng. Đáp ứng yêu cầu nhìn thẳng vào sự thật, nhiều cây bút đã
nhìn lại hiện thực của thời kỳ vừa qua, phơi bày những mặt trái còn bị che khuất,
lên án những thế lực, những tư tưởng và thói quen đã lỗi thời.
Điểm qua một số nét về khuynh hướng vận động cũng như những hiện
tượng khá nổi bật của tiểu thuyết Việt Nam đương đại ta thấy bức tranh chung
của văn học thời kỳ này có sự phát triển mau lẹ, nhiều bước đổi mới quan trọng,
trong đó tiểu thuyết có sự phát triển phong phú và đa dạng. Hiện nay, trong sự
vận động chung của văn học, tiểu thuyết - một loại hình tự sự cỡ lớn vẫn đang nỗ
lực chuyển mình, đổi mới nhằm đáp ứng yêu cầu của thời đại, của đời sống văn học
và của đông đảo độc giả đương đại.
1.2.

Ma Văn Kháng - nhà văn tiêu biểu của văn xuôi Việt Nam đương đại

1.2.1. Cuộc đời Ma Văn Kháng


15

Ma Văn Kháng tên thật là Đinh Trọng Đoàn, sinh ngày 1/12/1936, quê gốc
ở phường Kim Liên - quận Đống Đa - Hà Nội. Hiện tại, ông sống ở quận Ba
Đình - Hà Nội. Ông là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1959 và hội
viên hội Nhà văn Việt Nam từ 1974.
Bút danh Ma Văn Kháng bắt nguồn từ câu chuyện đặc biệt của ông. Năm

1963, tốt nghiệp Đại học Sư phạm Hà Nội, ông lên dạy học ở tỉnh Lào Cai, sống
và gắn bó với đồng bào dân tộc miền núi hơn 20 năm... Ngày ấy, ông quen anh
Ma Văn Nho, phó chủ tịch huyện Bảo Thắng, Lào Cai. Anh Nho cũng là người
Kinh, quê ở Hạ Hòa, Phú Thọ. Hai anh em cùng đi cơ sở, thực hiện ba cùng với
nhân dân, vận động họ tăng gia sản xuất, đóng thuế, đi dân công, xóa mù chữ, vệ
sinh phòng dịch bệnh... Trong đợt đi làm thuế ở thôn Giáng Tùng Tung, huyện
Bảo Thắng, ông bị sốt rét ác tính, may mà có anh Ma Văn Nho - là phó bí thư
Huyện ủy Bảo Thắng cứu sống nhờ kiếm được mấy mũi tiêm. Từ đó ông kết
nghĩa anh em với anh Ma Văn Nho và đổi tên thành Ma Văn Kháng.
Từ tuổi thiếu niên, Ma Văn Kháng đã tham gia quân đội và được cử đi học
ở khu học xá Trung Quốc. Năm 1954, sau khi tốt nghiệp sư phạm trung cấp tại
khu học xá Nam Ninh (Trung Quốc), Ma Văn Kháng được cử về tiếp quản thủ
đô nhưng ông từ chối và xin về dạy học ở Lào Cai với lý do “muốn viết văn
thành ra dám liều mạng lên miền biên ải một phen xem sao”. Chuyến đi lên Lào
Cai lập nghiệp cũng là bởi ảnh hưởng của các tiểu thuyết lãng mạn. Có gì đó đầy
hào hứng lôi cuốn, thực sự rất hấp dẫn và mới mẻ cứ lớn lên trong tâm hồn anh
giáo viên trẻ tìm được lý tưởng. Ông về dạy cấp II ở Lào Cai và bắt đầu xung
phong tham gia nhiều hoạt động xã hội. Năm 1960 ông được cử về học Đại học
Sư phạm Hà Nội, tốt nghiệp năm 1964 ông lại xin về Lào Cai để dạy cấp III.
Sau đó ông chuyển sang làm thư ký cho đồng chí Bí thư Tỉnh ủy rồi làm Phó
Tổng biên tập báo Lao Cai, Tổng biên tập, Phó Giám đốc Nhà xuất bản Lao
động, Uỷ viên Ban chấp hành, Tổng biên tập tạp chí Văn học nước ngoài của
Hội Nhà văn Việt Nam.. Sau này, ngẫm lại, ông thấy việc bị điều lên làm thư ký
cho ông bí thư tỉnh ủy tưởng là điều không may nhưng lại rất may. Vì ở vị trí đó,


16

ông được gắn bó với những gì thuộc về vận mệnh con người, vận mệnh của đất
nước. Ông nhận ra rằng ngẫu sự rất quan trọng, cứ để cho cuộc sống chủ động

đến với đời mình, nhiều khi sự rủi ro đối với người làm nghệ thuật lại là điều
may mắn.
Sau khi đất nước thống nhất, năm 1976 ông chuyển về công tác tại Hà Nội,
từng làm tổng biên tập, phó giám đốc nhà xuất bản Lao động. Từ tháng 3/1995
là Ủy viên Ban Chấp hành, Uỷ viên Đảng đoàn, Hội Nhà văn khóa V - Tổng
Biên tập Tạp chí Văn học nước ngoài. Sự chuyển đổi công tác ấy cũng làm ông
đã phải đánh đổi nhiều thứ. Đó là những ngày ăn nhờ ở đậu tại nhà tập thể Tổng
liên đoàn lao động Việt Nam với không gian chật hẹp. Bốn năm sau, hai vợ
chồng ông vất vả lắm mới lo toan để xin được cấp căn hộ chung cư ở Thành
Công rộng khoảng 28 m2. Đến khi chuyển về nhà mới, ông vẫn chưa tin mình
có nhà, chưa có cảm giác là nhà của mình, nằm ngủ vẫn chỉ mê thấy chuyện nhà
cửa. Khi “an cư” cũng là thời gian nhà văn Ma Văn Kháng viết được nhiều nhất
và thăng hoa nhất. Nhiều tác phẩm của ông trong thời kỳ này đã trở thành những
dấu ấn không thể mờ phai trong nền văn xuôi hiện đại. Ông chia sẻ: “Về Hà Nội
rồi, tôi mới nhận ra rằng, hóa ra mình đã ở miền núi đến một phần tư thế kỷ.
Tỉnh lẻ rất tình cảm, rất gắn bó, như một phần cơ thể mình vậy, nhưng nếu để
làm văn chương chuyên nghiệp thì hóa ra mình cần nhiều điều hơn thế. Mảnh
đất Lào Cai mang lại cho tôi vốn sống về dân tộc rất lớn thậm chí còn là
“nguồn” để bè bạn hỏi mỗi khi cần cho sáng tác” [56, 15]. Nhưng ông cũng hối
tiếc: “Lẽ ra tôi nên về Hà Nội sớm hơn chục năm để học được nhiều hơn cho tác
phẩm của mình nó bớt đi chất tỉnh lẻ. Nói vậy không phải tôi chê tỉnh lẻ, nhưng
thực sự cái gọi là “văn hóa tỉnh lẻ” nó cản trở và làm mình bé đi ghê lắm, cảm
giác nơi đó như cái lồng chật chội dù tình cảm rộng mênh mông, nhưng muốn
bứt phá được là rất khó. Chuyển đổi không gian văn chương khiến mình đầy lạ
lẫm nhưng thức ngộ, bừng sáng. Bởi vậy mà tôi về từ năm 1976, đến năm 1982
mới viết lại được tác phẩm Mưa mùa hạ, một tác phẩm thể hiện sự khai sáng
cuộc đời mình. Hồi đó, một ông bạn văn đã nói với tôi: “Lão Kháng này mới ở


17


miền núi về thấy cái gì cũng lạ nên cứ kêu toáng lên, còn bọn mình ở đây quen
rồi nên thấy cái gì cũng quen hết cả” [56, 15].
Ngoài ra, Ma Văn Kháng còn đứng lớp dạy viết văn nhiều khóa tại trường
viết văn Nguyễn Du khi xưa, nay là khoa Viết văn - Báo chí của Đại học Văn
hóa Hà Nội. Học trò của ông hiện nay nhiều người đã trở thành những tên tuổi
lớn trên văn đàn. Nhà văn Ma Văn Kháng chia sẻ: “Có hai việc cần thiết vào
cuối đời thì tôi đã nỗ lực để làm trong những năm qua, vì con cái tôi không ai
quan tâm đến gia tài văn chương của bố, nên nếu mình không làm thì không ai
làm cho mình cả, bởi thế tôi hệ thống hóa những điều đã viết, gom góp để hoàn
thành nốt những tư liệu dở dang, tổng kê lại những cuốn sách đã xuất bản,
những bài báo người ta đã viết về mình. Điều thứ hai là tôi soạn xong di chúc,
thực sự phải hoàn toàn thanh thản chuẩn bị cho mình mọi tâm thế an lành nhất,
để có thể yên tâm một điều rằng, sinh ra trên cõi đời này, mình đã tận tâm, tận
lực đến cùng để có thể có một cuộc đời tròn vẹn nhất…” [ 56, 30]
Dù tuổi cao cùng những chứng bệnh mà bất kỳ tuổi già nào đều có thể gặp
phải nhưng Ma Văn Kháng không những chăm chỉ viết, ông còn rất chịu khó
đọc tác phẩm của các đồng nghiệp, mà trong đó đa phần là các đồng nghiệp lớp
sau, những người vốn là học trò của ông, thậm chí, ông còn đọc cả tác phẩm của
những cây bút trẻ một cách chân thành, không màu mè. “Đọc nhà văn trẻ để
thấm thấu cái tươi mát phi truyền thống, phi cổ điển”, ông tâm sự. Ngoài việc
tham dự vào đời sống văn học, thi thoảng, các đồng nghiệp vẫn thấy ông… đi
thực tế, dự các buổi gặp gỡ của các ngành. Quan niệm của ông là đừng bao giờ
cho rằng mình đã trưởng thành, không hiểu các nghề khác thế nào, riêng nghề
văn mà tôi theo đuổi thì đó là một nghề cần học hỏi suốt đời. Học nghề mải mê,
không biết mệt, nếu anh còn muốn tiếp tục sống với cái nghề vất vả cực nhọc và
tràn đầy niềm vui này. Ông tâm niệm: “Chẳng ai dự liệu được đời mình sẽ là thế
nào cả. Cách mạng là ngọn gió lớn thổi ta là hạt bụi đi đến các chân trời - một
nhà thơ đã viết thế. Khoa học nhân sinh cho biết 70% đời người do ngẫu nhiên
quyết định. Không ai chọn thời đại, hoàn cảnh để sinh ra và sống với nó cả. Vấn



18

đề đặt ra là biết sống cho đúng với tư cách một con người trong mỗi hoàn cảnh.
Đến tuổi này thì tôi hài lòng với những gì đã trải qua, đã làm được và bằng lòng
với cả những gì chưa làm được…” [11, 22].
1.2.2. Sự nghiệp sáng tác
1.2.2.1.

Ma Văn Kháng – nhà văn của gia tài sáng tác đồ sộ

Nhà văn Ma Văn Kháng chia sẻ rằng, thực ra, văn chương đến với ông cũng là
một sự tình cờ. Ngày bé ông thích văn, đã viết tham gia các cuộc thi của nhà
trường nhưng không nghĩ mai này sẽ là nhà văn. Lớn hơn một chút, trong thâm
tâm ông bắt đầu tâm niệm mình sẽ phải viết.
Ma Văn Kháng là một trong số người có tốc độ viết nhiều nhất trong số
những nhà văn thế hệ ông. Dường như ít thấy ông ở những cuộc trà dư tửu hậu,
những cuộc xôm tụ bạn bè, mà chỉ thấy ông tranh thủ từng giây khắc của cuộc
đời để cần mẫn gieo trồng trên cánh đồng chữ nghĩa. Nói về điều này, nhà văn
Ma Văn Kháng khiêm tốn tự nhận mình là người cần cù, chịu khó và vẫn giữ
được ngọn lửa men say trong cảm xúc. Bởi vì, văn chương là thứ mà ông đã
sống với nó, chết với nó nên ngày nào còn sức khỏe, là ông còn đọc, còn viết.
Rồi ông bảo, thực sự thì văn chương cũng mang lại cho ông nhiều thứ. Từ ngày
khốn khó sống bằng nhuận bút, đến xây nhà dựng cửa cũng có phần của nhuận
bút, đến tự cứu mình bằng việc mổ tim đặt stant động mạch vành cũng là tiền
nhuận bút bao năm tích cóp.
Gia tài văn chương của ông cho đến hết năm 2013 có khoảng 200 truyện
ngắn, 17 cuốn tiểu thuyết, một cuốn hồi ký, một tập bút ký- tiểu luận phê bình.
Trong số này, có nhiều cuốn viết về đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi như:

Xa phủ (1969), Bài ca trăng sáng (1972), Góc rừng xinh xắn (1972), Người con
trai họ Hạng (1972), Mùa mận hậu (1972), Cái móng ngựa (1973),...và các tiểu
thuyết như: Gió rừng (1976), Đồng bạc trắng hoa xòe (1978), Mưa mùa hạ
(1982), Mùa lá rụng trong vườn (1985), Vùng biên ải (1983), Đám cưới không
có giấy giá thú (1989), Côi cút giữa cảnh đời (1989), ... Gần đây trong hai năm
từ năm 2010- 2011, ông vừa cho ra mắt độc giả liên tiếp ba cuốn tiểu thuyết Một


19

mình một ngựa, Bóng đêm và Bến bờ. Và năm 2013 ông có tiểu thuyết Chuyện
của Lý. Có người bảo tiểu thuyết Chuyện của Lý là cuốn sách cuối cùng của lão
nhà văn này. Nói là vậy, ai dám chắc được với niềm đam mê văn chương, sức
lao động bền bỉ, dẻo dai và nghiêm túc, biết đâu ông vẫn còn tiếp tục cho ra lò
những cuốn sách mà ông tâm đắc từ lâu đang được gấp rút hoàn thành.
Với số lượng tác phẩm văn chương khá đồ sộ như vậy, nhà văn Ma Văn
Kháng đã từng nhận được nhiều giải thưởng quan trọng, như truyện ngắn Xa
phủ đoạt giải nhì của tuần báo văn nghệ 1968 - 1969. Tiểu thuyết Mùa lá rụng
trong vườn được xem là cuốn tiểu thuyết viết về gia đình xuất sắc nhất của ông
được tặng giải thưởng loại B của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1985. Tập truyện
Trăng soi sân nhỏ nhận tặng thưởng của Hội đồng Văn xuôi Nhà văn Việt Nam
năm 1995 và giải thưởng văn học Đông Nam Á 1998. Truyện ngắn San cha chải
nhận giải thưởng “Cây bút vàng” cuộc thi truyện ngắn và ký 1996 - 1998 do Bộ
Công an và Hội Nhà văn đồng tổ chức. Năm 2001, Ma Văn Kháng được vinh dự
nhận giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật với cụm tác phẩm: Đồng bạc
trắng hoa xòe, Mùa lá rụng trong vườn.
1.2.2.2.

Ma Văn Kháng – nhà văn mang phong cách riêng


So với các nhà văn đàn anh người dân tộc thiểu số như Nông Quốc Chấn,
Bàn Tài Đoàn, Cầm Biêu,…và các đàn anh dân tộc Kinh như Nguyễn Tuân và
Tô Hoài, điểm xuất phát đến với văn chương của Ma Văn Kháng cao hơn, khi
ông là sinh viên Ngữ văn của trường đại học Sư phạm Hà Nội. Đấy là một lợi
thế rất đáng kể trên con đường văn nghiệp của ông sau này. Cũng như Nguyễn
Tuân và Tô Hoài, ông không phải là người dân tộc thiểu số, nên dễ mắc nghiện
bản sắc văn hóa của đồng bào cũng là điều dễ hiểu. Còn so với các thế hệ các
nhà văn đi sau là người dân tộc thiểu số như Y Phương, Mai Liễu, Dương
Thuấn, Cao Duy Sơn, Inrasara,...thì thầy giáo trẻ Đinh Trọng Đoàn lại có lợi thế
so sánh ở bề dày kinh nghiệm, đặc biệt là thời gian tuổi trẻ ông từng bôn ba hơn
20 năm cùng với đồng bào các dân tộc thiểu số. Vì vậy, tác phẩm nào của ông
cũng để lại ấn tượng mạnh mẽ trong lòng bạn đọc và gặt hái được nhiều thành


20

công xuất sắc đưa ông lên vị trí là nhà văn xuất sắc của văn xuôi Việt Nam hiện
đại. Ma Văn Kháng không chỉ khẳng định tài năng của mình với số lượng tác
phẩm văn học đồ sộ mà hơn hết là những sáng tác của ông có giá trị lớn thấm
nhuần tư tưởng nhân văn, triết lý, đạo lý ở đời một cách sâu sắc. Những tác
phẩm của ông dù thuộc đề tài miền núi hay đô thị cũng đều khám phá tận cùng
bản chất cuộc sống và khai thác hết mọi góc cạnh của con người nên người đọc
có cảm giác được đi sâu vào mọi ngóc ngách của cuộc đời, hiểu sâu về cuộc
sống con người với muôn hình muôn vẻ với những xô bồ hỗn độn của nó. Ma
Văn Kháng còn được coi là “người đi tiền trạm” cho đổi mới văn học. Vào
những năm 80 của thế kỷ XX, nhiều sáng tác của Ma Văn Kháng đã "nhìn
thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật", từ đó tạo nên những cuộc tranh luận sôi nổi
trên các diễn đàn văn học. Ông cũng là một trong số các nhà văn Việt Nam hiện
đại sáng tác thành công ở cả hai thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết.
Có thể phân chia sáng tác của ông thành ba thời kì. Thời kì đầu là những

sáng tác mang tính sử thi, với các tác phẩm tiêu biểu là Đồng bạc trắng hoa
xòe, Vùng biên ải...Tư tưởng nhân văn được thể hiện ngay trong những tác phẩm
của ông trong thời kì đầu. Có thể thấy điều đó qua tác phẩm Đồng bạc trắng
hoa xòe. Trong tác phẩm, Ma Văn Kháng hiểu thấm thía một hiện tượng cuộc
sống đặc biệt đến quái dị là chế độ thổ ty phong kiến thế tập phiên thần đã tồn
tại hàng trăm năm ở đây. Tác giả đã tái hiện một giai đoạn lịch sử ngắn ngủi
nhưng rắc rối vào bậc nhất của cách mạng Việt Nam được tiến hành trên một
vùng núi phong kiến thế tập phiên thần nghèo nàn và lạc hậu, đặt trong bối cảnh
lịch sử ngàn cân treo sợi tóc của dân tộc.
Ở thời kì thứ hai, ông chú ý tới những sáng tác thế sự - đời tư, với các tiểu
thuyết như Mưa mùa hạ, Mùa lá rụng trong vườn, Ngược dòng nước lũ, Đám
cưới không có giấy giá thú,... bắt đầu từ giữa những năm 80 của thế kỉ trước.
Sau 1986, văn học từ cảm hứng sử thi chuyển sang cảm hứng thế sự, Ma Văn
Kháng không là ngoại lệ của xu thế đó. Ông đã vững bước trên đường đổi mới
với những cảm hứng mới, tâm thế mới và bút lực ngày càng mạnh mẽ. Sự


21

nghiệp đổi mới văn học đã được khẳng định trong đó có đóng góp tích cực của
cây bút điềm đạm mà quyết liệt, bình tĩnh chọn lựa, kiên định trước những chao
đảo, nhiễu loạn của văn đàn khi không tránh khỏi những xu thế cơ hội và vụ lợi
của cơ chế thị trường và mở cửa văn hóa hội nhập toàn cầu. Ma Văn Kháng trải
qua quá trình đổi mới với những nhọc nhằn nhưng can đảm và nhẫn nại. Nhà
văn là một minh chứng cho thái độ chừng mực, ôn hòa mà kiên cường, khí
phách. Nhà văn đã nhìn hiện thực cuộc đời với cái nhìn mới nhiều chiều để thấy
cả bề mặt lẫn bề sâu với tất cả quan hệ ngổn ngang, chồng chéo, phức tạp của
nó. Con người là đối tượng để khám phá không còn và không thể được quan
niệm như trước. Đó là con người trong mối quan hệ đa chiều lịch sử, xã hội, gia
đình và với chính mình, là con người trong tính toàn vẹn, phong phú và phức

tạp, có hạnh phúc lẫn khổ đau, có cao cả lẫn thấp hèn, bóng tối lẫn ánh sang.Với
Ma Văn Kháng, con người, đó là một luận đề lớn ngày càng được nhận thức,
chiêm nghiệm với chiều sâu triết học, xã hội học, văn hóa học và tâm lý học. Có
thể lấy ví dụ bằng Mùa lá rụng trong vườn - một tiểu thuyết của nhà văn Ma
Văn Kháng, hoàn thành vào tháng 12 năm 1982 và được xuất bản lần đầu vào
năm 1985. Lấy bối cảnh một gia đình truyền thống vào những năm 80 của thế kỉ
XX, khi đất nước bắt đầu có những bước chuyển mình mạnh mẽ sau chiến tranh,
gây ra nhiều thay đổi tốt có, xấu có; truyện đã phản ánh chân thực những biến
động trong xã hội thời bấy giờ và những ảnh hưởng to lớn của nó tới gia đình tế bào của xã hội. Truyện đã giành giải thưởng loại B của Hội Nhà văn Việt
Nam năm 1986.
Và thời kì thứ ba có thể nói là giai đoạn tác giả đi ngược trở lại quá khứ, hồi
tưởng về quá khứ, bắt đầu từ những năm đầu thế kỉ XXI với cuốn hồi kí Năm
tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương, tiểu thuyết Gặp gỡ ở La Pan Tẩn, Một
mình một ngựa. Một mình một ngựa là câu chuyện của một nhân vật mang tên
Toàn chuyển đổi môi trường sống, từ một cán bộ trong ngành giáo dục được tổ
chức điều động trở thành thư kí riêng cho bí thư tỉnh ủy một tỉnh miền núi. Cuốn
sách mang tính tự truyện rõ rệt. Ở tiểu thuyết Một mình một ngựa câu chuyện


22

được kể lại kết hợp lời kể của một nhân vật văn học vừa là lời của chính tác giả,
kẻ lẩn mặt, cố tình không xưng tôi để kể lại câu chuyện của mình.
Suốt 50 năm miệt mài cầm bút, nhà văn Ma Văn Kháng đã để lại dấu ấn
riêng biệt trong tâm trí nhiều thế hệ độc giả. Đồng thời, nhiều tác phẩm của ông
đã cắm những dấu mốc quan trọng trong lịch sử văn học.
Ma Văn Kháng giờ đã ở tuổi 76 tuổi song ông vẫn lao động chữ nghĩa, vẫn
có bạn đọc. Bên cạnh ông luôn có những người yêu mến, những người bạn tri
âm. Nhìn ông làm việc, nhìn ông được đón nhận thành quả, nhìn ông lắng nghe
nghiêm cẩn và cầu thị, nhiều người ước ao, đến tuổi ấy mà được như vậy thật

chẳng gì bằng. Tên tuổi của ông vẫn còn sức sống với thời gian và những tác
phẩm của ông vẫn luôn sống mãi trong lòng bạn đọc.
1.3.

Vị trí của tiểu thuyết Ma Văn Kháng

1.3.1. Các đề tài nổi bật

Toàn bộ tiểu thuyết của Ma Văn Kháng nhìn chung được sáng tác theo hai
mảng đề tài lớn với hai cảm hứng chủ đạo: Đề tài về dân tộc miền núi với cảm
hứng sử thi và đề tài về thành thị với cảm hứng thế sự đời tư.
Viết về đề tài miền núi, ông tập trung đi vào khám phá, phản ánh cuộc đấu
tranh của đồng bào các dân tộc thiểu số, về hiện thực cuộc sống lao động và
chiến đấu của người dân miền núi Tây Bắc. Trải qua 22 năm công tác, giảng dạy
ở vùng dân tộc, Ma Văn Kháng hiểu rõ được đời sống của đồng bào dân tộc
miền núi mà nhất là vùng đất Lào Cai nơi ông công tác. Đó là cuộc sống còn
nhiều gian nan, khó khăn còn nhiều vết tàn dư của những quan niệm, phong tục
lạc hậu. Ông là người chứng kiến những biến động to lớn trong đời sống chính
trị - xã hội cũng như cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt giữa cái mới và cái cũ. Đó
là cuộc cách mạng có tính chất rộng lớn không riêng gì đồng bào dân tộc Lào
Cai mà còn là cuộc đấu tranh chung của đồng bào các dân tộc Tây Bắc. Mỗi con
người, từ già đến trẻ đều có một mảng đời, một biến cố, một bước ngoặt liên
quan đến cuộc đấu tranh có tính chất chuyển đổi của “thời kỳ bão táp dữ dội
đó”.


23

Viết về đề tài miền núi, Ma Văn Kháng còn muốn lột tả thế vươn vai
đứng dậy đổi đời của những con người cách mạng núi rừng. Sống cùng đồng

bào dân tộc, tâm hồn nhạy cảm và tấm lòng của ông đã thấm thía và thấu hiểu
một cách sâu sắc “lịch sử đớn đau trầm luân, khổ ải cùng khát vọng mãnh liệt và
sức mạnh tiềm ẩn muốn vươn lên tự giác, giải phóng thoát ra khỏi ràng buộc áp
bức của họ” [11, 56]. Điều đó có thể thấy rõ qua tiểu thuyết Đồng bạc trắng hoa
xòe được xuất bản năm 1979. Đây là cuốn tiểu thuyết tái hiện lại một giai đoạn
lịch sử ngắn ngủi nhưng rắc rối của cách mạng Việt Nam “một cuộc cách mạng
tiến hành trên một vùng núi phong kiến thế tập phiên thần, nghèo nàn và lạc hậu
trong cái không gian tỉnh biên giới Lào Cai hỗn loạn, rối ren” [9, 12]. Tiếp sau
Đồng bạc trắng hoa xòe là tiểu thuyết Vùng biên ải (1983), là cuốn tiểu thuyết
tái hiện lại cuộc đấu tranh căng thẳng, ác liệt giữa các lực lượng cách mạng và
phản cách mạng ở vùng biên giới phía bắc, là cuộc đấu tranh tự giải phóng của
đồng bào dân tộc miền núi. Ma Văn Kháng đã tâm sự: “Tôi viết Đồng bạc trắng
hoa xòe, Vùng biên ải trong cảm hứng của cơn vò xé tâm hồn rất nhiều trước lịch
sử đau thương và bi hùng của một dân tộc” [9, 13].
Ở đề tài miền núi, ông đã có nhiều tác phẩm xuất sắc ghi thêm danh sách
vào những nhà văn viết về miền núi hay cùng với Tô Hoài, Nguyên Ngọc.
Nhưng ông thành công hơn cả và gặt hái được nhiều thành tựu lớn là ở mảng đề
tài đô thị. Ở đề tài này ông quan tâm đến đời sống đô thị với những ngột ngạt,
ngổn ngang của đời sống thời kỳ đổi mới. Ông đã hướng ngòi bút của mình vào
tất cả những vấn đề đời tư, thế sự và các khía cạnh của đời sống con người hiện
đại; tình yêu, tình dục, hôn nhân, hạnh phúc, bi kịch con người đều được ông
khai thác một cách triệt để, sâu sắc nhất.
Năm 1982 ông cho ra đời cuốn tiểu thuyết Mưa mùa hạ. Đây là cuốn tiểu
thuyết đánh dấu bước chuyển mình của nhà văn từ đề tài miền núi chuyển sang
đề tài thành thị. Mưa mùa hạ tái hiện lại cuộc đấu tranh giữa con người với thiên
tai, thể hiện cuộc đụng độ giữa cái tốt và cái xấu, giữa cái cao cả và cái thấp hèn.
Hình ảnh con đê Nghĩa Lộc mang tính chất ẩn dụ ngày đêm phải đương đầu với


24


sự đục khoét của họ hàng nhà mối. Khi mùa lũ đến phải chịu sự công phá dữ dội
của 18 tỷ m3 nước để so sánh với cuộc đấu tranh giữa cái tích cực và cái tiêu cực
đang tồn tại, tiếp diễn trong đời sống xã hội như một vấn nạn. Trong cuộc đấu
tranh ấy, dẫu cái cũ, cái xấu chưa hoàn toàn triệt tiêu song đã tạo tiền đề mở
đường cho cái tốt, cái đúng được khẳng định, được chiến thắng.
Sau chiến tranh, trong bối cảnh còn nhiều khó khăn của thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, nhiều quan điểm và giá trị đạo đức truyền thống đang có nguy
cơ bị bào mòn, xem nhẹ. Nhận thấy rõ được sự biến đổi sâu sắc đó, Ma Văn
Kháng cho ra mắt bạn đọc cuốn tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn (1985) và
ngay từ khi ra đời nó đã được đông đảo bạn đọc đón nhận và bàn luận sôi nổi.
Mùa lá rụng trong vườn xoay quanh chủ đề gia đình, những chuyện liên quan
mật thiết đến đời sống hàng ngày trong sự quan hệ, ứng xử giữa các thành viên
gồm nhiều thế hệ. Trong đó, vấn đề lớn được quan tâm, phản ánh là thái độ
sống, ý thức sống của mỗi thành viên trước những tác động nhiều mặt của đời
sống kinh tế thị trường. Sự cảnh tỉnh về những giá trị đạo đức truyền thống đang
có nguy cơ bị bào mòn, bị xâm thực bởi những giá trị vật chất. Xung quanh vấn
đề gia đình, tác phẩm còn đề cập đến sự vận động, phát triển tính cách cá nhân
trong quan hệ nhiều mặt với đời sống xã hội, sự quan tâm tới số phận của mỗi cá
nhân trong cuộc sống giao thời hiện nay. Lối sống thực dụng, ích kỷ cùng với
những dục vọng thấp hèn coi đồng tiền là trên hết, bất chấp mọi chuẩn mực, mọi
giá trị đạo đức đang hình thành và có nguy cơ lấn át giá trị truyền thống. Tác giả
Trần Đăng Xuyền nhận định: “Mùa lá rụng trong vườn là tác phẩm đã khơi
được vào dòng chảy của cuộc sống chúng ta hôm nay, đã lẫy ra được một mảng
tươi nguyên của cuộc sống đó, gợi cho ta bao suy nghĩ về nó, lo lắng, băn khoăn
về nó và cũng hy vọng, tin yêu ở nó. Từ đó đặt ra cho mỗi chúng ta một thái độ
sống, một trách nhiệm sống” [59; 18]. Với giá trị đó, năm 1985, tiểu thuyết Mùa
lá rụng trong vườn được tặng giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam.
Cũng trong giai đoạn này, ông cho xuất bản tập truyện ngắn Ngày đẹp
trời. Năm 1988, nhà xuất bản Phụ nữ cho xuất bản cuốn Trái chín mùa thu.



25

Năm 1989, tiểu thuyết Đám cưới không giấy giá thú ra đời đã tạo ra một
cuộc tranh luận sôi nổi, dài dòng trên báo chí và ở bàn hội nghị. Đây là tiểu
thuyết có tính luận đề sâu sắc, xung quanh về đề tài người trí thức, tác giả đã đề
cập đến những vấn nạn của tình hình giáo dục nói chung, tình trạng tha hóa của
một bộ phận giáo viên nói riêng. Đặc biệt, tác phẩm đã đề cập trực tiếp đến vấn
đề nhân cách của người thầy giáo trong cơ chế thị trường. Đó là thói vô liêm sỉ,
đạo đức giả, lợi dụng chức quyền , kết bè kéo cánh trù dập những người trí thức
chân chính.
Cũng trong năm 1989, Ma Văn Kháng cho phát hành tiểu thuyết Côi cút
giữa cảnh đời, đây là tiểu thuyết viết về đề tài gia đình nhưng hơn hết nó là tác
phẩm dành cho thiếu nhi, là tác phẩm mà nhà văn tâm đắc nhất. Ma Văn Kháng
đã từng tâm sự: “Côi cút giữa cảnh đời là cuốn sách tôi viết về gia đình mình.
Trong đó có hình ảnh mẹ tôi, một người mà tôi luôn yêu thương kính trọng và
không cầm được nước mắt khi nghĩ đến” [9; 19].
Năm 1999, tiểu thuyết Ngược dòng nước lũ xuất hiện tạo nên làn sóng
tranh luận sôi nổi của giới nghiên cứu và độc giả yêu văn học. Đây là cuốn tiểu
thuyết được thực hiện với một bút pháp phóng túng hơn so với những sáng tác
trước đó. Nó tạo điều kiện cho ngẫu hứng, cho cái tự nhiên của đời thường và
thế giới tâm linh, cái thực của tâm trạng của con người được phát triển. Một
trong những mạch chính của truyện là mối tình ghềnh thác, trắc trở của Khiêm
và Hoan. Xoay quanh cuộc đời của hai nhân vật là những vấn đề của đạo đức
nhân sinh. Cách viết sáng tạo đan xen tài tình giữa thực và ảo, giấc mơ và hiện
tại, ý thức và tiềm thức, hiện thực và lãng mạn, ngợi ca và phê phán đã tạo nên
hiệu quả nghệ thuật của tiểu thuyết. Là cuốn tiểu thuyết gây chú ý nhất năm
1999 “vừa thú vị vừa có nhiều điều đáng bàn lại”.
Năm 2009, Ma Văn Kháng lại làm nên cơn chấn động dữ dội, ngạc nhiên

cho độc giả với cuốn tiểu thuyết Một mình một ngựa (2009) với giải thưởng của
Hội Nhà văn Hà Nội. Theo tâm sự của nhà văn thì đây là cuốn tiểu thuyết ông
viết về lớp cán bộ lãnh đạo, những người đã cộng tác cùng nhà văn ở miền núi.


×