Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

Quản lý nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoàitại tỉnh U Đôm Xay - Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (908.06 KB, 89 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vốn và công nghệ là chìa khoá, là điều kiện hàng đầu để thực hiện thành
công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở mọi quốc gia và là xu thế của
thời đại.
Đầu tư nước ngoài là một giải pháp hữu hiệu, là một lợi thế mà các nước
đi sau có thể tận dụng để phát triển thay vì phải mất hàng trăm năm tích luỹ ban
đầu. Các quốc gia đi sau có thể "mượn vốn, công nghệ, kinh nghiệp quản lý…"
của các quốc gia đi trước nhằm tạo ra một gia tốc đủ lớn để chiến thắng sức ỳ
của nền kinh tế vốn đã còm cõi, lạc hậu.
Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào là một nước nghèo, nền kinh tế kém phát
triển nói chung và tỉnh U Đôm Xay nói riêng. Để vượt qua tình trạng đó, phải
mở cửa nền kinh tế, khai thác triệt để nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước. Từ
khi luật đầu tư nước ngoài được ban hành ngày 25/7/1988, cùng với cả nước, U
Đôm Xay đã không ngừng nỗ lực kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài vào U Đôm
Xay. Hiện nay, U Đôm Xay đang có 42 dự án vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương, cải thiện cơ sở hạ tầng kinh tế
và giải quyết được các vấn đề xã hội của tỉnh. Tuy nhiên việc thu hút và sử dụng
vốn đầu tư nước ngoài trong thời gian qua cũng bộc lộ nhiều yếu điểm mà
nguyên nhân chủ yếu là thuộc về sự quản lý, điều hành của Nhà nước. Hậu quả
là nhiều dự án đã suy giảm về số lượng dự án, lẫn số vốn đầu tư, trong đó nhiều
dự án phải rút giấy phép, hoặc phải đình chỉ trước thời hạn vì nhiều lý do. Làm
thế nào để ngăn chặn đã giảm sút đầu tư nước ngoài và tăng cường cạnh tranh
lấy vốn đầu tư nước ngoài là một nhiệm vụ được đặt ra cho nhà nước. Do vậy
tôi chọn đề tài nghiên cứu "Quản lý nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài
tại tỉnh U Đôm Xay - Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào" nhằm góp phần giải
quyết những vấn quản lý Nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài và quản


lý Nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài.
- Nghiên cứu hoạt động quản lý Nhà nước đối với việc thu hút và sử dụng
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh U Đôm Xay và đưa ra một số
giải pháp nhằm hoàn thiện công tác QLNN về đầu tư trực tiếp nước ngoài tại U
Đôm Xay.
3. Phương pháp nghiên cứu
Về mặt lý luận, luận văn dựa vào cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, các lý thuyết kinh tế và
quản lý Nhà nước về kinh tế. Về mặt phương pháp nghiên cứu, khoá luận sử
dụng phương pháp tiếp cận. Hệ thống, phương pháp thống kê, phân tích so sánh,
thu thập thông tin tài liệu để làm sáng tỏ nội dung của vấn đề nghiên cứu.
4. Kết cấu khoá luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung khoá luận gồm 3 chương:
Chương I: Quản lý nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Chương II: Thực trạng quản lý Nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài
tại tỉnh U Đôm Xay.
Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước đối với
đầu tư trực tiếp nước ngoài tại U Đôm Xay.

2


CHƯƠNG I
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
I. ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI

1. Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài
- Đầu tư là một khái niệm rộng, nên có nhiều quan niệm khác nhau về
Đầu tư theo nghĩa rộng: Có thể là quá trình bỏ vốn (bao gồm cả tiền,
nguồn lực, thời gian, trí tuệ, công nghệ…) để đạt được mục đích hay mục tiêu

nhất định nào đó. Những mục tiêu này có thể là mục tiêu về chính trị, kinh tế,
văn hoá, xã hội v.v… và cũng có khi chỉ là mục đích nhân đạo đơn thuần.
Đầu tư trong hoạt động kinh tế là quá trình bỏ vốn (bao gồm cả tiền, nhân
lực, nguyên liệu, công nghệ…) vào các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm
mục đích thu lợi nhuận. Đây được xem như là bản chất của đầu tư.
Đầu tư nói chung là sự hy sinh nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt
động nào đó nhằm thu về kết quả nhất định trong tương lai, lớn hơn các nguồn
lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó.
Nguồn lực đó có thể là tiền, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động, công
nghệ hay trí tuệ.
Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền, vốn),
tài sản vật chất (nhà máy, đường xá…) tài sản trí tuệ (trình độ văn hoá, chuyên
môn, khoa học kỹ thuật…) và nguồn lực có điều kiện làm việc có năng suất
trong nền sản xuất xã hội.
Do đặc tính tạo ra lợi ích lớn hơn chi phí, đầu tư là một trong những nhân
tố quan trọng nhất quyết định sự tăng trưởng, phát triển của mỗi quốc gia và của
từng doanh nghiệp. Nhận thức rõ những vai trò và lợi ích mà hoạt động đầu tư
mang lại, các nhà đầu tư trong nước tiến hành nghiên cứu thị trường, mở rộng
địa bàn hoạt động tại các quốc gia khác. Do đó, hoạt động đầu tư diễn ra mạnh
mẽ, vượt khỏi phạm vi quốc gia và trở thành nội dung cơ bản trong các quan hệ
kinh tế quốc tế. Gọi là đầu tư nước ngoài.
- Đầu tư nước ngoài (ĐTNN):
3


Là việc đưa những tài sản ứng trước dưới hình thức giá trị hoặc hiện vật
của chính phủ hay tổ chức, cá nhân nước ngoài trực tiếp vào nước tiếp nhận đầu
tư để thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ nhằm thu lợi nhuận
đạt các hiệu quả kinh tế xã hội .
Căn cứ vào tính chất sử dụng vốn, hiện nay ĐTNN được chia thành đầu tư

gián tiếp nước ngoài và đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Đầu tư gián tiếp nước ngoài: “Là một loại hình trao đổi vốn quốc tế
trong đó chủ đầu tư bỏ vốn đầu tư nhưng không trực tiếp quản lý và điều hành
hoạt động sử dụng vốn”. Hiện nay, đầu tư gián tiếp nước ngoài chủ yếu được
tiến hành dưới 3 hình thức sau:
+ Viện trợ phát triển chính thức (Otticial Development Assistance) viết tắt
là ODA. Đây là nguồn viện trợ song phương hoặc đa phương dưới dạng viện trợ
không hoàn lại hoặc cho vay với lãi suất thấp và thường đi kèm với các điều
kiện khác nhau.
+ Tín dụng thương mại: Là hoạt động vay và cho vay vốn với lãi suất thị
trường giữa các ngân hàng, các tổ chức tài chính quốc tế, các chính phủ…
+ Đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu của nước ngoài (Foreign Portfolio
Investment), viết tắt là FPI. Với loại hình này, người nước ngoài tham gia đầu tư
vào trái phiếu chính phủ, trái phiếu hoặc mua cổ phiếu của công ty nước ngoài
với trị giá thấp chưa đủ để tham gia vào ban điều hành doanh nghiệp (theo luật
doanh nghiệp từng nước). Chủ đầu tư được hưởng lãi suất cho vay hoặc lợi tức
cổ phần và họ không trực tiếp quản lý điều hành.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài: (Foreign Derect Investment), viết tắt là
FDI, “là hình thức đầu tư quốc tế mà chủ đầu tư nước ngoài đóng góp một số
vốn đủ lớn vào lĩnh vực sản xuất hoặc dịch vụ theo đó chủ đầu tư trực tiếp tham
gia quản lý, điều hành vốn đầu tư”.
Các nhà đầu thường sử dụng các hình thức sau để tiến hành đầu tư trực
tiếp nước ngoài.
+ Đầu tư trực tiếp nước ngoài thông qua thị trường chứng khoán với hình
thức này, nhà ĐTNN đầu tư và thị trường chứng khoán, nắm giữ cổ phần chi
4


phối và trực tiếp tham gia điều hành vốn tại nước nhận đầu tư. Hình thức đầu tư
này chưa suất hiện ở Lào vì thị trường chứng khoán ở Lào không phát triển và

chưa có văn bản pháp luật nào qui định cụ thể để tạo khung pháp lí thuận lợi cho
nhà đầu tư.
+ Đầu tư trực tiếp nước ngoài bằng cách đưa vốn hoặc các tài sản khác
vào nước nhận đầu tư. Theo điều lệ quốc tế, vốn FDI có thể đóng góp dưới
những dạng sau:
• Các loại ngoại tệ mạnh hoặc tiền nội địa.
• Các loại hiện vật hữu hình như: Nhà xưởng, nguyên vật liệu, hàng hoá,
tài nguyên (cả mặt đất, biển)…
• Các loại hàng hoá vô hình như: sức lao động, bí quyết công nghệ, bằng
phát minh, nhãn hiệu, uy tín của thương hiệu…
Đặc điểm của FDI:
+ Nhà đầu tư quyết định đầu tư, quyết định sản xuất, kinh doanh. Lợi
nhuận của nhà đầu tư thu được phụ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất, kinh
doanh được chia theo tỷ lệ góp vốn trong vốn pháp định sau khi đã nộp thuế thu
nhập và các khoản đóng góp khác cho nước sở tại.
+ Nhà đầu tư nước ngoài, điều hành, quản lý toàn bộ mọi hoạt động đầu
tư đối với doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài; tham gia điều hành doanh
nghiệp liên doanh theo tỷ lệ vốn góp của mình.
+ FDI không chỉ có sự lưu chuyển vốn mà còn thường đi kèm theo công
nghệ, kiến thức quản lý, kinh doanh và gắn với mạng lưới phân phối rộng lớn
lên phạm vi toàn cầu. Vì thế, đối với các nước nhận đầu tư, đặc biệt các nước
đang phát triển, thì hình thức đầu tư này tỏ ra có nhiều ưu thế hơn các hình thức
khác.
+ Nguồn FDI không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban đầu dưới hình thức vốn
pháp định, mà trong quá trình hoạt động, nó còn bao gồm vốn vay của doanh
nghiệp và vốn tái đầu tư từ lợi nhuận thu được.
2. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài

5



Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có thể tồn tại dưới nhiều hình thức khác
nhau tuỳ thuộc vào mức độ sở hữu vốn của nhà đầu tư. Trên thế giới hiện nay,
có các hình thức FDI chủ yếu sau:
+ Đầu tư độc lập: Đây là hình thức tồn tại của vốn nước ngoài có đặc
điểm như sau:
- Tồn tại dưới dạng doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài, chủ đầu tư
nước ngoài đầu tư vốn 100% tại nước sở tại; có quyền điều hành toàn bộ doanh
nghiệp theo qui định pháp luật của nước sở tại.
Tồn tại biệt lập trong một khu đặc biệt, được gọi bằng những tên cụ thể
như sau: Khu quá cảnh, khu công nghiệp, khu chế suất… tuỳ nội dung kinh tế cụ
thể và chế độ quản lý của nước sở tại đối với khu đó. Hình thức độc lập của
doanh nghiệp nước ngoài tại nước sở tại thể hiện dưới dạng đặc thù kinh tế nước
ngoài thực chất là một bộ phận kinh tế nước ngoài đóng trên lãnh thổ nước chủ
nhà.
Hình thức đầu tư độc lập được các nhà đầu tư nước ngoài ưa chuộng vì có
nhiều thuận lợi cho họ. Họ không phải tiếp xúc với sự phức tạp của môi trường
bản địa, không bị đối tác khai thác các bí mật công nghệ bí quyết kinh doanh.
Về phía nước sở tại, tuy không tiếp cận trực tiếp được các doanh nghiệp nước
ngoài nhưng với qui mô đầu tư lớn của doanh nghiệp nước ngoài, nước sở tại
vẫn có thể thu lợi nhuận như: giải quyết công ăn việc làm thường xuyên cho một
bộ phận lao động xã hội, có thị trường xuất khẩu tại chỗ nguồn nguyên vật liệu
cho sản xuất và phục vụ đời sống của người nước ngoài, thu được tài các loại
thuế.
+ Hình thức hội nhập:
Hội nhập bản địa là hình thức vốn nước ngoài tham gia vào kinh tế nội địa
được thể hiện theo hai hình thức cụ thể sau:
- Hình thức liên doanh: Hình thức này được sử dụng thông qua việc thành
lập một doanh nghiệp do các chủ đầu tư nước ngoài góp vốn chung với doanh
nghiệp nước sở tại trên cơ sở hợp đồng liên doanh, các bên cùng tham gia quản


6


lý điều hành doanh nghiệp; chia lợi nhuận và chịu rủi ro theo tỷ lệ góp vốn của
mỗi bên và vốn pháp định.
Doanh nghiệp liên doanh giúp cho các nhà ĐTNN và nước nhận đầu tư
kiếm được lợi ích trong doanh nghiệp. Sự trợ giúp của đối tác liên doanh trong
nước là phương thức hiệu quả giúp nhà đầu tư nước ngoài tiếp cận với môi
trường đầu tư mới với những đặc tính pháp lý, phong tục tập quán, văn hoá tiêu
dùng… Đổi lại, đối tác tại nước nhận được tài nhà ĐTNN sự trợ giúp về vốn,
công nghệ, kinh nghiệp quản lý, thông tin thị trường… và sự chia sẻ rủi ro trong
kinh doanh.
Đồng thời sự có mặt của đối tác trong nước trong hội đồng quản trị doanh
nghiệp liên doanh giúp chính phủ nước nhận đầu tư nhanh chóng nắm bắt kịp
thời điều chỉnh những hoạt động của nhà ĐTNN có nguy cơ xâm hại lợi ích
quốc gia, lợi ích đối tác, người lao động và người tiêu dùng trong nước.
Bên cạnh các mặt tích cực, doanh nghiệp liên doanh còn có các mặt hạn
chế. Do các bên có sự khác nhau về chế độ chính trị, phong tục tập quán, truyền
thống, văn hoá, ngôn ngữ, luật pháp nên dễ xuất hiện mâu thuẫn trong hoạt động
điều hành quản lý. Và nước sở tại thường bất lợi thế do tỷ lệ góp vốn thấp, năng
lực cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật yếu
- Hình thức hợp tác kinh doanh: Hai bên hoặc nhiều bên hợp tác kinh
doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh như hợp tác sản xuất phân chia
lợi nhuận, phân chia sản phẩm và các hình thức hợp tác kinh doanh khác.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh đem lại sự hỗ trợ về vốn và kinh nghiệm
kinh doanh đồng thời đảm bảo duy trì tính độc lập, linh hoạt trong quản lý kinh
doanh giữa các đối tác. Dự án được triển khai nhanh chóng giúp các bên kịp
thưòi tranh thủ thời cơ trong khai thác tổng hợp các nguồn lợi kinh tế trên lãnh
thổ nước nhận đầu tư.

Tuy nhiên do không thành lập thực thể pháp lý riêng biệt ỏ nước nhận đầu
tư mà không mang tính chịu trách nhiệm hữu hạn nên hình thức hợp đồng kinh
doanh gây khó khăn trong tuyển lao động và ký kết hợp đồng với các đối tác

7


khác để tiến hành các dự án đầu tư. Hơn nữa đây là hình thức bị hạn chế lĩnh
vực đầu tư và không được hưởng nhiều ưu đãi về thuế quan như hình thức khác.
Hình thức hội nhập là hình thức đầu tư nước ngoài có nhiều lợi ích cho
nước sở tại. Nó giúp cho nước sở tại tiếp cận được các khoa học công nghệ,
khoa học quản lý tiên tiến của thời đại. Đồng thời qua quan hệ liên doanh nhà
nước sở tại có thể phát huy vai trò nội lực của mình trong lý, sản xuất và kinh
doanh.
Ngoài ra các hình thức FDI phổ biến trên thế giới còn có các hình thức
khác như: BOT( xây dung- kinh doanh – chuyển giao), BTO( xây dung –
chuyển giao – kinh doanh), BT( xây dung – chuyển giao), …và các hình thức
được phân chia như sau:
Hình thức FDI theo bản chất của đầu tư
+ Đầu tư vào phương tiện hoạt động:Đầu tư vào phương tiện hoạtđộng là
hình thức đầu tư FDI trong đó công ty mẹ mua sắm và thiết lập các phương tiện
kinh doanh ở nước nhận đầu tư. Hình thức này làm tăng khối lượng đầu tư vào.
+ Hình thức mua lại và sáp nhập: Là hình thức FDI trong đó hai hay
nhiều doanh nghiệp có vốn FDI đang hoạt động sáp nhập vào nhau hoặc một
doanh nghiệp này (có thể hoạt động ở nước nhận đầu tư ở nước ngoài) mua lại
doanh nghiệp có vốn FDI ở nước nhận đầu tư. Hình thức này không nhất thiết
dẫn tới khối lượng đầu tư vào.
Hình thức FDI theo tính chất dòng vốn:
+ Vốn chứng khoán: Nhà đầu tư có thể mua cổ phần, hoặc trái phiếu do
doanh nghiệp trong nước nhận đầu tư phát hành.

+ Vốn tái đàu tư: Doanh nghiệp có vốn FDI có thể dùng lợi nhuận thu
được từ hoạt động kinh doanh trong quá khứ để đầu tư thêm.
+ Vốn vai nội bộ hay giao dịch nợ nội bộ: Giữa các chi nhánh hay một
công ty con trong cùng một công ty đa quốc gia, có thể cho vay để đầu tư hay
mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp của nhau.
Việc đa dạng hoá các hình thức đầu tư nhằm nâng cao tính hấp dẫn môi
trường đầu tư, đẩy mạnh hoạt động đầu tư.
8


3. Sự cần thiết khách quan của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng phát triển chung của
thế giới. Đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng là nội dung của vấn đề trên. Do vậy
đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng là một xu hướng phát triển khách quan của các
quốc gia.
+ Đối với các quốc gia đầu tư (các nhà đầu tư).
Các nhà đầu tư tại các quốc gia phát triển có xu hướng đầu tư ra bên ngoài
để khắc phục tình trạng bão hoà của thị trường tiêu thụ các sản phẩm hàng hoá
và dịch vụ trong nước, khai thác các lợi thế của thị trường ngoài biên giới quốc
gia.
Ngoài ra các nhà đầu tư ở các quốc gia phát triển thường gặp khó khăn,
do sự không đồng đều giữa các yếu tố đầu vào của sản xuất. Tuy đã có đủ vốn
cho quá trình tái sản xuất nhưng nhà đầu tư thường gặp khó khăn do thiếu tài
nguyên, đất đai để xây dựng nhà xưởng hoặc chi phí cho các yếu tố đầu vào quá
cao. Trước nguy cơ bị suy giảm lợi nhuận một cách nghiêm trọng nếu tiếp tục
đầu tư trong nước, các nhà đầu tư có sự chuyển hướng nguồn vốn ra nước ngoài,
nơi các yếu tố chi phí sản xuất có lợi thế so sánh như: giá nhân công rẻ, nguồn
tài nguyên dồi dào, địa điểm tiêu thụ sản phẩm thuận lợi, ít đối thủ cạnh tranh…
Chiến lược chuyển hướng này cho phép nhà đầu tư thu nhiều lợi nhuận
hơn và đạt được các mục tiêu khác như: mở rộng qui mô hoạt động, chiếm lĩnh

thị phần…
+ Đối với quốc gia nhận đầu tư.
Thu hút FDI là một nhu cầu tất yếu nhằm bổ sung vốn, khắc phục, tình
trạng thiếu vốn do tỷ lệ tích luỹ nội bộ thấp đồng thời khai thác tốt hơn các thế
mạnh như tài nguyên, lao động, thị trường… của quốc gia mình. Đồng thời nó là
cơ hội để tiếp nhận các tiến bộ vượt bậc của khoa học công nghệ ở các quốc gia
phát triển thúc đẩy nhu cầu máy móc thiết bị hiện đại nhất trong các doanh
nghiệp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của mình.
Như vậy tính chất khác biệt của các yếu tố sản xuất giữa các quốc gia dẫn
đến sự xuất hiện nhu cầu đi đầu tư và nhu cầu được đầu tư trong đó các bên đều
9


phải tìm thấy ở FDI những lợi ích của mình dù ở mức độ lợi nhuận có thể khác
nhau. Khi cung và cầu đầu tư gặp nhau, dòng vốn được di chuyển khỏi biên giới
quốc gia này và trực tiếp tham gia hoạt động kinh tế ở quốc gia khác. Do đó FDI
trở thành một tất yếu khách quan và có xu hướng ngày càng phát triển và phong
phú đa dạng với các loại hình khác nhau.
4. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với quá trình phát triển kinh
tế xã hội ở các nước chậm và đang phát triển
Hiện nay, FDI không phải chỉ có ở các nước chậm phát triển và đang phát
triển mà ở cả những nước tư bản phát triển. Trong phần này tác giả chỉ nó về vai
trò của FDI đối với các nước chậm phát triển và đang phát triển.
Trong suốt mấy chục năm qua, FDI ngày càng thể hiện rõ vai trò quan
trọng của nó đối với sự phát triển kinh tế xã hội rất nhiều quốc gia. Ngày nay,
vai trò của FDI đã khẳng định nó có đem những lợi thế quan trọng cho các nước
tiếp nhận đầu tư trong phát triển kinh tế xã hội.
Thứ nhất, FDI bổ sung vốn cho nền kinh tế.
FDI là nguồn vốn quan trọng giúp các nước tiếp nhận đầu tư cơ cấu lại
nền kinh tế, thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội, thúc đẩy tăng trưởng và phát

triển. FDI không chỉ bổ sung nguồn vốn đầu tư phát triển mà còn là một luông
vốn ổn định hơn so với các loại vốn đầu tư quốc tế như vốn ODA…, FDI dựa
trên triển vọng tăng trưởng, không tạo ra nợ cho chính phủ nước nhận đầu tư và
không bị rằng buộc về điều kiện của nhà đầu tư , vì thế ít thay đổi khi tình huống
bất lợi.
Thứ hai, FDI cung cấp công nghệ mới.
Đối với các nước chậm phát triển như Lào, đi tắt đón đầu để có công nghệ
mới trong quá trình phát triển kinh tế là một đòi hỏi bức thiết hiện nay. Con
đường thuận lợi nhất để làm được điều đó là thông qua FDI, đây được coi là
nguồn quan trọng để phát triển khả năng công nghệ của nước nhận đầu tư. Vai
trò này được thể hiện thông qua việc chuyển giao công nghệ sẵn có từ các nhà
đầu tư trực tiếp nước ngoài và phát triển khả năng công nghệ từ các cơ sở nghiên
cứu, ứng dụng của nước chủ nhà (cũng được mong đợi từ các nhà ĐTNN).
10


Phần lớn công nghệ được chuyển giao giữa các chi nhánh của các công ty
xuyên quốc gia sang nước chủ nhà; được thông qua doanh nghiệp 100% vốn
nước ngoài và doanh nghiệp liên doanh mà bên nước ngoài nắm tỷ lệ lớn cổ
phần dưới dạng công nghệ.
Bên cạnh việc chuyển giao các công nghệ sẵn có, thông qua FDI, các
doanh nghiệp FDI còn góp phần nâng cao năng lực nghiên cứu phát triển công
nghệ của nước chủ nhà. Đồng thời, trong quá trình tham gia liên doanh, các
doanh nghiệp trong nước có thể học tập được từ công nghệ nguồn và cải tiến
phù hợp với điều kiện trong nước. Để khai thác tốt nguồn vốn, đem lại hiệu quả
kinh tế cao, chuyển giao công nghệ là một phương pháp tất yếu. Tuy nhiên, thực
tiễn cho thấy, chỉ khi nào đội ngũ những người lao động ở các nước tiếp nhận
đầu tư có khả năng sử dụng thành thạo các thiết bị hiện đại, có năng lực tổ chức
quản lý giỏi, nguồn FDI mới có điều kiện để phát huy tác dụng.
Thứ ba, FDI giúp phát triển nguồn nhân lực và giải quyết việc làm.

FDI góp phần tăng qui mô hoạt động hoặc thành lập các doanh nghiệp,
ngành nghề kinh doanh mới, thu hút thêm lao động. Đặc biệt, đi theo các dự án
FDI là các ngành dịch vụ và gia công cho các dự án này, tạo thêm nhiều cơ hội,
việc làm cho người lao động. Đây là môi trường tốt để giải quyết tình trạng lao
động dư thừa ở các nước chậm và đang phát triển. Đồng thời FDI cũng tạo ra
thu nhập cho người lao động và có tác động tích cực trong phát triển nguồn nhân
lực của nước chủ nhà; thông qua việc tạo điều kiện cho những người lao động
làm việc trong các doanh nghiệp có vốn FDI có cơ hội học hỏi, tiếp nhận khoa
học công nghệ, rèn luyện kỹ năng lao động, năng lực tổ chức quản lý ở trình độ
cao.
Nguồn lực quan trọng này chính là nhân tố đảm bảo cho các nước nhận
đầu tư có điều kiện rút ngắn khoảng cách tụt hậu, nâng cao khả năng cạnh tranh
của nền kinh tế. Thực tiễn cho thấy, không ở đâu có điều kiện nâng cao khả
năng tiếp cận công nghệ hiện đại và phương thức quản lý có hiệu quả bằng các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trong các lợi ích mà FDI đem lại thì lợi

11


ích về việc làm và nâng cao trình độ cho thế hệ những người lao động mới và
vấn đề có giá trị và ý nghĩa quan trọng hơn cả.
Thứ tư, FDI thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế không chỉ là đòi hỏi của bản thân sự
phát triển nội địa nền kinh tế, mà cò là đòi hỏi của xu hướng quốc tế hoá đời
sống kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu hiện nay. FDI là một bộ phận
quan trọng của hoạt động kinh tế đối ngoại, thông qua đó, các quốc gia sẽ tham
gia ngày càng sâu sắc vào quá trình phân công lao động quốc tế, vào quá trình
liên kết kinh tế giữa các nước trên thế giới, đòi hỏi mỗi quốc gia phải thay đổi
cơ cấu kinh tế của mình cho phù hợp. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của mỗi
quốc gia phù hợp với trình độ phát triển chung của thế giới, sẽ tạo điều kiện

thuận lợi cho FDI. Ngược lại, FDI cũng góp phần thúc đẩy nhanh quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước chủ nhà, thông qua việc tạo ra nhiều lĩnh vực
ngành nghề kinh tế mới và góp phần nâng cao nhanh chóng kỹ thuật, công nghệ
ở nhiều ngành kinh tế, tăng năng suất lao động ở các ngành này.
Ngoài ra, với tác động của FDI, một số ngành nghề truyền thống được
kích thích phát triển, nhưng cũng có một số ngành nghề phát triển chậm lại và
dần bị xoá bỏ.
Thứ năm, FDI tạo điều kiện mở rộng thị trường và thúc đẩy xuất khẩu.
Xuất khẩu là yếu tố quan trọng của tăng trưởng và cân bằng cán cân
thương mại của mỗi nước. Nhờ xuất khẩu, những lợi thế so sánh của các nhân tố
sản xuất của nước chủ nhà được khai thác có hiệu quả hơn.
Các nước chậm và đang phát triển, tuy có khả năng sản xuất với mức chi
phí có thể cạnh tranh được nhưng vẫn rất khó khăn trong việc thâm nhập vào thị
trường quốc tế. Vì thế khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài hướng vào xuất
khẩu luôn là ưu đãi trong chính sách thu hút FDI của các nước này. Thông qua
FDI, các nước nhận đầu tư có thể tiếp nhận với thị trường thế giới, vì hầu hết
các hoạt động FDI đều có công ty xuyên quốc gia và đa quốc gia thực hiện. Ở
tất cả các nước đang phát triển, các công ty xuyên quốc gia, đều đóng vai trò
quan trọng trong việc đẩy mạnh xuất khẩu do vị thế và uy tín của chúng trong hệ
12


thống sản xuất và thương mại quóc tế; Đây cũng là điều kiện đẩy nhanh quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước đang phát triển.
Ngoài ra, FDI còn đem lại một số lợi thế khác cho nước chủ nhà như tăng
nguồn thu ngân sách nhà đầu tư các khoản thuế, tiền thuê đất, và thu lợi nhuận;
đa dạng hoá sản phẩm, chất lượng cao, giá cả hợp lý, thoả mãn nhu cầu tiêu
dùng ngày càng cao của các tầng lớp dân cư…
5. Một số hạn chế của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với nước nhận đầu tư
Bên cạnh những đóng góp to lớn của FDI vào nền kinh tế xã hội, FDI

cũng gây ra những tác động bất lợi tới nước nhận đầu tư. Đứng về phía Quản lý
Nhà nước, cần phải nhìn nhận vấn đề này và luôn có những biện pháp thích
đáng.
FDI có thể gây ra các hậu quả sau:
+ Nếu sử dụng nhiều vốn ĐTNN nói chung và FDI nói riêng có thể dẫn
đến việc thiếu chú trọng huy động sử dụng vốn trong nước, gây ra sự mất cân
đối trong đầu tư. Từ đó các loại hình đầu tư nước ngoài có thể gây nên sự phụ
thuộc của nền kinh tế vào vốn nước ngoài, thậm chí còn lệ thuộc bí quyết kỹ
thuật, công nghệ, đầu mối cũng cấp vật tư, nguyên liệu, tiêu thụ sản phẩm…
Nếu vốn FDI chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư phát triển, tính độc lập tự
chủ của nước nhận đầu tư có thể bị ảnh hưởng, nền kinh tế bị lệ thuộc vào bên
ngoài, thiếu vững chắc nhất là khi dòng vốn có sự biến động, giảm sút.
Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định "Mọi sự vận hiện tượng muốn tồn tại
và phát triển là phục thuộc vào các yếu tố bên trong". Do vậy cần phải khai thác
mọi tiềm lực, thế mạnh bên trong một cách tối đa là chính và khai thác bên
ngoài là để hỗ trợ.
+ Các nhà ĐTNN đầu tư là nhằm kiếm lợi nhuận. Do vậy nhờ sự yếu kém
trình độ công nghệ, trình độ quản lý của nước nhận đầu tư, một số nhà ĐTNN đã
lợi dụng nó để tiêu thụ các máy móc thiết bị lạc hậu thậm chí hết hạn sử dụng,
gây ảnh hưởng tiêu cực cho nước nhận đầu tư.
+ Cũng xuất phát từ lợi nhuận các nhà ĐTNN có thể lợi dụng những lợi
thế tài chính của mình gây cạnh tranh các doanh nghiệp trong nước bằng cách
13


"chuyển giá" thông qua việc cung ứng nguyên liệu, thiết bị vật tư, linh kiện…
với giá cao để thu lợi. Do đó giá thành sản phẩm được đẩy lên cao, làm giảm
doanh thu của các doanh nghiệp trong nước, ảnh hưởng đến người tiêu dùng và
làm giảm thu ngân sách của nước nhận đầu tư.
+ Ngoài ra một số doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thực hiện chính

sách cạnh tranh bằng con đường bán phá giá, chịu lỗ trong giai đoạn đầu để lấn
át các doanh nghiệp trong nước, khống chế thị trường, ảnh hưởng đến một số
ảnh sản xuất trong nước.
+ Trong diễn biến chính trị quốc tế các quốc giá có thể dùng biện pháp
kinh tế để phá hoại nhau. Đặc biệt đối với các nước xã hội chủ nghĩa như Việt
Nam, Lào, những kẻ thù bên ngoài có thể dùng các biện pháp kinh tế thông qua
các hình thức FDI, trợ giúp… để phá hoại ta.
Do vậy đứng về phía QLNN, Nhà nước cần phải nhận thức đúng đắn và
có những biện pháp phù hợp để vừa thu hút FDI một cách hiệu quả vừa tranh
những bất lợi do FDI gây ra.
II. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI

Quản lý nhà nước đối với FDI là tập hợp những tác động của cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền nhằm tạo khung pháp lý cho việc thu hút ngày càng nhiều
và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI phục vụ các mục tiêu nhà nước đề ra.
1. Sự cần thiết phải quản lý Nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài
Nhà nước cần thiết phải quản lý đối với FDI là vì những lý do sau:
Thứ nhất: Xuất phát từ vai trò của FDI đối với sự phát triển kinh tế xã hội.
Nguồn vốn FDI chứa trong nó tiền, công nghệ, kỹ năng quản lý… tác động tích
cực làm thay đổi cơ cấu kinh tế, nguồn lực con người và các lĩnh vực khác. Do
vậy để phát huy mặt tích cực của FDI thì cần có sự quản lý của Nhà nước và chỉ
có nhà nước mới có thể quản lý toàn bộ nguồn toàn nền kinh tế. Nhà nước tiến
hành quản lý việc thu hút, sử dụng nguồn vốn FDI vạch ra các chính sách, kế
hoạch phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của FDI đối với nền kinh
tế. Hoạt động quản lý FDI là chức năng quản lý hành chính nhà nước đối với
kinh tế mà Đảng đã đề ra.
14


Thứ hai: FDI được thực hiện bởi các cá nhân, pháp nhân và đại diện của

các quốc gia khác gắn liền với lợi ích của quốc gia đó, nên nó liên quan đến vấn
đề quan hệ quốc tế. Quan hệ quốc tế là thuộc thẩm quyền quản lý của nhà nước.
Sở dĩ nhà nước phải quản lý là vì: Trong trường hợp có sự tranh chấp, có mâu
thuẫn trong FDI thì sẽ kéo theo mâu thuẫn về chính trị của hai quốc gia đó hậu
quả là phá hoại mối quan hệ tương trợ lẫn nhau của hai quốc gia và làm giảm vị
thế uy tín của quốc gia mình. Nhà nước cần phải tăng cường quản lý FDI, giữ
gìn và tăng cường mối quan hệ hợp tác với các quốc gia khác để tranh thủ sự trợ
giúp một cách tối đa của các nước.
Thứ ba: Ngoài các đóng góp tích cực FDI còn tác động tiêu cực về kinh
tế, chính trị, văn hoá xã hội của nước nhận đầu tư. Trong xu thế hội nhập kinh tế
quốc tế, sự cạnh ranh của các doanh nghiệp, các quan hệ kinh tế đối ngoại có thể
kéo theo sự lệ thuộc kinh tế, sự phá hoại môi trường, những tranh chấp, sự xác
động văn hoá thậm chí cả sự bất ổn về chính trị. Vì vậy FDI cần đạt dưới sự
quản lý của Nhà nước tại nước nhận đầu tư.
+ Ngoài những lợi ích và những rủi ro đối với nước nhận đầu tư, FDI còn
mang lại những lợi ích và ẩn chứa nhiều rủi ro cho các nhà ĐTNN. Các nhà
ĐTNN tiến hành bỏ vốn đầu tư sản xuất kinh doanh tại nước nhận đầu tư, họ
phải đối mặt với những yếu tố tự nhiên, kinh tế, xã hội, pháp lý mới mẻ. Đây là
nhân tố ảnh hưởng tới các nhà ĐTNN.
Nếu môi trường đầu tư tại nước nhận đầu tư thuận lợi thì sẽ thu hút được
các nhà đầu tư, nếu môi trường đầu tư không thuận lợi thì sẽ gây ảnh hưởng tới
các nhà đầu tư từ đó làm suy giảm số lượng các dự án đầu tư dẫn đến gây ảnh
hưởng đến nền kinh tế xã hội. Vì vậy đây cũng là một vấn đề đặt dưới sự quản
lý của Nhà nước. Nhà nước cần phải tạo ra một khung pháp lý luận lợi để đảm
bảo lợi ích của các nhà ĐTNN đồng thời hạn chế rủi ro cho họ như vậy mới có
thể thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài. Vì vậy QLNN đối với FDI trở thành
một tất yếu.
2. Chức năng và vai trò của QLNN đối với FDI

15



Từ sự cần thiết khách quan phải có sự quản lý của nhà nước đối với FDI,
Nhà nước thực hiện chức năng quản lý như sau:
+ Chức năng bảo vệ chủ quyền quốc gia, bảo vệ các lợi ích quốc gia mà
phạm vi kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài liên quan.
+ Thực hiện chức năng định hướng, cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước
ngoài diễn ra theo chủ trương, đường lối chính sách pháp luật của Đảng Nhà
nước, qua đó thu về những kết quả nhất định trong hoạt động này.
+ Chức năng và vai trò trong việc thu hút, quản lý sử dụng nguồn vốn FDI
và đảm bảo những điều kiện cần thiết cho hoạt động FDI trong việc phát triển
kinh tế xã hội. Đồng thời hạn chế tối đa những tác hại do FDI gây ra.
Với vị trí chức năng vai trò như trên, có thể nói hoạt động quản lý nhà
nước có ý nghĩa rất quan trọng quyết định đến hiệu quả thu hút sử dụng vốn FDI
tại nước nhận đầu tư.
3. Nội dung của QLNN đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài
Nội dung QLNN đối với FDI tuỳ thuộc vào điều kiện, tình hình, hoàn
cảnh của mỗi quốc gia và thay đổi theo các thời kỳ khác nhau. Song về căn bản
QLNN về FDI có những nội dung chủ yếu sau:
3.1. Xây dựng chiến lược, qui hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội
Nhà nước xây dựng chiến lược, qui hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã
hội chung cho cả nền kinh tế và quy hoạch, kế hoạch đầu tư trong đó xác định rõ
địa bàn, lĩnh vực ngành nghề mà nước sở tại khuyến khích hay hạn chế đầu tư
để chủ đầu tư xây dựng các phương án đầu tư của mình sao cho phù hợp và đạt
hiệu quả cao.
3.2. Thiết lập quan hệ ngoại giao nhằm tạo các tiền đề chính trị pháp lý
cho việc tạo dựng các quan hệ kinh tế quốc tế nói chung và FDI nói riêng
Quan hệ kinh tế quốc tế giữa chính phủ, tổ chức, cá nhân các nước được
chính thức thừa nhận sau khi các quốc gia xác lập quan hệ ngoại giao. Hoạt
động đầu tư nước ngoài là vấn đề hệ trọng, nó cần sự hỗ trợ đắc lực của nhà

nước, không chỉ là người đặt nền móng cho các quan hệ ngoại giao để mở cửa
cho các quan hệ kinh tế mà còn là sự đảm bảo an toàn về lợi ích, quyền tự do và
16


tính mạng của nhà đầu tư. Nhà đầu tư chỉ dám bỏ vốn đầu tư vào những nơi có
sự ổn định về chính trị, những quốc gia mà Nhà nước chủ đầu tư thiết lập quan
hệ ngoại giao để đảm bảo an toàn cho đồng vốn bỏ ra sinh lời và đảm bảo về
mọi mặt. Bằng việc ký kết các hiệp định quốc tế, hiệp định kinh tế với nước
ngoài, Nhà nước chính thức xác nhận và bảo vệ lợi ích của chủ đầu tư trong và
ngoài nước.
3.3. Xây dựng và ban hành hệ thống pháp luật trong lĩnh vực đầu tư
trực tiếp nước ngoài
Công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về FDI là nội dung
quan trọng nhất của hoạt động quản lý nhà nước đối với hoạt động FDI tại Lào
cũng như các nước.
Pháp luật cần có cho hoạt động QLNN về đầu tư nước ngoài, có phạm vi
rộng, đa dạng, ở Lào bao gồm: Luật khuyến khích đầu tư và các văn bản, các qui
định pháp luật lĩnh vực khác liên quan đến FDI như: Luật dân sự, Luật lao
động ,Luật về thuế, Luật khoa học công nghệ,luật thương mại…và chúng ta có
thể ban hành các đạo luật cụ thể hơn theo Trung Quốc như : Luật về các doanh
nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài, luật về xí nghiệp doanh nghiệp liên doanh,
cổ phần, Luật về xí nghiệp liên doanh hợp tác với nước ngoài…
Để quản lý hoạt động FDI, nhà nước có thể sử dụng nhiều công cụ, nhiều
hình thức quản lý khác nhau, một công cụ đặc biệt hữu hiệu, có tính chất bắt
buộc thực hiện, có hiệu lực cao là qui định pháp luật cho Nhà nước ban hành,
trên cơ sở quan điểm đường lối, chính sách của Đảng về FDI, phù hợp với thông
lệ, hệ thống pháp luật trên thế giới và tập quán quốc tế.
Không những là công cụ quan trọng của nhà nước, hệ thống pháp luật nói
chung và luật FDI nói riêng còn là cơ sở pháp lý để đảm bảo cho hoạt động FDI

được thực hiện thuận lợi, đồng thời giới hạn những phạm vi các chủ đầu tư nước
ngoài có thể thực hiện ở Lào. Để thu hút đầu tư có hiệu quả , đảm bảo tính cạnh
tranh lành mạnh của các doanh nghiệp việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật
trong lĩnh vực này có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Pháp luật được ban hành
không chỉ trên cơ sở những điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội của nước chủ nhà
17


mà còn tính đến bối cảnh và thông lệ quốc tế, tính đến môi trường pháp lý chung
của các nước trong khu vực và thế giới. Và về nguyên tắc pháp luật phải đồng
bộ, nhất quán, ít thay đổi, Nhà nước phải đảm bảo pháp luật được thực thi một
cách nghiêm túc, đội ngũ cán bộ công chức thi hành pháp luật phải tôn trọng và
căn cứ vào pháp luật, không gây trở ngại cho các đối tác nước ngoài.
3.4. Tạo dựng môi trường đầu tư
Ngoài việc xây dựng hệ thống chính sách, pháp luật thông thoáng cho
việc đầu tư trực tiếp nước ngoài thì để đảm bảo thu hút vốn FDI ngày
càng nhiều thì Nhà nước cần phải thường xuyên cải thiện môi trường đầu
tư trong nước như:
- Đảm bảo sự ổn định về chính trị, kinh tế, xã hội; xây dựng các chính
sách ưu đãi, hỗ trợ cho các nhà đầu tư nước ngoài nhằm thu hút các nhà đầu tư
nước ngoài.
- Xây dựng và hoàn thiện kết cấu cơ sở hạ tầng. Hệ thống các công trình
hạ tầng có khả năng phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh của các nhà đầu tư
nước ngoài. Đồng thời xây dựng và nâng cao hệ thống bảo hiểm, xây dựng các
trung tâm chứng khoán hiện đại để phục vụ cho các nhà đầu tư.
- Nâng cao năng lực hệ thống các doanh nghiệp và nguồn nhân lực (lao
động) nội địa. Dù đầu tư dưới hình thức nào các nhà đầu tư nước ngoài đều cần
tìm kiếm nguồn lao động giá rẻ, trình độ tay nghề cao và tìm kiếm các tối tác
kinh tế nội địa có năng lực để hợp tác kinh doanh.
3.5. Xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài

Xúc tiến đầu tư là hoạt động nhằm giới thiệu các cơ hội đầu tư, trên thị
trường đầu tư, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư có thể nắm bắt được cơ hội đầu
tư này.
Nhà nước là người nắm bắt các thông tin một cách toàn diện về thị trường
về đối tác và cơ hội đầu tư sẽ là người hướng dẫn, giới thiệu các lợi thế của quốc
gia mình cho các nhà ĐTNN.
Hoạt động xúc tiến đầu tư có thể được thực hiện qua các công việc sau:

18


- Hướng dẫn các cơ quan QLNN theo ngành và lãnh thổ thực hiện các
hoạt động liên quan đến FDI.
Cung cấp các thông tin về thị trường đầu tư nước mình (qua các hoạt động
ngoại giao, qua các diễn đàn đầu tư, trung tâm thông tin, tư vấn đầu tư…).
- Giới thiệu chính sách, pháp luật, các thông tin về các đối tác kinh doanh
trong nước với các nhà đầu tư nước ngoài. Đồng thời cung cấp thông tin về các
đối tác là nhà đầu tư nước ngoài cho các doanh nghiệp trong nước để tìm hiểu và
hợp tác đầu tư kinh doanh.
3.6. Tổ chức bộ máy quản lý đối với FDI
- Tổ chức bộ máy chuyên trách về quản lý đối với đầu tư nước ngoài gắn
với những chức năng nhiệm vụ thẩm quyền cụ thể để đảm bảo cho hoạt động thu
hút và sử dụng FDI có hiệu quả cao. Hiện nay, ở CHDCND Lào, cơ quan
chuyên trách về ĐTNN là Ban kế hoạch và Đầu tư Nhà nước Lào.
- Tuyển dụng các cán bộ có trình độ, có năng lực, có phẩm chất tốt để
thực hiện các công việc QLNN đối với FDI.
III. KINH NGHIỆM QLNN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI CỦA MỘT SỐ
QUỐC GIA

Các nhà ĐTNN đầu tư vào nước khác là nhằm mục đích kiếm được lợi

nhuận tối đa trong khi đó các nước nhận đầu tư thu hút ĐTNN cũng nhằm mục
đích đem lợi ích tối đa cho quốc gia mình. Làm thế nào để thu hút ĐTNN vào
nước một cách tối đa, đây là một kỹ năng mà các nước cần thu hút đầu tư cần
phải tính toán, học hỏi qua các quốc gia khác trên cơ sở những điều kiện tự
nhiên, kinh tế chính trị, xã hội của mình.
1. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Trung Quốc coi là một quốc gia thành công trong việc thu hút FDI cho
quá trình CNH- HĐH. Là nước có nhiều điểm tương đồng với Lào, cũng chuyển
từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường. Nhưng từ năm
1978, Trung Quốc đã mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài.
Tính từ năm 1979 đến năm 1997 Trung Quốc đã thiết lập được 303.400 xí
nghiệp có vốn ĐTNN với tổng số vốn là 593,42 tỷ USD, vào thời điểm năm
19


1996 đã có khoảng 200 trong tổng số 500 tập đoàn kinh doanh lớn nhất thế giới
đầu tư vào Trung Quốc, năm 2001, khu vực có vốn FDI đã đóng góp 1/4 giá trị
gia tăng trong công nghiệp, 1/5 giá trị gia tăng trong công nghiệp cao, 51,7%
kim ngạch xuất khẩu (đưa Trung Quốc trở thành nước xuất khẩu lớn thứ 6 thế
giới), 19% tổng thu thuế và giải quyết việc làm cho 23 triệu lao động. Từ năm
1993 đến nay Trung Quốc trở thành nước dẫn đầu trong thu hút FDI ở Châu Á.
+ Các chính sách, biện pháp thu hút FDI của Trung Quốc.
Trung Quốc tiến hành mở rộng địa bàn thu hút vốn và tạo môi trường
kinh doanh thuận lợi cho các nhà ĐTNN. Do có đường bờ biển rộng lớn lại có vị
trí địa lý thuận lợi. Ngoài ra nguồn nhân lực, tài nguyên dồi dào, cộng với những
chính sách hợp lý, Trung Quốc trở thành một địa điểm hấp dẫn cho các nhà
ĐTNN.
Về mặt tổ chức, trước hết Trung Quốc công bố các vùng, ngành khuyến
khích đầu tư, các vùng ngành được phép đầu tư và các ngành, vùng cấm ĐTNN.
Ngoài các xí nghiệp liên doanh nước ngoài ở khắp các vùng lãnh thổ được

phép nhà nước, Trung Quốc còn tổ chức các khu chế xuất như: các vùng đặc
khu kinh tế, vùng kinh tế kỹ thuật phát triển cao…
Quy chế tổ chức, quản lý hành chính của hai loại vùng này đều giống với
qui chế quản lý Nhà nước ở các vùng nội địa, chỉ khác nhau ở qui chế quản lý
kinh tế thuộc thẩm quyền chính phủ địa phương. Cả hai loại vùng này đều được
miễn thuế thu nhập vật tư thiết bị làm hàng xuất khẩu hay phục vụ xí nghiệp liên
doanh ( trước ngày 1/1/1998, các vật tư thiết bị này còn phải chịu thuế VAT ) và
đều phải chịu thuế thu nhập công ty, thuế phương tiện giao thông, thuế tiêu thụ
đặc biệt, thuế bất động sản…Các doanh nghiệp Trung Quốc ở các vùng đặc khu
kinh tế cũng phải chịu thuế thu nhập như các xí nghiệp liên doanh với nước
ngoài.
Luật pháp Trung Quốc cho phép chính quyền ở các vùng đặc khu kinh tế
được phê duyệt các dự án đầu tư với số vốn tối đa là 30 triệu USD, cho người
nước ngoài tham dự ít nhất là 25% vốn pháp định của các dự án liên doanh.
Chính quyền địa phương cũng có quyền cấp đất cho các doanh nghiệp dùng làm
20


vốn góp cổ phần liên doanh với nước ngoài. Trong phạm vi thẩm quyền của
mình, mỗi đặc khu kinh tế lại có cách khác nhau để thu hút vốn ĐTNN.
Ngoài ưu đãi của địa phương, các nhà ĐTNN vào Trung Quốc còn được
hưởng quy chế ưu đãi chung của Nhà nước. Nếu các nhà ĐTNN tái đầu tư từ 5
năm trở lên thì số lợi nhuận thu được sẽ được hoàn lại 40% thuế thu nhập trên số
lợi nhuận tái đầu tư này, nếu đầu tư vào vùng ngành doanh lợi thấp nhà ĐTNN
sẽ được miễn hoàn toàn hay một phần thuế trong 5 năm đầu hoạt động trong 10
năm tiếp theo có thể được miễn giảm từ 15 - 30% thuế thu nhập tuỳ thuộc vào
vùng, ngành cụ thể. Nếu sau khi đã đầu tư lên 5 triệu USD hay đã cung cấp công
nghệ tiên tiến mà loại hoạt động liên doanh với các xí nghiệp quay vòng vốn
chậm, nhà đầu tư này có thể được miễn hoàn toàn hay một phần thuê cho hoạt
động của mình.

Cuộc khủng hoảng tài chính ở khu vực đã để lại ảnh hưởng xấu cho nền
kinh tế của nhiều nước trong khu vực trên thế giới các nhà lãnh đạo Trung Quốc
đã vạch ra những biện pháp nhằm đảm bảo các điều kiện thuận lợi và ổn định để
thu hút vốn ĐTNN như:
- Bắt đầu từ 1/1/1998 Trung Quốc bãi bỏ thuế quan và thuế VAT có các
vật tư thiết bị nhập phục vụ hạng mục công trình có vốn đầu tư nước ngoài.
- Trực tiếp mở thị trường cho nhà ĐTNN tham gia, kể cả lĩnh vực tài
chính, bảo hiểm, viễn thông, du lịch, ngoại thương.
- Khuyễn khích cung cấp vốn và phương tiện công nghệ tiên tiến vào khu
vực làm hàng xuất khẩu.
Với những biện pháp nói trên và những giải pháp ở từng giai đoạn cụ thể,
các nhà hoạch định chính sách đầu tư của Trung Quốc từ nay đến năm 2010,
hàng năm sẽ thu hút được ít nhất khoảng 30 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài kể
cả vốn vay của WB, ADB và quĩ hợp tác các kinh tế với nước ngoài của Nhật
Bản.
2. Kinh nghiệm quản lý FDI của một số tỉnh thành Việt Nam
Việt Nam là một nước láng giềng thân thiết của CHDCND Lào, cùng một
chế độ chính trị, kinh tế. Nghiên cứu kinh nghiệm những bài học của Việt Nam
21


trong việc thu hút sử dụng FDI là rất hợp lý và có ý nghĩa quan trọng. Chính phủ
Việt Nam đã vạch ra các chính sách ưu đãi thông thoáng cho ĐTNN. Ngoài
chính phủ các tỉnh thành cũng có thẩm quyền riêng trong vấn đề đưa ra các
chính sách khuyến khích thu hút và quản lý FDI.
+ Kinh nghiệm của tỉnh Quảng Ninh.
Ngoài những ưu đãi do chính phủ Việt Nam qui định, các dự án có vốn
ĐTNN vào Quảng Ninh còn được hưởng các ưu đãi lớn như sau:
- Hỗ trợ đầu tư hạ tầng kỹ thuật:
Tỉnh Quảng Ninh đảm bảo xây dựng các công trình hạ tầng kỹ thuật đến

hàng rào doanh nghiệp với dự án có vốn đầu tư từ 15 triệu USD trở lên. Các dự
án đầu tư vào các khu công nghiệp, sử dụng đất nông nghiệp thuộc vùng nông
thôn, xây dựng các công trình hạ tầng đến hàng rào doanh nghiệp sẽ được hoàn
trả bằng cách trừ dần các chi phí đầu tư đó vào tiền sử dụng các dịch vụ tương
ứng cho đến lúc bài đáp đủ chi phí bỏ ra hoặc thanh toán bằng tiền.
- Về giá thuê đất, thời gian miễn tiền thuê đất: áp dụng đơn giá thuê đất
ưu đãi đối với dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài thuê đất của tỉnh. Các dự án đầu
tư vào địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khoá khăn sẽ được áp dụng giá thuê
đất ở mức thấp nhất và được miễn tiền thuê đất thêm 3 năm ngoài thời gian qui
định chung, đầu tư vào địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn sẽ được áp
dụng giá thuê đất ở mức thấp nhất và được miễn tiền thuê đất thêm 3 năm ngoài
thời hạn qui định chung, đầu tư vào địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt
khó khăn sẽ được áp dụng giá thuê đất bằng 50% mức thấp nhất và được miễn
tiên thuê đất thêm 5 năm ngoài thời gian qui định chung, các dự án khuyến
khích đầu tư, nếu đầu tư vào khu vực đặc biệt khó khăn thì sẽ được miễn tiền
thuê đất trong vòng 7 năm ngoài thời hạn qui định chung, các dự án đặc biệt
khuyến khích đầu tư nếu đầu tư vào khu vực kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn sẽ
được miễn hoàn toàn tiền thuê đất.
Những công trình phục vụ dự án nếu mang tính phục vụ công cộng như
giao thông, cây xanh công viên, trường học, bệnh viện... ngoài hàng rào doanh
nghiệp sẽ được miễn tiền thuê đất.
22


- Về thủ tục hành chính:
Các nhà ĐTNN được hướng dẫn thủ tục: Lập hồ sơ xin thuê đất, đăng ký
kinh doanh, nhập khẩu máy móc thiết bị phụ tùng vật tư nguyên liệu... Hướng
dẫn và hỗ trợ giải quyết nhanh chóng thủ tục hải quan đối với hàng hoá xuất
nhập khẩu. Ban quản lý các khu công nghiệp và ĐTNN có trách nhiệm báo cáo
UBND tỉnh và thu xếp các buổi làm việc với các doanh nghiệp để không chồng

chéo về nội dung, không để nhiều đoàn đến làm việc với doanh nghiệp trong
cùng một thời gian, gây ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh; thông
báo bằng văn bản cho doanh nghiệp biết ít nhất 5 ngày.
Các tổ chức, ngành chức năng không được tiến hành hoạt động kiểm tra
tại các doanh nghiệp có vốn FDI trước khi được UBND tỉnh cho phép (trừ
trường hợp vi phạm pháp luật cần xử lý ngay).
Các ngành địa phương không được tuỳ tiện đặt ra các qui định dưới dạng
"giấy phép con" đối với doanh nghiệp FDI.
+ Các ưu đãi khác như: được hưởng giá máy, phí thu gom rác, nước thải,
phí xây dựng, phí thiết kế, phí thẩm định thiết kế, và giá dịch vụ thuộc thẩm
quyền quyết định của địa phương thống nhất như các doanh nghiệp Việt Nam
kinh doanh cùng lĩnh vực tại Quảng Ninh.
Người nước ngoài làm việc trong các doanh nghiệp FDI một năm trở lên
được hưởng các giá dịch vụ như người Việt Nam khi đi tham quan các di tích
lịch sử, văn hoá, danh thắng trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
Ưu đãi đào tạo lao động làm việc cho các doanh nghiệp FDI thông qua
các trường đào tạo nghề tại tỉnh.
Thưởng 10 triệu đồng đối với dự án FDI được cấp phép hoặc dự án điều
chỉnh tăng vốn cho các đơn vị trực tiếp giải quyết thủ tục ĐTNN.
Chi hoa hồng cho các cá nhân hoặc đơn vị môi giới dự án FDI ngoài
thành công tại Quảng Ninh: Đối với dự án có qui mô dưới 1 triệu USD được chi
mức hoa hồng là 10 triệu đồng; dưới 3 triệu USD thì mức này là 15 triệu đồng;
từ 3 triệu trở lên được chi hoa hồng ở mức 20 triệu đồng.

23


Với những chính sách ưu đãi này, Quảng Ninh đã thu được nhiều nguồn
vốn FDI phục vụ CNH - HĐH của tỉnh. Với những chính sách ưu đãi trên trong
thời gian tới Quảng Ninh sẽ còn tiếp tục thu được nhiều nguồn vốn ĐTNN vào

Quảng Ninh.
+ Kinh nghiệm của Hải Phòng.
Hải Phòng là một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Việt Nam, Hải Phòng có vị
trí địa lý, điều kiện tự nhiên thuận lợi, là tỉnh có cảng biển lớn nhất miền Bắc và
có tốc độ phát triển đứng thứ 3 trong cả nước Việt Nam.
Sự phát triển của Hải Phòng một phần cũng có sự đóng góp của FDI.
Trong những năm qua Hải Phòng đã tích cực thu hút FDI và có những chính
sách ưu đãi cho FDI sau:
- Ưu đãi về miễn thuế tiền thuê đất: Tiền thuê đất được áp dụng lĩnh hoạt
ở mức độ thấp và có lợi cho nhà ĐTNN. Đất thuê có thể được miễn giảm tiền
thuê tới 15 năm.
Bồi thường và chi phí di dời, giải phóng mặt bằng: UBND thành phố Hải
Phòng sẽ thực hiện việc bồi thường, di dời, giải phóng mặt bằng và giải quyết
các thủ tục đất cho nhà đầu tư, chi phí nay do UBND thành phố Hải Phòng bỏ ra
từ 50 đến 100%.
Hỗ trợ chi phí cho việc san lấp: UBND thành phố sẽ hỗ trợ một phần chi
phí lên tới 25% cho việc san lấp tuỳ thuộc theo khu vực đất đai.
UBND thành phố cũng đảm bảo việc xây dựng ranh giới đất dự án cho
nhà ĐTNN.
Hỗ trợ đào tạo nhân lực: Nhân lực được tuyển dụng cho các dự án FDI sẽ
được đào tạo miễn phí tại các trường đào tạo nghề của thành phố.
Thời gian đánh giá dự án được rút ngắn lại từ 3 đến 5 ngày.
Hải Phòng cũng sử dụng chính sách mọt giá đối với các dịch vụ cung cấp
điện, nước, rác thải xây dựng của doanh nghiệp FDI giống như doanh nghiệp
trong nước.
Ngoài ra Hải Phòng còn có những hỗ trợ khác như chủ đầu tư có thể được
cấp 20 triệu đồng hỗ trợ kinh phí chuẩn bị hồ sơ cho một dự án. Hay thưởng hoa
24



hồng cho trung gian là cá nhân, tổ chức lên tới 20 triệu đồng đối với dự án giới
thiệu thành công tại Hải Phòng.
Với những chính sách ưu đãi trên hiện nay, Hải Phòng đã thu hút được
140 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, còn hiệu lực tổng vốn đăng ký lên tới
1.445 triệu USD.
+ Bài học kinh nghiệm quản lý FDI của một số nước đặc biệt là Quảng
Ninh và Hải Phòng đối với tỉnh UĐômXay.
Qua nghiên cứu những kinh nghiệm thu hút FDI của Trung Quốc, Hải
Phòng và Quảng Ninh, tác giả có rút ra một số bài học cho UĐômXay nhằm thu
hút được nhiều vốn FDI trong thời gian tới.
Thứ nhất: Nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của FDI đối với sự phát
triển kinh tế xã hội của tỉnh. Từ đó phải vạch ra các chính sách hợp lý để thu hút
đầu tư.
Thứ hai: Xây dựng các danh mục đầu tư với các chính sách ưu đãi kèm theo.
Thứ ba: Bài học về đơn giản hoá thủ tục hành chính trong quản lý hoạt
động của FDI và hoàn thiện hệ thống pháp luật về ĐTNN. Điều này có ý nghĩa
rất quan trọng trong thu hút FDI bởi vì nó liên quan đến lợi ích của các nhà
ĐTNN và trước khi tiến hành đầu tư họ phải nghiên cứu về khung pháp lý của
quốc gia đó.
Thứ tư: Bài học cho việc chi thường cho các tổ chức, cá nhân trung gian
khi giới thiệu thành công dự án có vốn FDI. Đây là một bài học mới và quan
trọng cho U Đôm Xay bởi vì tổ chức cá nhân trong gian hay gọi là các công ty
tư vấn ĐTNN chưa xuất hiện và hình thức thưởng này chưa được qui định cụ thể
tại U Đôm Xay.
Thứ năm: Tiếp tục xây dựng cơ sở hạ tầng và nâng chất lượng nguồn
nhân lực để đáp ứng được tiêu chuẩn của các nhà ĐTNN.
Tóm lại: Để thu hút có hiệu quả FDI, cần thiết phải tiến hành đồng bộ các
giải pháp trên và thường xuyên học hỏi kinh nghiệm của các tỉnh, các nước
khác, luôn hoàn thiện hệ thống pháp luật, thủ tục hành chính phù hợp với những


25


×