Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

CUNG ỨNG DỊCH VỤ VỆ SINH MÔI TRƯỜNG – THỰC TRẠNG,PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (235.38 KB, 40 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH

BÀI TIỂU LUẬN MÔN: DỊCH VỤ CÔNG
Đề tài:
CUNG ỨNG DỊCH VỤ VỆ SINH MÔI TRƯỜNG – THỰC TRẠNG,
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP

Hà Nội, ngày 20 tháng 09 năm 2012


Lời cảm ơn!
Trước khi đi vào vấn đề nhóm chúng tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến
Thạc sĩ Nguyễn Tuấn Minh, giảng viên môn Dịch vụ công, khoa Hành chính
học, Học viện Hành chính cùng các bạn trong lớp đã giúp đỡ chúng tôi trong
quá trình tiến hành tìm hiểu, nghiên cứu để hoàn thành bài tiểu luận này.
Do có sự giới hạn trong khuôn khổ của một bài tiểu luận nên có thể có
những vấn đề mà nhóm chúng tôi chưa thể nói sâu và chưa bàn đến vì vậy nhóm
rất mong nhận được sự thông cảm của bạn đọc và giảng viên. Hi vọng rằng bài
tiểu luận này đã mang lại cho mọi người nhiều kiến thức bổ ích.
Rất mong nhận được đóng góp, nhận xét của mọi người để bài tiểu luận
được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
TẬP THỂ NHÓM

1


Mục lục:
Chương I: cơ sở lý luận về dịch vụ công cộng
I.



Dịch vụ công cộng.........................................................................3

1. Khái niệm............................................................................................3
2.

Đặc điểm của dịch vụ công cộng.......................................................4

3. Phân loại dịch vụ công cộng...............................................................5
4. Vai trò của nhà nước trong cung ứng dịch vụ công cộng...................6
II.

Dịch vụ vệ sinh môi trường...........................................................7

1. Sự cần thiết phải cung ứng dịch vụ vệ sinh môi trường......................7
2. Đặc trưng của dịch vụ vệ sinh môi trường..........................................8
3. Chủ thể cung ứng dịch vụ vệ sinh môi trường....................................9
4. Nội dung cung ứng dịch vụ vệ sinh môi trường...............................10
5. Kinh nghiệm quốc tế trong cung ứng dịch vụ vệ sinh môi trường. .15
Chương II: Thực trạng cung ứng dịch vụ vệ sinh môi trường ở Việt Nam
hiện nay
1. Khái quát về môi trường ở Việt Nam................................................21
2. Thực trạng cung ứng dịch vụ vệ sinh môi trường.............................21
3. Đánh giá việc cung ứng dịch vụ vệ sinh môi trường ở Việt Nam....29
Chương III: Một số giải pháp nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ vệ
sinh môi trường ở Việt Nam
1. Một số định hướng chung.................................................................34
2. Một số giải pháp cụ thể....................................................................35

Danh mục tài liệu tham khảo.......................................................................38

Danh sách nhóm..........................................................................................39
Bảng phân công công việc nhóm................................................................39

2


CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ CÔNG CỘNG
I.

DỊCH VỤ CÔNG CỘNG

1. Khái niệm
Dịch vụ là những hoạt động và kết quả mà một bên (người bán) có thể cung
cấp cho bên kia (người mua) và chủ yếu là vô hình không mang tính sở hữu.
Hoạt động dịch vụ mang tính phục vụ chuyên nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu của
con người và xã hội. Dịch vụ vó thể gắn liền hay không gắn liền với một sản
phẩm vất chất.
“Dịch vụ công là những hoạt động của các tổ chức nhà nước hoặc của các
doanh nghiệp, tổ chức xã hội, tư nhân được nhà nước ủy quyền để thực hiện
nhiệm vụ do pháp luật quy định, phục vụ trực tiếp những nhu cầu thiết yếu
chung của cộng đồng, công dân; theo nguyên tắc không vụ lợi; đảm bảo sự công
bằng và ổn định xã hội” (TS. Chu Văn Thành, Dịch vụ công và xã hội hóa dịch
vụ công - một số vấn đề lý luận và thực tiễn, trang15).
Trong điều kiện cụ thể của nền kinh tế nước ta hiện nay, dịch vụ công được
chia làm hai loại cơ bản sau:
- Một là loại dịch vụ có tính chất công cộng phục vụ các nhu cầu chung, tối
cần thiết của cả cộng đồng và mỗi người dân:
Trên thực tế có những loại dịch vụ rất quan trọng phục vụ nhu cầu chung của
cả cộng đồng, nhưng không một tư nhân nào muốn cung ứng vì nó không mang
lại lợi nhuận, hoặc vì tư nhân không có đủ quyền lực và vốn liếng để tổ chức

việc cung ứng chẳng hạn như dịch vụ tiêm chủng, cứu hỏa, xây dựng cầu
đường… Đó là những loại dịch vụ tối cần thiết phục vụ cho cuộc sống của
người dân và xã hội.
Cũng có những loại dịch vụ mà tư nhân có thể cung cấp nhưng cung cấp
không đầy đủ hoặc thi trường tư nhân tạo ra sự bất bình đẳng trong xã hội gây ra
tình trạng độc quyền, đẩy giá lên cao làm ảnh hưởng đến lợi ích người tiêu dung
chẳng hạn như dịch vụ y tế, giáo dục, cung cấp điện nước sinh hoạt,… khi đó
3


nhà nước phải có trách nhiệm cung ứng điều tiết nhằm đảm bảo cho sự phát
triển của người dân.
- Hai là các hoạt động gắn với thẩm quyền của nhà nước để đáp ứng các
quyền và nghĩa vụ hợp pháp của các tổ chức và công dân
Để thực hiện chức năng quản lý nhà nước, nhà nước phải tiến hành các hoạt
động phục vụ trực tiếp các tổ chức và công dân. Các hoạt động này được họi là
dịch vụ hành chính công mà nhà nước có nhiệm vụ cung ưng cho xã hội để đảm
bảo cho xã hội phát triển có kỷ cương, trật tự. Để thực hiện hoạt động này nhà
nước sử dụng quyền lực nhà nước có tính cưỡng chế đơn phương đối với xã hội
như cấp các loại giấy phép, đăng ký, chứng thực…Các loại giấy tờ này chỉ có
giá trị khi được các cơ quan nhà nước xác nhận chúng bằng thẩm quyền của
mình.
Từ khái niệm về dịch vụ và dịch vụ công như trên chúng ta có thể rút ra được
khái niệm về dịch vụ công cộng như sau: dịch vụ công cộng là các hoạt động
phục vụ lợi ích chung tối cần thiết của cả cộng đồng, do nhà nước trực tiếp
đảm nhận hay ủy nhiệm cho các cơ sở ngoài nhà nước thực hiện nhằm đảm
bảo trật tự và công bằng xã hội.
2. Đặc điểm của dịch vụ công cộng
- Dịch vụ công cộng là dịch vụ do nhà nước đảm nhận thực hiện: điều này
có nghĩa là nhà nước luôn phải can thiệp vào quá trình cung ứng dịch vụ để đáp

những đòi hỏi của công dân và xã hội ít nhất ở mức độ tối thiểu.
- Dịch vụ công cộng có thể do nhà nước trực tiếp cung ứng hoặc ủy quyền
cho các đơn vị ngoài nhà nước cung ứng theo các tiêu chuẩn do nhà nước xác
định. Chẳng hạn như trong lĩnh vực y tế, nhà nước cũng đã giao cho tư nhân
nhưng ở chừng mực nào đó vẫn có sự kiểm soát của nhà nước. Nếu cá nhân hay
tổ chức nào muốn mở phòng khám thì phải được nhà nước cấp phép bên cạnh đó
trong quá trình hoạt động nhà nước vẫn phải quản lý về chất lượng lẫn số lượng.
- Là loại dịch vụ mà khi sử dụng có thể người sử dụng sẽ phải trả một
khoản chi phí nhất định. Việc trả chi phí đó có thể được thực hiện trực tiếp hay
gián tiếp. Chẳng hạn như, khi người dân sử dụng điện, nước sạch hay dịch vụ vệ
4


sinh môi trường do nhà nước cung cấp thì phải đóng một khoản lệ phí cho nhà
nước hoay tổ chức tư nhân cung ứng tùy theo mức độ sử dụng nhiều hay ít.
3. Phân loại dịch vụ công cộng
Dịch vụ công nói chung và dịch vụ công cộng nói riêng cần phải có sự phân
loại một cách rõ ràng. Việc phân loại này nhằm mục đích: Thứ nhất, xuất phát từ
chủ thể cung ứng: dựa vào đặc điểm của mỗi một loại dịch vụ cụ thể mà chủ thể
có thể dễ dàng lựa chọn loại dịch vụ phù hợp với điều kiện kinh tế, năng lực đáp
ứng mà họ có thể tham gia cung ứng cho xã hội. Thứ 2, từ đối tượng hưởng thụ,
dựa vào các loại dịch vụ khác nhau đã được phân ra một cách cụ thể mà người
dân, tổ chức có thể dễ dàng lựa chọn loại dịch vụ nào đang cần thiết mà họ đang
cần. Thứ 3, từ góc độ quản lý nhà nước, việc phân loại theo những tiêu chí chính
xác, hợp lý, không bỏ sót sẽ là điều kiện thuận lợi để nhà nước quản lý tốt dịch
vụ công; đồng thời đưa ra được các cơ chế quản lý phù hợp, chính sách phát
triển tốt cho từng loại dịch vụ khác nhau, xem xét xem loại dịch vụ nào có thể xã
hội hóa, dịch vụ nào nhà nước nên đảm nhận. Như vậy, việc phân loại dịch vụ
công cũng như dịch vụ công cộng là một khâu hết sức quan trọng của nhà nước
trong công tác quản lý dịch vụ công.

Căn cứ phân loại dịch vụ công cộng: có thể căn cứ vào nhiều cách phân loại
khác nhau về dịch vụ công cộng nhưng phân loại theo hình thức sử dụng dịch vụ
cụ thể thì có thể phân loại dịch vụ công thành:
- Dịch vụ cung cấp điện, nước sinh hoạt: là loại dịch vụ tối cần thiết đối với
đời sống con người trong thời đại ngày nay, đặc biệt trong các thành phố lớn.
Nhu cầu về điện, nước sinh hoạt ngày càng tăng cùng với sự phát triển kinh tế
-xã hội của mỗi quốc gia.
- Dịch vụ xử lý và thoát nước thải, nước mưa: là những hoạt động mởi
mang, khơi thong cống rãnh, mương máng, xử lý các chất thải công nghiệp
trước khi đổ vào hệ thống thoát nước thải chung
- Dịch vụ thu gom và xử lý rác thải: rác thải ngày càng trở thành vấn đề
lớn khiến chính phủ phải quan tâm giải quyết. Đây là nguồn phế thải được tạo ra
với tốc độ ngày càng lớn cũng với đời sống của công nghiệp hiện đại và nhịp độ
5


đô thị hóa. Việc thu gom rải thải là nhiệm vụ quan trọng để bảo vệ tài nguyên
mối trường.
- Dịch vụ vận tải công cộng: Nhà nước giữ vai trò quan trọng trong việc
đảm bảo giao thông thông suốt và liên tục ở mọi nơi, mọi lúc
- Dịch vu bảo dưỡng đường sá: là hoạt động sửa chữa, bảo dưỡng, duy tu
các tuyến đường giao thông công cộng. Dịch vụ chăm sóc sức khỏe: là những
dịch vụ y tế về khám chữa bệnh, tiêm chủng, phòng chống bệnh tật…..
- Dịch vụ giáo dục
- Dịch vụ văn hóa, thông tin.
4. Vai trò của nhà nước trong cung ứng dịch vụ công cộng
Chúng ta đều biết rằng, nhà nước của bất kỳ chế độ nào cũng bao gồm hai
chức năng cơ bản: chức năng quản lý (hay còn gọi là chức năng cai trị) và chức
năng phục vụ (hay còn gọi là chức năng cung cấp dịch vụ cho xã hội). Hai chức
năng này thâm nhập vào nhau, trong đó chức năng phục vụ là chủ yếu, chức

năng quản lý xét đến cùng cũng nhằm phục vụ. Với chức năng phục vụ, như đã
phân tích ở các phần trên, nhà nước có trách nhiệm cung ứng các dịch vụ công
thiết yếu cho xã hội. Bên cạnh đó, với chức năng quản lý, nhà nước phải thực
hiện vai trò quản lý và điều tiết xã hội nói chung, trong đó có vấn đề dịch vụ
công. Nhà nước bằng quyền lực của mình, thông qua các công cụ quản lý vĩ mô
như pháp luật, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, để quản lý và điều tiết hoạt
động cung ứng dịch vụ công, qua đó làm tăng hiệu quả cung ứng dịch vụ công
trong toàn xã hội. Nhìn chung, nhà nước trong cung ứng dịch vụ công cũng như
dịch vụ công cộng bao gồm:
- Nhà nước hỗ trợ, khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức phi
chính phủ, các tổ chức tự quản của cộng đồng tham gia cung ứng dịch vụ công.
Vai trò này vượt ra khỏi phạm vi quản lý nhà nước thuần túy, xuất phát từ
việc xác định trách nhiệm cao nhất và đến cùng của nhà nước trong lĩnh vực
dịch vụ công không có nghĩa là nhà nước phải trực tiếp cung ứng toàn bộ các
dịch vụ này. Thực hiện vai trò này, nhà nước cần hoàn thiện cơ chế, chính sách
khuyến khích tư nhân, các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội của người dân
6


tham gia cung ứng dịch vụ công. Cơ chế, chính sách ấy bao gồm: vạch rõ những
lĩnh vực dịch vụ cần khuyến khích sự tham gia của khu vực phi nhà nước, chính
sách hỗ trợ tài chính, chính sách thuế, các điều kiện vật chất, các chính sách đào
tạo, kiểm tra và kiểm soát.
Nhà nước cần tạo ra một môi trường pháp lý chung cho tất cả các đơn vị
cung ứng dịch vụ công, đảm bảo một sân chơi bình đẳng cho tất cả các nhà cung
ứng dịch vụ công.
- Nhà nước quản lý, kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ sở ngoài nhà
nước cung ứng dịch vụ công.
Xét cho cùng, nhà nước vẫn là người chịu trách nhiệm cuối cùng trước xã hội
về số lượng cũng như chất lượng dịch vụ công, kể cả các dịch vụ công được

thực hiện bởi các công ty tư nhân hay các tổ chức kinh tế-xã hội. Trong khi đó,
đối với các công ty tư nhân, các tổ chức, cá nhân đảm nhận các dịch vụ công, lợi
ích của chính bản thân họ không phải bao giờ cũng thống nhất với lợi ích của
nhà nước, của xã hội. Vì vậy, nhà nước phải tạo ra cơ chế để các tác nhân bên
ngoài nhà nước khi đảm nhận các dịch vụ công thực hiện mục tiêu xã hội. Xây
dựng hệ thống chỉ tiêu chất lượng dịch vụ công để đánh giá hoạt động của các
đơn vị cung cấp, giám sát và kiểm tra hoạt động của các cơ sở này. Nhà nước
cần định hướng phát triển đối với khu vực tư nhân, hướng khu vực tư nhân vào
những lĩnh vực mà tư nhân hoạt động hiệu quả, đồng thời tạo môi trường cạnh
tranh lành mạnh nhằm không ngừng cải tiến việc cung ứng dịch vụ công cho xã
hội. Điều cốt lõi là nhà nước phải cân nhắc, tính toán và giải quyết thỏa đáng
mối quan hệ giữa lợi ích của nhà nước, của xã hội với lợi ích của tổ chức và cá
nhân tham gia cung ứng dịch vụ công.
II.

DỊCH VỤ VỆ SINH MÔI TRƯỜNG

1. Sự cần thiết nhà nước phải cung ứng dịch vụ vệ sinh môi trường
Môi trường có vai trò hết sức quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của
con người nhưng ngày nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, dân
số tăng nhanh, môi trường sống của chúng ta đã và đang bị đe dọa, nhất là ô
7


nhiễm môi trường và cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên. Nếu tình trạng này không
được giải quyết một cách kịp thời và hiệu quả thì hậu quả xảy ra là rất nghiêm
trọng: biến đổi khí hậu, dịch bệnh,… Nhà nước với vai trò của mình, phải đứng
ra giải quyết những tồn tại đó, do vậy, cung ứng dịch vụ vệ sinh môi trường
nhằm góp phần làm cho môi trường sống sạch sẽ, đảm bảo cho sự tồn tại và phát
triển chung của con người.

2. Đặc trưng của dịch vụ vệ sinh môi trường
- Chất thải là một trong những yếu tố gâu ra tình trạng ô nhiễm môi trường,
Đời sống kinh tế - xã hội càng phát triển thì lượng chất thải các loại (rắn, lỏng,
khí độc hại…) sản sinh ra càng lớn, nhất là ở các khu đô thị, nơi tập trung dân
cư và hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong khí đó, khả năng tiếp nhận và đồng
hóa của môi trường đối với các chất thải là có hạn, cho nên nếu không được
kiểm soát tốt thì chất thải sẽ là nguyên nhân phá vỡ trạng thái cân bằng của môi
trường. Vì vậy, việc nghiên cứu những biện pháp quản lý chất thải, thu gom và
xử lý các loại chất thải là hết sức cần thiết.
- Một trong những biện pháp chủ yếu để thực hiện những nhiệm vụ nêu
trên là việc tổ chức tốt dịch vụ vệ sinh môi trường tại các khu đô thị và nông
thôn.
- Dịch vụ vệ sinh môi trường là loại dịch vụ hết sức cần thiết đối với đời
sống xã hội, nhất là trong giai đoạn hiện nay khi nền kinh tế phát triển và tốc độ
đô thị hóa và việc xây dựng, phát triển nông thôn mới ngày càng cao. Đó là loại
dịch vụ nhằm làm đẹp môi trường, bao gồm thu gom rác thải, chất thải rắn ở các
khu dân cư, các cơ quan nhà nước, trường học, bệnh viện, khu vui chơi giải trí ,
các chợ, trung tâm thương mại - dịch vụ, các cơ sở sản xuất, cơ sở chế biến hàng
hóa…; dịch vụ làm sạch các hệ thống nước thải, xử lý chất thải.
- Dich vụ vệ sinh môi trường là loại dịch vụ mang tính công ích, một loại
dịch vụ thuộc trách nhiệm cung ứng của Nhà nước với các đặc điểm chủ yếu
sau:


Là loại dịch vụ luôn gắn chặt với các khu đô thị, các khu tập trung

dân cư, các trung tâm công nghiệp, thương mại,…
8





Dịch vụ được thực hiện không cố định về không gian, thời gian mà

mà rác thải trên khắp địa bàn, thời điểm.


Là loại dịch vụ vất vả, nặng nhọc, khó tính toán chính xác khối

lượng thực hiện.


Tuy là một nghề nhưng những người thực hiện dịch vụ ít được xã

hội tôn trọng, quan tâm đúng mức;


Người nhận dịch vụ trực tiếp trả tiền một phần giá trị dịch vụ được

cung ứng bằng hình thức trả lệ phí vệ sinh môi trường.


Chất lượng vệ sinh môi trường phụ thuộc vào chất lượng của hạ

tầng kỹ thuật như quy hoạch đô thị, hệ thống đường giao thông…
- Với những đặc điểm như vậy, dịch vụ vệ sinh môi trường là loại dịch vụ
nhằm phục vụ nhu cầu chung của cộng đồng, mang những đặc điểm của dịch vụ
công công. Việc cung ứng dịch vụ vệ sinh môi trường thuộc về trách nhiệm của
Nhà nước.
3. Chủ thể cung ứng dịch vụ vệ sinh môi trường

Thời gian trước đây, dịch vụ vệ sinh môi trường được xem là một loại dịch vụ
công nên chỉ có nhà nước độc quyền thực hiện. Tuy nhiên gần đây, do thực hiện
chủ trương xã hội hoá công tác bảo vệ môi trường, tại nước ta đã xuất hiện các
công ty tư nhân, công ty cổ phần, hợp tác xã, viện trường trung tâm nghiên cứu
tham gia cung ứng dịch vụ vệ sinh môi trường. Ngoài ra, các hoạt động hợp tác
quốc tế cũng huy động được sự hỗ trợ của nước ngoài vào thực hiện các dịch vụ
vệ sinh môi trường.
Đối với khu vực Nhà nước:
Nhìn chung, ở mỗi tỉnh và thành phố đều có một số công ty phụ trách về môi
trường trên địa bàn tỉnh, dưới đó là các công ty cấp quận, huyện. Tuỳ từng địa
phương mà cơ cấu tổ chức khác nhau. Tại một số địa phương, các công ty vệ
sinh môi trường, công ty cấp nước sạch, công ty cấp thoát nước đều thuộc khối
doanh nghiệp công ích và trực thuộc Sở Giao thông công chính, Sở Tài nguyên
và Môi trường, Sở Xây dựng hoặc Uỷ ban nhân dân tỉnh/thành phố, . Dù là trực
thuộc dưới một đơn vị chủ quản nào, các đơn vị dịch vụ vệ sinh môi trường đều
9


được cấp một khoản kinh phí hàng năm từ ngân sách Nhà nước để thực hiện
nhiệm vụ bảo vệ môi trường trên địa bàn tỉnh, thành phố. Các hoạt động được
thực hiện chủ yếu là đầu tư cho hệ thống hạ tầng môi trường như cấp thoát nước,
thu gom và xử lý chất thải rắn.
Đối với khu vực tư nhân:
Tính đến nay khu vực tư nhân đã tham gia cung ứng vào nhiều lĩnh vực dịch
vụ vệ sinh môi trường với nhiều mức độ khác nhau như cấp thoát nước, xử lý
nước thải, khí thải, thu gom rác thải, hoạt động tư vấn, thiết kế... 40% lượng rác
thải tại TP Hồ Chí Minh được thu gom bởi các công ty tư nhân. Việc các nhà
đầu tư tư nhân tham gia ngày càng nhiều vào dịch vụ môi trường là một xu
hướng tích cực, phù hợp yêu cầu xã hội hoá công tác bảo vệ môi trường. Tuy
nhiên, họ còn gặp nhiều khó khăn trong triển khai, ứng dụng vì nhiều lý do:

năng lực tài chính của các doanh nghiệp tư nhân có hạn, Nhà nước lại chưa có
những chính sách cụ thể nhằm tạo mọi điều kiện, nhất là về nguồn vốn, vì thế
các doanh nghiệp phải vừa triển khai ứng dụng, vừa hoàn thiện, chưa đủ cơ sở
để thuyết phục các địa phương tự bỏ vốn hoặc vay vốn xây dựng nhà máy.
4. Nội dung cung ứng dịch vụ vệ sinh môi trường
a) Ban hành pháp luật, đổi mới hoạt động kiểm tra, thanh tra, giám sát các
hoạt động mang tính bảo vệ môi trường: Qua việc xây dựng một khung hành
lang pháp lý có sức mạnh, chúng ta sẽ dễ dàng thực hiện các công tác bảo vệ
môi trường cũng như giám sát hoạt động của các doanh nghiệp và người dân.
Dịch vụ vệ sinh môi trường là một chuỗi các hoạt động diễn ra một liên tục,
hàng ngày, hàng giờ và nó được tiếp diễn liên tục trong hoạt động, đời sống
hàng ngày của người dân. Dịch vụ này bao gồm hai hoạt động chính là thu gom
và xử lý rác thải.
b) Thu gom và xử lý rác thải sinh hoạt: rác thải sinh hoạt là loại rác việc sinh
hoạt hàng ngày, bao gồm rác thải hữu cơ và rác thải vô cơ và nước thải sinh
hoạt. Hàng ngày, lượng rác thải ở Hà Nội khoảng hơn 3000 tấn/ ngày, trong đó
phần lớn là các chất thải rắn, vô cơ, nước thải. Chất thải sinh hoạt phát sinh mọi
lúc, mọi nơi và vì thế để xử lý triệt để nguồn chất thải này cần một nguồn lực
10


khá lớn, từ các hố chôn rác cho tới các nhà máy xử lý chất thải, áp dụng các
công nghệ tiên tiến để tái chế, sử dụng lại những chất thải có thể dùng được;
quan trọng hơn là mỗi người dân phải biết cách phân loại rác thải từ trong chính
nhà mình. Hà Nội đã triển khai chương trình phân loại rác – 3R từ năm 2007, và
gần như chương trình này không được thực hiện đến nơi đến chốn, dẫn đến kết
quả không như mong đợi.
Xử lý là nước thải từ những khu công nghiệp, mỗi nhà máy, xí nghiệp muốn
tiến hành sản xuất thì cần có nước vì thế, lượng nước thải từ các xí nghiệp thải
ra môi trường là rất lớn (khoảng 1 triệu mét khối nước thải/1 ngày đêm). Trong

đó có khoảng 75% số này là chưa xử lý và xả thẳng ra môi trường, đây là một
điều đáng báo động và lo ngại với môi trường. Quản lý thật chặt chẽ các khu
công nghiệp cũng như các doanh nghiệp đang sản xuất trong đó, yêu cầu tối
thiếu là phải lắp đặt các hệ thống xử lý nước thải với công nghệ hiện đại, đấy là
điều cần thiết cho sự phát triển bền vững, bởi lẽ nước thải từ quá trình sản xuất
của các doanh nghiệp đôi khi cũng là những chất thải gây nguy hại lớn đối với
môi trường (mà vụ việc Vedan, Tung Quang là những ví dụ điển hình cho hậu
quả của việc chúng ta không quản lý chặt chẽ các doanh nghiệp)
c) Xử lý chất thải rắn công nghiệp: là những loại chất thải rắn được phát sinh
từ bất kỳ một hoạt động nào trong quy trình sản xuất công nghiệp từ quá trình
khai thác, chế biến, sử dụng... đều sinh ra các chất thải rắn công nghiệp. Các loại
chất thải rắn công nghiệp đều có đặc tính là vật chất trong môi trường nên nó sẽ
chiếm diện tích, không gian, đôi khi có giá trị sử dụng, tái chế, vì vậy xử lý chất
thải rắn công nghiệp không những làm giảm diện tích của chúng trong môi
trường tự nhiên mà còn phải tận dụng chúng để tái chế sử dụng vào những mục
đích khác nhau. Ví dụ, việc xử lý chất thải là những viên gạch vụn, đá ta có thể
nghiền nhỏ chúng hoặc gắn kết chúng lại với nhau thành những khối bê tông;
hay là xử lý các chai nhựa sau khi sử dụng, chúng ta có thể mang tái chế lại
nhiều lần...
d) Xử lý chất thải nguy hại phát sinh từ các bệnh viện, phòng thí nghiệm, các
cơ sở sản xuất hóa chất; chất thải nguy hại bao gồm cả chất thải rắn và nước
11


thải: Theo quyết định số 23/2006/QĐ – Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định
danh mục các loại chất thải nguy hại, có rất nhiều hoạt động phát sinh chất thải
nguy hại ví dụ như: chất thải từ các ngành thăm dò, khai thác, chế biến khoáng
sản, dầu khí và than, chất thải từ ngành sản xuất hóa chất vô cơ, hữu cơ, chất
thải từ ngành luyện kim, chất thải từ hoạt động y tế và thú y, chất thải từ các cơ
sở tái chế.... Với một danh mục rất dài các loại chất thải, yêu cầu các cơ quan

chức năng phải liên tục áp dụng những chính sách mới, khoa học công nghệ hiện
đại để có thể xử lý tốt nhất các chất thải này, làm giảm ảnh hưởng của các loại
chất thải này tới môi trường và sức khỏe người dân.
e) Vệ sinh môi trường đô thị như: làm sạch đường phố, cấp thoát nước, trồng
và chăm sóc cây xanh đô thị. Ở các đô thị lớn, mật độ dân số cao, lưu lượng
người tham gia giao thông lớn, vì thế, đường phố sẽ chịu nhiều sức ép từ rác thải
sinh hoạt, khói bụi của các phương tiện giao thông..... nên vệ sinh đường phố
cũng là một phần công việc của những người cung ứng dịch vụ cung ứng dịch
vụ vệ sinh môi trường. Ngoài ra để hè phố luôn thông thoáng, sạch sẽ thì nhiệm
vụ quan trọng là cấp thoát nước đạt hiệu quả tốt.
Tiến hành làm giảm ô nhiễm bụi và ô nhiễm tiếng ồn, theo thống kê của các
tổ chức phi chính phủ cho thấy, ô nhiễm bụi ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí
Minh đang rất trầm trọng, kết quả của nhiều cuộc điều tra của các tổ chức phi
chính phủ cho thấy, ô nhiễm không khí ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh rất
lớn, lượng bụi trong không khí nhiều gấp 40 lần các thành phố trong khu vực
như Bangkok, Singapore, vì thế nhu cầu của người dân ở các thành phố lớn là
được sống trong một môi trường trong lành, đáp ứng nhu cầu này, những nhà
quản lý cần có một chương trình để giải quyết vấn đề ô nhiễm không khí, đáp
ứng nhu cầu của người dân, tạo ra một môi trường trong lành, nâng cao mức
sống cho người dân.
5. Kinh nghiệm quốc tế trong cung ứng dịch vụ vệ sinh môi trường
5.1: Mô hình hợp tác công tư - Pulic Private Partership (PPP)

12


Trong những năm gần đây, vấn đề ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên
thiên nhiên, biến đổi khí hậu đã và đang tác động đến mọi mặt lên đời sóng kinh
tế xã hội nước ta. Với vai trò cung ứng các dịch vụ công nói chung, dịch vụ môi
trường nói riêng, NN luôn là người chịu trách nhiệm chủ yếu trong việc đảm bảo

tài chính cho dịch vụ nói trên. Sự tham gia của khu vực ngoài NN vào dịch vụ
môi trường ngày càng nhiều là một xu hướng tích cực, phù hợp với yêu cầu xã
hội hóa công tác bảo vệ môi trường. Tuy nhiên họ còn gặp nhiều khó khăn trong
triển khai, ứng dụng vì nhiêu lí do: năng lực tài chính của nhiều DN tư nhân có
hạn, NN lại chưa có những cơ chế cụ thể nhằm tạo mọi điều kiệ nhất là về
nguồn vốn.
Ở nước ta, khái niệm hơp tác công tư – Pulic Private Partership (PPP) vẫn
còn là khái niệm mới mẻ. Tuy nhiên, ở nhiều nước trên thế giới đã áp dụng mô
hình này rất thành công trong công tác bảo vệ môi trường.
Hợp tác công tư (PPP) là giả pháp tăng nguồn vốn, công nghệ và quản lý từ
tư nhân. Các dự án PPP có các dự án đặc trưng, ví dụ như, các mối quan hệ lâu
dài, bao gồm việc hợp tác với các đối tác công cộng và đối tác tư nhân trên các
khía cạnh khác nhau của một dự án đã được lập từ trước.các cơ cấu vốn lien kết
các nguồn vốn của khu vực công cộng và tư nhân,trong đó cơ quan chủ quản
đóng vai trò quan trọng trong mỗi giai đoạn của dư án, đối tác công cộng chú
trọng vào việc xác định các mục tiêu cần đạt được. Có sựu phân chia rủi ro giữa
các đối tác khu vực công và đối tác thuộc khu vực tư nhân.
Tại việt nam khái niệm PPP còn mới, và dường như chỉ sử dụng trong các
mô hình xây dựng, kinh doanh và chuyển giao (BOT), hợp đồng hợp tác kinh
doanh (BCC)…. Tuy nhiên, khái niệm PPP rộng hơn rất nhiều có thể sử dụng
trong nhiều lĩnh vực khác nhau như: dịch vụ cấp nc, dịch vụ vệ sinh, phát điện
quy mô nhỏ,….Và kinh nghiệm quốc tế cho thấy, hiện nay các nước phát triển,
đang phát triển đang áp dụng mô hình hợp tác tư nhân (PPP) trong các dịch vụ
công, trong đó có dịch vụ môi trường đã và đang thu được những kết quả nhất
định.
13


Ở Việt Nam, dù có nhiều lợi thế nhưng thực tế việc khu vực tư nhân tham
gia cung cấp dịch vụ cơ sở hạ tầng, trong đó có sơ sở hạ tầng về môi trường còn

khiêm tốn.
Những lý do thường được đưa ra để giải thích cho việc thiếu sự tham gia
của khu vực tư nhân là chính phủ có thái độ không nhất quán về đầu tư tư nhân
và những kỳ vọng không thực tế mà những gì mà khu vực tư nhân có thể đem
lại. Tổng hợp các ý kiến từ diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam đc Alan Johnson
tổng kết trong Kỷ yếu hội thảo PPP năm 2006, với các mối quan ngại chính
trong phát triển PPP ở Việt Nam như sau:


Môi trường pháp lý chung cho PPP, thiếu một cơ quan quản lý nhà nước

về PPP, việc bảo lãnh của Chính phủ chưa rõ ràng, thời hạn chuyển giao, quyền
sở hữu dự án BOT trong nhiều lĩnh vực ko rõ ràng, mâu thuẫn giũa các văn bản
pháp luật hiện hành( như Nghị định về BOT, luật Đầu tư chung, Luật thuế thu
nhập doanh nghiệp), sự không chắc chăn của chính phủ về bảo vệ môi trường.


Triển khai dự án: sự không chắc chắn về vai trò của chính phủ ( những cơ

quan phát triển dự án) và nhà đầu tư tư nhân trong việc chịu chi phí và rủi ro
trong khi phát triển dự án; quyền ưu tiên thực sự của các dự án được phát triển
theo mô hình PPP, thủ tục mua sắm phức tạp và lắt léo bao gồm cả việc ký kết
các hợp đồng qua thương lượng với các doanh nghiệp đc ưu tiên thay vì một hệ
thống đấu thầu cạnh tranh, cởi mở và minh bạch, các kỳ vọng và chi tiêu không
thực tế về bù đắp chi phí và tỉ suất lợi nhuận trong các dự án PPP, đặc biệt là
cách thức ấn định và điều chỉnh mức giá và lệ phí mà người sử dụng phải trả.
• Tài trợ cho dự án: các quy định chặt chẽ quá mức về dự trữ quy đổi ngoại
hối và chuyển ngoại tệ; không rõ ràng về đảm bảo nợ vay và quyền đc can thiệp
của người cho vay trong trường hợp chậm trả nợ hoặc khi dự án hoạt động yếu
kém.

Ngoài ra, những lý do được cho là thách thức ngăn cản sự mô hình PPP ở
việt Nam như chất lượng cơ sở hạ tầng về số lượng và chất lượng.
14


Từ những thách thức trên có thể thấy rằng để PPP đc áp dụng rộng rãi và
phát huy có hiệu quả ưu thế của nó cần giả quyết một số vấn đề sau:
Một là, song song với các hoạt động triển khai thí điểm PPP theo quyết
định 71/2010/ QD-TTg của Thủ tướng chính phủ cần tiến hành nghiên cứu để
sươm ban hành nghị định về PPP, đảm bảo sự rõ ràng về vai trò của chính phủ,
thời hạn chuyển giao, quyền sở hữu dự án tài sản, quy chế kí kết hợp đồng, đấu
thầu cạnh tranh, quy chế thanh toán và quản lý phí dịch vụ,… trong các dự án
PPP; giả quyết đc các mâu thuẫn giữa các văn bản pháp luật hiện hành như Nghị
định về BOT, Luật đầu tư chung, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp,…
Hai là, nghiên cứu thành lập một cơ quan quản lý nhà nước về PPP, có đủ
năng lực thực hiện đàm phán kí kết các hợp đồng PPP, hỗ trợ địa phương hay
giả quyết khúc mắc liên quan.
5.2: Một số kinh nghiệm của các nước trên thế giới về cung ứng dịch vụ
vệ sinh môi trường
Các nước thuộc liên minh châu Âu(EU):
EU là một trong những khu vực có yêu cầu rất cao về môi trường, do vậy hệ
thống các chính sách và quy định về môi trường cũng hết sức chặt chẽ và phức
tạp. Là liên minh các quốc gia có trình độ phát triển và ý thức xã hội trong lĩnh
vực môi trường tương đối cao, EU có điều kiện phát triển ngành môi trường như
một ngành kinh tế độc lập, đóng góp đáng kể cho thu nhập quốc dân và việc làm
của các nước thành viên. Trong EU, các ngành công nghiệp môi trường hay
công nghiệp sinh thái, bao gồm các hoạt động sản xuất hàng hóa và cung cấp
các dịch vụ để xác định, ngăn ngừa, hạn chế, giảm thiểu hoặc khắc phục nhưng
thiệt hại đối với nước, không khí và đất cũng như vấn đề liên quan đến chất thải,
tiếng ồn và hệ sinh thái. Ngành công nghiệp môi trường đc phân chia thành các

phân ngành cụ thể như: Xử lý nước thải; Kiểm soát ô nhiễm không khí; Quản lý
chất thải; Tối ưu hóa các quy trình; Giám sát va thực thi các mục tiêu môi
trường; Dich vụ tư vấn và thiết kế môi trường; Dịch vụ phân tích môi trường;
15


Khai thác nguồn lợi của nước, Khôi phục nguồn tài nguyên; Năng lượng tái
sinh,…
Nhằm phát triển ngành dịch vụ môi trường, các quốc gia thuộc EU đã đưa
ra hàng loạt các chính sách khác nhau. Cộng hòa Áo ban hành một Nghị định về
bao bì với mục tiêu đặt ra là khuyến khích tái chế tới 80% chất thải. Bỉ cũng áp
dụng hàng loạt quy định về sử dụng nguyên liệu tái chế và tái xử lý những chất
thải gây hại. Đan Mạch xây dựng một chương trình hành động về chất thải và tái
chế. Phần Lan cũng đạt ra mục tiêu tăng tỷ lệ tái chế giấy thải tới mức yêu càu
chung của EU. Pháp đạt ra quy định là mọi chất thải phải được qua xử lý, đồng
thời ban hành một nghị định yêu cầu các doanh nghiệp phải tái chế các bao gói
họ thải ra hoặc tự chuyển cho các đơn vị có chức năng tái chế. Vương quốc Anh
cũng đặt ra mục tiêu tái chế và giảm thiểu ¾ lượng chất thải sinh hoạt hoặc cao
hơn một số chất thải cụ thể.
Ngoài ra, một số quốc gia nhấn manh việc sử dụng công cụ kinh tế nhằm
đảm bảo sự tuân thủ thay cho các quy định khác như: Thổ nhĩ Kỳ đánh thuế chất
thải, Na Uy đánh thuế đối với lượng CO thải ra để khuyến khích tái chế hoặc
thải ra đối với 26 loại chất thải và giảm lượng chất thải nói chung. Một số nước
còn áp dụng hình thức thỏa thuận tự nguyện của ngành đối với chính phủ như ở
Áo, Hà Lan…..

Trung Quốc:
Từ những năm 90 của thế kỷ 20 mức tăng trưởng hàng năm của ngành bảo vệ
môi trường đạt 15% cao hon rất nhiều so với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế
quốc dân Trung Quốc cùng thời kỳ. Ủy ban bảo vệ môi trường Trung Quốc đã

áp dụng một số biện pháp để thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp môi
trường, bao gồm: yêu cầu chính quyền và phòng ban các cấp dành sự quan tâm
chiến lược đến phát triển ngành môi trường bằng các xác định ngành môi trường
16


là một lĩnh vực ưu tiên ttrong quá trình tái cơ cấu các ngành kinh tế , áp dụng cơ
chế thị trường đối với các ngành sản xuất hàng hóa môi trường và cung cấp dịch
vụ môi trường, tạo cho họ môi trường cạnh tranh bình đẳng. Đặc biệt, Trung
Quốc còn ban hành một số chính sách quản lý liên quan đến dịch vụ môi
trường , như các quy định về công tác đánh giá tác động môi trường, quy định
quản lý dịch vụ quan trắc môi trường, quy định về cấp phép hoạt động thiết kế
cơ khí môi trường; các quy tắc quản lý liên quan đến vận hành các thiết bị môi
trường; các chính sách tài chính và thuế liên quan đến dịch vụ môi trường; các
chính sách cho vay vốn ưu đãi phát triển dịch vụ môi trường và chính sách ưu
đãi về thuế thu nhập đối với daonh nghiệp môi trường.
Trước đây,các trạm xử lý nước thải cấp nước sạch và xử lý rác thải đều do
chính quyền địa phương quản lý các dịch vụ môi trường khác thì do các đơn vị
nhà nước như Viện, Trường đảm nhận. Gần đây, đã có các đơn vị kinh doanh
thu được tỷ suất lợi nhuận ở mức trung bình khi tham gia vào ngành. Trung
Quốc cũng đã xác định nguyên tắc chuyển đổi các đơn vị nghiên cứu về môi
trường của nhà nước thành các doanh nghiệp hoặc các tổ chức phi chính phủ về
môi trường. Trong lĩnh vực dịch vụ công ích như xử lý nước thải, một số tỉnh
như Quảng Đông đã khuyến khích đầu tư tư nhân và đầu tư nước ngoài vào xây
dựng các công trình xử lý nước thải theo phương thức BOT. Hoặc các tổ chức cá
nhân trả một khoản phí nào đó cho Nhà Nước để sử dụng hạ tầng cơ sở mà nhà
nước đã xây dựng và thực hiện các dịch vụ môi trường thu phí. Các hình thức đa
dạng này đã góp phần đáng kể trong việc tạo ra cơ hội cho phát triển dịch vụ
môi trường của Trung Quốc.
Thái Lan:

Chính Phủ đã có nhiều cải cách trong việc xây dựng và thực thi các chính
sách về môi trường. Giải quyết vấn đề ô nhiễm không khí, Thái Lan đã thực hiện
nhiều biện pháp và chính sách như đóng cửa các nhà máy không thực thi các
quy định về môi trường, chuyển từ xăng lẫn chì sang xăng không chì, nâng cao
chất lượng diesel thông qua ưu đãi về thuế diesel có hàm lượng sulphur ít hơn,
17


sử dụng công nghệ sạch, khuyến khích đầu tư mới để xây dựng lại các cơ sở
công nghiệp đảm bảo cải thiện môi trường và xây dựng hệ thống xe điện trên
không
Dịch vụ xử lý nước thải được tiến hành bởi chính quyềnđịa phương. Tuy
nhiên, các cơ quan địa phương lại gặp phải vấn đề trong việc đưa chi phí xử lý
vào phí dịch vụ nước sạch. Gần đây, khu vực tư nhân ngày càng tham gia nhiều
hơn vào lĩnh vực này nhằm giảm bớt nhu cầu về vốn đầu tư, mua công nghệ mới
của khu vực nhà nước và hợp lý hóa giá dịch vụ này. Khu vực tư nhân được
tham gia dưới hình thức liên doanh, với tỷ lệ góp vốn của cơ quan quản lý nước
thải không quá 30%.
Về chất thải công nghiệp đặc biệt là chất thải độc hại, việc xử lý được thực
hiện bởi cơ chế độc quyền. Cụ thể là, chỉ một công ty tư nhân GENCO được cấp
giấy phép xử lý chất thải công nghiệp. Ngay từ khi bắt đầu hoạt động GENCO
có trách nhiệm xử lý chất thải công nghiệp và hộ gia đình trên khắp cả nước.
Hoạt động của công ty này hiệu quả, vì thế chính phủ chỉ tập trung đầu tư rất ít
vào lĩnh vực này.
Thứ nhất, phát triển dịch vụ môi trường cần gắn liền với mở của kêu gọi đầu
tư của khu vực tư nhân và nước ngoài. Trong trương hợp thấy cần thiết phải có
sự tham gia của khu vực tư nhân để cung cấp các dịch vụ môi trường nhằm giảm
bớt gánh nặng ngân sách thì nhà nước cũng cần có chính sách thu hồi, khuyến
khích khu vực tư nhân tham gia trên tinh thần khu vực này vừa đạt được lọi ích
riêng, mà vẫn đảm bảo hiệu quả về môi trường. Nhà Nước cần phải có nhưng

biện pháp quản lý tốt khu vực tư nhân trong suốt qua trình tham gia của họ vào
dịch vụ môi trường. Đặc biệt là khu vực tư nhân được khuyến khích tham gia thì
ở một mức độ hợp lý như trường hợp công ty GENCO của Thái Lan.
Thứ hai nâng cao ý thức cho các tầng lớp xã hội đặc biệt là các doanh nghiệp.
Sự thành công của ngành công nghiệp môi trường EU cũng bắt nguồntừ sự thay
đâỏi nhận thức của giới doanh nghiệp.Để có được sự thay đổi căn bản này trước
18


hết phải xuất phát từ định hướng chính sách hợp lý của các nhà lãnh đạo cũng
như việc ban hành các chính sách trợ cấp trong những ngành có thế mạnh, trợ
cấp cho nghiên cứu phát triển dịch vụ môi trường, và thậm chí còn tận dụng cả
ngoại tệ của tổ chức thương mại thế giới WTO để trợ cấp nâng cao cơ sở hạ tầng
về môi trường. Chính sách này đã góp phần khuyến khích, đẩy mạnh sự phát
triển của khu vực doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực này. Đặc biệt, việc mở
cửa cho các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài thành lập hiện diện thương mại
thực chất là khuyến khích đầu tư nước ngoài.
Thứ ba hình thành chính sách tài chính và thuế liên quan để phát triển ngành
dịch vụ môi trường. Sử dụng các công cụ kinh tế để khuyến khích đầu tư của tư
nhân và nước ngoài vào lĩnh vực môi trường, theo cơ chế thị trường như vay
vốn ưu đãi và giảm thuế thu nhập. hình thức này giống như Chính Phủ Trung
Quốc đã ban hành chính sách cho vay vốn ưu đãi phát triển dịch vụ môi trường
và chính sách ưu đãi về thuế thu nhập đối với doanh nghiệp môi trường. Hay
như liên minh châu âu thực hiện hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp dưới nhiều
hình thức khi gặp khó khăn trong thực hiện chính sách môi trường, khoảng 20%
tổng chi phí cần thiết.
Thứ tư, cần xây dựng một hệ thống văn bản pháp luât đầy đủ, về các lĩnh vực
khoa học công nghệ, môi trường. Luôn cân nhắc đến yếu tố môi trường trong bất
kỳ quyết định hay chính sách kinh tế nào nhằm tránh trường hợp phải trả giá
như Thái Lan trong những năm đầu phát triển. Bên cạnh đó, lập các chiến lược,

kế hoạch dài hạn cho phát triển dịch vụ môi trường nhằm tăng khả năng cạnh
tranh cho các doanh nghiệp trong nước trước khi mở cửa thị trường dịch vụ môi
trường.
Thứ năm, thiết lập các hình thức kinh doanh phù hợp, đa dạng nhằm thu hút
sự tham gia của tư nhân và nước ngoài vào lĩnh vực dịch vụ môi trường như cho
thuê cơ sở hạ tầng của nhà nước, hình thức BOT. Dần chuyển đổi các đơn vị
nghiên cứu ( viện, trường, trung tâm )của nhà nước sang các hình thức kinh
doanh phù hợp dựa trên thế mạnh vốn có để tăng tính cạnh tranh của các đơn vị
19


này đồng thời giảm gánh nặng ngân sách nhà nước. Với phương thức cải cách
thể chế này Trung Quốc đã khá thành công trong việc phát triển dịch vụ môi
trường. Chính quyền hỗ trợ một số công ty môi trường chủ chốt, khuyến khích
các công ty môi trường nhà nước quy mô lớn và trung bình đảm nhận việc phát
triển và sản xuất các hàng hóa về môi trường.

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CUNG ỨNG DỊCH VỤ VỆ SINH MÔI
TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.

Khái quát về môi trường ở Việt Nam

Môi trường : bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo quan hệ
mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất,
sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên. Bảo vệ môi trường được hiểu
là những hoạt động giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp, cải thiện môi
20



trường, bảo đảm cân bằng sinh thái, ngăn chặn, khắc phục các hậu quả xấu do
con người và thiên nhiên gây ra cho môi trường, khai thác, sử dụng hợp lý và
tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên.
Thực trạng môi trường ở Việt Nam hiện nay:
Việt Nam là 1 trong những đất nước đang phát triển cùng với đó là sự phát
triển mạnh mẽ của các ngành kinh tế - xã hội, quá trình công nghiệp hóa – hiện
đại hóa kéo theo sự mọc lên của các đô thị, các khu công nghiệp, dân số tăng
nhanh. Nhưng mặt trái của sự phát triển đó là “ô nhiễm một cách toàn diện”.
Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, tình trạng ô nhiễm môi trường ở nước ta
đang có xu hướng gia tăng và ngày càng trở nên nghiêm trọng, nhất là đối với
chất thải rắn, nước thải và không khí. Điều này đang gây bức xúc, ảnh hưởng
xấu tới đời sống sinh hoạt của nhân dân tại nhiều khu vực...
Nhìn chung, tình trạng ô nhiễm môi trường đang là một trong những vấn đề
mang tính toàn cầu chứ không riêng gì Việt Nam chúng ta. Vì vậy, giải quyết
vấn đề này, các nước thế giới cũng đã có sự kết hợp với nhau tìm ra giải pháp
phù hợp.
2. Thực trạng cung ứng dịch vụ vệ sinh môi trường ở Việt Nam hiện nay
2.1 Cung ứng dịch vụ vệ sinh môi trường ở đô thị
Theo Tổng cục Thống kê, đến cuối năm 2010, dân số trung bình cả nước ước
tính 86,93 triệu người, tăng 1,05% so với năm 2009, bao gồm dân số nam 42,97
triệu người, chiếm 49,4% tổng dân số cả nước, tăng 1,09%; dân số nữ 43,96
triệu người, chiếm 50,6%, tăng 1%. Trong tổng dân số cả nước năm 2010, dân
số khu vực thành thị là 26,01 triệu người, chiếm 29,9% tổng dân số, tăng 2,04%
so với năm trước; dân số khu vực nông thôn là 60,92 triệu người, chiếm 70,1%,
tăng 0,63%. Mức độ tăng dân số nhanh, đặc biệt là ở các trung tâm đô thị lớn,
càng gây áp lực lên hệ thống cơ sở hạ tầng vốn đã lạc hậu, không bắt kịp với tốc
độ tăng trưởng và gây thêm những khó khăn thách thức đối với lĩnh vực kỹ thuật
hạ tầng, đặc biệt là cấp thoát nước và vệ sinh môi trường.

21



Về hiện trạng quản lý chất thải rắn đô thị, lượng chất thải rắn phát sinh trong
cả nước (bao gồm cả chất thải rắn đô thị, công nghiệp, y tế, nông thôn, CTNH)
từ 2003 tới 2008 tăng khoảng 1,5 đến 2 lần. Năm 2008 tổng lượng chất thải rắn
phát sinh lên tới 27,9 triệu tấn/ năm. Khoảng 80% chất thải rắn được sinh ra từ
các hộ gia đình, nhà hàng, chợ và các khu thương mại. Tổng số chất thải rắn
sinh ra từ các khu công nghiệp là khoảng 2.7 triệu tấn/năm, chiếm khoảng 17%.
Hàng năm có khoảng 160.000 tấn/năm (khoảng 1%) chất thải nguy hại sinh ra từ
các trung tâm y tế, các vật liệu dễ cháy và chất thải nguy hại từ các quá trình sản
xuất công nghiệp, thuốc trừ sâu và vỏ thuốc trừ sâu từ các sản phẩm nông
nghiệp. Hiện nay, chủ yếu CTR được chôn lấp tự nhiên hoặc chôn lấp có kiểm
soát. Toàn quốc có khoảng 98 bãi chôn lấp CTR tập trung (trong đó chỉ có 16
bãi đươc coi là chôn lấp hợp vệ sinh). Đã có một số cơ sở chế biến CTR hữu cơ
thành phân Compost, cơ sở xử lí CTNH, CT y tế bằng phương pháp thiêu đốt,
công suất nhỏ. Nhìn chung, lượng chất thải rắn được tái chế, tái sử dụng rất
thấp.Tổng cục Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường cho biết, lượng chất
thải rắn sinh hoạt tại các đô thị ở nước ta đang có xu thế phát sinh ngày càng
tăng, tính trung bình mỗi năm tăng khoảng 10%. Tỷ lệ tăng cao tập trung ở các
đô thị đang có xu hướng mở rộng, phát triển mạnh cả về quy mô lẫn dân số và
các khu công nghiệp, như các đô thị tỉnh Phú Thọ (19,9%), thành phố Phủ Lý
(17,3%), Hưng Yên (12,3%), Rạch Giá (12,7%), Cao Lãnh (12,5%)... Các đô thị
khu vực Tây Nguyên có tỷ lệ phát sinh chất thải rắn sinh hoạt tăng đồng đều
hàng năm và với tỷ lệ tăng ít hơn (5,0%). Dự báo tổng lượng chất thải rắn sinh
hoạt đô thị đến năm 2020 khoảng gần 22 triệu tấn/năm. Việc thu gom và xử lý
chất thải rắn ở các đô thị từ loại IV trở lên được thực hiện bởi các Công ty Môi
trường đô thị. Tại các thị trấn và thị tứ nhỏ thì các nhóm và hợp tác xã môi
trường chịu trách nhiệm cung cấp dịch vụ thu gom và chôn lấp hay đốt chất thải
rắn. Hiện nay tại các đô thị có cách thu gom chất thải rắn như sau: tại một thời
điểm quy định trong ngày, các xe rác sẽ đi thu gom rác ở các vỉa hè và các phố

nhỏ, công nhân sẽ đẩy các xe rác và đánh kẻng để thông báo cho người dân
mang rác từ trong nhà (được đựng trong các túi nilong) và vứt lên xe rác. Khi xe
22


rác đầy, rác thải này sẽ được thu gom về 1 bãi rác tạm thời tại đầu phố. Công
nhân sẽ tiếp tục thu gom rác ở các khu vực khác. Đến khoảng nửa đêm, các xe
tải to chở rác với công suất 6-12m3 sẽ đến thu gom rác tại các bãi rác tạm thời
và vận chuyển rác đến bãi chôn lấp.Đối với rác thải công nghiệp và rác thải bệnh
viện, Chính phủ quy định các cơ sở y tế và các nhà máy phải có trách nhiệm thu
gom và xử lý chất thải rắn của mình. Tuy nhiên, trên thực tế, điều luật này
không được thực hiện và có rất ít số liệu về thu gom và xử lý chất thải rắn y tế
và công nghiệp. Hầu hết các cơ sở sản xuất công nghiệp và y tế ký hợp đồng với
công ty môi trường đô thị địa phương thu gom chất thải rắn. Trong một số
trường hợp, các chất thải độc hại, mặc dù đã được phân loại trong bệnh viện hay
sở sản xuất công nghiệp, vẫn bị trọn lẫn với rác thải thông thường trước khi
công ty môi trường đô thị đến thu gom.
Hiện nay các rác thải sinh hoạt được xử lý chủ yếu bằng các cách sau: tái
chế, chôn lấp, đốt tại các bãi chôn lấp và làm phân compost. Một số mô hình xử
lý rác hướng tới sản xuất viên đốt hay đốt trực tiếp rác để sinh nhiệt năng đang
được thử nghiệm bước đầu. Hầu hết các hệ thống xử lý rác thải nguy hại đều
chưa đáp ứng được tiêu chuẩn. Các hoạt động kiểm tra cũng như đôn đốc các cơ
sở công nghiệp thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải nguy hại còn bộc lộ nhiều
yếu kém. Hiện nay, việc xử lý chất thải công nghiệp là trách nhiệm của đơn vị
sản xuất cũng như đơn vị quản lý khu công nghiệp. Quản lý chất thải y tế thuộc
trách nhiệm của Bộ Y tế.
Ngày 17/12/2009, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định ban hành Chiến
lược Quốc gia về Quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm 2025, tầm nhìn đến
năm 2050, với quan điểm quản lý tổng hợp chất thải rắn là trách nhiệm chung
của toàn xã hội. Tiếp sau đó, ngày 25/5/2011, Thủ tướng Chính phủ cũng ký

Quyết định 798/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình xử lý chất thải rắn giai đoạn
2011– 2020. Theo đó, từ nay đến 2020, 70% tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt
nông thôn phát sinh phải được thu gom và xử lý đảm bảo tiêu chuẩn môi trường,
trong đó 60% được tái chế, tái sử dụng. Từ 2011-2015, 85% tổng lượng chất thải
rắn sinh hoạt đô thị phát sinh phải được thu gom và xử lý đảm bảo tiêu chuẩn
23


môi trường, trong đó 60% được tái chế, tái sử dụng. Đến năm 2020 các chỉ tiêu
này lần lượt là 90% và 85%. Từ 2016-2020, 90% tổng lượng chất thải rắn công
nghiệp không nguy hại; 100% tổng lượng chất thải rắn y tế không nguy hại và
nguy hại phát sinh tại các cơ sở y tế, bệnh viện được thu gom và xử lý đảm bảo
tiêu chuẩn môi trường. Để thực hiện được các mục tiêu trên, Nhà nước sẽ có các
chính sách ưu đãi, hỗ trợ về đất đai (miễn tiền sử dụng đất, hỗ trợ giải phóng
mặt bằng), thuế, đầu tư hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật đến chân hàng rào công
trình (đường giao thông, năng lượng, cấp điện, cấp nước, thoát nước, thông tin
liên lạc), hỗ trợ nghiên cứu và phát triển công nghệ xử lý chất thải rắn, hỗ trợ
đào tạo lao động và vay vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước được áp dụng theo
quy định hiện hành.Quyết định nêu rõ, ưu tiên theo vùng, miền các dự án được
lựa chọn xây dựng như sau: Các địa phương là trung tâm vùng; khu du lịch; các
địa phương có công trình xử lý chất thải rắn có tính chất vùng theo quy hoạch đã
được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; các địa phương thuộc vùng đồng bằng
sông Cửu Long thường xuyên bị ngập lụt; các địa phương đang sử sụng bãi chôn
lấp không hợp vệ sinh và chưa có các dự án đầu tư hoặc bãi chôn lấp đã hết hạn
sử dụng và không mở rộng quy mô.
Hiện nay, ô nhiễm môi trường đang là vấn đề cấp bách trên mỗi quốc gia, và
cả thế giới và có rất nhiều phương án để khắc phục, giảm thiểu hậu quả quả của
ô nhiễm môi trường gây ra. Trong đó việc xử lý và thu gom rác thải sinh họat
gặp nhiều khó khăn cả về phương tiện và phương pháp, hiện nay phổ biến là
việc thực hiện 3R (Reduce: giảm thiểu, Reuse: sử dụng lại, Recycle: tái chế)

đang được áp dụng tại một số thành phố lớn trên thế giới trong đó có thủ đô Hà
Nội (Việt Nam) vài năm gần đây.
Nhưng vẫn có nhiều vấn đề phải nhắc đến, ở Việt Nam cách thức áp dụng
hình thức 3R là mỗi công nhân vệ sinh môi trường đến từng hộ gia đình phát 3
túi nilon đựng rác hữc cơ, vô cơ; do đó việc áp dụng vẫn chưa đại trà, tốn nhiều
công sức công nhân, việc phát túi nilon tới hộ gia đình khi túi nilon hỏng bản
thân nó lại là rác thải cho môi trường! Trong khi đó, công việc bảo vệ môi

24


×